Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN KINH tế hộ NÔNG NGHIỆP ở TỈNH VĨNH PHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.59 KB, 82 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Kinh tế hộ nông nghiệp
Kinh tế - xã hội
Khoa học và công nghệ

Chữ viết tắt
KTHNN
KT-XH
KH&CN


MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ

1.1.
1.2.

NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH VĨNH PHÚC
Kinh tế hộ nông nghiệp, phát triển kinh tế hộ nông nghiệp
Quan niệm, nội dung và vai trò phát triển kinh tế hộ

12


12

nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc

19

Chương 2:

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG
NGHIỆP Ở TỈNH VĨNH PHÚC

2.1.
2.2.

Khái quát về phát triển kinh tế hộ nông nghiệp ở Vĩnh Phúc
Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra

30
30

từ thực trạng phát triển kinh tế hộ nông nghiệp ở tỉnh
Vĩnh Phúc
Chương 3:

34

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỘ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH VĨNH PHÚC

54


3.1.

Phương hướng phát triển kinh tế hộ nông nghiệp ở tỉnh
54

3.2.

Vĩnh Phúc
Giải pháp phát triển kinh tế hộ nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh
Phúc thời gian tới

58
75

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

76
83

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC
CÔNG BỐ

84

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong lịch sử phát triển, thời kỳ nào cũng vậy, không phân biệt chế độ
chính trị, vai trò của hộ gia đình rất quan trọng, vì nó không chỉ là tế bào của

2


xã hội, là đơn vị sản xuất và bảo đảm cuộc sống cho mọi thành viên trong gia
đình, mà còn là chủ thể tiêu dùng rất đa dạng của nền kinh tế. Xuất phát từ
một nước có truyền thống nông nghiệp lâu đời, nên KTHNN ở nước ta đã
xuất hiện từ lâu và có vai trò to lớn đối với đời sống nông dân Việt Nam. Tuy
nhiên, trước thời kỳ đổi mới, do không thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế
nhiều thành phần; ngược lại, lấy kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ
yếu, mà kinh tế cá thể, tư nhân, trong đó có KTHNN ít có cơ hội phát triển.
Kể từ khi Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 100 (ngày 31-01-1981) Về cải
tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động
trong hợp tác xã,thì vai trò của kinh tế hộ đã thay đổi cả về phương thức quản
lý lẫn lao động sản xuất, nhất là khi hợp tác xã không còn động lực phát triển.
Sau khi có Nghị quyết 10 (ngày 05-4-1988) của Bộ Chính trị về đổi mới quản
lý nông nghiệp đã tạo cơ sở quan trọng để KTHNN từng bước trở thành đơn
vị kinh tế tự chủ. Ngoài ra, nhờ có Nghị định 12/NĐ-CP, ngày 03-02-1993 về
sắp xếp tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nông nghiệp nhà
nước, mà các nông, lâm trường đã từng bước tách chức năng quản lý nhà
nước với quản lý sản xuất, kinh doanh; theo đó gia đình nông, lâm trường
viên được nhận đất khoán và hoạt động dưới hình thức kinh tế hộ. Tuy đặc
điểm truyền thống của kinh tế hộ không thay đổi, nhưng việc giao quyền sử
dụng đất lâu dài cho nông dân làm cho hộ gia đình trở thành đơn vị sản xuất,
kinh doanh tự chủ, tự quản. Động lực mới cho phát triển KTHNN đã xuất
hiện và thúc đẩy KTHNN phát triển mạnh mẽ với những đóng góp rất quan
trọng cho phát triển KT-XH. Khi đánh giá về vai trò và những đóng góp của
kinh tế hộ, Đại hội IX của Đảng khẳng định “Kinh tế hộ phát huy tác dụng rất

quan trọng trong nông nghiệp”. Vì vậy, chủ trương phát triển nông - lâm ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với giải
quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn của Đại hội XI của Đảng, thì phát triển
kinh tế hộ được xác định là một nội dung quan trọng. Trước xu thế quốc tế
3


hóa nền kinh tế đang diễn ra nhanh chóng và chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam hiện nay, phải nhận rõ những khó khăn để có thêm cơ
chế, chính sách có tính chất đột phá nhằm tạo động lực mới, thật sự mạnh mẽ
cho KTHNN phát triển.
Vĩnh Phúc là tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi với nhiều tiềm năng, lợi thế
phát triển kinh tế nông nghiệp. Mặc dù là địa phương khởi xướng khoán hộ
trong nông nghiệp ở nước ta thập kỷ 60 của thế kỷ XX, nhưng do điều kiện
khách quan cùng với nhận thức chủ quan khi đó nên vai trò của khoán hộ
không được thừa nhận và đánh giá đúng. Vì vậy, khoán hộ ở Vĩnh Phúc tồn
tại không lâu. Từ khi sự nghiệp đổi mới được tiến hành, cùng với những chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân và nông
thôn cũng như về phát triển KTHNN, mà vai trò của kinh tế hộ đang có những
phát triển mới, góp phần quan trọng vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, trước yêu cầu sản
xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc chưa khai
thác hết tiềm năng, thế mạnh của loại hình tổ chức kinh tế này. Với mong
muốn thúc đẩy KTHNN phát triển, việc nghiên cứu vấn đề “Phát triển kinh tế
hộ nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Là loại hình tổ chức kinh tế ra đời sớm, KTHNN có vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển KT-XH nói chung, đối với đời sống của người cư
dân nông thôn nói riêng. Đặc biệt, từ khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì KTHNN và phát triển KTHNN
là một vấn mới, thu hút sự quan tâm nhiều hơn của các cơ quan nghiên cứu và

nhà khoa học. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu với nhiều cấp
độ khác nhau về kinh tế nông nghiệp, phát triển KTHNN với mục đích và góc
độ tiếp cận khác nhau liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận văn. Trong
đó có các công trình điển hình như:
4


* Dưới dạng sách có:
- Lê Đình Thắng - Chủ biên (1993), Phát triển kinh tế hộ theo hướng
sản xuất hàng hóa, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội [32]. Tác giả cuốn
sách đề cập nghiên cứu nhiều nội dung, trong đó những vấn đề lý luận và thực
tiễn về phát triển KTHNN theo hướng sản xuất hàng hóa. Kết quả của công
trình nghiên cứu này là dựa trên cơ sở thực tiễn phát triển KTHNN ở nước ta
thời kỳ trước, tác giả tổng kết sự phát triển của KTHNN nước ta trong những
năm đầu của thời kỳ đổi mới. Khác với trước thời kỳ đổi mới, tác giả cuốn
sách cho rằng, phát triển kinh tế hộ trong thời kỳ đổi mới phải theo hướng sản
xuất hàng hóa; nghĩa là KTHNN đã có sự phát triển về quy mô đầu tư và sản
phẩm, đổi mới về tổ chức và quản lý. Để đáp ứng yêu cầu phát triển KTHNN
theo hướng sản xuất hàng hóa trong thời kỳ đổi mới, tác giả đề xuất hệ thống
giải pháp khá đồng bộ và khả thi. Tuy nhiên, nội dung cuốn sách không đề
cập nghiên cứu về phát triển KTHNN ở phạm vi địa phương. Vì thế, phát
triển KTHNN ở Vĩnh Phúc là một nội dung mới cần triển khai nghiên cứu
trong tình hình hiện nay.
- Chu Văn Vũ - Chủ biên (1995), Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội [58]. Tuy diễn đạt là Kinh tế hộ trong nông
thôn Việt Nam nhưng thực chất nội dung mà tác giả cuốn sách đề cập là
KTHNN. Về lý luận, mặc dù tác giả chỉ đề cập một số vấn đề lý luận về kinh
tế hộ mà không nghiên cứu lý luận về phát triển KTHNN, nhưng một số giải
pháp và kiến nghị mà tác giả đề xuất để phát triển kinh tế hộ trong nông thôn
Việt Nam có nhiều nội dung có thể kế thừa và phát triển trong nghiên cứu về

phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Vũ Ngọc Hân (1997), Phát triển kinh tế hộ sản xuất hàng hóa ở vùng
đồng bằng Sông Hồng, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội [23]. Mặc dù phạm
vi không gian nghiên cứu là Vùng đồng bằng Sông Hồng, nhưng những vấn
đề lý luận và thực tiễn về phát triển KTHNN đã được tác giả cuốn sách đề cập
5


nghiên cứu rất sâu sắc. Mặc dù địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc là vùng chuyển tiếp
giữa Đồng bằng Sông Hồng với các tỉnh miền núi phía Bắc, song tác giả
không đề cập đến phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc. Tuy nhiên những giải
pháp được tác giả đề xuất nhằm phát triển kinh tế hộ sản xuất hàng hóa ở
Vùng Đồng bằng Sông Hồng sẽ là những nội dung quan trọng có thể kế thừa,
phát triển để nghiên cứu về phát triển KTHNN.
* Dưới dạng luận văn, luận án có:
- Nguyễn Văn Anh (2008), Phát triển KTHNN và vai trò của nó đối với
bảo đảm củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành kinh tế chính trị, Học viện Chính trị, Hà Nội [2]. Tuy đối tượng
nghiên cứu của lĩnh vực là vai trò của phát triển KTHNN đối với việc bảo
đảm củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, nhưng tác giả đã luận
giải làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển KTHNN ở tỉnh Đồng Nai.
Trong đó có khái niệm về phát triển KTHNN và phát triển KTHNN ở tỉnh
Đồng Nai. Mặc dù điều kiện địa lý, kinh tế khác nhau để phát triển KTHNN,
nhưng một số vấn đề lý luận về phát triển KTHNN được luận giải làm rõ ở
công trình này là tài liệu cần thiết cho việc nghiên cứu về phát triển KTHNN
ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Lê Bích Thủy (2009), Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở tỉnh Lào Cai,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [34]. Trên cơ
sở phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hóa ở tỉnh Lào Cai
từ trước năm 2009, luận văn đề xuất một số giải pháp cần thiết nhằm phát triển

nông nghiệp hàng hóa ở tỉnh Lào Cai thời gian tới; trong đó nội dung của một số
giải pháp liên quan đến phát triển KTHNN. Những nội dung này có thể nghiên
cứu, vận dụng để nghiên cứu về phát triển KTHNN ở Vĩnh Phúc.
- Trần Xuân Châu (2000), Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh
sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam, luận án tiến sĩ kinh tế,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [3]. Tuy ở
công trình này không nghiên cứu lý luận phát triển KTHNN, nhưng trong số
6


các giải pháp mà tác giả luận án đề xuất nhằm đẩy nhanh sự phát triển nền
nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam có một số giải pháp về phát triển KTHNN
hàng hóa. Đây là những nội dung có ý nghĩa thực tiễn, có thể vận dụng, phát
triển để nghiên cứu về phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
- Đỗ Ngọc Sơn (2000), Kinh tế hộ nông dân trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị [31]. Tác giả luận văn đã trình bày tương đối hệ thống lý luận về kinh
tế hộ nông dân; trong đó đã làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của kinh tế hộ
nông dân đối với sự phát triển KT-XH trong thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, tác giả
đã nghiên cứu kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ nông dân ở một số nước. Mặt
khác, tác giả đã khảo sát, đánh giá thực trạng kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Phú
Thọ, bao gồm cả thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những mâu thuẫn nảy
sinh cần được giải quyết; trên cơ sở đó, xác định phương hướng và đề xuất một
số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Phú Thọ.
- Trần Trọng Tiến (2010), Phát triển kinh tế hộ ở khu vực nông thôn
Hà Nội và tác động của nó đến chuẩn bị kinh tế cho thực hiện nhiệm vụ quân
sự, quốc phòng trên địa bàn hiện nay, luận án tiến sĩ chuyên ngành kinh tế
chính trị, Học viện chính trị, Hà Nội [33]. Tuy phát triển kinh tế hộ không
phải là đối tượng nghiên cứu của luận án, nhưng để nghiên cứu tác động của
phát triển kinh tế hộ đến chuẩn bị kinh tế cho thực hiện nhiệm vụ quân sự,

quốc phòng trên địa bàn Hà Nội, tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn phát triển KTHNN. Trên cơ sở đó tác giả đã đề xuất quan điểm và
giải pháp phát triển kinh tế hộ nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác
động tiêu cực của nó đến chuẩn bị kinh tế cho thực hiện nhiệm vụ quân sự,
quốc phòng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đây là những nội dung có thể kế
thừa để nghiên cứu về phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đồng Thị Hạnh (2015), Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Đồng
Nai,Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị, Học Viện chính trị, Hà
7


Nội [22]. Trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận chung về kinh tế nông
nghiệp và phát triển kinh tế nông nghiệp; tác giả đã luận giải, làm rõ nội dung,
vai trò phát triển kinh tế nông nghiệp cũng như các nhân tố tác động đến phát
triển kinh tế nông nghiệp. Đặc biệt, tác giả khái quát tương đối rõ 5 bài học
trên cơ sở kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của một số nước có nền nông
nghiệp phát triển, như: Thái Lan, Đài Loan, Hàn Quốc; trong đó có bài học về
phát triển kinh tế hộ nói chung, KTHNN nói riêng. Trên cơ sở một số vấn đề
lý luận cơ bản như vậy, tác giả đã phân tích, làm rõ thực trạng phát triển kinh
tế nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất phương hướng
và giải pháp nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp ở Đồng Nai trong thời gian
tới; trong đó có những nội dung của một số giải pháp đề cập đến phát triển
KTHNN. Mặc dù không gian, nhất là điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội để phát
triển kinh tế nông nghiệp cũng như phát triển KTHNN của tỉnh Đồng Nai
khác với tỉnh Vĩnh Phúc, nhưng một số vấn đề lý luận về nông nghiệp, kinh tế
nông nghiệp và phát triển KTHNN được đề cập ở luận văn này là những nội
dung có thể kế thừa, vận dụng vào việc nghiên cứu về phát triển KTHNN ở
tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
* Dưới dạng bài báo khoa học có:
- Nguyễn Hữu Huân, Kinh tế hộ: khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng,

Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 4-1993 [27]. Nội dung bài viết đề cập khá sâu
sắc một số vấn đề lý luận về KTHNN; trong đó tác giả đã luận giải, làm rõ
quan niệm, vị trí, vai trò, chức năng của kinh tế hộ. Đặc biệt, với góc độ tiếp
cận khách quan, khoa học, tác giả bài viết đã luận giải khá thuyết phục về sự
cần thiết phải phát triển KTHNN. Về mặt lý luận, mặc dù tác giả bài viết
nghiên cứu khá sâu sắc về kinh tế hộ và phát triển KTHNN, song kết quả
nghiên cứu ở bài viết này không đề cập đến phát triển KTHNN ở phạm vi một
địa phương nào. Đây là những vấn đề lý luận liên quan trực tiếp, có thể kế
thừa để nghiên cứu vấn đề phát triển kinh tế hộ ở tỉnh Vĩnh Phúc.
8


- Nguyễn Văn Công, Phát triển kinh tế hộ nông dân tại Việt Nam, Tạp
chí Kinh tế và Dự báo số 16-2013 [7]. Đây là công trình nghiên cứu trực tiếp
đề cập đến vấn đề phát triển kinh tế hộ nông dân. Tuy diễn đạt là kinh tế hộ
nông dân, nhưng thực chất kết quả nghiên cứu của công trình này là vấn đề
phát triển KTHNN ở nước ta những năm gần đây. Với công trình này, tác giả
đã khái quát làm rõ khái niệm về kinh tế hộ nông dân và phát triển kinh tế hộ
nông dân. Trên cơ sở những vấn đề lý luận như vậy, theo tác giả, để kinh tế
hộ nông dân nước ta phát triển đúng với tiềm năng và lợi thế của loại hình
kinh tế này, cần tiến hành đồng bộ một số giải pháp cả về cơ chế, chính sách;
về phát huy vai trò chủ thể của nông dân… Mặc dù đề cập đến nhiều nội dung
liên quan đến phát triển KTHNN; song đây là những vấn đề chung để phát
triển KTHNN ở nước ta. Vì vậy, nội dung và kết quả nghiên cứu của công
trình này không đề cập đến phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên tiếp cận ở nhiều khía cạnh
khác nhau về kinh tế hộ và phát triển KTHNN, hay nghiên cứu sâu về nông
nghiệp, nông dân và nông thôn. Tuy có sự khác nhau về góc độ tiếp cận, nội
dung và phạm vi đề cập nhưng các công trình trên đều hướng tới giải quyết
các vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển KTHNN trên phạm

vi cả nước hay một số địa phương. Như vậy, các công trình nghiên cứu trên
tuy công bố gần đây và được tiếp cận nghiên cứu từ nhiều chuyên ngành kinh
tế khác nhau (kinh tế chính trị, kinh tế kỹ thuật, kinh tế ngành, hay quản lý
kinh tế...) với mục đích, nhiệm vụ và không gian nghiên cứu khác nhau (cả
nước, vùng miền, địa phương hay lĩnh vực khác nhau), song chưa có công
trình nào nghiên cứu về phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc. Vì vậy, nghiên
cứu “Phát triển kinh tế hộ nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc” là nội dung mới,
không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố gần đây mà tác giả
tiếp cận. Đây là vấn đề mới, có ý nghĩa thực tiễn, trực tiếp phục vụ phát triển
KTHNN ở Vĩnh Phúc hiện nay.
9


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc,
trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển KTHNN trên địa bàn
Tỉnh trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc
dưới góc độ kinh tế chính trị.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc
thời gian qua.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển KTHNN ở Vĩnh Phúc thời
gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng: Phát triển KTHNN
* Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu phát triển KTHNN thuộc lĩnh vực trồng trọt và
chăn nuôi.

- Phạm vi nghiên cứu về không gian: địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: khảo sát chủ yếu từ năm 2010 đến
năm 2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị,
như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học; phương pháp lôgic kết hợp với
lịch sử; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp phân tích tổng hợp...
10


6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở khoa học phục vụ hoạch
định chính sách phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc và những địa phương có
đặc điểm kinh tế, xã hội như tỉnh Vĩnh Phúc.
- Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và
học tập môn kinh tế chính trị.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỘ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH VĨNH PHÚC

11



1.1. Kinh tế hộ nông nghiệp, phát triển kinh tế hộ nông nghiệp
1.1.1. Một số quan niệm liên quan
Quan niệm về hộ. Do điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa... ở
các quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau mà có quan niệm khác nhau về hộ.
Trong đó quan niệm “Hộ là tất cả những người cùng sống chung trong một
mái nhà. Nhóm người đó bao gồm những người cùng chung huyết tộc và
những người làm ăn chung”. Quan niệm khác, theo đó: “Hộ là những người
cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân
quỹ”. Với các quan niệm thứ nhất, thì hộ là một tập hợp chủ yếu và phổ biến
của những thành viên cùng huyết tộc; hoặc không cùng huyết tộc. Với quan
niệm thứ hai, thì hộ là những người có cùng, hoặc không cùng huyết tộc,
nhưng họ cùng ăn, cùng ở trong một mái nhà và giữa họ có chung ngân quỹ.
Từ các quan niệm như vậy cho thấy, hộ là một chủ thể kinh tế, có
nguồn lao động và phân công lao động cho từng thành viên; chung vốn và
cùng một kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Mặc dù vậy, hộ không phải là một
thành phần kinh tế đồng nhất, mà thuộc thành phần kinh tế cá thể, tư nhân, tập
thể... Thực tế cho thấy, hộ là đơn vị vừa sản xuất, vừa tiêu dùng, có cùng ngân
quỹ và phân phối lợi ích theo thỏa thuận có tính chất gia đình.
Quan niệm về gia đình
Ở Việt Nam, theo quan niệm truyền thống, hộ gia đình gồm những
người sống chung trong một gia đình; giữa họ có quan hệ cùng huyết tộc và
họ đều là những người trực tiếp lao động, có chung lợi ích và một số sinh hoạt
cần thiết khác. Tuy rất ít, có thể một số thành viên của gia đình không có quan
hệ huyết tộc (những gia đình có con nuôi, hoặc có người tình nguyện và được
sự đồng ý của các thành viên trong gia đình công nhận cùng hoạt động kinh tế
lâu dài...).
Từ đặc điểm của hộ và gia đình trên đây cho thấy, hộ và gia đình là hai
khái niệm khác biệt. Hộ không đồng nhất với gia đình mặc dù cùng hoặc không
12



cùng huyết tộc. Bởi hộ là chủ thể kinh tế, còn gia đình có thể không phải là đơn
vị kinh tế hay chủ thể kinh tế. Một hộ có thể chỉ có một thành viên hay nhiều
thành viên có cùng hoặc không cùng huyết tộc. Hộ có thể là một gia đình hạt
nhân, một gia đình mở rộng hay một đại gia đình. Chẳng hạn như: gia đình
gồm nhiều thế hệ cùng huyết tộc, cùng sinh hoạt trong một mái nhà nhưng giữa
họ có nguồn sống, ngân quỹ độc lập với nhau.
Quan niệm về hộ gia đình
Theo Luật cư trú của Việt Nam, hộ gia đình được hiểu là tập hợp những
người mà quan hệ giữa họ được xác định theo hộ khẩu đăng ký thường trú,
tạm trú; theo quan hệ hôn nhân; theo quan hệ huyết tộc; hoặc theo những cách
xác định khác mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để
cùng tiến hành hoạt động kinh tế trong những lĩnh vực khác nhau do pháp luật
quy định. Thông thường, gia đình và hộ trùng lên nhau, tạo thành tên gọi hộ
gia đình. Mỗi hộ gia đình ở Việt Nam hiện nay đều có sổ đăng ký hộ khẩu,
trong đó ghi rõ số nhân khẩu, chủ hộ và quan hệ giữa các thành viên với chủ
hộ; trong quan hệ giữa chủ hộ với các thành viên có thể là quan hệ cùng hoặc
không cùng huyết tộc.
Quan niệm về hộ nông dân (hay còn gọi là hộ nông nghiệp)
Ở nước ta hiện nay, hộ nông dân (hộ nông nghiệp) thường được hiểu là
hộ gia đình đang sinh sống trên địa bàn nông thôn, hoạt động chủ yếu là sản
xuất nông nghiệp. Ngoài hoạt động sản xuất nông nghiệp, hộ nông dân có thể
tiến hành các hoạt động khác nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu đời sống tinh
thần và vật chất của hộ nông dân. Như vậy, hộ nông dân là hộ có phương tiện
kiếm sống từ ruộng đất, chủ yếu sử dụng lao động của gia đình. Nói cách
khác, hoạt động của hộ nông dân chủ yếu trong nông nghiệp bao gồm: trồng
trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, diêm nghiệp; hoặc hoạt động trong lĩnh
vực phi nông nghiệp và dịch vụ nông nghiệp, nông thôn.
1.1.2. Quan niệm về kinh tế hộ và phát triển kinh tế hộ nông nghiệp

13


* Quan niệm về kinh tế hộ
Ở Việt Nam, theo quan niệm truyền thống, kinh tế hộ là loại hình kinh
tế mà trong đó các hoạt động sản xuất chủ yếu dựa vào lao động gia đình mà
không thuê lao động. Mục đích hoạt động kinh tế của kinh tế hộ theo quan
niệm truyền thống, có thể sản xuất để trao đổi nhưng ở mức độ hạn chế, mà
chủ yếu và trước hết là nhằm đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình, chứ không
phải mục đích chính là sản xuất hàng hóa để bán. Trong thời kỳ đổi mới, nhất
là từ Đại hội XI của Đảng đến nay, để phát huy lợi thế của nền nông nghiệp
nhiệt đới, Đảng ta chủ trương “Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng
hiện đại, hiệu quả, bền vững”[14; tr.61] trên cơ sở phát triển các loại hình tổ
chức kinh tế trong nông nghiệp, trong đó có kinh tế hộ. Đặc biệt, Dự thảo Văn
kiện trình Đại hội XII của Đảng tiếp tục chủ trương “tạo điều kiện phát triển
kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ”[15;
tr.C]; đồng thời “Có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia
đình…”[15; tr.G] và “tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển có hiệu quả trên
các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp”[15; tr.G]. Như vậy, trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế hộ là chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Kinh tế hộ là một chủ thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Trên thực tế kinh tế hộ có số lượng lớn, do
đó kinh tế hộ là lực lượng sản xuất quan trọng ở Việt Nam. Kinh tế hộ thường
sản xuất, kinh doanh đa dạng, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, tiểu thủ công
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Kể từ khi được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự
chủ (năm 1988), sự phát triển kinh tế hộ đã có sự chuyển biến tích cực cả về
quy mô, tốc độ và cơ cấu. Đến nay, kinh tế hộ đã đứng vững trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có đóng góp quan trọng trong xóa

đói, giảm nghèo ở từng địa phương cũng như cả nước.
14


Kinh tế hộ không phải là một thành phần kinh tế mà là một loại hình
kinh tế được phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế khác bởi phương thức
tổ chức quản lý. Theo đó, chủ hộ vừa là người điều hành các khâu của quá
trình sản xuất và tái sản xuất; đồng thời chịu trách nhiệm về mọi hoạt động
của kinh tế hộ. Kinh tế hộ phát triển chủ yếu ở nông thôn và được gọi là kinh
tế hộ gia đình nông dân.
Theo Điều 49 Nghị định 43/2010/NĐ-CP, ngày 15/04/2010 của Chính
phủ, hộ kinh doanh “do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm
người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa
điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”[41]; “Hộ
gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối… có thu nhập thấp không
phải đăng ký, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề có điều kiện”. Khi
hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên hơn mười lao động phải chuyển đổi
sang hoạt động theo hình thức doanh nghiệp. Với nội dung này cho thấy, hộ
kinh doanh, hay kinh tế hộ sử dụng không quá mười lao động, không có con
dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Như vậy, xét về quy mô sử dụng lao động, thì hộ kinh doanh
và kinh tế hộ là hình thức tổ chức kinh tế có quy mô tương đối nhỏ.
Từ những vấn đề trên có thể hiểu kinh tế hộ là một hình thức tổ chức
kinh tế, trong đó các thành viên trong hộ là lực lượng lao động chủ yếu
tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất và tái sản xuất; đồng thời,
chủ hộ chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của kinh tế hộ.
Ở nước ta, kinh tế hộ chủ yếu là kinh tế của các hộ gia đình nông dân
tại khu vực nông thôn. Xét theo cơ cấu ngành nghề, kinh tế hộ được phân chia
thành các loại: hộ thuần nông (hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm

nghiệp và ngư nghiệp); hộ kiêm nghề (vừa làm nông nghiệp, vừa hoạt động

15


tiểu thủ công nghiệp); hộ chuyên nghề (hoạt động trong các lĩnh vực ngành
nghề và dịch vụ); và hộ kinh doanh tổng hợp (hoạt động cả trong lĩnh vực
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ). Đến nay, kinh tế hộ gia đình đã trở
thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
* Quan niệm về kinh tế hộ nông nghiệp
Vốn là nước có truyền thống nông nghiệp, KTHNN ở nước ta đã
hình thành, phát triển qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau. Và ở mỗi thời
kỳ lịch sử như vậy, KTHNN có vị trí, vai trò và những đóng góp khác nhau
vào phát triển KT-XH. Sự đóng góp của KTHNN phụ thuộc vào chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Từ thực tiễn phát triển kinh tế
nông nghiệp ở nước ta cho thấy, phát triển kinh tế nông nghiệp là quá tr ình
vận động, phát triển của KTHNN và kinh tế trang trại, gia trại. Sự vận động
này luôn theo quá trình từ thấp lên cao, từ sản xuất tự túc, tự cấp đến sản
xuất hàng hóa ngày càng lớn hơn cả về quy mô và trình độ. Tuy nhiên, tên
gọi, quan niệm về kinh tế hộ nói chung, KTHNN nói riêng còn ch ưa thống
nhất. Mặc dù, còn có những tên gọi khác nhau, những về bản chất, hoạt
động của KTHNN luôn gắn với nông nghiệp, nông thôn và hộ nông dân
Việt Nam.
Ngay từ khi đổi mới, Đảng và Nhà nước xác định, nông nghiệp Việt
Nam là “nông nghiệp gia đình” được đặc trưng bởi tính chất sở hữu và quá
trình tổ chức sản xuất ở quy mô hộ nông dân trong lĩnh vực nông nghiệp.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng khuyến khích các hộ sản xuất mở rộng quy
mô sản xuất, phát triển kinh tế gia trại, trang trại nhằm nâng cao năng suất
và hiệu quả kinh doanh trong nông nghiệp.
Trên cơ sở những khái niệm liên quan cũng như quan niệm về kinh tế

hộ tác giả cho rằng, KTHNN là một loại hình kinh tế hộ hoạt động sản
xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp bằng việc tự đầu tư vốn, tư

16


liệu sản xuất để sản xuất và cung cấp sản phẩm nông nghiệp, vừa đáp ứng
nhu cầu gia đình, vừa góp phần phát triển KT-XH.
Từ quan niệm KTHNN cho thấy, KTHNN là một loại hình kinh tế hộ,
hay kinh tế gia đình, mà không phải là một thành phần kinh tế. KTHNN có
thể tham gia tất cả các hoạt động kinh tế nông nghiệp, như: sản xuất, dịch vụ,
sản xuất kết hợp với dịch vụ; có thể liên doanh, liên kết với các mô hình kinh
tế khác, hoặc tham gia các hoạt động kinh tế của các thành phần kinh tế trong
nền kinh tế thị trường, hoặc do nhu cầu phát triển của sản xuất, kinh doanh
đòi hỏi. Hiện nay, KTHNN thuộc thành phần kinh tế còn tùy thuộc điều kiện,
đặc điểm của mô hình tổ chức KTHNN. Mặt khác, KTHNN tự đầu tư vốn, tư
liệu sản xuất để tiến hành các hoạt động kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, KTHNN là một hình thức phù hợp
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có
vai trò quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay.
* Quan niệm về phát triển kinh tế hộ nông nghiệp
Mặc dù thuật ngữ phát triển đã trở nên quen thuộc không chỉ ở nước ta,
mà ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế, bởi thuật ngữ này
được sử dụng rất phổ biến ở nhiều lĩnh vực, nhưng chưa có quan niệm về
phát triển đầy đủ, mà nó được sử dụng như một tiếp đầu từ. Mặt khác, do xuất
phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau
khi bàn về phát triển KTHNN. Đặc biệt, trong thời đại của nền kinh tế mở,
nhân loại đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão của cách mạng KH&CN
với những thành tựu to lớn. Sự phát triển ấy đã đưa nền kinh tế thế giới

chuyển sang kinh tế tri thức. Chính sự thay đổi này mà quan niệm về phát
triển như trước đây không còn phù hợp.
Có quan điểm cho rằng, “Phát triển là một quá trình thay đổi. Nó đòi
hỏi sự hoàn thiện trong các lĩnh vực mà các nhân tố này ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống”[57]. Nghĩa là nó đáp ứng nhu cầu của con người ở mức độ
17


cao trong mọi lĩnh vực, cả về đời sống vật chất và đời sống tinh thần, cả phát
triển kinh tế và phát triển xã hội theo hướng văn minh nhân loại.
Theo Đại Từ điển tiếng Việt, phát triển là sự “vận động, tiến triển theo
chiều hướng tăng lên”[59]. Với nghĩa như vậy thì phát triển KTHNN là quá
trình tăng thêm về mọi mặt của KTHNN; trong đó bao gồm sự tăng thêm về
quy mô, số lượng, chất lượng và cơ cấu. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam,
phát triển kinh tế được định nghĩa như sau: “Phát triển kinh tế là quá trình biến
đổi nền kinh tế quốc dân bằng một sự gia tăng sản xuất và nâng cao mức sống
dân cư. Đối với các nước đang phát triển thì phát triển kinh tế là quá trình đưa
nền kinh tế chậm phát triển thoát khỏi lạc hậu, đói nghèo thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự thay đổi cơ cấu kinh
tế, thể chế kinh tế, văn hóa, pháp luật, thậm chí về kỹ năng quản lý, phong cách
và tập tục...”[21].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, phát triển là một quá
trình vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện
đến ngày càng hoàn thiện hơn. Phát triển KTHNN là quá trình biến đổi lâu
dài của kinh tế hộ trong quá trình phát triển KT-XH. Thực chất của sự phát
triển là khả năng thích ứng của KTHNN trong mọi kiểu tổ chức sản xuất xã
hội. Do đó, phát triển KTHNN không chỉ tăng lên về mặt số lượng, cơ cấu
mà điều quan trọng là tăng lên về mặt chất lượng trong quá trình phát sinh,
phát triển của nó. Như vậy, phát triển bao hàm các nội dung chủ yếu như:
phát triển là sự thay đổi cả về lượng và chất; từ trình độ thấp đến trình độ

cao; phát triển phải bảo đảm đồng bộ, không cản trở nhau và phải được tổ
chức, quản lý chặt chẽ.
Từ sự tiếp cận trên, dưới góc độ kinh tế chính trị, tác giả cho rằng:
Phát triển KTHNN là quá trình tác động có ý thức của các chủ thể làm cho
KTHNN vận động, biến đổi cả về mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu phù

18


hợp với các quy luật kinh tế, trên cơ sở khai thác hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp hàng hóa ngày càng lớn hơn.
Quan niệm trên cho thấy, để phát triển KTHNN cần có sự tham gia của
nhiều chủ thể, trong đó Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý giữ vai trò quyết
định. Đây chính là chủ thể đề ra định hướng, hoạch định chính sách phát triển
KTHNN trên phạm vi cả nước hoặc theo vùng. Ngoài ra, đây còn là chủ thể tạo
ra môi trường để KTHNN phát triển: môi trường pháp lý, điều tiết môi trường
kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng... Tuy nhiên, để phát triển hộ nông nghiệp,
không thể không đề cập đến vai trò của chủ thể KTHNN.
1.2. Quan niệm, nội dung và vai trò phát triển kinh tế hộ nông
nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc
1.2.1. Quan niệm phát triển kinh tế hộ nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc
Mặc dù thuật ngữ phát triển đã được sử dụng rất phổ biến ở nhiều lĩnh
vực, nhưng chưa có khái niệm phát triển đầy đủ. Trong lĩnh vực kinh tế “phát
triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao
gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể
chế kinh tế, chất lượng cuộc sống”[28]. Với quan niệm này, để đánh giá sự
phát triển của nền kinh tế, của các vùng, miền, ngành, lĩnh vực, thành phần
kinh tế cần căn cứ vào các tiêu chí:
Thứ nhất, sự tăng trưởng kinh tế.

Đó là sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế, của các vùng,
miền, ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế trong một thời gian tương đối dài
và ổn định.
Thứ hai, sự thay đổi cơ cấu kinh tế.
Sự thay đổi này thể hiện ở tỷ trọng các vùng, miền, ngành, lĩnh vực,
thành phần kinh tế,... thay đổi; trong đó, tỷ trọng vùng nông thôn giảm tương

19


đối so với tỷ trọng vùng thành thị, tỷ trọng ngành dịch vụ, công nghiệp tăng,
nhất là ngành dịch vụ.
Thứ ba, đời sống của đại bộ phận dân cư trong xã hội được chăm lo
nhiều hơn, môi trường sống được đảm bảo tốt hơn. Đây vừa là mục tiêu, vừa
là thành quả của phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp và
KTHNN nói riêng.
Thứ tư, quan điểm, nhận thức của các chủ thể về phát triển kinh tế
ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn.
Vì vậy, hệ thống cơ chế, chính sách phát triển kinh tế không ngừng
được đổi mới đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của thực tiễn.
Phát triển kinh tế là một quá trình tiến hóa theo thời gian và do những
nhân tố nội tại quyết định đến toàn bộ quá trình phát triển đó. Phát triển
KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc là một quá trình tác động có chủ đích, có định
hướng của các chủ thể trong hệ thống chính trị và nhân dân, dưới sự lãnh đạo
của Đảng bộ, sự quản lý của chính quyền các cấp của Tỉnh nhằm huy động
nguồn lực phù hợp với đặc điểm KT-XH của Tỉnh làm chuyển biến các yếu tố
cấu thành KTHNN theo hướng ngày càng hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt
động, đóng góp tích cực vào phát triển KT-XH của Tỉnh.
Từ những khái quát liên quan đến KTHNN và quan niệm KTHNN;
đồng thời trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu về KTHNN và phát triển

KTHNN có thể đưa ra quan niệm: Phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc là
hoạt động của cấp ủy, chính quyền các cấp ở địa phương và chính hộ nông
dân thông qua tổng thể cơ chế, chính sách, biện pháp nhằm hoàn thiện, nâng
cao hiệu quả hoạt động của KTHNN cả về trình độ sản xuất, quy mô tổ chức
và cơ cấu, phù hợp với đặc thù và chiến lược phát triển KT-XH của Tỉnh
trong từng thời kỳ.
Quan niệm trên thể hiện các yếu tố liên quan đến lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp; đồng thời, thể hiện tính đặc thù
20


của KTHNN tỉnh Vĩnh Phúc. Những thành tố trong nội hàm quan niệm phát
triển KTHNN tỉnh Vĩnh Phúc trên đây là những nội dung căn bản có quan hệ
biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình phát triển KTHNN.
Trong đó sự phát triển về trình độ của KTHNN là đòi hỏi khách quan từ nền
sản xuất tự cung, tự cấp sang nền kinh tế thị trường; sự phát triển về quy mô
sản xuất của KTHNN là yêu cầu then chốt, sự biến đổi hợp lý về cơ cấu
KTHNN là điều kiện đảm bảo. KTHNN chỉ có thể phát triển khi nào các
nguồn lực cho sự phát triển này được chuẩn bị một cách đầy đủ, đồng bộ.
Phát triển KTHNN bao gồm phát triển các yếu tố thuộc lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất tương ứng trong nông nghiệp; trước hết, là nguồn nhân lực
nông nghiệp, tư liệu sản xuất nông nghiệp và các hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế trong nông nghiệp.
Chủ thể phát triển KTHNN là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính
trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự quản lý của chính quyền các cấp ở Vĩnh
Phúc, mà trực tiếp là hộ nông dân với vai trò là lực lượng lao động chủ yếu
trong nông nghiệp.
Mục đích của phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc là nâng cao trình độ
phát triển, mở rộng quy mô sản xuất, có cơ cấu KTHNN hợp lý.
1.2.2. Nội dung phát triển kinh tế hộ nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc

Trên cơ sở cách tiếp cận về phát triển KTHNN và đặc điểm KTHNN;
xuất phát từ quan điểm của Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông dân và
nông thôn nói chung, về phát triển kinh tế hộ nói riêng; căn cứ Quy hoạch
tổng thể phát triển KT-XH vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030 (Quyết định 198/QĐ-TTg, ngày 25-01-2014 của
Thủ tướng Chính phủ); Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Vĩnh Phúc
đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ Phê

21


duyệt tại Quyết định 113/QĐ-TTg, ngày 20-01-2012, có thể xác định nội
dung phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc như sau:
Thứ nhất, trình độ phát triển của KTHNN, trong đó ứng dụng thành
tựu KH&CN trong sản xuất nông nghiệp là yếu tố then chốt.
Bản chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xét về mặt trình độ phát
triển lực lượng sản xuất là sự thay đổi trình độ công nghệ của sản xuất theo
hướng hiện đại. Để phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung, phát triển
KTHNN nói riêng, KH&CN giữ vai trò rất quan trọng, quyết định năng suất,
chất lượng, hiệu quả, tính cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ nông nghiệp. Vì
vậy, trình độ của KH&CN phục vụ nông nghiệp được đánh giá trên một số
yếu tố như: trình độ cơ giới hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, sinh học hóa.
Thành tựu KH&CN, sự bùng nổ thông tin, tạo điều kiện cho các chủ thể
KTHNN nắm bắt thông tin, tìm hiểu thị trường và đối tác. Từ đó giúp các chủ
thể này định hướng sản xuất, thay đổi cơ cấu sản xuất, kinh doanh phù hợp
với xu thế hợp tác đan xen, khai thác thế mạnh của nhau, cùng nhau phân chia
lợi ích từ phát triển KTHNN.
Nội dung phát triển này còn được hiểu là sự phát triển về mặt chất
lượng của KTHNN. Về mặt lý luận, chúng ta đều đã rõ rằng, trình độ sản xuất
của một chế độ xã hội là các yếu tố phản ánh sự phát triển tiến bộ của chế độ

xã hội đó. Thực tiễn cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, những ai có nguồn
tài nguyên, lao động, vốn và kỹ năng quản lý cao hơn sẽ nhận thu nhập cao
hơn. Vì vậy, phát triển KTHNN về trình độ sản xuấthay phát triển KTHNN về
chất lượng là sự phản ánh trình độ sản xuấtcủa KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc như
thế nào. Nghĩa là đã trả lờirõ câu hỏi KTHNN tiến hành sản xuất như thế nào?
Đó là một trongba vấn đề cơ bản của kinh tế học. Đồng thời, KTHNN đã tìm
ra phương pháp, công nghệ sản xuất thích hợp, tìm ra được sự kết hợp hợp lý
và hiệu quả giữa các nguồn lực đầu vào để sản xuất hàng hóa và dịch vụ nông
nghiệp mà mình đã lựa chọn. Đồng thời, giải quyết vấn đề Sản xuất nông
22


nghiệp như thế nào là tìm câu trả lời cho những câu hỏi: hàng hóa đó nên sản
xuất ở đâu? sản xuất bao nhiêu? khi nào sản xuất và cung cấp? tổ chức và
quản lý các khâu từ lựa chọn đầu vào đến tiêu thụ sản phẩm ra sao?
Phát triển KTHNNvề trình độ sản xuất có thể hiểu một cách khái quát
là: Sản phẩm và dịch vụ nông nghiệp của KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc được sản
xuất bằng cách nào? Vấn đề này liên quan đến việc xác định những nguồn
lực nào được sử dụng và phương pháp để sản xuất ra những sản phẩm và dịch
vụ nông nghiệp đó ở tỉnh Vĩnh Phúc. Để đánh giá trình độ sản xuất của
KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc, có thể sử dụng một số chỉ số: trình độ lao động
của KTHNN; khả năng áp dụng KH&CN của KTHNN; hiệu quả sản xuất,
kinh doanh của KTHNN (doanh thu, lợi nhuận…); đóng góp vào GRDP...
Tuy nhiên, việc lựa chọn phương pháp sản xuất nào còn phải xem xét trên
khía cạnh hiệu quả KT-XH, nguồn lực và trình độ phát triển KH&CN của
Tỉnh và đất nước trong từng thời kỳ.
Thứ hai, phát triển KTHNN về quy mô tổ chức sản xuất
Nội dung phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc về quy mô tổ chức sản
xuất được hiểu là sự gia tăng về số lượng KTHNN có quy mô tổ chức sản
xuất lớn hơn. Nghĩa là sự phát triển KTHNN về quy mô tổ chức sản xuất

không phải là sự gia tăng đơn thuần về số lượng, mà đó còn là sự mở rộng
quy mô về mô hình tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất,sử dụng vốn tài chính và
lao động... Sở dĩ đặt vấn đề như vậy khi nghiên cứu về phát triển KTHNN ở
tỉnh Vĩnh Phúc là bởi, xét về số lượng thuần túy, thì gần đây tuy KTHNN ở
tỉnh Vĩnh Phúc tăng lên về số lượng, nhưng quy mô tổ chức sản xuất còn nhỏ,
mô hình tổ chức quản lý còn mang tính chất sơ khai, tự phát. Vì vậy, trong
thực tế năng lực cạnh tranh hiện nay của KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc thấp,
không đáp ứng yêu cầu phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang ngày càng hoàn thiện hơn; đặc biệt
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu tái cơ cấu nông nghiệp
23


Tỉnh. Mặt khác, khi Luật hợp tác xã năm 2012 đang phát huy hiệu quả ở tỉnh
Vĩnh Phúc, cùng với số lượng hợp tác xã mới ra đời ngày càng nhiều thì
KTHNN sẽ ngày càng giảm về mặt số lượng.Đặc biệt, với mục tiêu đến năm
2020 đưa tốc độ tăng trưởng GRDP ngành nông nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc “đạt
bình quân 4,5 - 5%/năm, trong đó, chăn nuôi chiếm 56% tổng giá trị ngành
nông nghiệp, đưa chăn nuôi bò sữa, lợn, trồng rau trở thành ngành hàng chủ
lực; giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống 30%”[29] thì KTHNN sẽ giảm về
số lượng và tăng về quy mô phát triển.
Để đánh giá sự phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc về quy mô tổ
chức sản xuất, có thể sử dụng các chỉ số như: mô hình tổ chức sản xuất; sự
gia tăng về số lượng lao động; sự gia tăng về quy mô sử dụng vốn.
Thứ ba, sự phát triển về cơ cấu KTHNN
Phát triển về cơ cấu KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc được xem xét trong
mối quan hệ hữu cơ với cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chiến lược phát triển
phát triển KT-XH của Tỉnh. Đó là sự tiến bộ, phù hợp giữa cơ cấu KTHNN
với cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chất lượng phát triển KT-XH của tỉnh
Vĩnh Phúc. Sự tiến bộ, phù hợp này là điều kiện tiên quyết để KTHNN

phát triển; đồng thời là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển KTXH ở tỉnh Vĩnh Phúc. Phát triển KTHNN ở tỉnh Vĩnh Phúc không thể
không kể đến sự mở rộng, tham gia ngày càng nhiều của KTHNN vào các
lĩnh vực nông nghiệp, các ngành nghề sản xuất vàdịch vụ nông nghiệp cũng
như sự phânbố KTHNN theo địa bàn. Thực tế phát triển KTHNN ở tỉnh
Vĩnh Phúc cho thấy, mặc dù KTHNN ngày càng giảm về số lượng, nhưng
cơ cấu KTHNN đang dần chuyển dịch theo hướng đa dạng hóa ngành nghề
sản xuất, kinh doanh trên cơ sở phát huy, khai thác những lợi thế của từng
lĩnh vực nông nghiệp, từng địa phương của tỉnh Vĩnh Phúc.

24


Cơ cấu KTHNN hợp lý, phù hợp là cơ cấu có khả năng tạo ra quá trình
tái sản xuất mở rộng, đáp ứng yêu cầu: phù hợp quy luật khách quan; phản
ánh khả năng khai thác sử dụng các nguồn lực, đáp ứng yêu cầu hội nhập
nhằm tạo ra sự cân đối, phát triển bền vững; phù hợp với chiến lược phát triển
KT-XH của Tỉnh và xu thế kinh tế, chính trị trong nước và thế giới. Chuyển
dịch cơ cấu KTHNN được coi là tiến bộ, hiện đại khi tỷ trọng giá trị giữa các
lĩnh vực mà KTHNN tham gia (cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp; cơ cấu giữa
chăn nuôi và trồng trọt; tỷ trọng giá trị nông sản xuất khẩu trong cơ cấu giá trị
xuất khẩu....) phát triển hài hòa, hợp lý, góp phần bảo đảm phát triển bền
vững. Chuyển dịch cơ cấu KTHNN theo hướng tiến bộ phải chuyển nông
nghiệp từ sản xuất độc canh sang sản xuất tập trung quy mô lớn, tạo sự phát
triển bền vững của KTHNN. Để đánh giá sự phát triển về cơ cấu KTHNN ở
tỉnh Vĩnh Phúc,có thể sử dụng các chỉ số như: cơ cấu KTHNN theo lĩnh vực,
ngành nghề sản xuất, kinh doanh nông nghiệp; cơ cấu KTHNN theo quy mô
lao động; cơ cấu KTHNN theo địa bàn sản xuất, kinh doanh, v.v.
1.2.3. Vai trò phát triển kinh tế hộ nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc
Phát triển KTHNN là nội dung quan trọng trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc, góp phần đẩy

nhanh tiến trình tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Với tỉnh Vĩnh Phúc phát triển KTHNN có các vai trò chủ
yếu sau:
Thứ nhất, phát triển KTHNN ở Vĩnh Phúc góp phần quan trọng đối với
phát triển KT-XH của Tỉnh . Nông nghiệp Việt Nam nói chung, nông nghiệp
Vĩnh Phúc nói riêng, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển KTXH cũng như nâng cao đời sống nhân dân; đặc biệt đối với nông dân. Mà
“Muốn nâng cao đời sống của nhân dân thì trước hết phải giải quyết tốt vấn
đề ăn (rồi đến vấn đề mặc và các vấn đề khác). Muốn giải quyết tốt vấn đề ăn
thì phải làm thế nào cho có đầy đủ lương thực. Mà lương thực là do nông
nghiệp sản xuất ra. Vì vậy, phát triển nông nghiệp là việc cực kỳ quan
trọng”[6; tr.375]. Nói rộng hơn, để “phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc
25


×