Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ý THỨC CHÍNH TRỊ của CÔNG NHÂN các KHU CÔNG NGHIỆP ở TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.85 KB, 99 trang )

1

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi đánh giá về vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong hệ
thống sản xuất, V.I.Lênin đã khẳng định: trong thời đại ngày nay, lực lượng sản xuất hàng
đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động. Ở Việt Nam, GCCN là giai cấp
lãnh đạo cách mạng, là lực lượng chủ đạo và tiên phong trong suốt tiến trình phát triển của
cách mạng Việt Nam.
Là lực lượng trung tâm của tiến trình CNH, HĐH đất nước, GCCN Việt Nam đang
nắm giữ những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất, quyết định phương
hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế. Mặc dù, về số lượng, GCCN Việt Nam chiếm tỷ lệ
không lớn trong tổng số dân cư, nhưng lại là lực lượng lao động đóng góp nhiều nhất vào
ngân sách Nhà nước.
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Đảng ta đã nhận
định: “Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công
của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [15, tr.47]. Theo đó, để
GCCN xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam, thì yêu cầu bồi dưỡng, “nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp và bản
lĩnh chính trị... cho công nhân" là một trong những đòi hỏi khách quan và cấp bách của
Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của mỗi công nhân và của toàn xã hội trong
điều kiện hiện nay.
Là một tỉnh có vị trí địa lý chính trị quan trọng, điều kiện tự nhiên nhiều ưu đãi,
Đồng Nai trở một vùng kinh tế trọng điểm, năng động của đất nước. Trong những năm gần
đây, cùng với cả nước, Đồng Nai đang không ngừng phát huy nội lực, tập trung đầu tư phát
triển sản xuất công nghiệp, đồng thời có những chính sách ưu đãi, khuyến khích hợp lý nên đã
thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư vào, góp phần tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
khiến cho “vóc dáng” của một tỉnh công nghiệp trọng điểm của khu vực phía Nam hình thành


rõ nét.
Hiện nay, tại các KCN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, đội ngũ công nhân đã phát
triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, đóng góp rất lớn vào sự phát triển bền vững
và giữ vững ổn định chính trị - xã hội của tỉnh nói riêng, đất nước nói chung. Tuy nhiên,


2

2

ở các KCN trên địa bàn tỉnh, một bộ phận không nhỏ công nhân, trong đó phần lớn là lao
động trẻ, về điều kiện sinh hoạt vật chất, tinh thần còn rất thiếu thốn; trình độ học vấn,
chuyên môn nghề nghiệp còn thấp; ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, YTCT,
hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế. Không ít công nhân chưa nhận thức đầy đủ, đúng
đắn về vị trí, vai trò của GCCN; chưa ý thức được SMLS của GCCN trong thời kỳ cách
mạng mới.
Bên cạnh đó, trước sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, một bộ phận công
nhân, nhất là công nhân trẻ, sống thiếu lý tưởng, niềm tin, sa vào các tệ nạn xã hội, dẫn đến
tha hóa về phẩm chất lối sống, phai nhạt phẩm chất của GCCN, giảm lòng tin và sự gắn bó
với Đảng và Công đoàn… Đây thực sự là thách thức, tác động không nhỏ đối với sự nghiệp
xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Đồng Nai vững mạnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH,
HĐH của tỉnh.
Với lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Ý thức chính trị của công nhân khu công nghiệp
tỉnh Đồng Nai hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Nghiên cứu về GCCN và xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước, có các công trình tiêu biểu:
GS.TS. Dương Xuân Ngọc (2008), Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong tác phẩm,
tác giả đề cập đến GCCN và những nhân tố tác động đến quá trình biến đổi GCCN Việt

Nam; thực trạng và xu hướng biến đổi của GCCN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước;
quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng GCCN Việt Nam trở
thành lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Trong cuốn sách của TS Nguyễn An Ninh (2008), Về xu hướng công nhân hóa ở nước
ta hiện nay, (Sách phục vụ nghiên cứu, triển khai Nghị quyết Trung ương 6 khóa X), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, nhiều vấn đề liên quan tới quá trình phát triển của GCCN đã được đề cập,
trong đó có việc hoàn thiện cơ cấu GCCN đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước.
Cuốn sách do TS Đặng Ngọc Tùng (chủ biên), (2010), Xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Nxb Lao động, Hà Nội cũng đã góp phần làm rõ quan điểm,
đường lối của Đảng trong vấn đề xây dựng GCCN; đưa ra hệ thống giải pháp cho việc xây dựng


3

3

GCCN trong thập niên tới; cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, xác định
nội dung xây dựng GCCN Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 của Đảng và Nhà nước ta.
Ths Phạm Văn Giang (2012), “Xu hướng vận động của giai cấp công nhân Việt
Nam trong quá trình đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội dung của cuốn sách
góp phần nghiên cứu, tìm hiểu xu hướng vận động của GCCN Việt Nam trong quá trình
đổi mới; những vần đề mới xuất hiện trong GCCN Việt Nam dưới tác động của điều kiện
mới – toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế như: sự đa dạng về thành phần xuất thân, thành
phần kinh tế và ngành nghề hoạt động; hiện tượng phân tầng, phân hóa trong nội bộ
GCCN…
Đề tài cấp nhà nước "Xây dựng GCCN Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020" do TS
Đặng Ngọc Tùng - Chủ tịch Tổng LĐLĐVN làm chủ nhiệm - đã góp phần thay đổi
nhận thức và thái độ, hành vi của các DN, các cấp lãnh đạo trong việc xây dựng
GCCN. Điều này thật sự cần thiết trong giai đoạn mới, khi mà những đòi hỏi khách

quan, cấp bách phải xây dựng GCCN lớn mạnh ngày càng rõ.
* Nghiên cứu về xây dựng, nâng cao YTCT của GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước có các công trình:
Phan Thanh Khôi (2003): Ý thức chính trị của công nhân trong một số doanh
nghiệp ở Hà Nội hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trên cơ sở luận giải YTCT của
GCCN và thực trạng YTCT của công nhân các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài ở Hà Nội, tập thể tác giả đưa ra những dự báo xu hướng biến động
về YTCT của công nhân trong hai loại doanh nghiệp trên ở Hà Nội và đưa ra 6 giải pháp
nhằm nâng cao YTCT của công nhân, trong đó có đề cập đến nội dung đổi mới công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng cho công nhân của các cấp uỷ đảng, tổ chức công đoàn trên địa
bàn và doanh nghiệp, đồng thời nhấn mạnh cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, giúp công nhân nhận thức rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mình, nâng cao ý thức chấp
hành kỷ luật lao động, ý thức chấp hành pháp luật của nhà nước và những nội quy làm việc
tại doanh nghiệp.
Trong luận văn thạc sĩ Triết học chuyên ngành CNXH khoa học, Học viện Chính
trị của tác giả Nguyễn Ngọc Liệu (2004): “Phát huy vai trò tổ chức Công đoàn trong
nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của công nhân ở các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay”; tác giả đã tập trung làm rõ
thực trạng hoạt động của tổ chức Công đoàn đối với nhiệm vụ nâng cao YTCT XHCN


4

4

của GCCN trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại tỉnh Đồng Nai và bước
đầu đề ra những giải pháp nhằm phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc giáo
dục nâng cao YTCT XHCN cho công nhân đang lao động tại các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Dương Thị Thanh Xuân (2005), Giải pháp nâng cao ý thức chính trị cho công nhân

trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạp chí Xây dựng Đảng, (số 10).
Cù Thị Hậu, Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là giai cấp tiên
phong, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Đảng
Cộng sản Việt Nam (2006), tham luận tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội).
Những công trình nêu trên đã đề cập đến GCCN ở nhiều nội dung với các góc độ
khác nhau, và có những đóng góp quan trọng trong xây dựng GCCN như: trình bày thực
trạng GCCN Việt Nam trong điều kiện CNH, HĐH đất nước; đã đưa ra một số biểu hiện mới
của GCCN Việt Nam trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ, toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về GCCN thể hiện qua Văn
kiện của các Đại hội, các biến đổi của GCCN Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; đã đưa ra
được những giải pháp căn bản nhằm xây dựng GCCN Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.… Trong đó, vấn đề YTCT của GCCN nước ta đã được
đề cập ở một số khía cạnh. Tuy nhiên, chưa có một công trình chuyên biệt nào đi sâu tìm
hiểu, nghiên cứu về YTCT của công nhân KCN tỉnh Đồng Nai hiện nay. Do vậy, đề tài mà
tác giả lựa chọn là một đề tài độc lập, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu có liên
quan.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về YTCT của công nhân KCN tỉnh
Đồng Nai, trên cơ sở đó, luận văn đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao YTCT của
công nhân KCN tỉnh Đồng Nai hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ quan niệm và vai trò YTCT của GCCN Việt Nam hiện nay.
Phân tích thực trạng YTCT của công nhân KCN tỉnh Đồng Nai hiện nay và nguyên
nhân của thực trạng đó.
Đề xuất một số giải pháp nâng cao YTCT của công nhân khu KCN tỉnh Đồng Nai


5


5

hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
YTCT của công nhân KCN tỉnh Đồng Nai.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng và giải pháp nâng cao YTCT của công nhân KCN tỉnh
Đồng Nai hiện nay, tuy nhiên có tập trung vào những KCN điển hình như: KCN AMATA;
KCN Biên hòa 1, 2; KCN Tam Phước... Các số liệu khảo sát từ năm 2008 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tác giả sử dụng
tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học, cụ thể như: lô gíc - lịch sử, phân tích tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học… để thực hiện các nhiệm vụ của đề tài đặt
ra.

6. Ý nghĩa của luận văn
Với việc làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải
pháp nâng cao YTCT của công nhân KCN tỉnh Đồng Nai hiện nay, luận văn góp
phần vào việc đưa ra những cơ sở khoa học để các cấp lãnh đạo, quản lý ở tỉnh
Đồng Nai tham khảo, vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo và đưa ra những quyết
sách nhằm xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Đồng Nai vững mạnh, đáp ứng đòi
hỏi của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy một số
chủ đề của các bộ môn có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, 3 chương, (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.



6

6

Chương 1
QUAN NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA Ý THỨC CHÍNH TRỊ
ĐỐI VỚI GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Quan niệm về ý thức chính trị và ý thức chính trị của giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay
1.1.1. Ý thức chính trị
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, toàn bộ đời sống chia thành hai lĩnh
vực lớn: vật chất và tinh thần; tồn tại xã hội và YTXH. YTXH là sự phản ánh của tồn tại xã
hội, nó bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, thói quen, quan điểm, tư tưởng, lý
luận… Tồn tại xã hội quyết định YTXH, YTXH là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ
thuộc vào tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội như thế nào, YTXH như thế ấy. Khi tồn tại xã hội
biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết
học, đạo đức, văn học, nghệ thuất… sớm muộn cũng biến đổi theo. Tuy nhiên, YTXH cũng
có tính độc lập tương đối, nó có những tư tưởng tiến bộ, vượt trước so với tồn tại xã hội và
có tác động trở lại tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thái cụ thể như: chính trị, pháp quyền,
đạo đức, triết học, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo… Mỗi hình thái YTXH phản ánh một đối
tượng nhất định, một phạm vi nhất định của tồn tại xã hội, nhưng giữa chúng có mối liên
hệ với nhau. Ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà thường có những
hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu, chúng biểu hiện tập trung ý thức của thời đại đó
và có tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác. Tuy nhiên trong tổng thể của YTXH thì
YTCT có tầm quan trọng đặc biệt, nó quyết định đến xu hướng và bản chất của các hình
thái YTXH khác.
Vậy, YTCT là gì? Để hiểu YTCT, cần bắt đầu từ việc nghiên cứu khái niệm chính
trị và ý thức.

Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não con người, là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan. Ý thức là ý thức của con người, nó là một hiện tượng lịch
sử, phản ánh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động, cải tạo thế giới.
Trong khi đó, con người là một thực thể năng động sáng tạo, cho nên, ý thức không phải là
sự phản ánh giản đơn thụ động hiện thực mà là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não


7

7

con người một cách năng động sáng tạo. Ý thức cũng không phải là một hiện tượng tự
nhiên thuần túy mà là một hiện tượng xã hội, nó nảy sinh, tồn tại và phát triển gắn liền với
quá trình phát triển của lịch sử - xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong từng giai đoạn của
lịch sử xã hội.
Về kết cấu, ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất phức tạp bao gồm
nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau, bao gồm các yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm
tin, ý chí… trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
Chính trị là lĩnh vực phức tạp trong đời sống tinh thần của xã hội, xuất hiện khi xã
hội có sự phân chia giai cấp và sự đối kháng giai cấp. Do vậy, chính trị cũng là những quan
hệ và hoạt động xã hội mang tính quy luật khách quan của xã hội có giai cấp. Ngay từ thời
cổ đại và cho đến tận sau này, đã có rất nhiều nhà tư tưởng lớn giành thời gian, công sức
nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ bản chất của chính trị. Tuy nhiên, chỉ đến chủ nghĩa Mác –
Lênin, thì bản chất của chính trị mới được nêu lên một cách đầy đủ và đúng đắn.
Chính trị, theo nguyên nghĩa của nó, là những công việc Nhà nước hay công việc
xã hội liên quan với Nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân
tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng
quyền lực Nhà nước. Nói cách khác, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp và
các nhóm xã hội khác nhau trong việc giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà nước.

Khi bàn về vấn đề chính trị, V.I.Lênin cho rằng, chính trị là mối quan hệ giữa các
giai cấp, các đảng phái, các dân tộc về mặt Nhà nước; “chính trị là sự tham gia vào những
công việc của Nhà nước, là việc vạch hướng đi cho Nhà nước, việc xác định những hình
thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Nhà nước” [28, tr.404]. Như vậy, cái quan trọng
nhất trong chính trị, theo V.I.Lênin là “tổ chức quyền lực Nhà nước”, là mối quan hệ giữa
các giai cấp và các cộng đồng xã hội về vấn đề Nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào
công việc Nhà nước; là tổng hợp những phương hướng, những mục tiêu được quy định bởi
lợi ích cơ bản của giai cấp, của đảng phái; là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng
phái, các Nhà nước để thực hiện đường lối đã lựa chọn nhằm đạt được những mục tiêu đã
đề ra. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo
lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác” [33, tr.628]. Quyền lực chính
trị nói lên thực chất hoạt động của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành Nhà nước.
Chính trị là một lĩnh vực bao trùm, thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, đặc biệt trong kinh tế, tư tưởng, khoa học, nghệ thuật. Trong xã hội còn giai cấp, chính


8

8

trị lôi cuốn tất cả các thành viên trong xã hội vào các hoạt động của xã hội và về thực chất thì
không ai có thể “đứng ngoài chính trị”. V.I.Lênin có lưu ý: “một người không biết chữ là
người đứng ngoài chính trị” [28, tr.106] thì đó chỉ là lưu ý đến trình độ “dân trí”, nếu thấp
kém sẽ dẫn đến dễ ngộ nhận, hoạt động chính trị phiêu lưu, mạo hiểm, mù quáng.
Con người tham gia vào hoạt động chính trị để đạt được những giá trị nhất định
trong xã hội có giai cấp. Nhân tố thúc đẩy con người đi đến hành động chính trị là động lực
chính trị. Động lực chính trị hình thành trên cơ sở nhu cầu, lợi ích chính trị. Sự mong
muốn đạt được lợi ích chính trị - đó là động cơ thúc đẩy các hoạt động chính trị của con
người, của giai cấp, dân tộc, quốc gia. Động lực chính trị bao gồm hai yếu tố: Nhu cầu –
lợi ích và giác ngộ lợi ích của mỗi người, mỗi giai cấp, mỗi tổ chức chính trị. Mỗi hành

động tự giác của con người đều hàm chứa trong đó những lợi ích nhất định. Khi đã đạt
được lợi ích thì nó lại trở thành động lực thúc đẩy mỗi chủ thể hoạt động một cách nhiệt
tình, sáng tạo hơn. Do đó, việc nhận thức đúng về các nhu cầu – lợi ích chính trị là rất quan
trọng để nó trở thành động lực thúc đẩy các hoạt động chính trị một cách tự giác.
Thực chất của chính trị là mối quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, các
nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc mà trong đó, trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế. “Chính
trị là biểu hiện tập trung của kinh tế” [29, tr.349]. Chính trị của một giai cấp do địa vị kinh tế
của nó chi phối, quyết định. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị đời sống xã hội về mặt kinh
tế sẽ trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị. Ngược lại, sự thống trị về kinh tế của một
giai cấp nhất định chỉ được đảm bảo đầy đủ bằng quyền lực chính trị, quyền lực của Nhà
nước. Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện và bảo đảm lợi ích của giai cấp thống trị xã
hội. Do đó, “Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế” [29, tr.349].
Chính trị là một hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp. C.Mác –
Ph.Ăngghen viết: “… tất cả các cuộc đấu tranh chính trị đều là đấu tranh giai cấp và tất cả
các cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, dù hình thức chính trị tất yếu của chúng là thế nào đi
nữa… xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải quyết về kinh tế” [34, tr441].
Như vậy, cả C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều khẳng định sự hình thành, tồn tại và
phát triển của chính trị là trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế, của sự
liên quan đến những lợi ích kinh tế cơ bản của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội, thông qua hoạt động chính trị với những tổ chức của mình để giải
quyết những vấn đề kinh tế, tạo điều kiện, môi trường và bảo hộ cho hoạt động kinh tế.
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin về ý thức và
chính trị như vậy, có thể rút ra những vấn đề bản chất của YTCT như sau:


9

9

Trước hết, YTCT là những hiểu biết, những nhận thức của một giai cấp nhất định

về địa vị lịch sử, về đường lối chiến lược, sách lược và những nhiệm vụ của giai cấp mình
trong sự phát triển của lịch sử. Bên cạnh đó, YTCT còn thể hiện ở quan điểm giải quyết
mối quan hệ giữa các lợi ích chính trị mà các giai cấp, tầng lớp xã hội đó đang theo đuổi; ở
sự liên minh giai cấp, đấu tranh và hợp tác giữa các giai cấp, tầng lớp vì những yêu cầu
nhất định.
Chính trị là sự tham gia vào các công việc của Nhà nước, vì thế, YTCT còn là sự
nhận thức về Nhà nước, về mục tiêu, nhiệm vụ cũng như con đường, lực lượng xã hội để
thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của Nhà nước và sự tham gia của chủ thể vào hoạt động của
Nhà nước đó.
Trong xã hội có giai cấp, có áp bức bóc lột thì tất yếu có đấu tranh giai cấp. Khi đấu
tranh giai cấp phát triển đến trình độ đấu tranh chính trị thì các đảng phái ra đời, trong đó
có đảng cầm quyền, đảng đối lập và không đối lập đại biểu cho lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội. Đảng chính trị cầm quyền bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đến
sự phát triển của mỗi nước, chi phối hoạt động của Nhà nước. Do đó, đồng thời với việc
nhìn nhận Nhà nước, YTCT còn là thái độ đối với hoạt động của các đảng phái.
Trung tâm của đời sống chính trị là quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị nói lên
thực chất hoạt động chính trị của mọi giai cấp, mọi đảng phái trong xã hội có giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp, ngoài quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền còn có quyền
lực chính trị của các giai cấp, tầng lớp khác. Vì vậy, YTCT còn thể hiện ở sự nhận thức về
quyền lực chính trị, cơ chế thực hiện quyền lực chính trị. Cụ thể, đối với giai cấp cầm
quyền, phải nhận thức được những nội dung sau:
- Cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược… thể hiện mục tiêu chính trị của
giai cấp cầm quyền.
- Hệ thống hiến pháp, pháp luật… thể hiện mục tiêu chính trị của giai cấp cầm
quyền thành những văn bản mang tính pháp quy.
- Hệ thống tổ chức thực hiện làm cho những quy định pháp lý đi vào cuộc sống và
đạt được những mục tiêu mà giai cấp cầm quyền đã xác định.
- Hệ thống kiểm tra giám sát việc thực hiện hiến pháp, pháp luật nhằm nâng cao
hiệu quả hiện thực hóa mục tiêu chính trị mà giai cấp cầm quyền đã xác định.
Các nội dung trên được thể hiện và thực hiện thông qua một cơ chế thực hiện tương

ứng là: đảng cầm quyền, Quốc hội hay Nghị viện (cơ quan lập pháp), Chính phủ (cơ quan


10

10

hành pháp), tòa án, viện kiểm sát… (cơ quan tư pháp) và các tổ chức chính trị xã hội khác.
Do đó, YTCT còn là sự hiểu biết về vai trò, nhiệm vụ của các tổ chức trên.
Chính trị là lĩnh vực hoạt động rộng lớn, bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, lôi cuốn mọi thành viên trong xã hội tham gia. Mọi người tham gia vào hoạt động
chính trị để đạt được lợi ích chính trị nhằm thỏa mãn nhu cầu chính trị. Do đó, YTCT còn
thể hiện ở sự nhận thức được nhu cầu, lợi ích chính trị. Đối với mỗi công dân nói chung
thì nhu cầu và lợi ích chính trị thể hiện ở sự nhận thức được quyền và nghĩa vụ công dân.
YTCT gắn trực tiếp và bị quyết định bởi vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, chính trị và
YTCT không phải là hậu quả tiêu cực của kinh tế mà có tác động trở lại đối với kinh tế.
Nếu như không có một đường lối chính trị đúng đắn thì một giai cấp nhất định nào đó
không thể giữ vững được sự thống trị chính trị của mình và do đó, cũng không thể hoàn
thành được nhiệm vụ kinh tế.
Từ việc khái quát những dấu hiệu bản chất trong nội hàm của YTCT nêu trên, có thể
quan niệm về YTCT như sau: Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội, tổng hòa các
quan điểm, tư tưởng, lý luận và thái độ, ý chí, niềm tin của cộng đồng xã hội hoặc của các
cá nhân về giành, giữ quyền lực nhà nước, về tham gia vào công việc của Nhà nước và giải
quyết các quan hệ quyền lực giữa các lực lượng xã hội trong một điều kiện lịch sử nhất định.
Việc phân loại YTCT có thể dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào cấp độ
phản ánh, YTCT gồm hai cấp độ chính: cấp độ thấp và cấp độ cao.
Cấp độ thấp của YTCT là tâm lý chính trị, hay còn gọi là YTCT thông thường được
biểu hiện ở những cảm xúc, tình cảm chính trị, kinh nghiệm của con người về quyền lợi, địa
vị của giai cấp, về lợi ích kinh tế cơ bản của giai cấp. Đây là nấc thang đầu tiên của ý thức
con người về những vấn đề chính trị. Tâm lí chính trị phản ánh trực tiếp cuộc sống sinh hoạt

thường ngày của xã hội, được hình thành một cách tự phát trong xã hội có sự phân chia giai
cấp nên thường chưa có hệ thống, thiếu tính bền vững và không ổn định. Mặc dù là tự phát
nhưng tâm lí chính trị vẫn mang tính giai cấp và bị chi phối bởi địa vị chính trị cơ bản của
giai cấp mà nó phản ánh. Tâm lí chính trị cũng có vai trò nhất định trong đời sống xã hội và
là điều kiện để con người trong các giai cấp tiếp thu tốt hơn hệ tư tưởng chính trị. Tâm lí
chính trị là cầu nối để hệ tư tưởng chính trị thâm nhập và phát huy vai trò quyết định trong
đới sống xã hội.
Cấp độ cao của YTCT là hệ tư tưởng chính trị. Hệ tư tưởng chính trị là hệ thống
những quan điểm, tư tưởng chính trị của một giai cấp nhất định, phản ánh trực tiếp, tập


11

11

trung lợi ích của giai cấp ấy, được diễn tả một cách lôgíc và hệ thống dưới dạng các học
thuyết chính trị.
Hệ tư tưởng chính trị được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của các
chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như trong luật pháp, chính sách nhà nước –
công cụ của giai cấp thống trị. Khác với tâm lí chính trị, hệ tư tưởng chính trị không hình
thành tự phát mà được hình thành một cách tự giác trải qua quá trình đấu tranh giai cấp,
cách mạng xã hội, do nhu cầu cải tạo xã hội. Nó được các nhà lý luận, các nhà tư tưởng
tiên tiến, các lãnh tụ của giai cấp xây dựng và truyền bá trong quần chúng nhân dân thông
qua các phong trào cách mạng. Hệ tư tưởng chính trị gắn với các tổ chức chính trị. Thông
qua các tổ chức chính trị mà một giai cấp nào đó tiến hành cuộc đấu tranh về ý thức hệ vì
lợi ích của giai cấp mình.
Ý thức chính trị thông thường và YTCT lý luận tuy là hai mức độ phát triển khác
nhau nhưng chúng đều là sự phản ánh hiện thực đời sống chính trị nên chúng có mối quan hệ
biện chứng với nhau. YTCT thông thường biểu hiện dưới dạng tâm lí, tình cảm giai cấp, là
cơ sở cho việc tiếp thu hệ tư tưởng của giai cấp và cũng là kho tàng để YTCT lý luận khai

thác, khái quát thành nội dung của mình, giúp cho hệ tư tưởng xã hội, cho lý luận bớt xơ
cứng, sai lầm. Theo V.I.Lênin, “Thiếu cảm xúc, con người không thể và không bao giờ tìm
kiếm được chân lí” [26, tr.112]. Ngược lại, hệ tư tưởng của giai cấp lại củng cố, định hướng
cho sự phát triển tâm lí, tình cảm giai cấp. Nếu hệ tư tưởng chính trị đó là khoa học, nó sẽ
thúc đẩy tâm lí xã hội phát triển theo hướng lành mạnh, đúng đắn, có lợi cho tiến bộ xã hội.
Nếu hệ tư tưởng chính trị đó là phản khoa học, nó sẽ kích thích những yếu tố tiêu cực của
tâm lí xã hội phát triển. Vì mối quan hệ đó mà trong thực tiễn hoạt động giáo dục YTCT cho
mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng cần khuyến khích, nuôi dưỡng, giáo dục cả YTCT thông
thường và cả ý thức chính trị lý luận.
Căn cứ vào chủ thể mang YTCT thì ý thức chính trị gồm: YTCT cộng đồng (giai
cấp, tầng lớp, nhóm xã hội…) và YTCT cá nhân.
Ý thức chính trị cộng đồng là YTCT nảy sinh từ nhu cầu, lợi ích chính trị của cả
cộng đồng xã hội hoặc của nhóm xã hội, một giai cấp, một tầng lớp nào đó trong cộng
đồng. Đó là chuẩn mực giá trị chung về nhu cầu, lợi ích chính trị được cả cộng đồng chấp
nhận và nó là động lực thúc đẩy các hoạt động chính trị tự giác của cả cộng đồng.
Ý thức chính trị cá nhân là nhận thức, thái độ, ý chí và niềm tin của từng cá nhân về
những vấn đề hiện thực của đời sống chính trị. Vì vậy, YTCT cá nhân rất đa dạng, phong


12

12

phú và mang đậm màu sắc chủ quan. Một vấn đề của hiện thực đời sống chính trị có thể
nhìn nhận dưới những lăng kính khác nhau, có thái độ khác nhau và từ đó có thể có những
hành động khác nhau. Cho nên, trong thực tiễn giáo dục YTCT cho mỗi cá nhân, cần
khuyến khích tính tích cực, sáng tạo, đồng thời phải có sự định hướng để tránh những nhận
thức không đúng dẫn đến những hậu quả tiêu cực.
Ý thức chính trị cộng đồng và YTCT cá nhân có mối quan hệ tác động qua lại với
nhau. YTCT cộng đồng cũng là YTCT của một xã hội, một nhóm người, một tập đoàn

người. Vì vậy, nó chỉ tồn tại, phát triển, thể hiện thông qua YTCT của mỗi cá nhân. Tất
nhiên, YTCT cộng đồng không phải là phép cộng giản đơn của các YTCT cá nhân mà nó là
chất mới được được đúc kết từ những tinh hoa của các YTCT cá nhân, nó được cả cộng
đồng chấp nhận. Ngược lại, mỗi cá nhân là một cá nhân xã hội, là thành viên của một xã
hội cụ thể, của một giai cấp cụ thể; được hình thành, phát triển trong quan hệ xã hội cụ thể
nên YTCT của cá nhân đều mang nội dung, dấu ấn nào đó; đều là sự biểu hiện ở mức độ
này hay mức độ khác YTCT cộng đồng và đều bị chi phối, bị định hướng bởi YTCT cộng
đồng. Trong thực tế có thể biết được YTCT của cộng đồng nào đó thông qua việc tìm hiểu
YTCT của các thành viên trong cộng đồng đó và ngược lại.
Việc phân loại YTCT theo chủ thể đã chỉ rõ: nhóm xã hội nào, giai cấp nào, tầng
lớp nào trong xã hội cũng có YTCT. Trong xã hội có nhiều nhóm xã hội, nhiều tầng lớp,
nhiều giai cấp. Mỗi giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội lại có nhận thức, thái độ về đời sống
chính trị khác nhau do điều kiện sinh hoạt vật chất riêng, có địa vị và lợi ích chính trị khác
nhau, do đó, trong xã hội sẽ có nhiều loại YTCT khác nhau (có thể đối lập, có thể không)
nhưng không phải YTCT của nhóm xã hội, tầng lớp, giai cấp nào cũng vươn tới được tầm
lý luận, hơn nữa, có hệ tư tưởng chính trị. Chỉ có những giai cấp tiến bộ, đại biểu cho
phương thức sản xuất mới, tiến bộ, cách mạng mới có thể hình thành tư tưởng chính trị có
hệ thống, có tính lý luận, tính khoa học dưới dạng học thuyết và tất yếu khi ấy, hệ tư tưởng
chính trị của giai cấp ấy sẽ trở thành thống trị trong xã hội, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
của xã hội.
Xét về cấu trúc, YTCT là tổng hòa của tri thức, tình cảm (thái độ), ý chí và niềm tin
về chính trị. Các yếu tố đó có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ trong một chỉnh thể hữu cơ, vừa
là tiền đề, vừa là điều kiện bổ sung, thúc đẩy lẫn nhau, tạo nên đặc điểm YTCT của mỗi cá
nhân hay cộng đồng xã hội nhất định và bao giờ cũng được thể hiện bằng các hành vi, hành
động chính trị.


13

13


Như vậy, YTCT (đặc biệt hệ tư tưởng chính trị) có vai trò rất quan trọng đối với sự
phát triển xã hội. Thông qua tổ chức nhà nước nó tác động trở lại cơ sở kinh tế và "có thể,
trong những giới hạn nhất định thay đổi cơ sở kinh tế". Hệ tư tưởng chính trị của giai cấp
cầm quyền giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Nó thâm nhập vào
các hình thái YTXH khác. Tác động tích cực hoặc tiêu cực của hệ tư tưởng chính trị (cũng
như YTCT nói chung) phụ thuộc vào tính chất tiến bộ, cách mạng hoặc phản tiến bộ, phản
cách mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Khi giai cấp còn tiến bộ, cách mạng - tiêu biểu
cho xu thế phát triển đi lên của lịch sử thì hệ tư tưởng chính trị của nó có tác dụng tích cực
đến sự phát triển xã hội. Khi giai cấp đó trở thành lạc hậu, phản động, thì hệ tư tưởng chính
trị của nó tác động tiêu cực, kìm hãm phát triển xã hội.
1.1.2. Ý thức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất (1897) và thực sự trở thành GCCN Việt nam từ thời kỳ thực dân
Pháp thực hiện khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929). Ngay từ khi ra đời, do s ớm
tiếp thu truyền thống anh dũng bất khuất, chống giặc ngoại xâm của dân tộc, GCCN Việt
Nam đã hăng hái đấu tranh với tư bản Pháp. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân
đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn, công nhân mỏ thiếc - kẽm Cao Bằng, gạch Yên Thế, dệt
sợi Nam Định. Song cũng có một số cuộc đấu tranh của công nhân có tinh thần dân tộc
cao như phong trào đấu tranh ủng hộ nghĩa quân Yên Thế, tham gia biểu tình đòi thả nhà
yêu nước Phan Bội Châu, phong trào để tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh... trong cao
trào yêu nước những năm 1925 - 1926 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, phần lớn các cuộc đấu tranh
còn tản mạn và tự phát, thiếu tổ chức lãnh đạo và chỉ tập trung vào đòi quyền lợi kinh tế,
quyền sống trước mắt, với các hình thức như: bỏ việc về quê, bãi công, đòi tăng lương,
chống đánh đập.
Từ khi chủ nghĩa Mác – Lênin, hệ tư tưởng của GCCN quốc tế, được truyền bá vào
Việt Nam, số lượng các cuộc bãi công ngày một tăng và quan trọng hơn là bãi công có
tính chất chính trị, có tổ chức lãnh đạo. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân
và phong trào yêu nước từ năm 1925 đến năm 1929 là một điều kiện quyết định sự ra đời

các tổ chức Cộng sản và Công hội Đỏ ở Việt Nam, đặc biệt là sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt


14

14

Nam vào đầu năm 1930 của thế kỷ XX. Đảng đã đem yếu tố tự giác vào phong trào công
nhân, làm cho GCCN nước ta sớm giác ngộ được mục tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại:
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; làm cho GCCN nước ta giác ngộ được SMLS lãnh
đạo cách mạng Việt Nam và trong giai đoạn cách mạng hiện nay GCCN Việt Nam có
SMLS to lớn “là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng” [13, tr.43-44], trước mắt là tiến
hành thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH hiện nay, “GCCN Việt Nam
là lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và lao
động trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ
công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” [13, tr.43], tạo
thành một lực lượng GCCN thống nhất đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. GCCN Việt
Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của
Đảng và Nhà nước ta, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân - nông dân - trí
thức, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tuy nhiên hiện nay, GCCN Việt Nam đang đứng trước những thách thức to lớn, đó
là: yêu cầu cao của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế; sự phát triển như
vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và sự cạnh tranh gay gắt của toàn
cầu hóa về kinh tế tri thức; tình hình thế giới có những thay đổi nhanh chóng, khó lường;
âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với nước ta vẫn còn phức tạp; sự
tác động mặt trái của kinh tế thị trường và sự du nhập của các luồng văn hóa độc hại đang
từng ngày, từng giờ tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, đến
GCCN nói riêng… Vì vậy, để GCCN xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay thì việc nhận thức đầy đủ, đúng đắn và nâng cao
YTCT cho GCCN là việc làm cơ bản và cấp thiết.
Trên cơ sở nội hàm của YTCT có thể thấy, YTCT của GCCN Việt Nam cũng bao


15

15

gồm những đặc trưng cơ bản như vậy. Tuy nhiên, trong quá trình hình thành, phát triển, nó
chịu sự tác động của những điều kiện, hoàn cảnh đặc thù của xã hội Việt Nam: nó được
hình thành, phát triển trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ thực dân,
phong kiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân và chế độ XHCN... Do đó có thể quan
niệm:
Ý thức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam là hệ thống các quan điểm, tư
tưởng chính trị cùng những nhận thức, tình cảm, ý chí và niềm tin chính trị phản ánh vị trí,
vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong đời sống chính trị nói riêng cũng như mọi
mặt đời sống xã hội của đất nước và thời đại; được hình thành, phát triển và có vai trò định
hướng cho hành động chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự
nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

YTCT của GCCN nước ta hiện nay được thể hiện rõ nhất thông qua nhận thức, tình
cảm, ý chí và niềm tin chính trị của mỗi người công nhân và được biểu hiện ở những nội
dung cơ bản sau:
Một là, nhận thức, tình cảm, ý chí và niềm tin chính trị của người công nhân đối với
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng.
Đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, người công nhân có
YTCT phải nhận thức sâu sắc và có niềm tin vững chắc được rằng, học thuyết Mác –
Lênin là hệ tư tưởng chính trị của GCCN, là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra
mục tiêu, chỉ rõ con đường và lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng triệt
để GCCN, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng
bị nô dịch và bóc lột, thoát khỏi đói nghèo và tha hoá về nhiều mặt; còn tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự vận dụng học thuyết Mác – Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
Việt Nam, chỉ ra con đường để cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động
của GCCN Việt Nam. Đồng thời, GCCN phải có ý chí kiên định, vững vàng, tuyệt đối
trung thành, không hoang mang dao động trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc;
tích cực học tập, trau dồi lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh không
khoan nhượng với các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, phủ nhận lý luận chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của giai cấp mình.


16

16

Ý thức chính trị của GCCN còn là nhận thức, tình cảm, ý chí và niềm tin của GCCN
đối với Cương lĩnh, quan điểm, đường lối, chiến lược, sách lược… của Đảng. Có YTCT khi
giai cấp công nhân có hiểu biết sâu sắc, tuyệt đối tin tưởng vào Cương lĩnh, quan điểm,
đường lối, chiến lược, sách lược, vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam;
chủ động tự giác, khắc phục mọi khó khăn để thực hiện và đưa các quan điểm, đường lối của

Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Không những vậy, GCCN còn phải tích cực tuyên truyền, vận
động mọi tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi mọi đường lối chủ trương của Đảng, chủ
động đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng sai trái, phản động của các thế lực thù địch,
phản động để bảo vệ sự lãnh đạo của GCCN – thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản
đối với toàn xã hội.
Như vậy, YTCT của GCCN trước hết được thể hiện ở nhận thức, tình cảm, ý chí và
niềm tin của GCCN đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng. Và chỉ khi nào người công nhân và cả giai cấp ý thức sâu sắc về chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng thì khi đó họ
mới ý thức đầy đủ và sâu sắc về địa vị thống trị về chính trị, vai trò lãnh đạo, lực lượng đi
đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, tự giác phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.
Hai là, nhận thức, tình cảm, ý chí và niềm tin chính trị của người công nhân đối với
lợi ích GCCN, lợi ích quốc gia dân tộc và sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước.
Trước hết, người công nhân có YTCT phải nhận thức được rằng, GCCN Việt Nam
là một bộ phận của GCCN thế giới, là giai cấp trung tâm của thời đại ngày nay, đại diện
cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất tiên tiến, được lịch sử giao cho
trọng trách lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; là
lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Đồng thời, có YTCT,
người công nhân cũng phải nhận thức sâu sắc được rằng: lợi ích giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong giai đoạn hiện nay là
thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN… Từ đó không ngừng
phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng; nỗ lực vượt qua mọi khó
khăn thách thức, cống hiến sức lực, trí tuệ để hoàn thành SMLS của giai cấp mình.
Đối với sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, người công nhân có YTCT phải
là người có niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, ra sức đóng góp công sức thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước…


17


17

Nhận thức đúng về sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đòi hỏi người
công nhân phải giác ngộ về tính tất yếu khách quan, mục tiêu, nguyên tắc của đổi mới: Đổi
mới không phải là từ bỏ mục tiêu CNXH mà là làm cho CNXH được nhận thức đúng đắn
hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng,
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm
nền tảng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng; còn phải hiểu rằng, sự nghiệp
đổi mới, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi, còn nhiều thử thách và nguy cơ cần vượt qua
để tiếp tục đưa sự nghiệp này tiếp tục tiến lên.
Người công nhân có nhận thức và thái độ đúng đối với sự nghiệp CNH, HĐH, đổi
mới toàn diện đất nước phải là người có sự quan tâm, nghiên cứu để biết được những nội
dung lớn trong đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, nhất là
những nội dung có liên quan trực tiếp đến công nhân và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước để
qua đó góp phần vào việc giải thích, tuyên truyền và luôn bảo vệ đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước. Đồng thời, tích cực chủ động đóng góp sức mình vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước mà trước hết là đóng góp vào sự nghiệp đổi mới
của doanh nghiệp, nhà máy mình làm việc. Sự đóng góp này bắt đầu từ việc chấp hành
tốt mọi quy định của doanh nghiệp, nhà máy; không ngừng nâng cao trình độ, tay nghề,
nâng cao năng xuất, chất lượng lao đông; tích cực hăng say lao động sản xuất hoàn thành
tốt nhiệm vụ của mình… để đưa doanh nghiệp, nhà máy đi lên trong sự nghiệp đổi mới…
Ba là, nhận thức, tình cảm, ý chí và niềm tin chính trị của người công nhân đối với
hệ thống chính trị và các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực hiện
bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các
đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau
trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố,
duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.

Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, Nhà nước và thực hiện đường
lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do đó hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp của giai
cấp cầm quyền.


18

18

Trong CNXH, GCCN và nhân dân lao động là chủ thể thực sự của quyền lực, tự
mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị
XHCN.
Ở nước ta, GCCN và nhân dân lao động là chủ thể chân chính của quyền lực. Bởi
vậy, hệ thống chính trị ở nước ta là cơ chế, là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở nước ta
hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và các
tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác của nhân dân được thành lập, hoạt động trên cơ sở
liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân. Vì vậy, nhận thức hệ thống chính trị của GCCN nước ta chính là hiểu biết về Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước XHCN và về các tổ chức chính trị - xã hội, mà trực tiếp là
tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam, GCCN phải nhận thức được rằng, Đảng Cộng
sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng; Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo toàn xã hội. Người công nhân có
YTCT, trong thực tế, phải tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; phải có sự quan
tâm, hiểu biết nhất định về bản chất của Đảng, về mục tiêu, nguyên tắc tổ chức và phương
thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như những yêu cầu về xây dựng, chỉnh

đốn Đảng nhằm nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, thực hiện cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, từng bước hình thành văn hóa Đảng, văn hóa lãnh đạo của
Đảng. Từ đó đòi hỏi mỗi người công nhân phải xây dựng kế hoạch và ý chí quyết tâm rèn
luyện, phấn đấu để sớm đứng trong đội ngũ của Đảng.
Đối với Nhà nước, người công nhân có YTCT phải nhận thức được rằng, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo
của Đảng; Nhà nước quản lí sự phát triển mọi mặt của đất nước theo đường lối, chủ trương
của Đảng nhằm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng mạnh bởi Nhà nước mạnh. Do đó, người công nhân có
YTCT cao còn phải biết được và có thái độ đúng đắn trước những bất cập hiện nay của Nhà


19

19

nước ta; những yêu cầu về cải cách nền hành chính nhà nước để xây dựng Nhà nước ta trong
sạch, vững mạnh, từ đó, người công nhân có trách nhiệm tham gia vào tổ chức công đoàn,
thực hiện công tác quản lý, giám sát hoạt động quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp theo luật định.
Đối với Công đoàn, người công nhân có YTCT phải là người tham gia vào tổ chức
công đoàn. Đồng thời, phải nhận thức được rằng, cùng với các cơ quan Nhà nước, Công
đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của GCCN và của người lao động, là tổ chức xã hội chăm
lo và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người công nhân, lao động; tham gia
quản lí Nhà nước và xã hội; tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước;
giáo dục cán bộ, công nhân viên chức và những người lao động khác ý thức xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Người công nhân có YTCT còn phải tích cực tham gia xây
dựng tổ chức Công đoàn; hiểu được những vấn đề cơ bản trong Luật Công đoàn…
Ngoài những yếu tố trên thì việc nhận thức đúng về vị trí, vai trò của hệ thống chính
trị cũng đồng thời yêu cầu GCCN phải ý thức sâu sắc về tính tất yếu, mục đích, nội dung

đổi mới hệ thống chính trị của nước ta hiện nay, đó là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân…
Bốn là, ý thức đối với các âm mưu thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của
các thế lực thù địch và các hiện tượng sai trái, lệch lạc, tiêu cực về chính trị trong xã hội
hiện nay.
Công cuộc đổi mới đất nước gần ba mươi năm qua do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần làm thay đổi cơ bản và toàn diện trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong những năm qua, lợi dụng quá trình
toàn cầu hóa, những biến động phức tạp trên thế giới, cũng như những khó khăn, thách
thức nảy sinh trong nước, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước đẩy mạnh
hoạt động chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trên tất cả các lĩnh vực đời sống
xã hội. Chúng tìm mọi thủ đoạn để truyền bá và cổ súy cho các quan điểm, luận điệu phản
động, xuyên tạc, bóp méo, bôi nhọ đi đến phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, chế độ XHCN và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi thực hiện đa
nguyên, đa đảng... Mặt khác, họ lợi dụng những tiêu cực nảy sinh trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên mà chúng ta đang lên án phê phán, đấu tranh và xử lý như tệ tham ô,


20

20

tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân và các tệ nạn xã hội khác…
để bôi đen bức tranh xã hội, gây tâm lý hoang mang mất lòng tin trong nhân dân vào Đảng,
vào chính quyền, hoài nghi vào con đường đi lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta
đã lựa chọn. Mục đích cuối cùng của chúng là làm suy yếu Đảng, tiến tới xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng – đội tiền phong của GCCN Việt Nam, đối với xã hội, thay thế vào đó
là hệ tư tưởng tư sản và các loại đảng phái phản động theo khuynh hướng xã hội dân chủ,
đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa…

Do đó, người công nhân có YTCT là những người nhận rõ các dạng quan điểm sai
trái và những hiện tượng tiêu cực về chính trị đang nảy sinh trong xã hội; luôn khẳng định
lập trường GCCN của Đảng và Nhà nước ta trước những biến động phức tạp trên thế giới và
trong nước. Từ đó củng cố nhận thức chính trị, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhạy
bén, tỉnh táo, nhận thức đúng và đầy đủ tính chất gay gắt và phức tạp của cuộc đấu tranh
chống “diễn biến hòa bình”, âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động chống phá cách
mạng của các thế lực thù địch, phản động; kịp thời phát hiện và đấu tranh kiên quyết, hiệu
quả trước các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, các hành vi gây phương hại đến sự ổn định,
vững mạnh và phát triển của chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân.
Năm là, nhận thức, tình cảm, ý chí và niềm tin chính trị của người công nhân đối
với khối liên minh công – nông – trí thức, khối đại đoàn kết toàn dân tộc và chủ nghĩa
quốc tế của GCCN.
Muốn thực hiện được SMLS to lớn của mình, GCCN buộc phải liên minh với các
giai tầng khác để tập hợp lực lượng. Do vậy, có YTCT khi người công nhân nhận thức được
rằng, cùng với GCCN, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là những lực lượng cách mạng
đông đảo, quan trọng; nắm được tính tất yếu cũng như những nội dung cơ bản của liên minh
công – nông – trí thức. Có YTCT, người công nhân còn phải nhận thức được, liên minh giữa
GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và
Nhà nước ta, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và là cơ sở vững chắc thực hiện
thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên
CNXH ở nước ta; vận dụng được phần nào vào nhìn nhận trong thực tiễn ở doanh nghiệp
của mình, làm cơ sở để xây dựng liên minh công – nông – trí thức trên phạm vi toàn xã hội;
phối hợp làm tốt công tác vận động quần chúng; tích cực đóng góp sức lực, trí tuệ thực hiện


21

21


thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước… Qua đó tập hợp lực lượng, củng cố niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và chế độ, bồi đắp sự đồng thuận xã hội trong cộng đồng dân tộc,
củng cố và tăng cường thế trận lòng dân vững chắc.
Hiện nay, dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, có YTCT còn
đòi hỏi người công nhân phải nhận thức sâu sắc về đặc điểm, tình hình và xu hướng phát
triển của thời đại ngày nay trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin để từ đó thực hiện
chủ nghĩa quốc tế chân chính, trong sáng; tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của GCCN quốc tế,
các lực lượng tiến bộ trên trên tế giới, tạo thế và lực để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
Sáu là, ý thức đối với chính sách, pháp luật của Nhà nước và người sử dụng lao
động.
Trong xã hội hiện đại, yêu cầu sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật phải thật
sự trở thành ý thức tự giác của mỗi người. Vì vậy, người công nhân có YTCT, phải có nhận
thức đúng đắn và sâu sắc về các chủ trương, chính sách của Đảng; phải hiểu biết, tuân thủ
pháp luật của Nhà nước, trước hết là những đạo luật về lao động; các quy định cụ thể của
các ngành, địa phương, doanh nghiệp, đơn vị; các kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp...; đồng thời còn phải biết mạnh dạn đấu tranh, phê phán những hành vi vi phạm
pháp luật, làm trái pháp luật, gây mật trật tự an toàn xã hội, tổn hại đến lợi ích GCCN, lợi
ích quốc gia dân tộc.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, GCCN không còn ở địa vị bị
áp bức, bóc lột nữa mà cùng toàn thể nhân dân lao động trở thành người làm chủ xã hội,
làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, nền kinh tế nước ta vẫn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nên vẫn còn một bộ phận
công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Những công nhân này, xét về mặt giai cấp, họ vẫn là người làm chủ
xã hội, nhưng xét trên phương diện cá nhân, họ lại là người làm thuê. Điều này lý giải vì
sao khi xem xét biểu hiện YTCT của GCCN trong giai đoạn hiện nay lại xem xét cả thái độ
của GCCN đối với người sử dụng lao động, trong đó đặc biệt là với giới chủ (giới chủ ở
đây muốn nói đến những tổ chức hoặc cá nhân, là người Việt Nam hoặc nước ngoài là
người sử dụng lao động ngoài thành phần kinh tế Nhà nước và tập thể).



22

22

Về vấn đề này, người công nhân có YTCT phải nhận thức được rằng, trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, sự hợp tác với giới chủ là tất yếu.
Mối quan hệ này vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh trên cơ sở thấu tình đạt lý, đúng quy
định của pháp luật, đặc biệt là Bộ luật Lao động; phải động viên mọi người thực hiện tốt
các quy định của pháp luật; đồng thời có thái độ rõ ràng, dứt khoát, kiên quyết đấu tranh
với những việc làm sai trái và những biểu hiện vi phạm mối quan hệ giữa người lao động
và người sử dụng lao động trên cơ sở pháp luật; không vì lợi ích trước mắt của mình mà
đánh mất đi danh dự, nhân phẩm của người công nhân Việt Nam. Từ đó, góp phần xây
dựng mối quan hệ lao động hài hòa và ổn định, cùng nhau hợp tác vì sự phát triển của
doanh nghiệp, vì lợi ích chính đáng của hai bên và do đó, của xã hội.
Tóm lại, những biểu hiện nêu trên đã phản ánh nội dung cốt lõi YTCT của GCCN
Việt Nam và giữa chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, thúc đẩy và ảnh hưởng lẫn nhau, từng
bước hình thành, phát triển và tác động trở lại đối với hoạt động thực tiễn của GCCN Việt
Nam. Từ tổng thể của các biểu hiện ấy giúp chúng ta có thể nhận ra YTCT của người công
nhân trong thực tế.
1.2. Vai trò ý thức chính trị đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Ý thức chính trị sẽ quyết định đến các hoạt động chính trị. Vì vậy, YTCT cao hay
thấp sẽ dẫn đến những hành động chính trị đúng hay sai, từ đó quyết định đến việc đạt hay
không đạt được lợi ích chính trị.
Đối với GCCN Việt Nam, YTCT là cơ sở quan trọng để GCCN phát huy vai trò lãnh
đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng là cơ
sở quan trọng để GCCN Việt Nam thực hiện thắng lợi SMLS của mình. Tầm quan trọng này
được thể hiện ở một số điểm sau:
1.2.1. YTCT là cơ sở để GCCN Việt Nam nhận thức rõ vai trò của mình trong đời

sống chính trị - xã hội của đất nước
Ngay từ khi ra đời, với truyền thống yêu nước và cách mạng, lại sớm được Đảng Cộng
sản Việt Nam – chính đảng mác xít chân chính lãnh đạo, GCCN Việt Nam đã có nhiều đóng
góp hết sức to lớn trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc. Trong những năm qua,
cùng với quá trình CNH, HĐH đất nước, GCCN nước ta ngày càng phát triển, trưởng thành cả
về số lượng, chất lượng và đang phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội
tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà


23

23

nước Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tính đến hết
năm 2010, tổng số công nhân nước ta ước tính có khoảng 12,6 triệu người, có mặt trong tất cả
các thành phần kinh tế. Mặc dù về số lượng GCCN ở nước ta chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng
số dân cư (chiếm tỷ lệ 11% dân số và 21% lực lượng lao động xã hội) nhưng nắm giữ những
cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương hướng
phát triển chủ yếu của nền kinh tế. GCCN là lực lượng lao động đóng góp nhiều nhất vào ngân
sách nhà nước. Hằng năm GCCN "đóng góp hơn 60% tổng sản phẩm xã hội và 70% ngân sách
nhà nước [42, tr.47]…
Như vậy, có YTCT đã giúp cho người công nhân mới có sự giác ngộ, nhận thức đầy đủ
về địa vị lịch sử, vai trò, nhiệm vụ chính trị của GCCN Việt Nam trong tiến trình phát triển lịch
sử nhân loại nói chung và sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta; mới nhận thức được mục tiêu, lí
tưởng của Đảng ta, mới có cơ sở để hình thành bản lĩnh chính trị, niềm tin vào sự thắng lợi của
con đường cách mạng Việt Nam… Từ đó hình thành thái độ, tình cảm, động cơ, ý chí quyết
tâm để người công nhân tích cực, tự giác học tập, rèn luyện xứng đáng là người công nhân
mới, con người Việt Nam mới; xứng đáng là giai cấp làm chủ, giai cấp lãnh đạo xã hội thông
qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.2. YTCT là cơ sở để người công nhân điều chỉnh hợp lý các hành vi và các mối

quan hệ chính trị - xã hội của mình, tăng cường liên minh giai cấp và phát huy đại đoàn
kết toàn dân tộc
Trong đời sống xã hội, GCCN có rất nhiều mặt hoạt động như: hoạt động lao động
sản xuất, hoạt động khoa học, văn hóa nghệ thuật, thể thao, hoạt động tình cảm trong giao
tiếp đối nhân, xử thế… Ở mỗi người công nhân thì những hoạt động đó đều nhằm đạt được
những mục đích nhất định, nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của mình. Những hoạt động
này đều được định hướng chi phối bởi YTCT của chính bản thân người công nhân. YTCT
của người công nhân sẽ quyết định đến phẩm chất đạo đức, thái độ, quan điểm, hành vi…
của người công nhân. Có YTCT thì những hành vi đó của người công nhân mang tính tự giác
chứ không phải là những hành vi tự phát, nó đảm bảo tính đúng đắn, tránh được đến mức tối
đa những sai lầm trong hoạt động của người công nhân. Chẳng hạn, khi người công nhân tu
dưỡng theo tinh thần đạo đức cách mạng thì người công nhân sẽ điều chỉnh hợp lí các hành
vi và các mối quan hệ xã hội của mình theo nguyên tắc nhân văn XHCN: mình vì mọi người,
mọi người vì mình; khi người công nhân nhận thức đúng về sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH


24

24

đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thì lao động hăng say hơn với tinh thần trách
nhiệm cao nhằm đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH
đất nước...
Trong khối liên minh công – nông – trí thức, GCCN là giai cấp lãnh đạo. YTCT
giúp GCCN nhận thức đúng vị trí, vai trò của mình trong khối liên minh công – nông – trí
thức, có đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn xây dựng khối liên minh vững chắc, tạo
nền tảng để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
1.2.3. Ý thức chính trị góp phần xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh
và hoạt động có chất lượng, hiệu quả trong bảo vệ các lợi ích chính đáng, hợp pháp của
người lao động

Trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, các tổ chức chính trị - xã hội cơ bản
gồm có: tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên. Thông qua hoạt động của mình, các tổ
chức chính trị - xã hội này sẽ thực hiện chức năng lãnh đạo, giám sát (thông qua các cơ
chế, chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước…) các doanh nghiệp trong việc thực
hiện đúng hợp đồng lao động và thoả ước lao động giữa chủ doanh nghiệp và người lao
động, bảo đảm hoạt động của doanh nghiệp tuân thủ pháp luật; đại diện, bảo vệ quyền, lợi
ích chính đáng cho người lao động; là môi trường để bồi dưỡng nhận thức chính trị - xã
hội, chăm lo đời sống văn hoá và tay nghề cho người lao động theo hướng nâng cao vai trò
và năng lực làm chủ của người lao động; tạo ra mối quan hệ bình thường giữa người sử
dụng lao động và hệ thống chính trị trong doanh nghiệp… Sẽ không có các tổ chức chính
trị - xã hội vững mạnh, hoạt động có hiệu quả khi các thành viên không hiểu gì về nó, cũng
như không tích cực tự giác tham gia hoạt động trong các tổ chức đó.
Do vậy, có YTCT sẽ giúp người công nhân hiểu đúng, đầy đủ hơn vị trí, vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp; giúp cho
người công nhân nhận thức được rằng, chỉ có tham gia vào các tổ chức đó mới có thể thực
hiện đầy đủ nhất, đảm bảo đầy đủ nhất các quyền và lợi ích cơ bản của mình, từ đó người
công nhân sẽ tự nguyện, tự giác tham gia vào các tổ chức đó. Có YTCT giúp người công
nhân phát huy tính tích cực chính trị - xã hội của mình, mạnh dạn nói lên những tâm tư,
tình cảm, nguyện vọng của mình, chỉ ra những ưu khuyết điểm, những hoạt động cần thiết
đối với người công nhân… để qua đó các tổ chức chính trị - xã hội của công nhân không
ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động cho phù hợp, hiệu quả. Đồng thời, có
YTCT sẽ giúp người công nhân tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng trong các


25

25

tổ chức chính trị - xã hội của mình để không ngừng trưởng thành về mọi mặt.
Đặc biệt, có YTCT sẽ giúp đội ngũ cán bộ lãnh đạo gồm những người kiên định

lập trường, có năng lực tổ chức, tập hợp, động viên, giáo dục, thuyết phục quần chúng,
có năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn, qua đó góp phần xây dựng các tổ chức này
vững mạnh, hoạt động hiệu quả, xứng đáng là tổ chức đại diện và bảo vệ các quyền và
lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân.
1.2.4. Ý thức chính trị làm cho công nhân nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng,
đấu tranh chống những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch phản động, bảo vệ chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước

Hiện nay, với nhiều thủ đoạn và âm mưu nham hiểm hòng đưa nước
ta ra khỏi quỹ đạo của CNXH, các thế lực thù địch, phản động đang tìm
mọi cách chống phá ta trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó hệ tư
tưởng, đạo đức lối sống và các giá trị văn hóa được chúng coi là mặt trận
hàng đầu. Chúng lợi dụng sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN, sự tác
động của mặt trái của cơ chế thị trường, những kẽ hở của quá trình tham
gia hội nhập và giao lưu quốc tế, đặc biệt là những tiêu cực, tệ nạn xã hội
ngày càng gia tăng, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ đảng viên, những người có chức có quyền… để
xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng ta; đồng thời tiến hành truyền bá quan
điểm, tư tưởng, đạo đức, lối sống thực dụng tư bản chủ nghĩa… vào mọi
tầng lớp công nhân, hòng làm cho họ mơ hồ về chính trị - giai cấp, xa rời
mục tiêu, lý tưởng cách mạng, tạo ra một khoảng “trống” trong ý thức hệ,
từ đó thẩm thấu dần dần tư tưởng, lối sống, đạo đức theo hướng ý thức hệ
tư sản phản động.
Trước tình hình đó, có YTCT sẽ tạo “sức đề kháng” cho người công
nhân, giúp ngăn chặn sự thâm nhập, ảnh hưởng của các hệ tư tưởng chính



×