Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi thị nghè, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIM THÚY

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM BẢO TRỢ TRẺ TÀN TẬT
MỒ CÔI THỊ NGHÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành : Công tác xã hội
Mã số
: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN KHẮC BÌNH

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ
khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè,
Thành phố Hồ Chí Minh” là đề tài nghiên cứu độc lập của riêng tôi,
được đưa ra dựa trên cơ sở tìm hiểu, phân tích và đánh giá công tác xã hội
đối với trẻ khuyết tật tại trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè.
Các số liệu là trung thực và chưa được công bố tại các công trình nghiên
cứu có nội dung tương đồng nào khác.


TP Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Tác giả

Nguyễn Thị Kim Thúy

năm 2016


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ TRẺ TÀN TẬT MỒ CÔI
THỊ NGHÈ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...........................................................8

1.1
1.2
1.3
1.4
1.5

Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ............................................... 8
Một số khái niệm cơ bản ................................................................. 15
Công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật ............................................. 20
Chức năng của dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật ........ 23
Cơ sở pháp lý ................................................................................... 27

Chương 2: THỰC TRẠNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI

VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ TRẺ TÀN TẬT MÔ
CÔI THỊ NGHÈ, THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH................................................38

2.1 Giới thiệu chung về trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị nghè. 38
2.2 Thực trạng trẻ em khuyết tật tại Trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi
Thị Nghè, thành phố Hồ Chí Minh ............................................................ 42
2.3 Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật tại trung
tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, thành phồ hồ Chí Minh.............. 45
2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết
tật tại trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, thành phố Hồ Chí
Minh ......................................................................................................... 59
Chương 3: BIỆN PHÁP CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ TRẺ TÀN TẬT VÀ
MỒ CÔI THỊ NGHÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................65

3.1 Định hướng bảo đảm thực hiện công tác xã hội với trẻ khuyết tật . 65
3.2 Các biện pháp nâng cao dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết
tật từ thực tiễn Trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, Thành phố
Hồ Chí Minh ............................................................................................... 68
3.3 Khuyến nghị .................................................................................... 74
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................78


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 Thống kê số nhân viên và phụ huynh trả lời phỏng vấn....................43
Bảng 2.2: Mức độ đáp ứng nhu cầu về chăm sóc, nuôi dưỡng .........................45
Bảng 2.3: Mức độ đáp ứng nhu cầu ăn, uống, dinh dưỡng ................................47
Biểu đồ 2.1 : So sánh mức độ đáp ứng nhu cầu của trẻ ............................................60

Biểu đồ: 2.2: So sánh mức độ đáp ứng nhu cầu của trẻ ............................................48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“ Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” – Đó là khẩu hiệu mà các quốc gia
và cộng đồng quốc tế hướng tới nhằm mục đích chăm sóc, bảo vệ và phát triển
trong tương lai của mỗi quốc gia và nhân loại. Thế nhưng, nhiều trẻ em khi
sinh ra đã phải chịu những thiệt thòi khi mang trong mình những dị tật bẩm
sinh vĩnh viễn không nghe được âm thanh của cuộc sống, không được ríu rít trò
chuyện với những đứa bạn cùng trang lứa, hay không thấy ánh sáng của cuộc
đời, v.v…
Trẻ khuyết tật là trẻ bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể
hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động,
sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Do đó, việc đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ bình
đẳng, đúng pháp luật cho trẻ khuyết tật trên các phương diện chính trị, kinh tế,
văn hóa, giáo dục, vui chơi giải trí, v.v… là trách nhiệm của gia đình, cộng
đồng xã hội và Nhà nước.
Trong thời gian qua, có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ trẻ khuyết
tật, đó là sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta trong việc chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần cho những số phận kém may mắn, thể hiện tính nhân đạo, nhân
văn của chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Với việc phê duyệt Đề án
hỗ trợ người tàn tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng giai đoạn 20062010 tại Quyết định số 239/2006/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt
với sự ra đời và có hiệu lực của Luật người khuyết tật năm 2011 thì nhiều
chính sách hỗ trợ người khuyết tật đã được triển khai thực hiện. Trách nhiệm
của các cơ quan Nhà nước, gia đình, xã hội đối với người khuyết tật; quyền và
nghĩa vụ của người khuyết tật đã được quy định tương đối đầy đủ, tạo hành
lang pháp lý cho các hoạt động trợ giúp người khuyết tật, góp phần cải thiện,
1



nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đa số người khuyết tật. Một số Bộ,
ngành, địa phương đã tích cực triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ người
khuyết tật trong các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, dạy nghề và tạo việc làm,
khám chữa bệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật tiếp cận các công
trình công cộng,…
Trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, thành phố Hồ Chí Minh
là nơi tập trung trẻ tàn tật mồ côi. Tại đây đã thực thi công tác xã hội đối với
trẻ khuyết tật. Tuy nhiên trong thời gian qua, quá trình thực hiện công tác xã
hội cho trẻ em khuyết tật còn nhiều bất cập. Các quy định của pháp luật liên
quan đến công tác xã hội với trẻ em khuyết tật còn thiếu và chưa đồng bộ,
không cụ thể và chưa chú trọng nghiên cứu đề ra các biện pháp cụ thể trong
việc tổ chức thực hiện công tác xã hội. Vì vậy, hiện nay tỉ lệ trẻ em khuyết tật
được học tại các trường, lớp theo mô hình hòa nhập còn thấp; việc tiếp cận các
công trình công cộng của một bộ phận người khuyết tật còn nhiều khó khăn,
trở ngại; còn tồn tại không ít trường hợp người khuyết tật có hoàn cảnh khó
khăn chưa được hưởng chính sách trợ cấp, trợ giúp mặc dù có đủ điều kiện
theo quy định; v.v… Để tất cả trẻ em khuyết tật trên địa bàn được thụ hưởng
những ưu đãi, hỗ trợ mà Đảng, Nhà nước đã cam kết thì việc đánh giá lại công
tác xã hội cho trẻ em khuyết tật để phát hiện những sai sót, bất hợp lí cũng như
những khó khăn trong việc triển khai nhằm đưa ra biện pháp điều chỉnh, xử lí
là một đòi hỏi cấp thiết.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Dịch vụ
công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn trung tâm bảo trợ trẻ tàn
tật mồ côi Thị Nghè, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm đề tài luận văn thạc
sĩ của mình. Tôi mong rằng công trình nghiên cứu của bản thân sẽ góp phần
nhỏ bé vào việc hoàn thiện hơn nữa công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật tại

2



trung tâm bảo trợ xã hội trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè nói riêng, trên phạm vi cả
nước nói chung trong thời gian tới.
2.Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề thực thi chính sách cho người khuyết tật có liên quan tới nhiều
Bộ, ngành, nhiều địa phương, ở các lĩnh vực khác nhau như y tế, giáo dục, lao
động việc làm,v.v… vì thế đã có một số công trình nghiên cứu của các tổ chức,
cá nhân liên quan đến vấn đề này. Cụ thể:
Tác giả Nguyễn Thị Báo (2008), Hoàn thiện pháp luật về quyền của
người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học. Luận án trên
đã tập trung phân tích, đánh giá sự hình thành, phát triển và thực trạng pháp
luật về người khuyết tật; trên cơ sở đó đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ sở
hệ thống pháp luật về quyền của người khuyết tật ở nước ta hiện nay.[3]
Tác giả Phạm Xuân Trường trong luận văn thạc sĩ hành chính công về đề
tài “Quản lý Nhà nước về việc làm cho người khuyết tật ở nước ta hiện nay”
(2014) đã nghiên cứu sâu về vấn đề việc làm cho người khuyết tật. Luận văn
cũng đã chỉ ra những kết quả và tồn tại trong lĩnh vực lao động việc làm của
người khuyết tật hiện nay. Tuy nhiên luận văn mới chỉ dừng lại ở một chính
sách cụ thể là lao động, việc làm và tác giả chọn hướng tiếp cận từ góc độ quản
lý nhà nước.[4]
Một số báo cáo về tình hình hỗ trợ người khuyết tật trong một số dự án ở
nước ta cũng đánh giá về những thực trạng trong việc thực hiện chính sách an
sinh xã hội ở nước ta trong thời gian vừa qua. Các báo cáo đó là: Báo cáo năm
2011 về tình hình hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, Nxb Lao động - xã hội.
Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam (2013), Báo cáo
năm 2012 về hoạt động trợ giúp người khuyết tật Việt Nam, Nxb Lao động - xã

3



hội. Báo cáo kết quả thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật và đề án trợ giúp
người khuyết tật giai đoạn 2006 - 2010 của Bộ Lao động, thương binh và xã
hội năm 2008. [6]
Những Báo cáo trên đã nêu lên kết quả và hạn chế trong việc triển khai
các chính sách hỗ trợ cho người khuyết tật, đồng thời cũng đã chỉ ra được một
số vướng mắc trong quá trình triển khai chính sách. Tuy nhiên, các báo cáo
trên chưa tập trung phân tích sâu những tồn tại trong quá trình triển khai chính
sách nên chưa đưa ra được các giải pháp cụ thể, tập trung để giải quyết những
tồn tại đó. Mặt khác, các Báo cáo trên là tổng hợp tình hình trợ giúp người
khuyết tật trên phạm vi cả nước nên không thể căn cứ vào đó để đánh giá và đề
ra giải pháp cho vấn đề chính sách đối với người khuyết tật trên địa bàn một
tỉnh cụ thể.
Nghiên cứu “Cuộc sống của trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội” của
tác giả Nguyễn Thanh Bình được lấy kết quả từ điều tra xã hội học về trẻ em lang
thang trên địa bàn Hà Nội vào tháng 3/2009. Nghiên cứu này đã tiến hành khảo
sát 126 trẻ em lang thang, trong đó có 48 em nữ và 78 em nam với các độ tuổi
khác nhau từ 10 đến dưới 18 tuổi. Nghiên cứu đi sâu theo hướng mô tả về thực
trạng đời sống của trẻ em lang thang trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, chỗ ở của trẻ em lang thang rất đa dạng, bao gồm mái ấm,
nhà tình thương, nhà ở không mất tiền, nhà trọ, nhiều em phải ngủ tại bến xe, nhà
ga, số khác ngủ tại gia đình đang làm thuê. Công việc của trẻ em lang thang
thường là lao động chân tay, không yêu cầu trình độ và kiến thức. Thu nhập của
các em ở mức thấp và không ổn định. Chi tiêu của trẻ em lang thang chủ yếu cho
những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống ở mức thấp và tiết kiệm. Cuộc sống của
các em rất thiếu thốn, khó khăn. Hoàn cảnh gia đình không được bình thường;
trình độ học vấn thấp; các em dễ bị ảnh hưởng của các tệ nạn xã hội. Tác giả đã
4


đặt ra yêu cầu phải có chính sách an sinh xã hội, những biện pháp hỗ trợ cuộc

sống cho trẻ em lang thang hiện nay ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật và
đánh giá thực trạng hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội tại Trung tâm
bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, thành phố Hồ Chí Minh để đề ra các biện
pháp cung cấp dịch vụ tác xã hội; giúp cho trẻ khuyết tật tự tin hơn, bình đẳng
hơn trong hòa nhập cộng đồng và có cơ hội làm việc, cống hiến cho xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập cơ sở lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với cho trẻ khuyết
tật.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH cho trẻ khuyết
tật tại Trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số biện pháp cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với cho
trẻ khuyết tật tại trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Biện pháp cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho trẻ khuyết tật tại Trung
tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, Thành phố Hồ Chí Minh.

5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng công tác xã hội cho trẻ khuyết tật từ thực
tiễn trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, Thành phố Hồ Chí Minh
trong giai đoạn từ 2011 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà
nước về chính sách cho người khuyết tật và việc thực thi chính sách cho người
khuyết tật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện bởi các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp
để xử lí tài liệu thu thập được, so sánh thông qua các bảng số liệu và tham khảo
các nguồn tài liệu để làm rõ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận
về trẻ khuyết tật và công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật. Luận văn chỉ ra
những thực trạng công tác xã hội cho trẻ khuyết tật từ thực tiễn trung tâm bảo
trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
công tác xã hội cho trẻ khuyết tật từ thực tiễn trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ
côi Thị Nghè, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối với gia đình trẻ khuyết tật: Gia đình trẻ khuyết tật được Đảng và
Nhà nước quan tâm bằng việc trợ cấp, trợ giúp đối với Người nuôi dưỡng trẻ
khuyết tật. đồng thời cũng đề cao trách nhiệm của gia đình trong việc chăm sóc
và trợ giúp trẻ khuyết tật. Gia đình trẻ khuyết tật được biết thêm những thông
6


tin liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của gia đình trong công tác chăm sóc
trẻ khuyết tật.
Ngoài ra, luận văn còn góp phần bổ sung nguồn học liệu, tài liệu tham
khảo cho sinh viên khi học tập, nghiên cứu vấn đề liên quan tới người trẻ
khuyết tật và công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục Bảng Biểu, Sơ đồ, Danh mục
Chữ viết tắt và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu theo 3 chương, 16 tiết

như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật
tại trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật, mồ côi.
Chương 2: Thực trạng cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ
khuyết tật tại trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật,mồ côi Thị Nghè.
Chương 3: Biện pháp cung cấp dịch vụ công tác xã công tác xã hội đối
với trẻ khuyết tật tại Trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật và mồ côi Thị Nghè.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ
KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ TRẺ TÀN TẬT MỒ CÔI
THỊ NGHÈ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1 Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.1.1 Cách tiếp cận lý thuyết hệ thống
Thuyết hệ thống trong công tác xã hội bắt nguồn từ lý thuyết hệ thống tổng
quát của Bertalanffy (Toseland và Rivas, 1998). Thuyết này dựa trên quan điểm
của lý thuyết sinh học cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống, được
tạo nên từ các tiểu hệ thống cũng là một phần của hệ thống lớn hơn. Lý thuyết này
đưa ra một số quan điểm chính như sau:
- Hệ thống: là bất cứ đơn vị, tổ chức nào có những giới hạn xác định được
với những bộ phận tương tác, những đơn vị, tổ chức này có thể mang tính vật
chất, tính xã hội, mang tính kinh tế hoặc mang tính lí luận. Nói cách khác, hệ
thống là tập hợp các thành tố được sắp xếp có trật tự và liên hệ với nhau để hoạt
động thống nhất. Một hệ thống có thể gồm nhiều tiểu hệ thống. Tiểu hệ thống là
hệ thống thứ cấp hoặc hệ thống hỗ trợ. Các tiểu hệ thống được phân biệt với nhau
bởi các ranh giới. Đồng thời hệ thống đó cũng là một bộ phận của hệ thống lớn
hơn.

- Bản thân mỗi cá nhân cũng là một hệ thống và hệ thống cá nhân này lại
bao gồm các tiểu hệ thống như: hệ thống sinh lý, hệ thống nhận thức, hệ thống
tình cảm, hành động và các hệ thống phản ứng
- Theo Pincus và Minahan (năm 1970) thì hệ thống mà nhân viên CTXH
làm việc là những hệ thống rất đa dạng: gia đình, cộng đồng, hệ thống xã hội,
môi trường văn hoá mà con người hiện đang tồn tại. Ví dụ: đối với học sinh
đang ở độ tuổi vị thành niên, hệ thống được chia thành ba hình thức chính bao

8


gồm: (1) Hệ thống phi chính thức: gia đình, bạn bè (2) Hệ thống chính thức:
trường học (3) Hệ thống xã hội: các tổ chức xã hội.
Các hệ thống luôn có sự tác động lên các cá nhân. Có thể đó là sự tác động
tích cực hoặc tiêu cực. Tuy nhiên sự phân biệt trên chỉ mang tính tương đối vì với
cá nhân này hệ thống trợ giúp có thể là hệ thống chính thức nhưng với cá nhân khác
lại là hệ thống xã hội. Vì thế cách phân chia trên chỉ mang tính tương đối. Hoặc có
thể đối với cá nhân một là hệ thống chính thức, nhưng đối với cá nhân khác đó lại là
hệ thống xã hội.
1.1.2 Lý thuyết hệ thống sinh thái
Thuyết hệ thống sinh thái dựa trên quan điểm của Germain & Gitterman và
Germain (1980) cho rằng con người ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng tới môi
trường. Ngược lại môi trường cũng ảnh hưởng đến con người.
Nguyên tắc cơ bản của sinh thái là mỗi cơ thể sống có quan hệ qua lại liên
túc với các thành phần khác tạo nên môi trường của chúng (những hệ thống sinh
thái là một khoa học khác với khoa học môi trường).
Lý thuyết hệ thống sinh thái được coi như là mô hình về cuộc sống. Mô hình
này chủ yếu được xây dựng trên lý thuyết sinh thái. Mô hình này còn có tên gọi là
“con người trong môi trường” (Person In Environment PIE), trong đó người ta
tác động lẫn nhau và tác động vào môi trường sống. Mục tiêu của CTXH là làm

thế nào để con người phù hợp với môi trường sống của họ.
Vận dụng lý thuyết hệ thống và sinh thái trong nghiên cứu, giúp tác giả đưa
ra một số định hướng sau: Thứ nhất, người nghèo ở tại địa bàn nghiên cứu là một
hệ thống nằm trong những hệ thống khác lớn hơn như: Hệ thống các làng, xã; các
cơ quan đoàn thể, hội; hệ thống các chính sách có liên quan đến người nghèo ...
và chịu sự tác động của những hệ thống đó. Vì vậy, khi trợ giúp người nghèo
nhân viên công tác xã hội cần tác động và huy động sự trợ giúp từ nhiều hệ thống
9


để tạo sức mạnh cho người nghèo có tiềm lực vươn lên thoát nghèo, chẳng hạn:
huy động sự trợ giúp từ hệ thống chính sách liên quan đến vốn tín dụng, chính
sách liên quan đến bảo hiểm y tế, sự hỗ trợ từ hội phụ nữ, hội thanh niên. Tuy
nhiên, tùy vào khả năng của từng hộ gia đình và năng lực của từng cá nhân mà
khả năng tiếp cận của họ đối với các hệ thống trợ giúp là khác nhau. Do đó, khi
làm việc với thân chủ, nhân viên công tác xã hội cần có những cách thức tiếp cận
và hỗ trợ khác nhau. Thứ hai, người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu, vùng
xa nên ít có cơ hội tiếp xúc với các hệ thống khác, có xu hướng giữ vững những gì
trong hệ thống sẵn có, ít tiếp thu, chịu ảnh hưởng từ các hệ thống bên ngoài khác.
Do đó giữa các hệ thống ít có sự trao đổi với nhau, có cũng là một phần nguyên
nhân khiến vấn đề nghèo đói tồn tại dai dẳng ở cộng đồng người dân tộc thiểu số.
Thứ ba, môi trường sống cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến cuộc sống và
khả năng thích nghi của những hộ nghèo. Môi trường ở đây xét theo góc độ môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chính vì vậy, để trợ giúp các hộ nghèo,
nhân viên công tác xã hội cần quan tâm đến việc tạo ra sự thay đổi về môi trường
sống của các hộ nghèo. Chẳng hạn, giúp người nghèo cải thiện về môi trường
không bị ô nhiễm; cải thiện việc thực hiện các chính sách hỗ trợ; tư vấn để hỗ trợ
vốn, đất sản xuất cho hộ nghèo.v.v.
1.1.3 Cách tiếp cận dựa trên lý thuyết nhận thức hành vi
Đại biểu của trường phái này là A.Ellis (1913-1970), Sheldon, và Beck.

Trong Công tác xã hội, nếu như nhận thức là cách nhìn nhậ của một người về
một vấn đề nào đó theo hai chiều hướng tích cực hoăc tiêu cực thì trị liệu nhận
thức là phương pháp tác động vào thân chủ làm thay đổi nhận thức tiêu cực của
họ .
Theo các nhà hành vi thì hành vi của con người là một cách trả lời, ứng xử
với một tác nhân kích thích tương ứng. Nhưng trên thực tế thì hành vi của con

10


người còn phức tạp hơn nhiều chứ không phải đơn thuần là do những tác nhân
kích thích. Những nhà tâm lý học cho rằng con người có suy nghĩ rất phức tạp
không thể quan sát và những suy nghĩ này có ảnh hưởng vô cùng lớn đến hành
vi của các nhân. Họ cho rằng nhận thức sai lầm là tâm điểm của những hành vi
sai lầm. Muốn thay đổi hành vi sai lầm, phải tạo ra một mô hình nhận thức mới
hợp lí.
Trị liệu nhận thức là một trường phái tư tưởng với chủ đề chính tập
trung xung quanh khái niệm tư duy. Sự tư duy của cá nhân được định hình bởi
xã hội và hoàn cảnh trực tiếp của người ấy. Trên chiều cạnh này tư duy quyết
định cảm xúc lẫn hành vi. Như vậy việc thực hiện chức năng xã hội của một cá
nhân bị khiếm khuyết thì có nghĩa là tư duy của người ấy không hoàn hảo.
Chính vì vậy, hành vi của con người thay đổi thì phương thức tư duy cũng phải
thay đổi theo. Do vậy, muốn biến đổi hành vi bất thường, phải tạo ra mô hình
nhận thức mới hợp lí. Như vậy vận dụng lí thuyết này vào hoạt động xóa đói
giảm nghèo NVXH phải giúp cho mọi người trong cộng đồng nhận ra những
suy nghĩ không phù hợp của họ sau đó đưa ra những liệu pháp nhằm tạo ra
những mô hình nhận thức mới tích cực hơn từ đó sẽ tạo những hành vi đúng
đắn tương ứng
Vận dụng lý thuyết nhận thức hành vi vào trong hoạt động xóa đói giảm
nghèo: một trong những yếu tố quyết định đến việc giải quyết vấn đề nghèo đói

đó chính là yếu tố con người. Bản thân đối tượng có muốn thoát nghèo hay
không, hay là họ an phận ở lại cùng với nghèo đói để nhận được những nguồn lực
hỗ trợ từ các chính sách của nhà nước. Có rất nhiều những dự án của nhà nước,
các tổ chức phi chính phủ nhằm hướng tới sự thoát nghèo cho người dân như các
dự án về hỗ trợ về vốn, tín dụng. Nhưng trên thực tế thì hiều quả mang lại của các
dự án này vô cùng hạn chế và cái nghèo vẫn dai dẳng bám theo người dân.
Nguyên nhân chính là đối tượng thụ hưởng không biết sử dụng nguồn vốn đã

11


được vay ưu đãi vào trong hoạt động sản xuất, phát triển sinh kế. Hình thức sử
dụng vốn phổ biến của họ là vay để ăn dần hoặc cho người khác vay lại để hưởng
chênh lệch phần trăm lãi suất, thậm chí vay vốn rồi cất vốn đi đến kì hạn mang đi
trả.
Xét về mặt lý thuyết hoạt động trợ giúp của công tác xã hội là cho “cần
câu” chứ không cho “cá”. Trên thực tế hoạt động trợ giúp như vậy chưa mang lại
kết quả cao và triệt để. Bởi vì họ có “cần câu” rồi nhưng họ không biết “câu”
như thế nào. Do vậy, ngoài việc cho “cần câu” NVCTXH còn phải dạy cho họ
cách “câu”, cùng với sự nỗ lực, lòng kiên nhẫn để chờ đợi thành quả.
Đối với người dân tộc thiểu số (tại địa bàn nghiên cứu) việc thay đổi nhận
thức cho họ là vô cùng quan trọng và tương đối khó khăn. Vì từ khi họ sinh ra
sống trong một cuộc sống khó khăn, nghèo khó, và họ đã quen với cuộc sống như
vậy, đó là điều bình sinh đối với họ. Do đó, muốn thoát nghèo hiệu quả, bền vững
thì NVXH phải tạo cho họ một ý chí, niềm tin thoát nghèo, vượt qua hoàn cảnh
hiện tại. Chỉ khi nào họ nhận thức thực sự sâu sắc về những thiệt thòi của mình do
nghèo đói mang lại khi đó họ mới nỗ lực, tự thân, tìm kiếm nguồn lực để thoát
nghèo, cộng với sự giúp đỡ từ bên ngoài (NVXH, các chính sách xã hội) hỗ trợ thì
khi đó hoạt động xóa đói giảm nghèo cho người dân mới mang lại hiểu quả cao,
bền vững.

1.1.4 Lý thuyết nhu cầu
Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn,
nguyện vọng và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức,
môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác
nhau (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).
Nhà tâm lý học người Mỹ Abraham Maslow được xem là cha đẻ của lý
thuyết nhu cầu. Theo Maslow, nhu cầu của con người được sắp xếp theo thứ tự
12


bậc thang từ thấp tới cao - từ các nhu cầu thiết yếu nhất tới các nhu cầu thứ yếu,
cao hơn. Sự thoả mãn nhu cầu của con người cũng theo các bậc thang đó. Khi con
người thoả mãn được nhu cầu cấp thấp rồi thì sẽ tiến tới thoả mãn các nhu cầu cấp
cao hơn:
Nhu cầu cơ bản:bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người đây là các
nhu cầu phục vụ cho mục đích sinh tồn như: ăn, uống, ngủ, không khí để thở,
tình dục,…đây là những nhu cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của con người.
Maslow cho rằng, những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện trừ khi
những nhu cầu cơ bản này được thỏa mãn.
Nhu cầu về an toàn: Nhu cầu an toàn này thể hiện ở mặt thể chất và tinh
thần. Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống còn của mình khỏi các
nguy hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các trường hợp
khẩn cấp, nguy khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gây hấn, đe
dọa….
Nhu cầu về xã hội:Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn
thuộc về một bộ phận, một tổ chức nào đó hoặc nhu cầu về tình cảm, tình
thương. Nếu nhu cầu này không được thoả mãn, đáp ứng, nó có thể gây ra các
bệnh trầm trọng về tinh thần, thần kinh.
Nhu cầu tôn trọng:Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng vì nó thể
hiện 2 cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua các thành

quả của bản thân, và nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân, sự tự tin vào
khả năng của bản thân. Sự đáp ứng và đạt được nhu cầu này có thể khiến cho con
người có suy nghĩ tích cực hơn, cảm thấy tự tin hơn.
Nhu cầu được phát triển:. Nhu cầu của một cá nhân mong muốn được là
chính mình, được làm những cái mà mình muốn. Nói một cách đơn giản hơn,

13


đây chính là nhu cầu được phát huy hết khả năng, tiềm năng của mình để tự
khẳng định mình, để đạt được các thành quả trong xã hội.
Theo A.Maslow ông cho rằng việc thỏa mãn các nhu cầu ở bậc thấp (bậc
cơ bản) thì cá nhân mới nảy sinh các nhu cầu ở bậc cao hơn. Do đó, trong
hoạt động xóa đói giảm nghèo NVCTXH phải hết sức lưu ý rằng việc đáp
ứng các nhu cầu cơ bản là rất cần thiết, nó tạo tiền đề để phát triển nhu cầu
cao hơn.
Vận dụng lý thuyết nhu cầu của A.Maslow trong nghiên cứu chúng tôi tìm
hiểu nhu cầu của những hộ nghèo tại địa bàn nghiên cứu theo năm bậc thang về
nhu cầu. Từ đó xem xét các nhu cầu nào đã được đảm bảo, nhu cầu nào chưa
được đảm bảo, đảm bảo ở mức độ nào, có ưu tiên đáp ứng nhu cầu nào trước, nhu
cầu nào sau hay theo trình tự các bậc nhu cầu của nhà tâm lý học A.Maslow.
Trong các hoạt động công tác xã hội với nghèo NVCTXH luôn phải lấy
thuyết nhu cầu của A.Maslow làm kim chỉ nam cho các hoạt động của mình. Phải
hướng các hoạt động của mình vào các nhu cầu của người nghèo và đáp ứng được
các nhu cầu của họ. Chỉ khi nào người nghèo thấy được lợi ích, thấy được các nhu
cầu, mong muốn của bản thân được đáp ứng, được đảm bảo thì khi đó họ mới chủ
động tham gia vào tiến trình hoạt động thay đổi. Khi nhu cầu cấp thấp được đáp
ứng sẽ nảy sinh nhu cầu cấp cao hơn, chủ thể sẽ tiến hành hành động để đáp ứng
các nhu cầu của bản thân. Đó là động lực cho phát triển.
1.1.5 Tiếp cận dựa trên quyền trẻ em

Tiếp cận dựa trên quyền của trẻ là cách tiếp cận cung cấp các dịch vụ đảm bảo
trẻ em được thực hiện đầy đủ các nhóm quyền của trẻ em. Trong Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em thì quyền trẻ em bao gồm 10 nhóm quyền cơ bản:
Quyền được khai sinh và có quốc tịch; Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; Quyền
được sống chung với cha mẹ; Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, than thể,

14


nhân phẩm và danh dự; quyền được chăm sóc sức khỏe; quyền được học tập; quyền
được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịc;
Quyền được phát triển năng khiếu; Quyền được có tài sản; Quyền được tiếp cận
thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia các hoạt động xã hội. Theo công ước Liên hợp
quốc thì quyền trẻ em được chia làm 4 nhóm quyền cơ bản là: Quyền được sinh
tồn; quyền được bảo vệ; quyền được phát triển; quyền được tham gia.
Việc tiếp cận dựa trên quyền sẽ giúp đảm bảo quyền của trẻ em nhóm yếu thế
được quan tâm thực thi nhiều hơn. Như vậy sẻ mang lại sự công bằng trong xã hội.
Từ đó sẽ góp phần vào việc tang cường sức mạnh cho các tổ chức địa phương,
cộng đồng và các nhóm. Đây là nền tảng cho sự phát triển bền vững.[28, tr.138]
1.2 Một số khái niệm cơ bản
* Khái niệm trẻ khuyết tật
Theo Công ước về quyền của người khuyết tật được định nghĩa như sau:
“ Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí
tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt
những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của người khuyết
tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác.”
Ở một số quốc gia, người khuyết tật được hiểu là người: “mất khả năng
về nhìn, nghe, nói hoặc về thể chất, mất khả năng về trí não, rối loạn tâm thần,
khuyết tật bị đa tật hoặc các dạng khuyết tật khác”.
Ở Mỹ định nghĩa người khuyết tật “là người có sự suy yếu về thể chất

hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng
trong cuộc sống”.
Ở Việt Nam, theo pháp lệnh về người tàn tật ban hành năm 1998 khái niệm
về người tàn tật như sau: “Người tàn tật không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật
là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện
15


dưới những dạng tàn tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho
lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn.”[15, tr.2]
Luật người khuyết tật được ban hành năm 2010 thay thế cho Pháp lệnh
về người khuyết tật 1998, theo đó Luật chính thức sử dụng khái niệm “người
tàn tật” cho phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế giới về vấn
đề khuyết tật.
Như vậy, theo quy định của Luật người khuyết tật hiện hành thì “người
khuyết tật được hiểu là người người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận
cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao
động sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.”[16]
Tóm lại, có thể thấy mỗi quốc gia đều có cách định nghĩa khác nhau về
người khuyết tật, nhưng nhìn chung thì cũng có những điểm chung nhất định
về cách nhìn nhận đối với các đối tượng này. Người khuyết tật có thể do bẩm
sinh hoặc tai nạn, làm cho họ bị khiếm khuyết đi một hoặc nhiều bộ phận cơ
thể hay suy giảm chức năng nào đó và làm cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp
khó khăn. Do đó, Luật người khuyết tật đã đưa ra khái niệm về người khuyết
tật dựa trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh về người tàn tật và thể hiện quan điểm tiếp
cận về mặt xã hội theo tinh thần của công ước về quyền của người khuyết tật
mà Việt Nam đã ký kết.
Dựa trên khái niệm về người khuyết tật ta có thể khái niệm về trẻ khuyết
tật như sau:
Trẻ khuyết tật là những đứa trẻ bị tổn thương về cơ thể hoặc rối loạn các

chức năng nhất định gây nên những khó khăn đặc thù trong các hoạt động học
tập, vui chơi và lao động.
Trẻ có thể bị khuyết tật ở những bộ phận và chức năng khác nhau, với
mức độ khác nhau rất đa dạng. Tuy nhiên có thể tạm chia ra thành 2 nhóm
16


khuyết tật. Thứ nhất là nhóm trẻ bị khuyết tật về các bộ phận trên cơ thể con
người gây tổn thương về tai, mắt, chân, tay…với những biểu hiện như khiếm
thính, khiếm thị hay khuyết tật vận động… Thứ hai, nhóm trẻ khuyết tật về trí
tuệ do bị tổn thương ỏ não bộ, gây khó khăn trong việc nhận thức và hoạt động
nhận thức với các biểu hiện như động kinh, bại não hay hay rối loạn tâm thần
như (tự kỷ, tăng động giảm chú ý, trầm cảm…)
Như vậy trẻ em khuyết tật nói chung rất đa dạng về hình thức và phong phú
về mức độ biểu hiện; còn khuyết tật trí tuệ nói riêng là một khái niệm rộng.
* Phân loại trẻ khuyết tật
Bại não: Là rối loạn vận động và tư thế do tổn thương ở não bộ gây ra.
Bại não không diễn tiến nặng hơn nhưng lại có nhiều biến chứng như co rút các
khớp, vẹo cột sống, bệnh lý do nằm lâu: loét da, viêm phổi…
Các kiểu bại não: -Bại não gồng cứng tứ chi
- Bại não yếu liệt nửa người
- Bại não gồng cứng 2 chi dưới
- Bại não múa vờn
- Bại não thất điều( mất thăng bằng)
- Bại não dạng phối hợp
Trị liệu: Tập vật lý trị liệu để giúp phát triển vận động và ngăn ngừa các
biến chứng
Gíao dục đặc biệt: nếu trẻ có chậm phát triển trí tuệ đi kèm theo
Điều trị bằng thuốc trong một số trường hợp như có động kinh đi
kèm, gồng cứng quá nhiều…


17


Hội chứng Down: Là hội chứng do có 3 nhiễm sắc thể 21 trong các tế
bào gây ra ( bình thường mỗi tế bào chỉ có 2 NST 21), các trẻ bị hội chứng
Down có biểu hiện bên ngoài gần giống nhau: trán rộng, gáy phẳng,mắt xếch
Mông cổ….thường là trẻ chậm phát triển trí tuệ theo những mức độ khác nhau,
có trẻ có khả năng ngôn ngữ, có trẻ không, có trẻ bị chậm phát triển cả vận
động.
Về tâm lý: trẻ bị hội chứng Down là trẻ dễ giao tiếp, nhiều tình cảm,
thích ôm ấp, thích khen ngợi nhưng lai là những trẻ đôi khi bướng bỉnh và
thích biểu lộ quyền hành với trẻ khác.
Trẻ bị hội chứng Down thường hay có các bệnh lý khác đi kèm như:
Bệnh tim bẩm sinh, Viêm Ami-đan phì đại, viêm kết mạc, tắc tuyến lệ, bệnh
da: da khô…
Trị liệu: giáo dục đặc biệt
Khám bệnh để phát hiện các bệnh lý đi kèm để kịp thời xử lý: Ví dụ, nếu
trẻ có bệnh tim bẩm sinh thì nên khám để được mổ sớm.
Là các trẻ có khả năng học tập kém, hiểu kém, kỹ năng tự phục vụ kém,
kỹ năng xã hội kém.
Các trẻ này thường thụ động, dễ bị e thẹn, khả năng chú ý và tập trung
kém, hay lăng xăng không biết giới hạn và đôi khi dễ nổi nóng.
Hướng trị liệu: Gíao dục đặc biệt
Hỗ trợ hoặc trị liệu tâm lý đối với các trường hợp có nhiều hành vi khó
khăn, thách đố. Dạy nghề để tạo cơ hội hòa nhập tùy theo khả năng của trẻ.
Trẻ tự kỷ: Là những trẻ bị mất hoặc suy kém khả năng liên hệ và giao
tiếp với người khác, trẻ này thường không nhìn người khác, tránh các giao tiếp,
ngôn ngữ kém ( không nói, nói ít hoặc nói các từ vô nghĩa), trẻ có các hành
18



động lập đi lập lại: gật gù, lắc lư thân người, xoay người, chơi tay, lắc tay…và
nhiều khi chống lại các thay đổi: ví dụ: trẻ chỉ thích đi một con đường, hay chỉ
thích xem một chương trình tivi, hay thích sắp xếp đồ đạc theo một thứ tự nào
đó, nếu chỉ cần thay đổi các trật tứ này là trẻ sẽ lên cơn nổi giận la hét tự đánh
mình hay đánh người khác.
Trị liệu: Gíao dục đặc biệt
Hành vi liệu pháp : Phương pháp phân tích hành vi áp dụng ( ABA)
Trẻ bị di chứng sốt bại liệt: Thường bị teo cơ một bên hoặc hai bên kèm
theo yếu cơ, các trẻ này vẫn có khả năng về trí tuệ, nhưng cũng thường bị thiếu
tự tin, mặc cảm do bị khuyết tật, do bị giới hạn trong vận động.
Trị liệu: Tập vật lý trị liệu, mang giày nẹp tùy trường hợp, ngăng ngừa
các biến chứng vẹo cột sống, hỗ trợ về tâm lý: Gia tăng lòng tự tin, nhìn nhận
tốt về hình ảnh bản thân, đươc hỗ trợ nghề nghiệp phù hợp.
Trẻ bị khiếm thính: Có thể mất khả năng nghe hoàn toàn hay còn một phần,
nếu sự suy kém thính giác xảy ra sớm, trẻ sẽ có khó khăn về ngôn ngữ, do sự
giới hạn trong việc tiếp nhận thông tin nên trẻ cũng khó khăn trong việc diễn
đạt, kèm theo bị đối xử phân biệt điều này dễ làm cho trẻ ấm ức khó chịu.
Trị liệu: Gíao dục đặc biệt dành cho trẻ khiếm thính, máy trợ thính
Trẻ khiếm thị: Có thể không nhìn thấy hoàn toàn hay còn nhìn thấy một
phần.Do bị giới hạn tiếp nhận thông tin qua thị giác nên cũng làm cho trẻ bị
giới hạn trong việc tương tác với môi trường .Các trẻ này thường có khả năng
tốt về thính giác và khối hình tri giác( có khả năng âm nhạc và khả năng nhận
biết hình dạng đồ vật thông qua cảm giác lòng bàn tay).
Trị liệu và hỗ trợ: Chữ nổi, từ điển sách nói, âm nhạc, gia tăng lòng tự
tin, đánh giá đúng giá trị bản thân, nghề nghiệp phù hợp.
19



1.3 Công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật
1.3.1 Khái niệm công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật
Là hệ thống giá trị và phương pháp được các nhân viên xã hội chuyên
nghiệp sử dụng, ở đó các khái niệm về tâm lý xã hội, hành vi và hệ thống được
chuyển thành các kỹ năng giúp đỡ trẻ em giải quyết những vấn đề về nội tâm –
tâm lý, quan hệ giữa trẻ em với mọi người xung quanh, với xã hội, môi trường
thông qua các mối quan hệ mặt đối mặt. Từ đó giúp trẻ em hòa nhập với xã hội,
có điều kiện sống tốt hơn và phát triển hoàn thiện cả về thể chất lẫn tinh thần.
CTXH trong trợ giúp cho trẻ khuyết tật chính là đánh giá nhu cầu về
khía cạnh xã hội của đối tượng; đồng thời đóng vai trò là người quản lý trường
hợp, hỗ trợ trẻ khuyết tật tiếp cận những dịch vụ phù hợp, duy trì tiếp cận một
loạt các dịch vụ phối hợp tốt nhất. trong trường hợp cần thiết,nhân viên CTXH
cũng cung cấp hỗ trợ tâm lý cho trẻ khuyết tật và gia đình của họ. Như vậy,
bằng những kiến thức, kỹ năng và phương pháp, nhân viên CTXH đã trợ giúp
cá nhân, gia đình, cộng đồng người khuyết tật, phục hồi các chức năng xã hội
bị suy giảm.
Trong những đối tượng cần hỗ trợ, sự giúp đỡ của nhân viên CTXH thì
trẻ khuyết tật là một nhóm cần được sự quan tâm, trợ giúp đặc biệt. Việc trợ
giúp của nhân viên CTXH đối với trẻ khuyết tật được xem là một lĩnh vực của
người làm CTXH. CTXH nhấn mạnh đến tác động vào hệ thống chăm sóc và
giáo dục trẻ khuyết tật như: gia đình trẻ khuyết tật; nhà trường, cơ quan, đoàn
thể; cộng đồng mà họ sinh sống, làm việc cũng như chính sách của nhà nước
dành cho trẻ khuyết tật.
Bên cạnh đó, CTXH còn thúc đẩy môi trường xã hội bao gồm: chính
sách, pháp luật, cộng đồng thân thiện để giúp trẻ khuyết tật hòa nhập xã hội và
phát huy tốt chức năng của họ. Đội ngũ nhân viên CTXH đóng vai trò rất quan

20



trọng, là người biện hộ để cá nhân, gia đình trẻ khuyết tật được hưởng các
chính sách an sinh xã hội dành cho họ. Trên cơ sở đó, giúp người khuyết tật
nâng cao chức năng của mình.
Từ định nghĩa về CTXH chúng ta có thể hiểu : “CTXH với NKT tật là
họat động chuyên nghiệp của nhân viên CTXH giúp đỡ NKT tăng cường hay
khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ, huy động nguồn lực, xác
định những dịch vụ cần thiết để hỗ trợ NKT, gia đình và cộng đồng triển khai
hoạt động chăm sóc trợ giúp một cách hiệu quả, vượt qua những rào cản, đảm
bảo sự tham gia đầy đủ vào hoạt động xã hội trên nền tảng sự công bằng như
những người khác trong xã hội”
1.3.2 Khái niệm dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật

 Dịch vụ xã hội (DVXH): là hoạt động cung cấp, đáp ứng nhu cầu cho
các cá nhân, nhóm người nhất định nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã
hội. Bên cạnh cách hiểu trên, một cách hiểu khác nhìn từ vai trò của người
cung cấp dịch vụ và đối tượng khách hàng cho rằng: DVXH là các dịch vụ do
nhà nước, tập thể cung cấp cho thành viên xã hội. Tuy nhiên, cách hiểu này ít
nhiều “máy móc”, thiếu tính bao quát và cũng không phổ biến. DVXH cho
nhóm yếu thế là các hoạt động có chủ đích của con người nhằm phòng ngừa,
hạn chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu cơ bản và thúc đẩy
khả năng hoà nhập cộng đồng, xã hội cho nhóm đối tượng yếu thế.

 Dịch vụ CTXH đối với trẻ em gồm cung cấp chỗ ở, thức ăn, bảo vệ trẻ
em, cho đi học,, khám chữa bệnh, hoạt động vui chơi giải trí, quản lý ca, chăm
sóc thay thế và hỗ trợ tâm lý. Trên thế giới, việc bảo vệ chăm sóc trẻ em được
thực hiện bởi những trung tâm CTXH , cơ sở trợ giúp trẻ em và một phần ủy
quyền cho các tổ chức phi chính phủ như mô hình trị liệu tập trung hướng tới
gia đình và Mô hình hướng tới an sinh trẻ em. Việt Nam có mô hình chăm sóc

21



×