Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHẤT LƯỢNG CÔNG tác PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN TRONG THANH NIÊN ở các ĐẢNG bộ xã, THỊ TRẤN, HUYỆN BA vì, THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.34 KB, 100 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

2
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
TRONG THANH NIÊN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, THỊ
TRẤN Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN
NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN

1.1. Những vấn đề cơ bản về chất lượng công tác phát triển
đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay
1.2. Chất lượng công tác phát triển đảng viên trong thanh

11

11

niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì, thành
phố Hà Nội - Thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm

31

YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
TRONG THANH NIÊN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, THỊ
TRẤN Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY


52

2.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng công tác phát triển trong
thanh niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội hiện nay

52

2.2. Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng công tác
phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ
xã, thị trấn ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay

59

Chương 2

KẾT LUẬN

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

84

PHỤ LỤC

88


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác phát triển đảng viên là một nội dung quan trọng của công tác xây
dựng Đảng, nhằm không ngừng bổ sung vào hàng ngũ của Đảng những đảng viên
mới, được chọn lựa kỹ từ những quần chúng ưu tú trong các phong trào cách mạng.
Yêu cầu đảm bảo chất lượng công tác phát triển đảng viên là nhiệm vụ xuyên suốt của
mọi cấp ủy Đảng và cần được quan tâm chỉ đạo chặt chẽ từ các khâu tạo nguồn, giáo
dục, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách, kết nạp quần chúng vào Đảng và tiếp tục giúp đỡ
trở thành đảng viên chính thức. Quá trình đó cần thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình
hướng dẫn của Trung ương, nhưng vận dụng linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của từng
địa phương để vừa tăng cường số lượng, trẻ hóa đội ngũ, cơ cấu hợp lý, vừa giữ vững
bản chất, vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng. Thanh niên là một trong những đối
tượng quan trọng mà các tổ chức Đảng cần quan tâm, thu hút những nhân tố đủ điều
kiện vào Đảng. Chất lượng công tác phát triển đảng viên trong thanh niên là một bộ
phận của công tác phát triển đảng viên của Đảng và không nằm ngoài yêu cầu trên.
Trong những năm qua, chất lượng công tác phát triển đảng viên của huyện Ba
Vì nói chung, phát triển đảng viên trong thanh niên nói riêng đã có những bước
chuyển biến tích cực. Hầu hết, các cấp ủy đã nhận thức đầy đủ và có sự quan tâm,
chăm lo tiến hành công tác phát triển đảng viên trong thanh niên. Công tác tạo
nguồn, lựa chọn, bồi dưỡng thanh niên trở thành đối tượng phát triển đảng đã có
nhiều tiến bộ; việc thực hiện quy trình kết nạp, thẩm định hồ sơ, thẩm tra lý lịch, việc
tổ chức lễ kết nạp đảm bảo đúng nguyên tắc, quy định của Điều lệ Đảng; công tác
bồi dưỡng đảng viên mới thường xuyên được quan tâm sâu sát. Hàng năm, đa số các
đảng bộ xã, thị trấn đều vượt về chỉ tiêu kết nạp, độ tuổi trung bình của đảng viên đã
giảm so với những năm trước; trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận của đội ngũ
đảng viên ngày càng được nâng cao, tạo sự chuyển biến tích cực cho cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay ở cơ sở.


3

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm và tiến bộ, một số chi bộ của một số đảng
bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì, chất lượng công tác phát triển đảng viên trong thanh
niên chưa được quan tâm đúng mức, còn có hiện tượng nặng về đáp ứng chỉ tiêu số
lượng, coi nhẹ tạo nguồn, bồi dưỡng nguồn; có lúc, có nơi hạ thấp tiêu chuẩn, chất
lượng, dễ dãi, tùy tiện, buông lỏng quản lý hoặc cứng nhắc, định kiến, tuyệt đối hóa
tiêu chuẩn đảng viên; một số đảng ủy xã có biểu hiện “khoán trắng” cho chi bộ, cho
Đoàn thanh niên cơ sở; công tác bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đảng viên mới có
biểu hiện xem nhẹ, chưa được chú trọng đúng mức, sau lễ kết nạp ít quan tâm đến
việc thử thách, đã coi như xong về quy trình công tác phát triển đảng viên; nhiều chi
bộ xóm, thôn, đảng bộ xã nhiều năm liền không kết nạp được đảng viên mới, dẫn đến
tình trạng tuổi đảng viên trung bình cao… Tất cả những điều đó làm cho chất lượng
công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện
Ba Vì chưa thực sự vững chắc; chất lượng, số lượng đảng viên là thanh niên chưa
ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Do vậy, việc không ngừng nâng cao chất
lượng công tác phát triển đảng viên trong thanh niên là đòi hỏi thực tế của mọi tổ
chức Đảng trên địa bàn huyện, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn huyện Ba Vì hiện nay.
Vì vậy, tác giả chọn vấn đề "Chất lượng công tác phát triển đảng viên trong
thanh niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay"
làm đề tài luận văn thạc sĩ, hy vọng góp phần làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn, đề
xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên trong
thanh niên của địa phương hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong nhiều thập kỷ qua, Đảng ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn;
các cán bộ lãnh đạo, các nhà nghiên cứu đã có nhiều công trình khoa học, nhiều luận
văn, luận án đề cập đến vấn đề này. Về các công trình khoa học, báo cáo tổng kết có
thể điểm qua một số đề tài tiêu biểu sau:


4

Bộ Quốc phòng (1996), “Phát triển bồi dưỡng chất lượng đảng viên trong
quá trình đào tạo cán bộ các trường sĩ quan quân đội”, đề tài khoa học cấp bộ do
Trường Sĩ quan Lục quân I thực hiện. Các tác giả đã luận giải những vấn đề cơ bản
về lý luận và thực tiễn trong công tác phát triển đảng, bồi dưỡng đội ngũ đảng viên là
học viên, gắn quá trình đào tạo với công tác phát triển đảng và gắn bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ với bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong quá trình đào
tạo cán bộ của các trường sĩ quan quân đội.
Lê Văn Bình (2000) “Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng trong học
viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sĩ quân
sự, chuyên ngành xây dựng Đảng - công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng
vũ trang. Tác giả đã luận giải những cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác phát triển
đảng viên mới, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công
tác phát triển đảng viên trong học viên các trường sĩ quan quân đội. Trong phần lý luận,
tác giả đã tổng kết lý luận, chỉ rõ công tác phát triển đảng là một quy luật tồn tại và phát
triển của Đảng nhằm mở rộng củng cố đội ngũ, tăng cường năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, tăng cường mối quan hệ với quần chúng, đảm bảo cho Đảng có đủ
sức hoàn thành nhiệm vụ đội tiền phong chiến đấu của giai cấp, của dân tộc. Trên cơ sở
đó, tác giả tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng, chỉ rõ những nguyên nhân, rút ra
những kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phát
triển đảng trong học viên các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Vũ Quang Tuyến (2000) “Nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng nguồn
phát triển đảng trong học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện
Chính trị quân sự hiện nay”, luận văn thạc sĩ, chuyên ngành xây dựng Đảng. Sau khi
làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn công tác phát triển đảng nói chung, đặc biệt
là công tác bồi dưỡng nguồn phát triển đảng trong học viên đào tạo cán bộ chính trị
cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự, tác giả đã xác định công tác phát triển
đảng viên bao gồm các khâu: tạo nguồn, bồi dưỡng nguồn, xét duyệt kết nạp, rèn
luyện thử thách trong thời gian dự bị và xét chuyển thành đảng viên chính thức. Đề



5
tài làm rõ những tiêu chí đánh giá công tác bồi dưỡng nguồn phát triển đảng trong
học viên đó là: nền nếp và chất lượng các hoạt động của công tác bồi dưỡng kết nạp
đảng; mức độ nhận thức về Đảng, trình độ giác ngộ chính trị, ý chí phấn đấu vươn
lên của học viên; kết quả học tập, rèn luyện của quần chúng học viên; số lượng và
chất lượng học viên được kết nạp trong từng năm học, khóa học. Tác giả đã khảo sát
thực trạng, chỉ ra những nguyên nhân của ưu, khuyết điểm của công tác bồi dưỡng
nguồn phát triển đảng ở các đơn vị học viên, rút ra những kinh nghiệm của công tác
này trong thời gian qua và đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng công tác bồi
dưỡng nguồn phát triển đảng trong học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở
Học viện Chính trị quân sự trong thời gian tới. Đó là các giải pháp: nâng cao nhận
thức và ý thức trách nhiệm của các cấp ủy đảng và mọi đảng viên; thường xuyên,
kiên trì giáo dục xây dựng động cơ phấn đấu vào Đảng đúng đắn cho học viên; đổi
mới, nâng cao chất lượng công tác tuyển sinh, kết hợp tạo nguồn đào tạo cán bộ
chính trị cấp phân đội với tạo nguồn phát triển đảng; chăm lo xây dựng và phát huy
vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong bồi dưỡng nguồn phát triển đảng; phát
huy tính tích cực, chủ động, tự học tập, tự rèn luyện của học viên phấn đấu trở thành
đảng viên của Đảng.
Nguyễn Văn Hào (2003), “Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong
thanh niên của các đảng bộ phường ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay”, luận
văn thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tác giả đã đi sâu phân tích, luận giải làm rõ đặc điểm tình hình của các đảng bộ
phường trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, cũng như đặc điểm đối tượng quần chúng là
đoàn viên, thanh niên, từ đó dự báo và đề ra phương hướng, giải pháp đẩy mạnh
công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ phường ở thành phố
Đà Nẵng. Đó là những giải pháp: đổi mới việc đánh giá về thanh niên, thống nhất nhận
thức về công tác phát triển đảng viên trong thanh niên trong độ tuổi thanh niên ở Đà
Nẵng; củng cố kiện toàn xây dựng cấp ủy đảng trong sạch vững mạnh, thực sự là chủ
thể của công tác phát triển đảng viên trong thanh niên; quán triệt, cụ thể hóa tiêu chuẩn



6
đảng viên trong độ tuổi thanh niên; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo
dục bồi dưỡng chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng cho thanh niên; củng cố, kiện
toàn nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn thanh niên trong tham gia công
tác phát triển đảng viên; tăng cường theo dõi, giúp đỡ của quận ủy, thành ủy và các cơ
quan, đơn vị trên địa bàn trong công tác phát triển đảng viên trong thanh niên.
Tổng cục chính trị (2004), “Báo cáo tổng kết công tác phát triển đảng, bồi
dưỡng đội ngũ đảng viên trong học viên đào tạo sỹ quan, nhân viên chuyên môn kỹ
thuật trong các nhà trường quân đội giai đoạn 1994 - 2004” (Số 36-BC/CT). Báo
cáo đã tổng kết 10 năm công tác phát triển đảng và bồi dưỡng đội ngũ đảng viên
trong học viên đào tạo sỹ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật trong các nhà trường
quân đội, làm rõ những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiêm, đồng
thời xác định phương hướng và những giải pháp nâng cao chất lượng công tác phát
triển đảng viên, bồi dưỡng đội ngũ đảng viên trong phạm vi tổng kết, đó là: phát huy
sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, mọi lực lượng trong công tác phát triển đảng;
thường xuyên quan triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc phương châm, phương hướng,
điều kiện kết nạp đảng viên trong quân đội; các cấp ủy đảng, cơ quan chính trị phải
làm tốt công tác lựa chọn, giáo dục, bồi dưỡng nguồn kết nạp đảng; kết hợp chặt chẽ
giữa thực hiện mục tiêu đào tạo của nhà trường với bồi dưỡng động cơ phấn đấu, rèn
luyện, thử thách học viên cả trước và sau khi kết nạp; đảng ủy, Ban giám hiệu các
trường cần có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo công tác phát triển đảng, bồi
dưỡng đảng viên trong học viên, nhân viên đúng thủ tục, nguyên tắc, đạt kết quả thiết
thực; chăm lo xây dựng nhà trường chính quy, mẫu mực, các tiểu đoàn, đại đội học
viên, nhất là tổ chức đoàn thanh niên vững mạnh, tạo môi trường thuận lợi để quần
chúng học tập, phấn đấu trở thành đảng viên.
Nguyễn Văn Chất (2005) “Nâng cao chất lượng giáo dục rèn luyện đảng viên
là học viên người dân tộc thiểu số đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện
Chính trị quân sự trong giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc sĩ, chuyên ngành xây



7
dựng Đảng. Luận văn đã đi sâu phân tích làm rõ đặc điểm của đảng viên là người
dân tộc thiểu số đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội với những nét đặc trưng về văn
hóa, phong tục, tập quán, cá tính… Từ đó, tác giả đã đề xuất những giải pháp nâng
cao chất lượng giáo dục rèn luyện đảng viên là học viên người dân tộc thiểu số đào
tạo cán bộ chính trị cấp phân đội, từng bước hoàn thiện phẩm chất, năng lực, phương
pháp, tác phong công tác đáp ứng tiêu chuẩn đảng viên, đủ điều kiện hoàn thành
nhiệm vụ, chức trách được giao khi tốt nghiệp.
Đặng Văn Tuyết (2013) “Công tác phát triển đảng viên trọng học viên, sinh
viên của Đảng bộ trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội hiện nay”, luận văn
thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước. Luận văn đã chỉ rõ những đặc điểm
của học viên, sinh viên của Đảng bộ trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội.
Đưa ra quan niệm, xác định mục đích, chủ thể, lực lượng, phương châm, phương
hướng và luận giải rõ quy trình của công tác phát triển đảng viên là học viên sinh
viên của Đảng bộ Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội. Đồng thời tác giả
đã khảo sát, đánh giá thực trạng, chỉ rõ những nguyên nhân và kinh nghiệm trong
công tác phát triển đảng viên trong học viên, sinh viên tại địa bàn nghiên cứu, đề
xuất những giải pháp đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên của Đảng bộ Trường
Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội hiện nay. Đó là những giải pháp: Nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng đối với công tác phát triển
đảng trong học viên, sinh viên; quán triệt và cụ thể hóa tiêu chuẩn đảng viên là học
viên, sinh viên; thực hiện tốt quy trình công tác phát triển đảng viên trong học viên,
sinh viên; phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng tiến hành công
tác phát triển đảng trong học viên, sinh viên; phát huy vai trò tự tu dưỡng, rèn luyện
phấn đấu trở thành đảng viên của học viên, sinh viên.
Ngoài ra, trên phạm vi cả nước còn có nhiều công trình khoa học, sách về chất
lượng công tác phát triển đảng viên trong thanh niên, về giáo dục, bồi dưỡng mục
tiêu, lý tưởng, phẩm chất chính trị đạo đức cách mạng cho thanh niên, cho học sinh,
sinh viên như: PGS,TS. Đỗ Ngọc Ninh (chủ biên -NXb CTQG - 2004), "Nâng cao



8
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ xã, thị trấn ở Thủ đô Hà Nội
hiện nay"; Nguyễn Thị Mỹ Trang (2001), "Xây dựng đội ngũ đảng viên là thanh
niên sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội", luận
án tiến sĩ xây dựng Đảng - Học viện CTQG HCM; Lê Văn Lương (2004), "Nâng cao
chất lượng công tác phát triển đảng viên mới trong học viên hệ đào tạo sĩ quan ở
các nhà trường thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân trong thời kỳ mới",
luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng - Học viện Chính trị quân sự; Nguyễn Viết Viễn
(2006), “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng cho đoàn viên thanh niên ở Đoàn
B01 Quân khu Thủ đô hiện nay”, luận văn thạc sĩ chính trị học, Học viện Chính trị
quân sự; Nguyễn Quang Hưng (2011), “Xây dựng đội ngũ đảng viên là học viên cấp
phân đội ở Học viện Phòng không – Không quân giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc
sĩ xây dựng Đảng, Học viện Chính trị….
Các công trình khoa học, sách, luận văn, luận án nêu trên của các tác giả đã đi
sâu luận giải, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm, đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu
những yếu tố tác động khách quan, chủ quan của từng lĩnh vực, phạm vi, đối tượng
nghiên cứu cụ thể, các tác giả đã xác định phương hướng, yêu cầu và đề ra hệ thống
các giải pháp đa dạng, phong phú phù hợp với đề tài nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu
của các tác giả nêu trên có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, cần được tiếp tục kế
thừa, phát triển, vận dụng phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ công tác xây
dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Vấn đề phát triển đảng viên của các đảng bộ xã, thị trấn trên địa bàn thành phố
Hà Nội đã có một số bài báo, bài viết, hội thảo khoa học xây dựng Đảng đề cập, tuy
nhiên để có tính tổng kết, chuyên sâu, hệ thống thì chưa nhiều. Riêng đề tài “Chất
lượng công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay” thì chưa có công trình nào nghiên cứu. Vì
vậy, việc nghiên cứu đề tài góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển đảng viên trong



9
thanh niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì là việc làm cần thiết có ý nghĩa
lý luận, thực tiễn và không trùng lặp với các đề tài đã nghiên cứu đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn chất lượng công tác phát triển
đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì; đề xuất những giải
pháp cơ bản nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các
đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
tình hình mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải, làm rõ những vấn đề cơ bản về chất lượng công tác phát triển
đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì;
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng công tác phát triển đảng viên trong thanh
niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì trong những năm gần đây;
- Xác định yêu cầu và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công
tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ xã,
thị trấn ở huyện Ba Vì.
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu chất lượng công tác phát triển đảng viên trong thanh niên là người
địa phương hiện đang sinh sống, học tập, công tác thuộc diện xã, thị trấn ở huyện Ba
Vì, thành phố Hà Nội quản lý.
Các số liệu, tư liệu phục vụ cho luận văn giới hạn chủ yếu từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu



10
* Cơ sở lý luận của đề tài: Là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, chỉ thị, nghị quyết
của Thành ủy Hà Nội, Huyện ủy Ba Vì về xây dựng Đảng, công tác phát triển đảng
viên, xây dựng đội ngũ đảng viên.
Luận văn kế thừa, tham khảo những kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học có liên quan đã được công bố.
* Cơ sở thực tiễn của đề tài: Kết quả công tác xây dựng Đảng, công tác phát
triển đảng viên của đảng bộ huyện Ba Vì, của các đảng bộ xã, thị trấn từ năm 2005
đến nay và các số liệu điều tra, khảo sát, trưng cầu ý kiến trong quá trình nghiên cứu
ở các chi bộ, đảng bộ cơ sở trên địa bàn huyện Ba Vì.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đề tài sử dụng phương pháp khoa học chuyên ngành,
liên ngành, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lôgíc và lịch sử, phân tích và
tổng hợp, điều tra xã hội học, phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp xin ý kiến
chuyên gia…
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy
các lớp bồi dưỡng cấp ủy viên cơ sở và chỉ đạo thực tiễn công tác phát triển đảng viên
của các đảng bộ xã, thị trấn; phục vụ công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn ở cơ sở
làm căn cứ ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền và
các ngành chuyên môn trên địa bàn huyện Ba Vì.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.


11
Chương 1

CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
TRONG THANH NIÊN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, THỊ TRẤN
Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ
BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Những vấn đề cơ bản về chất lượng công tác phát triển đảng viên trong
thanh niên của các Đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay
1.1.1. Công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ xã,
thị trấn ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
* Huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội: Là huyện bán sơn địa, nằm ở phía Tây Bắc
Thủ đô Hà Nội, diện tích tự nhiên là 424km 2, dân số hơn 270.000 người, với 03 dân
tộc Kinh, Mường, Dao cùng sinh sống. Được thành lập ngày 26/7/1968 trên cơ sở hợp
nhất các huyện Bất Bạt, Tùng Thiện và Quảng Oai của tỉnh Hà Tây. Sau nhiều lần
chia tách, sáp nhập, hiện nay huyện Ba Vì có 30 xã, 01 thị trấn, trong đó có 07 xã miền
núi, 08 xã đồi gò, 14 xã ven sông, 01 xã giữa sông. Về kinh tế xã hội trong 08 năm
(2005 - 2012), tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của huyện là 15%/năm; thu nhập
bình quân đầu người năm 2005 đạt 8.600.000 đồng/người/năm, đến năm 2012 đạt
24.700.000 đồng/người/năm, tăng 31%. Sản xuất nông nghiệp có sự chuyển biến tích
cực, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây
trồng vật nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao, năng xuất lúa bình quân đạt 61 tạ/ha, sản
lượng lương thực ổn định 94.000 tấn. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng
bình quân 17%/năm. Các hoạt động dịch vụ, du lịch tiếp tục có bước phát triển mạnh,
du lịch được xác định là ngành kinh tế trong điểm, có tốc độ phát triển 25%/năm (7).
Đến năm 2013, đảng bộ huyện Ba Vì có 551 chi bộ đảng, sinh hoạt ở 84 tổ chức
cơ sở đảng, trong đó 31 Đảng bộ xã, thị trấn, 14 đảng bộ cơ quan, 39 chi bộ trực thuộc
Huyện ủy Ba Vì. Tổng số đảng viên là 12.571 đồng chí. Qua kết quả đánh giá phân
loại tổ chức cơ sở đảng năm 2013 của Ban Tổ chức Huyện ủy, chi bộ đạt trong sạch,
vững mạnh là 63 đơn vị, chiếm 11,4% tổng số chi bộ; chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ
là 375 đơn vị chiếm 68,1%; chi bộ hoàn thành nhiệm vụ 79 đơn vị, chiếm 14,7%; 32
tổ chức đảng yếu, kém chiếm 5,8%. Trong công tác xây dựng Đảng, chú trong việc
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng



12
viên, tập trung củng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, thực hiện tốt
các nguyên tắc xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, gắn với việc “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo từng chuyên đề hàng năm.
Việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp thường
xuyên được quan tâm, nâng cao chất lượng công tác cải cách hành chính. Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể huyện luôn được củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các
tổ chức hội, vận động hội viên nghiêm chỉnh chấp hành đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư, góp phần tích
cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của huyện (3).
* Các đảng bộ xã, thị trấn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
Năm 2013, huyện Ba Vì có 30 đảng bộ xã, 01 đảng bộ thị trấn, với 471 chi bộ
trực thuộc. Trong đó, số chi bộ được đánh giá xếp loại là 471 chi bộ, cụ thể: 249 chi
bộ đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh; 22 chi bộ đạt danh hiệu trong sạch vững
mạnh tiêu biểu; 174 chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ; 26 chi bộ yếu, kém. Tổng số
đảng viên của các đảng bộ xã, thị trấn là 10.972 đồng chí. Trong đó, đảng viên được
miễn đánh giá chất lượng là 1.664; đảng viên chưa được đánh giá chất lượng là 458
đồng chí; đảng viên đã được đánh giá chất lượng 8.850 đồng chí, cụ thể: đảng viên
đủ tư cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ 945 đồng chí; đảng viên đủ tư cách hoàn
thành tốt nhiệm vụ 6.651 đồng chí; đảng viên đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ
1.381 đồng chí; đảng viên đủ vi phạm tư cách, không hoàn thành nhiệm vụ 153 đồng
chí; đảng viên của các đảng bộ xã, thị trấn chủ yếu là nông dân, người về hưu, bộ đội
phục viên, đảng viên ở trường học và trạm y tế chiếm tỉ lệ nhỏ (Phụ lục 3).
Về vai trò, các đảng bộ xã, thị trấn là nền tảng của Đảng ở địa bàn nông thôn,
nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng, thể hiện sự gắn bó giữa
Đảng với nhân dân, đặc biệt là giai cấp nông dân. Các đảng bộ xã, thị trấn đại diện
cho lập trường giai cấp công nhân ở cơ sở, lãnh đạo và định hướng giải quyết mọi

vấn đề ở cơ sở theo quan điểm, đường lối của Đảng, đặc biệt là các vấn đề nông dân,
nông nghiệp và nông thôn. Đó là nơi đúc kết những kinh nghiệm, nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân phản ánh với Đảng, để Đảng sửa đổi, bổ sung


13
đường lối, chủ trương, chính sách ngày càng đúng đắn, hoàn thiện hơn. Vai trò của
các đảng bộ xã, thị trấn còn thể hiện ở chỗ quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và của cơ quan cấp trên cho phù hợp
với đặc điểm của địa phương, đề ra chủ trương, phương hướng công tác của từng
đảng bộ hàng năm, mỗi nhiệm kỳ và lâu dài. Trong quá trình tổ chức thực hiện, các
đảng bộ phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ đưa ra ứng cử hoặc giới
thiệu họ với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị ở cơ sở để bố trí, sử dụng; tiến
hành kiểm tra, giám sát các hoạt động ở cơ sở nhằm kịp thời phát huy những điển
hình tiên tiến và ngăn chặn những tiêu cực.
Về chức năng, các đảng bộ xã, thị trấn là hạt nhân chính trị ở cơ sở, lãnh đạo
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh
đạo phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị ở xã, thị trấn vững mạnh,
nông thôn giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước.
Về nhiệm vụ, theo Quy định số 95 - QĐ/TW, ngày 03/3/2004 của Ban Bí thư,
các đảng bộ xã, thị trấn có nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, thực
hiện các chủ trương, nhiệm vụ theo nghị quyết đại hội của đảng bộ xã, thị trấn và của
cấp trên, tạo mọi điều kiện thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh tế và hộ
gia đình sản xuất, kinh doanh đúng chính, sách pháp luật của Nhà nước, tạo việc làm
cho người lao động; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, và chính sách hậu
phương quân đội, giữ vững an ninh chính trị và trật an toàn xã hội ở cơ sở.
Thứ hai, lãnh đạo công tác tư tưởng, thường xuyên giáo dục bồi dưỡng, chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh và phát huy truyền

thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh
niên, thiếu niên, kịp thời nắm bắt những tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân
dân để giải quyết và báo cáo lên cấp trên.
Thứ ba, đảng bộ xã, thị trấn lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ, thực hiện quy
hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhận xét, đánh giá, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, lựa chọn, giới thiệu cán bộ tham gia vào các cơ quan


14
lãnh đạo của Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân các cấp, tích cực tạo nguồn
cán bộ tại chỗ, từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ công chức xã, thị trấn.
Thứ tư, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, xây dựng Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở xã, thị trấn vững mạnh, thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ theo luật định và Điều lệ của mỗi đoàn thể. Thực hiện tốt chính sách
về dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, phát
huy quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân, thi đua thực hiện có hiệu quả nhiệm
vụ được giao.
Thứ năm, xây dựng tổ chức đảng, đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp
xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh, gắn với xây dựng củng cố hệ thống
chính trị cơ sở; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và
đội ngũ đảng viên, nhất là việc phát hiện và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác; giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao
vai trò tiền phong, gương mẫu, tạo điều kiện cho đảng viên thực hiện nhiệm vụ học
tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt; làm tốt công tác động viên, khen
thưởng, kỷ luật đảng viên, xử lý nghiêm, kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm
Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước; làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng
viên, bảo đảm về tiêu chuẩn và quy trình, chú trọng đối tượng là đoàn viên, thanh niên
và những người lao động giỏi, có uy tín trong quần chúng; xây dựng cấp ủy và bí thư
cấp ủy bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất năng lực, thực sự là trung tâm đoàn kết, hoạt
động có hiệu quả, được đảng viên và nhân dân tín nhiệm.

Về đặc điểm, các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, là tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn với địa bàn rộng, đa dạng về mặt
địa lý với ba vùng rõ rệt, mật độ dân cư thưa, nhiều dân tộc cùng sinh sống, nhân dân
chủ yếu sống bằng nghề nông, kết cấu hạ tầng ở nông thôn chưa phát triển, dân trí
còn thấp. Đặc điểm này chi phối rất lớn đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp
ủy đảng trong huyện, nhất là ở khu vực đảng bộ 07 xã miền núi (Ba Vì, Khánh
Thượng, Minh Quang, Tản Lĩnh, Ba Trại, Vân Hòa, Yên Bài) nơi có đông đảng viên
là người dân tộc thiểu số, với nhiều đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán riêng,


15
trong đó một số phong tục còn chi phối đến công tác cán bộ và ảnh hưởng đến cả tâm
lý, phương pháp lãnh đạo của những người đứng đầu cấp ủy, chính quyền xã.
Thứ hai, phần lớn đảng viên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì xuất
thân từ sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, trong tâm lý, tình cảm và hành động vẫn còn bị
ảnh hưởng ít nhiều tâm lý, lối sống, hành động của người nông dân, điều này chi
phối không nhỏ đến nhận thức, tình cảm, phương pháp, tác phong công tác của người
đảng viên. Biểu hiện rõ nét nhất là tính thiếu kế hoạch trong đời sống, sinh hoạt, học
tập, làm việc; tùy tiện trong chấp hành giờ giấc sinh hoạt, công tác như: đến muộn,
về sớm; một số đảng viên vẫn nặng nề tính cục bộ, địa phương, làng, xã, dòng họ,
phe cánh … Với nhiều đồng bào dân tộc cùng sinh sống (trong đó người Kinh chiếm
trên 80%, người Mường trên 10%, người Dao chiếm 5-7% dân số, còn lại là các dân
tộc khác) có nhiều nét văn hóa, phong tục riêng tạo nên lối sống, thói quen vừa là nét
đặc sắc, đồng thời cũng là đặc điểm nổi bật, cần chú ý trong công tác phát triển đảng
viên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì.
Thứ ba, các đảng bộ xã, thị trấn trong huyện gắn bó mật thiết với địa bàn có
lịch sử văn hóa lâu đời, có truyền thống cách mạng, một lòng theo Đảng. Trải qua
nhiều khó khăn, sau nhiều lần chia tách, sáp nhập, đội ngũ cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân ở các xã, thị trấn trong huyện Ba Vì vẫn giữ vừng niềm tin, lý
tưởng, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, tích cực học tập, rèn luyện phẩm chất

của người cộng sản, giữ vững truyền thống quê hương anh hùng, ra sức phấn đấu, thi
đua quyết tâm phấn đấu đưa huyện Ba Vì trở thành một huyện phát triển của Thủ đô
Hà Nội, xây dựng quê hương, gia đình ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Thứ tư, dưới tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường hiện vẫn còn một
bộ cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong huyện có lối sống
buông thả, chạy theo những cám dỗ vật chất trước mắt, phai nhạt lý tưởng, suy thoái
về đạo đức, lối sống… làm ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của quần chúng đối
với Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở, cũng như quá trình hình thành động cơ
vào Đảng của các đối tượng phát triển đảng.
* Quan niệm công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ
xã, thị trấn ở huyện Ba Vì


16
Có nhiều góc độ để tiếp cận khái niệm thanh niên nhưng dù ở thời kỳ nào,
dưới góc độ nào thì khái niệm thanh niên cũng đều nói về lớp người đang trưởng
thành khoảng từ 16 đến 35 tuổi. Ở họ có những đặc điểm chung đó là: lực lượng, bộ
phận xã hội đặc thù, một lực lượng lao động dự trữ, một tiềm năng vô giá của mỗi
quốc gia, dân tộc; là một bộ phận hữu cơ của xã hội hình thành từ các giai tầng khác
nhau; là nguồn lực quyết định sự phát triển kinh tế, xã hội, là rường cột của mỗi quốc
gia, là tương lai của dân tộc và tương lai của từng tế bào xã hội - gia đình. Do những
điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa của mỗi địa phương khác nhau, nên thanh
niên ở các vùng miền bên cạnh những điểm giống, luôn tồn tại những nét riêng, chi
phối đến nhận thức, hành động của đối tượng này. Vì vậy, khi thực hiện công tác
phát triển đảng viên trong thanh niên của các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Ba Vì
cần lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất, thanh niên của các xã, thị trấn ở huyện Ba Vì có lực lượng đông
đảo, đang dần trở thành nguồn lao động chính của các xã, thị trấn ở huyện Ba Vì. Với
86.231 thanh niên, chiếm khoảng gần 1/3 dân số và chiếm 47% nguồn lực lao động
trên địa bàn huyện. Số thanh niên có việc làm ổn định chiếm khoảng 27,3%, còn lại

72,7% thanh niên thiếu việc làm hoặc có việc làm nhưng không thường xuyên, trong
đó có khoảng 56.000 thanh niên thường xuyên đi làm ăn xa. Toàn huyện có 64 tổ chức
Đoàn cơ sở với 714 chi đoàn và 13.074 đoàn viên, trong đó khối xã, thị trấn có 8.920
đoàn viên; khối trường học có 3.437 đoàn viên; khối cơ quan, hành chính, sự nghiệp,
doanh nghiệp, lực lượng vũ trang có 717 đoàn viên (1) .
Thứ hai, hầu hết thanh niên có trình độ trung học phổ thông, chưa qua đào tạo
và có xu hướng tách ra khỏi lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Sinh ra trên một địa bàn
chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, thanh niên của các xã, thị trấn trên địa bàn chủ
yếu mới tốt nghiệp phổ thông trung học, thậm chí thấp hơn. Phần lớn trong số họ chưa
có việc làm ổn định, chưa được đào tạo nghề, một số vẫn sống phụ thuộc vào gia đình;
ít được tiếp xúc với khoa học - công nghệ; lao động chủ yếu trong các ngành nghề phổ
thông, kinh tế gia đình, tư nhân, cá thể... chính vì vậy, nhu cầu, nhận thức và nguyện
vọng của đối tượng thanh niên này cũng khác với các đối tượng thanh niên ở địa bàn
đô thị. Điều họ quan tâm, chi phối nhất là việc làm, thu nhập ổn định cho bản thân, 2/3 số


17
thanh niên trên địa bàn các xã, thị trấn thường xuyên phải rời quê làm việc ở các đô thị,
khu công nghiệp, số thanh niên này khó quản lý, không sinh hoạt đoàn thể, làm việc vất
vả, thu nhập thấp, bấp bênh và là nhóm có nguy cơ cao về mắc các tệ nạn xã hội.
Thứ ba, thành phần, cơ cấu thanh niên ở các xã, thị trấn ở huyện Ba Vì nhận
thức chính trị còn nhiều hạn chế, chênh lệch về nhận thức. Do là một địa bàn có nhiều
dân tộc cùng sinh sống, nên lực lượng thanh niên cũng có những đặc điểm về văn hóa,
nhận thức có sự chênh lệch, khác nhau, nhất là giữa khu vực các xã miền núi và các
xã, thị trấn vùng đồng bằng trung tâm. Một bộ phận thanh niên lười học tập, lao động,
chạy theo lối sống đua đòi, hưởng thụ, vi phạm pháp luật, sống thiếu trách nhiệm với
tương lai bản thân và với cộng đồng, hành xử thiếu văn hóa, suy giảm niềm tin, thiếu
lý tưởng hoài bão, chưa được thử thách về bản lĩnh chính trị, dao động về lập trường.
Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh niên, đặc biệt là tệ nạn ma tuý, mại
dâm có chiều hướng gia tăng, ngày càng diễn biến phức tạp, khó khắc phục. Tính độc

lập, chủ động, sáng tạo, năng lực thực hành sau đào tạo của một bộ phận thanh niên
còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ tư, thanh niên các xã, thị trấn ở huyện Ba Vì có ý thức tiếp bước truyền
thống yêu nước, lòng nhân đạo của các thế hệ đi trước, một lòng tin theo Đảng, sẵn
sàng góp sức mình cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, quê hương. Đặc điểm
nổi bật, dễ nhận thấy nhất ở thanh niên nói chung, qua nhiều thăng trầm của lịch sử,
trong những gian khó, thử thách đã tôi luyện nên con người Ba Vì với những đức tính
như cần cù, chịu khó, trung thực, kiên cường, tiết kiệm.... Lực lượng thanh niên hiện
nay trên địa bàn được thừa hưởng tất cả những truyền thống quí báu mà cha, anh để
lại. Đó chính là hành trang, là cội nguồn sức mạnh để thanh niên trong huyện mang
theo, bước tiếp trong thời kỳ mới.
Theo cách hiểu thông thường, phát triển là biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ
ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam. Để làm tròn trách nhiệm nặng nề, khó khăn, lâu
dài và xứng đáng với vai trò tiền phong, Đảng phải thường xuyên tiến hành bổ sung


18
vào Đảng những người ưu tú trong quần chúng, làm cho đội ngũ của Đảng không
ngừng được bổ sung những lực lượng đảng viên mới.
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
và thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam và xây dựng đội ngũ đảng viên, có
thể quan niệm: Công tác phát triển đảng viên là một hoạt động cơ bản, thường
xuyên của công tác xây dựng Đảng, là quá trình tạo nguồn, lựa chọn, bồi dưỡng, kết
nạp, rèn luyện những quần chúng ưu tú trong các phong trào cách mạng trở thành
đảng viên cộng sản, nhằm tăng thêm lực lượng mới cho Đảng, bảo đảm sự kế thừa
và phát triển, xây dựng Đảng ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi thời kỳ cách
mạng.
Quan niệm trên đã chỉ ra rằng, công tác phát triển đảng viên xuất phát từ bản

chất của Đảng, về mối liên hệ giữa các bộ phận, các hoạt động của công tác phát triển
đảng với xã hội và với phong trào cách mạng của quần chúng... Về thực chất, quá
trình tiến hành công tác phát triển đảng viên là quá trình hình thành và phát triển
những phẩm chất, nhân cách cộng sản trong bộ phận quần chúng cách mạng tiên tiến
nhất; là quá trình đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn lực con người của Đảng. Công
tác phát triển đảng viên gắn việc giữ vững và tăng cường bản chất của Đảng với công
tác xây dựng, củng cố tổ chức đảng và phong trào cách mạng của quần chúng, tăng
cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Thực tiễn cho thấy, công tác phát
triển đảng viên là một hoạt động có tính quy trình với những phương châm, nguyên tắc
và quy định rất cụ thể, chặt chẽ, bao gồm nhiều công đoạn có quan hệ mật thiết với
nhau, từ tạo nguồn, lựa chọn, bồi dưỡng đối tượng đến thẩm tra, xét duyệt, kết nạp và
bồi dưỡng đảng viên dự bị. Mọi biểu hiện một chiều, hạn chế quá trình phát triển đảng
viên đều tác động đến ý thức quần chúng phấn đấu trở thành đảng viên, hạ thấp hoặc
dập khuôn công tác phát triển đảng viên trở thành công tác hành chính đơn thuần, thụ
động, ngồi chờ để quần chúng đến với Đảng, là biểu hiện sự xa rời, đánh mất quần
chúng, đánh mất vai trò tiền phong của giai cấp công nhân, của một chính đảng cách
mạng chân chính. Chính vì vậy, công tác phát triển đảng viên bao giờ cũng phải xuất
phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn, từng nhiệm vụ của tổ chức
đảng, từng đối tượng cụ thể. Thanh niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì,


19
thành phố Hà Nội là một lực lượng đông đảo, một nguồn bổ sung cho các tổ chức
đảng một đội ngũ đảng viên mới vững chắc cả về số lượng, chất lượng.
Từ khái niệm công tác phát triển đảng viên nói chung và thực tiễn công tác
xây dựng Đảng ở địa phương, cho thấy: Công tác phát triển đảng viên trong thanh
niên của đảng bộ các xã, thị trấn ở huyện Ba Vì là hoạt động cơ bản, thường xuyên
của công tác xây dựng Đảng, là quá trình các đảng bộ xã, thị trấn lựa chọn, giáo
dục, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách những thanh niên ưu tú trong phong trào cách
mạng ở địa phương trở thành đảng viên cộng sản, nhằm trẻ hóa đội ngũ đảng viên,

tăng cường sinh lực, nâng cao sức chiến đấu, đảm bảo sự kế thừa, phát triển và xây
dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng.
Quan niệm trên đã chỉ rõ :
Bản chất công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ xã,
thị trấn là quá trình lựa chọn, giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách những thanh
niên ưu tú trong phong trào cách mạng ở địa phương trở thành đảng viên cộng sản.
Mục đích của công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ
xã, thị trấn ở huyện Ba Vì là tăng cường sinh lực, sức chiến đấu, trẻ hóa đội ngũ đảng
viên; đảm bảo sự kế thừa phát triển liên tục cho Đảng; tạo nền tảng vững chắc cho sự
lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ sở.
Chủ thể của công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ
xã, thị trấn ở huyện Ba Vì là Ban Thường vụ Huyện ủy, đảng ủy, chi bộ trực thuộc
của các đảng bộ xã, thị trấn. Chủ thể giữ vai trò tham mưu, trực tiếp quản lý là các bí
thư chi bộ, ban chấp hành đoàn xã, thị trấn, thôn, xóm, cụm dân cư và đội ngũ cán
bộ, đảng viên ở các xã, thị trấn. Các chủ thể này đóng vai trò quyết định trong xác
định chủ trương, biện pháp, kế hoạch và tổ chức thực hiện mọi hoạt động tạo nguồn
đến hoàn thiện quy trình kết nạp đảng, rèn luyện đảng viên dự bị trở thành đảng viên
chính thức của Đảng, chịu trách nhiệm về chất lượng, kết quả công tác phát triển
đảng viên ở cơ sở.
Đối tượng của công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ
xã, thị trấn ở huyện Ba Vì là những quần chúng thanh niên từ 18 tuổi đến 35 tuổi
thuộc phạm vi các xã, thị trấn quản lý, bao gồm: thanh niên ở các thôn, xóm, cụm


20
dân cư, các cơ quan, trường học, trạm y tế, hợp tác xã nông nghiệp,... Song tập trung
vào những quần chúng trẻ, ưu tú trong lao động, sản xuất, có trình độ, năng lực, nhiệt
tình, hăng hái tham gia các phong trào của địa phương, đơn vị, giác ngộ ý tưởng cách
mạng, có mục tiêu phấn đấu trở thành đảng viên của Đảng.
Lực lượng tham gia công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các

đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì là cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong huyện, của
các ban, ngành, đoàn thể của từng địa phương, đội ngũ cán bộ, đảng viên và những
thanh niên có mục tiêu phấn đấu trở thành đảng viên.
Phương châm công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ
xã, thị trấn ở huyện Ba Vì là coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng đơn
thuần, bảo đảm chặt chẽ về nguyên tắc nhưng không định kiến hẹp hòi, phát triển
đảng viên phải đi đôi với củng cố đội ngũ đảng viên, giữ vững bản chất giai cấp công
nhân của Đảng; phát triển đảng viên mới đi đôi với quá trình sàng lọc, đưa ra khỏi
đảng những đối tượng, đảng viên có những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, suy thoái về
đạo đức, lối sống.
Phương hướng công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ
xã, thị trấn ở huyện Ba Vì là chăm lo bồi dưỡng kết nạp vào Đảng những người xuất
thân từ công nhân, nông dân, trí thức, quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự về lao
động tại địa phương, người lao động thuộc các thành phần kinh tế... Phương hướng
cụ thể: Hàng năm, các đảng bộ xã, thị trấn phấn đấu hoàn thành vượt mức chỉ tiêu
được giao kết nạp đảng viên mới, đảm bảo đúng yêu cầu, nguyên tắc, thủ tục nhằm
đáp ứng nhiệm vụ đặt ra là trẻ hóa đội ngũ, tăng cường số lượng, chất lượng đảng
viên, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đảm bảo sự kế thừa liên tục của
Đảng, góp phần hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ của địa phương.
Về điều kiện, thủ tục kết nạp đảng viên: Sau quá trình phấn đấu, người xin vào
Đảng được ít nhất 01 đảng viên chính thức giới thiệu và có nghị quyết giới thiệu đoàn
viên của Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cơ sở hoặc nghị
quyết giới thiệu đoàn viên công đoàn của Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở; phải tự
nguyện tham gia và được tổ chức đảng cử đi học lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng,
có Giấy chứng nhận cảm tình Đảng nhận do Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp


21
huyện hoặc tương đương cấp. Sau đó, người vào Đảng phải tự làm đơn, trình bày rõ
những nhận thức của mình về mục đích, lý tưởng của Đảng, về động cơ xin vào

Đảng và khai lý lịch đầy đủ, rõ ràng, trung thực theo quy định, chịu trách nhiệm về
nội dung đã khai. Sau khi xem xét thủ tục, thẩm tra lý lịch của người xin vào Đảng,
chi bộ tiến hành hội nghị họp toàn thể đảng viên để ra nghị quyết kết nạp. Nếu được
trên hai phần ba số đảng viên chính thức đồng ý kết nạp người xin vào Đảng thì chi bộ
ra nghị quyết đề nghị cấp uỷ cấp trên xem xét, ra quyết định kết nạp.
Nội dung của công tác phát triển đảng viên của các Đảng bộ xã, thị trấn ở
huyện Ba Vì mang tính toàn diện bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Một là, xác định chủ trương, nhiệm vụ, xây dựng kế hoạch phát triển đảng
viên và triển khai thực hiện. Đây là nội dung do chủ thể của công tác phát triển đảng
viên trong thanh niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì tiến hành, đòi hỏi
phải căn cứ vào hướng dẫn của cấp ủy cấp trên, tình hình thực tiễn, yêu cầu nhiệm vụ
của mỗi thời kỳ để xác định mục tiêu, phương hướng, giải pháp, tiêu chuẩn đảng
viên để xây dựng kế hoạch, bổ sung vào đội ngũ đảng viên hiện có những đảng viên
mới vừa đáp ứng được các nhiệm vụ cụ thể của địa phương, vừa đảm bảo về chỉ tiêu,
số lượng, chất lượng.
Hai là, các đảng bộ, chi bộ trực thuộc xã, thị trấn, cấp ủy tiến hành công tác
tuyên truyền, tổ chức các hoạt động thực tiễn để phát hiện, lựa chọn nguồn cho công
tác phát triển đảng viên. Sau khi xây dựng chủ trương, kế hoạch các cấp ủy, các lực
lượng tham gia công tác phát triển đảng viên trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được
phân công cần đẩy mạnh các hoạt động phong trào thi đua yêu nước, các phong trào
xây dựng địa phương để tìm ra những quần chúng ưu tú để tiếp tục bồi dưỡng, rèn
luyện họ trở thành đảng viên. Nếu nhận thức không đúng và không làm tốt công tác
tạo nguồn sẽ dẫn đến hai xu hướng: thứ nhất, xem nhẹ công tác tạo nguồn phát triển
đảng, chạy theo thành tích, chạy theo số lượng dẫn đến tình trạng kết nạp vào Đảng
những đảng viên chất lượng thấp, những phần tử cơ hội, sẽ làm cho chất lượng tổ
chức đảng, chất lượng đội ngũ đảng viên bị suy giảm; thứ hai, không chú trọng tạo
nguồn, để diễn ra một cách tự phát, nên nguồn tuy đông đảo nhưng không đủ điều


22

kiện, tiêu chuẩn, vì vậy không kết nạp được đảng viên mới, không đảm bảo chất
lượng công tác xây dựng Đảng nói chung.
Ba là, giáo dục, giác ngộ, rèn luyện thử thách những đối tượng nguồn. Mục
đích là để hình thành, phát triển những phẩm chất, nhân cách công sản cho đối tượng
phát triển đảng. Nội dung giáo dục, rèn luyện phải mang tính toàn diện, cả về phẩm
chất và năng lực, cả chính trị, đạo đức và trách nhiệm trên từng vai trò xã hội của đối
tượng phát triển đảng, trong đó ‘‘lấy đạo đức làm gốc’’. Phương pháp cơ bản để giáo
dục, chuyển hóa quần chúng là động viên quần chúng tự giác tu dưỡng, rèn luyện
theo tiêu chuẩn đảng viên, đồng thời, thông qua hoạt động lao động sản xuất, học
tập, tham gia phong trào cách mạng và bằng giáo dục, thuyết phục, nêu gương, tự
phê bình và phê bình trong các đoàn thể mà cảm hóa nâng tầm giác ngộ của quần
chúng từ thấp lên cao, từ giác ngộ dân tộc đến lợi ích giai cấp, từ tán thành những
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đi đến ủng hộ, đấu tranh, bảo vệ Đảng
và tự nguyện xin gia nhập Đảng.
Bốn là, kết nạp quần chúng vào Đảng theo đúng quy định của Điều lệ Đảng
(bao gồm: xây dựng hồ sơ, thẩm tra lý lịch; xét và tổ chức lễ kết nạp). Đây là nội dung
trung tâm trong công tác phát triển đảng viên, mang tính nguyên tắc phải được tiến
hành thận trọng, tỉ mỉ, chính xác và khoa học, nhất là các các bước hướng dẫn người
vào đảng khai lý lịch bản thân, người thân đến thẩm tra xác minh lý lịch, nếu không
được tiễn hành đúng dễ để những phần tử cơ hội, những đối tượng chưa đủ tiêu chuẩn
đảng viên chui vào Đảng. Bên cạnh đó, lễ xét kết nạp cần được thảo luận dân chủ,
công khai trong toàn thể đảng viên ở các chi bộ để đánh giá khách quan nhất năng lực,
phẩm chất của người vào xin vào Đảng, cũng như giúp tìm hiểu sâu sắc hơn những
vẫn đề về lý lịch, lịch sử chính trị của người xin vào Đảng, mà trong lý lịch và trong
thẩm tra có thể còn thiếu sót. Buổi lễ kết nạp là dấu mốc quan trọng đối với mỗi người
đảng viên cộng sản, cần phải đảm bảo chính xác tất cả các nội dung từ khánh tiết, chào
cờ, công bố quyết định kết nạp đến đọc lời tuyên thệ của đảng viên mới, cũng như giao
nhiệm vụ, phân công đảng viên giúp đỡ đảng viên mới. Đây là ghi nhận việc cố gắng
phấn đấu, đánh dấu bước trưởng thành của người xin vào Đảng, cần được tiến hành
trang nghiêm, trang trọng nhưng ấm áp tình đồng chí để quần chúng được kết nạp thấy



23
vào Đảng là một vinh dự, tự hào cần phát huy hơn nữa để xứng đáng là người đảng
viên cộng sản chân chính.
Năm là, bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên dự bị và xem xét đề nghị cấp ủy cấp trên
công nhân đảng viên chính thức. Đây là thời kỳ thử thách toàn điện của người đảng viên,
chịu sự quản lý, giáo dục rèn luyện, phân công công tác, thử thách, kiểm tra chặt chẽ của
tổ chức đảng. Thông qua quá trình bồi dưỡng, rèn luyện phát hiện năng lực của từng đảng
viên, phát triển hơn nữa những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm còn tồn tại ở họ.
Các cấp uỷ, tổ chức đảng, cần phải tạo ra môi trường, những điều kiện, hoàn cảnh thuận
lợi, thiết thực thúc đẩy đảng viên trẻ nảy sinh nhu cầu và động cơ học tập, tu dưỡng, rèn
luyện đúng đắn. Đồng thời phân công, giao nhiệm vụ cho đảng viên trẻ trong hoạt động
thực tiễn để họ có điều kiện cọ xát, rèn luyện, thử thách. Sau 12 tháng, kể từ ngày chi bộ
kết nạp, đảng viên dự bị viết bản tự kiểm điểm nêu rõ ưu điếm, khuyết điểm về thực hiện
nhiệm vụ đảng viên và biện pháp khắc phục khuyết điểm, tồn tại; đề nghị chi bộ xét, công
nhận đảng viên chính thức. Đảng viên chính thức được phân công giúp đỡ viết bản nhận
xét đảng viên dự bị nêu rõ ưu điểm, khuyết điểm về lập trường tư tưởng, nhận thức về
Đảng, đạo đức, lối sống và mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao của đảng viên dự bị.
Đồng thời, đoàn thể chính trị - xã hội nơi làm việc và chi uỷ nơi cư trú của đảng viên dự
bị có bản nhận xét về ưu điểm, hạn chế của đảng viên đó để chi uỷ tổng hợp ý kiến nhận
xét để báo cáo chi bộ ra nghị quyết đề nghị công nhận đảng viên chính thức. Sau khi có
quyết định của cấp ủy có thẩm quyền công nhận đảng viên chính thức, chi ủy công bố
quyết định trong kỳ sinh hoạt chi bộ gần nhất.
Hình thức, biện pháp công tác phát triển đảng viên của các đảng bộ xã, thị
trấn ở huyện Ba Vì là thông qua quá trình rèn luyện, tham gia các hoạt động phong
trào của địa phương, của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, kết quả quá trình
học tập chính trị dành cho đối tượng bồi dưỡng kết nạp Đảng, các hình thức bồi dưỡng
của tổ chức với quá trình tự rèn luyện, phấn đấu của người phấn đấu vào Đảng.
Công tác phát triển đảng viên bao gồm các khâu, các bước, cần phải được tiến

hành thường xuyên, liên tục; mỗi khâu, mỗi bước có vị trí, vai trò riêng nhưng bổ
sung và quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa là điều kiện, vừa là tiền đề của nhau. Vì vậy,
công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện


24
Ba Vì phải thực hiện đầy đủ, không được xem nhẹ, bỏ qua bất kỳ khâu, bước nào của
quy trình phát triển đảng viên.
* Vai trò của công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ
xã, thị trấn ở huyện Ba Vì
Một là, nâng cao chất lượng, trẻ hóa đội ngũ đảng viên, đảm bảo sự kế thừa
phát triển của tổ chức đảng cơ sở. Công tác phát triển đảng viên trong thanh niên có
vai trò quan trọng trong xây dựng đội ngũ đảng viên cả về số lượng và chất lượng,
đặc biệt là phẩm chất, cơ cấu độ tuổi của đội ngũ đảng viên hiện có, góp phần bổ
sung cho Đảng những quần đảng viên trẻ về tuổi đời, tuổi Đảng, có trình độ, năng
lực tốt, năng động sáng tạo, nhiệt tình... nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên. Quá trình tạo nguồn, bồi dưỡng, rèn
luyện cho những quần chúng trẻ có mục tiêu phấn đấu vào Đảng là làm cho họ nâng
cao nhận thức, xây dựng thái độ, động cơ phấn đấu đúng đắn, vì mục tiêu lý tưởng
của Đảng; tu dưỡng phẩm chất, đạo đức cách mạng và nâng cao năng lực ngang tầm
với nhiệm vụ; xây dựng thế giới quan, phương pháp luận để xem xét, xử lý đúng đắn
các vấn đề thực tiễn đặt ra. Mặt khác, thông qua quá trình phấn đấu vào Đảng làm
cho mỗi thanh niên nhận thức phát huy được mặt mạnh, mặt tốt và nhận thức được
những hạn chế, yếu kém để khắc phục những khuyết điểm, hoàn thiện nhận cách của
một người đảng viên cộng sản. Qua đó, sàng lọc được thanh niên đủ tiêu chuẩn để
trở thành đảng viên, tiếp tục theo dõi, giúp đỡ cho những thanh niên chưa đủ tiêu
chuẩn cho đến khi họ đạt được mục tiêu trong quá trình phấn đấu, từ đó làm cho đội
ngũ đảng viên của Đảng tăng cả về số lượng, chất lượng, năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu tăng lên không ngừng.
Hai là, công tác phát triển đảng trong thanh niên có vai trò đặc biệt quan trọng

trong xây dựng tổ chức, công tác cán bộ của các địa phương về lâu dài, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của các xã, thị
trấn ở huyện Ba Vì. Thực tiễn đã khẳng định, không thể có tổ chức đảng vững mạnh
khi đội ngũ đảng viên ở đó yếu kém. Mỗi đảng viên không những là người lãnh đạo,
trực tiếp xây dựng Đảng mà còn là người tuyên tuyền, thực hiện, bảo đảm cho đường
lối, chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống. Do đó, ngay từ bước đầu tiên, đảng viên


25
phải được bồi dưỡng, rèn luyện tốt, từ đó đánh giá một cách chính xác năng lực,
phẩm chất của người được kết nạp, nhất là những người trẻ tuổi, sàng lọc và chọn lựa
được những đối tượng chân chính, loại trừ ngay từ ban đầu những phần tử cơ hội,
không đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi tổ chức đảng, làm cho Đảng thực sự trong
sạch ngay từ khi tiến hành công tác tạo nguồn. Trong tương lai, những đảng viên trẻ
sau khi được bồi dưỡng, rèn luyện, sàng lọc sẽ trở thành hạt nhân của tổ chức đảng
cơ sở của các đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì, có những người sẽ giữ chức vụ
lãnh đạo quan trọng ở các cấp. Quá trình tạo nguồn đến thực hiện các khâu, các bước
công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Ba Vì
cần phải được thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình. Bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên
ngay từ những bước ban đầu chính là để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên, tổ chức đảng và là bước chuẩn bị cho công tác cán bộ về lâu dài của hệ thống
chính trị ở cơ sở.
Ba là, công tác phát triển đảng viên trong thanh niên góp phần thúc đẩy các
phong trào quần chúng của các xã, thị trấn. Quá trình công tác phát triển đảng viên
trong thanh niên của các đảng bộ xã, thị trấn không thể tách rời những hoạt động
phong trào thực tiễn ở cơ sở và chỉ có thông qua các phong trào vai trò hạt nhân chính
trị ở cơ sở của tổ chức đảng mới được phát huy, cũng như bồi dưỡng, rèn luyện đội
ngũ đảng viên trong thực tiễn. Những phẩm chất, năng lực thực sự của mỗi người sẽ thể
hiễn rõ nét thông qua các hoạt động phong trào, những ưu điểm, hạn chế, uy tín trong
quần chúng, nhất là đối với đảng viên trẻ luôn có sự hăng hái, nhiệt tình, tích cực đối với

công việc, thông qua đó động cơ, mục tiêu vào Đảng của họ cũng sẽ được bộc lộ, được
đánh giá khách quan. Như vậy, thông qua công tác lựa chọn nguồn, bồi dưỡng, rèn
luyện nguồn, cũng như đảng viên dự bị đã trực tiếp thúc đẩy sự phát triển các phong trào
của các xã, thị trấn ở huyện Ba Vì.
Bốn là, công tác phát triên đảng viên trong thanh niên góp phần phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng cho hệ thống chính trị, nhiệm vụ phát triển kinh tế ở
các địa phương. Thực hiện quy trình công tác phát triển đảng viên trong thanh niên,
mỗi cấp ủy đảng bằng nhiều hình thức biện pháp đã tác động rất lớn đến nhận thức
của đối tượng, thúc đẩy họ có những hoạt động tư duy, tích cực tham gia học tập, tự


×