Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ, CHUYỂN DỊCH cơ cấu KINH tế THEO NGÀNH TRÊN địa bàn TỈNH hà NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.54 KB, 83 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Cơ cấu lao động
Công nghiệp
Công nhân kỹ thuật
Cụm công nghiệp
Dịch vụ
Khu công nghiệp
Lâm nghiệp
Năng suất lao động
Nhà xuất bản
Nông nghiệp
So sánh
Thuỷ sản

Chữ viết tắt
CCLĐ
CN
CNKT
CCN
DV
KCN
LN
NSLĐ
Nxb
NN
SS
TS

Chuyển dịch



CD

Xây dựng
Phân phối

XD
PP

Thương mại - dịch vụ

TM - DV


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO
ĐỘNG THEO NGÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM

1.1

Những vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu lao động

1.2

theo ngành trong nền kinh tế

Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến

10
10

chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh
Hà Nam
Chương 2

THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
THEO NGÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM

2.1
2.2

Một vài nét về đặc điểm của tỉnh Hà Nam
Thành tựu và hạn chế, nguyên nhân trong chuyển dịch cơ
cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Hà Nam

Chương 3

20
28
28
34

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU LAO ĐỘNG THEO NGÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
HÀ NAM ĐẾN NĂM 2020


55

3.1

Phương hướng chuyển dịch chuyển dịch cơ cấu lao động
55

3.2

theo ngành trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2020
Giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa
bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2020

62
76
78
82

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa hội thì việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế (CDCCKT) nói chung, chuyển dịch cơ cấu lao động (CDCCLĐ) nói
riêng là một tất yếu khách quan, phản ánh trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất (LLSX) và phân công lao động xã hội. Hình thức, quy mô và bước đi
của quá trình chuyển dịch CCLĐ phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, đặc

điểm, điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi khu vực và
mỗi tỉnh, thành phố là quan trọng nhất. Nước ta phấn đấu đến năm 2020 cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại để đạt được mục
tiêu đó thì nhiệm vụ cấp bách nhất hiện nay là phải đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Mà cơ
cấu lao động và cơ cấu kinh tế lại có mối liên hệ mật thiết với nhau. Để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công nhất thiết phải có sự chuyển dịch cơ
cấu lao động phù hợp. Do đó vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động để đẩy
nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng hướng là một vấn đề quan trọng
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, cần được nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay.
Tỉnh Hà Nam nằm ở Tây Nam châu thổ sông Hồng, trong vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ, là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội với diện tích đất tự nhiên
84.952 ha; có thị xã Phủ Lý là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá của tỉnh,
cách Hà Nội 58 km, tương lai không xa sẽ trở thành Thành phố vệ tinh của Hà
Nội. Hà Nam có mạng lưới giao thông rất thuận lợi, là tỉnh nằm trên trục
đường sắt Bắc Nam và quốc lộ 1A - huyết mạch giao thông quan trọng của cả
nước, tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu hợp tác kinh tế với các tỉnh, thành
phố và các trung tâm kinh tế lớn của cả nước cũng như từ đó tới các cảng
biển, sân bay ra nước ngoài. Bên cạnh đó Tỉnh còn có địa hình đa dạng vừa có
đồng bằng, có vùng bán sơn địa, vừa có vùng trũng. Vùng đồi núi phía Tây có
nhiều tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là đá vôi, để phát triển công nghiệp sản
3


xuất vật liệu xây dựng, nhất là xi măng. Vùng đồng bằng có diện tích đất đai
màu mỡ, bãi bồi ven sông Hồng, sông Châu, là tiền đề để phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hoá, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm và du lịch
sinh thái. Địa hình đó là điều kiện để phát triển kinh tế đa dạng, với hướng kết
hợp kinh tế vùng đồng bằng với kinh tế vùng đồi núi. Bên cạnh những thế
mạnh về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, về nguồn lực lao động để phát

triển kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Mặc dù thời gian qua, tỉnh Hà Nam đã rất cố gắng, với sự hỗ trợ của
Trung ương, đã đạt được những thành công nhất định trong việc chuyển dịch
cơ cấu lao động theo ngành. Trong đó, tỉ trọng lao động trong các ngành nông
nghiệp truyền thống đã giảm để nhường chỗ cho lao động trong các ngành
công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, hiện nay, đại bộ phận lao động tỉnh Hà
Nam vẫn nằm trong các ngành nông nghiệp truyền thống, hơn nữa trình độ
của đội ngũ lao động còn thấp. Mặt khác, quá trình công nghiệp hóa, phát
triển kinh tế thị trường và đô thị hóa ngày càng làm gia tăng những hạn chế,
khó khăn của người lao động trên địa bàn nông thôn: việc làm, thu nhập, đời
sống nảy sinh những mâu thuẫn mới. Do đó, việc đánh giá xem việc chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành (giữa các ngành và nội bộ một số ngành chủ
yếu) của tỉnh Hà Nam thời gian qua đã đi đúng hướng chưa và được thực hiện
theo những cung cách đã phù hợp chưa là điều rất quan trọng và có ý nghĩa.
Không chỉ giúp tỉnh Hà nam có được sự chuyển dịch đúng hướng để đạt được
sự tăng trưởng cao, bền vững theo hướng CNH, HĐH, mà còn hy vọng rút ra
được những kinh nghiệm quý cho các địa phương khác của Việt nam. Mặt
khác, để đạt được mục tiêu của tỉnh Hà Nam là đến năm 2020 cơ bản trở
thành tỉnh công nghiệp, với CCKT: Thương mại - Dịch vụ, Công nghiệp Xây dựng và Nông, lâm, thủy sản thì đòi hỏi CCLĐ theo ngành của Tỉnh phải
chuyển dịch như thế nào? Hơn nữa, để đẩy nhanh tái cấu trúc nền kinh tế ở
tỉnh Hà Nam thì đòi hỏi CCLĐ theo ngµnh phải chuyển dịch như thế nào?
4


Để trả lời những câu hỏi trên thì vấn đề đặt ra là phải có những nghiên
cứu hệ thống, bài bản về cơ sở lý thuyết chuyển dịch CCLĐ theo ngành nói
chung và ở cấp độ địa phương nói riêng. Trên cơ sở đó mà phân tích, đánh giá
thực trạng chuyển dịch CCLĐ theo ngành ở tỉnh Hà Nam để tìm ra những giải
pháp thúc đẩy quá trình này.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu lao động theo

ngành trên địa bàn tỉnh Hà Nam” làm luận văn cao học kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có quan hệ biện chứng với CDCCLĐ,
nhằm khai thác và phát huy có hiệu quả nguồn lực lao động và các nguồn lực
khác của Tỉnh. Vấn đề CDCCLĐ đã được Đảng, Nhà nước ta đề cập trong
nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, cho đến nay đã có
nhiều tác giả và nhiều công trình nghiên cứu phân tích vấn đề này ở nhiều góc
độ khác nhau như:
- “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa nền kinh tế quốc
dân” của GS, TS Ngô Đình Giao, Nxb CTQG, năm 1994. Trong cuốn sách
này tác giả đã phân tích luận giải những nhân tố tác động đến việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, từ đó đề ra một số giải pháp
cơ bản để thực hiện sự chuyển dịch đó, tác giả đã tập trung vào luận giải cơ
chế, chính sách của Đảng, Nhà nước là nhân tố cơ bản quyết định đến việc
chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
-“ Chuyển dịch cơ cấu lao động Việt Nam trogn thời kỳ đổi mới (từ
1986 đến nay)- Phạm Đức Thành – Tạp chí Kinh tế và phát triển .2006.-số
112-tháng 10.-Tr43-46
Bài viết đánh giá những thành tựu đạt được, các mặt còn tồn tại chủ
yếu của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của Việt Nam trong 20 năm
qua (1986-2005); Nêu khái quát mục tiêu và giải pháp cơ bản để thực hiện
chuyển dịch cơ cấu lao động của nước ta đến năm 2010.

5


-“Chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn và tác động
của nó đến củng cố quốc phòng nước ta hiện nay”
Luận án tiến sĩ kinh tế về.“Vấn đề lao động và việc làm” của GS, TS
Đỗ Thế Tùng năm 1996. “Phát triển nguồn nhân lực để công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước” của PGS, TS Phan Thanh Phố, Tạp chí kinh tế và phát
triển số 5/1995.
-“Thực trạng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn”
của Hoàng Kim Ngọc, Tạp chí lao động và xã hội số tháng 2/2001. “Vấn đề
tạo nguồn nhân lực tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của GS, TSKH
Vũ Huy Chương (chủ biên), Nxb CTQG, Hà nội 2002.
Những bài viết trên đã tập trung đi sâu vào luận giải phát triển nguồn
nhân lực với tính cách là một chủ thể trong quá trình phát triển, đưa ra những
khái niệm, nội dung và nhân tố tác động đến sự phát triển nguồn nhân lực,
đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta trên cơ sở đó đưa ra một số giải
pháp cơ bản để phát triển nguồn nhân lực trong thời gian tới.
Ngoài ra còn có một số bài viết có liên quan đến công trình như:
Bài báo: “Chuyển dịch lao động trong các ngành kinh tế quốc dân,
thực trạng, nguyên nhân và xu hướng”của Trần Minh Ngọc, Tạp chí Nghiên
cứu kinh tế. Bài viết đưa ra những quan niệm về sự cần thiết phải chuyển dịch
cơ cấu lao động, trên cơ sở đó bài báo đi vào phân tích những đặc điểm tình
hình chuyển dịch cơ cấu lao động trong một số ngành kinh tế chủ yếu: công
nghiệp và xây dựng, thương mại-dịch vụ, nông nghiệp… trên cả hai chỉ tiêu
số lượng tuyệt đối và tương đối, để chỉ ra tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động
chậm chạp của Việt Nam thời kỳ 1990-2000 và nguyên nhân của nó.
Bài báo: “Chuyển dịch cơ cấu lao động Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
(từ 1986 đến nay)” của Phạm Đức Thành - Tạp chí Kinh tế và phát triển: Bài
viết đã đánh giá những thành tựu đạt được, các mặt tồn tại chủ yếu của quá
trình chuyển dịch cơ cấu lao động của Việt Nam trong 20 năm qua (1986-

6


2005); Nêu khái quát mục tiêu và giải pháp cơ bản để thực hiện chuyển dịch
cơ cấu lao động của nước ta đến năm 2010.

Bài báo: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam những năm đầu thế
kỷ XXI” của TS Nguyễn Trần Quế : Bài viết đã đi sâu phân tích và đánh
giá một cách tổn quát sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong
những năm 1990-2002, chỉ ra những điểm mạnh, yếu, xu hướng chuyển
dịch và các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh
hơn….Tác giả đã dựng lên một bức tranh tổng quát về chuyển dịch cơ cấu
Kinh tế của Việt Nam trong những năm 1990-2002.
Bài báo: “Thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động vùng
Đồng bằng sông Hồng” của Nguyễn Sinh Cúc - Tin tham khảo nội bộ kinh
tế-xã hội. - 1995 . - số 11 đã nêu những nguyên nhân, đặc điểm của quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động và đi theo nó là cơ cấu ngành nghề của các tỉnh
Đồng bằng sông Hồng từ năm 1989 trở lại đây và hiệu quả kinh tế - xã hội
của nó.
Bài báo: “Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn: hiện trạng thời
kỳ 1990-2005 và triển vọng đến năm 2015” của Nguyễn Thị Lan Hương,
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. - 2007, số 11,bài báo đã tập trung phân tích
những đặc điểm về quy mô dân số và lao động, trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn kỹ thuật; tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động giữa 3 nhóm
ngành: Nông - lâm - ngư, công nghiệp - xây dựng và nhóm ngành dịch vụ;
Vấn đề việc làm và giải quyết thất nghiệp lao động nông thôn Việt Nam
trong giai đoạn 1990-2005; Đồng thời trên cơ sở dự báo quan hệ cung-cầu
lao động nông thôn đến năm 2015 tác giả đưa ra những định hướng cơ bản
về chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn trong những năm tới.
Đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn và tác
động của nó đến củng cố quốc phòng nước ta hiện nay” của Phạm Anh Tuấn
7


- Luận án tiến sỹ kinh tế - 2004. Luận án nghiên cứu những vấn đề cơ bản của
quá trình chuyển dịch CCLĐ nông nghiệp, nông thôn, đề xuất những giải

pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình chuyển dịch
CCLĐ nông nghiệp, nông thôn đồng thời với củng cố quốc phòng đất nước,
góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề “Chuyển dịch cơ
cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Hà Nam” dưới góc độ khoa học
kinh tế chính trị như một công trình nghiên cứu chuyên ngành.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về CDCCLĐ theo ngành trên địa bàn
tỉnh Hà Nam và đề xuất những phương hướng, giải pháp tiếp tục chuyển dịch
CDCCLĐ theo ngành ở tỉnh Hà Nam thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận về CDCCLĐ theo ngành ở tỉnh Hà Nam.
Đánh giá thành tựu, hạn chế, xác định rõ nguyên nhân và những vấn đề
đặt ra trong chuyển dịch CCLĐ theo ngành của tỉnh Hà Nam.
Xác định phương hướng, giải pháp nhằm thúc đẩy CDCCLĐ theo
ngành trên địa bàn tỉnh Hà Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu CDCCLĐ theo ngành.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài nghiên cứu CDCCLĐ theo các ngành công nghiệp,
dịch vụ và nông nghiệp trong nền kinh tế tỉnh Hà Nam.

8


Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Về thời gian nghiên cứu: từ năm 2009 đến năm 2014.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Luận văn dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và lịch sử của chủ
nghĩa Mác-Lênin để nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn CDCCLĐ theo
ngành, đề xuất phương hướng và giải pháp CDCCLĐ theo ngành trên địa bàn
tỉnh Hà Nam.
* Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị MácLênin là trừu tượng hóa khoa học; phương pháp kết hợp lôgíc với lịch sử,
phương pháp khảo sát, điều tra, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên
gia...để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra của luận văn.
6. Ý nghĩa của đề tài
Làm rõ sự tác động của CDCCLĐ theo ngành trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Đưa ra phương hướng và giải pháp CDCCLĐ theo ngành trên địa bàn
tỉnh Hà Nam thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
xây dựng kế hoạch, qui hoạch phát triển nguồn nhân lực và CDCCLĐ theo
ngành ở tỉnh Hà Nam và các địa phương khác.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo và giảng dạy kinh tế chính
trị trong hệ thống giáo dục và đào tạo trong nước.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
THEO NGÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM


1.1. Những vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu lao động theo
ngành trong nền kinh tế
1.1.1. Cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động
* Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu kinh tế được xem xét dưới các góc độ khác nhau như: cơ cấu
kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế thành phần. Trong đó, cơ
cấu kinh tế ngành giữ vai trò quan trọng nhất. Cơ cấu kinh tế ngành, lĩnh vực
kinh tế là cơ cấu phản ánh số lượng, vị trí, tỷ trọng các ngành nghề, lĩnh vực
bộ phận cấu thành nền kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế phản ánh mặt vật chất,
kỹ thuật của cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế quốc dân, cơ cấu ngành kinh tế
giữ vai trò quan trọng nhất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành kinh tế là nét đặc trưng của các nước đang
phát triển bởi vì, sự thay đổi của cơ cấu kinh tế biểu hiện sự thay đổi của lực
lượng sản xuất. Đối với các nước đang phát triển, lực lượng sản xuất biến đổi
mạnh mẽ, phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc kéo theo sự thay đổi
về cơ cấu kinh tế là điều đương nhiên. Mặt khác, quá trình phát triển cũng
chứng kiến sự hình thành và phát triển những ngành nghề mới trên cơ sở phát
huy lợi thế so sánh của mỗi nền kinh tế.
Từ đó, có thể hiểu: Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp
thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các nhóm ngành, phản
ánh trình độ phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất của nền kinh tế quốc dân.
Nói đến cơ cấu ngành kinh tế trước hết là nói đến tổng thể các nhóm
ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của một quốc gia. Tùy theo
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội mà
10


nền kinh tế được chia thành các nhóm ngành khác nhau. Về cơ bản, nền
kinh tế bao gồm các nhóm ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.

Trong đó, nhóm ngành nông nghiệp bao gồm các ngành nông, lâm, ngư
nghiệp; nhóm ngành công nghiệp bao gồm các ngành công nghiệp nặng,
công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, công nghiệp khai thác; nhóm
ngành dịch vụ và du lịch bao gồm thương mại, du lịch, dịch vụ…
Cơ cấu kinh tế ngành còn biểu hiện số lượng và tỷ trọng của các nhóm
ngành. Theo đó, cơ cấu kinh tế ngành chỉ rõ số lượng các ngành, mối tương
quan giữa các ngành, vị trí, vai trò của các ngành trong nền kinh tế.
Như vậy, khi nền kinh tế hình thành nên các nhóm ngành, các mối quan
hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành cũng được hình thành, các mối
quan hệ tương tác này hướng vào các mục tiêu đã xác định. Cơ cấu kinh tế
nói chung, cơ cấu kinh tế ngành nói riêng là một phạm trù trừu tượng, liên tục
biến đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, muốn nắm vững bản chất
của cơ cấu kinh tế ngành và thực thi các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành một cách có hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của
nền kinh tế quốc dân.
* Chuyển dịch cơ cấu lao động
Theo Giáo trình Kinh tế Nguồn nhân lực, trường Đại học Kinh tế quốc
dân: "Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình thay đổi tỷ trọng và chất
lượng lao động vào các ngành và các vùng khác nhau. Chuyển dịch cơ cấu lao
động theo hướng tiến bộ là quá trình thay đổi tỷ trọng và chất lượng lao động
vào các ngành, các vùng theo xu hướng hợp lý nhằm sử dụng đầy đủ và có
hiệu quả cao các nguồn nhân lực để tăng trưởng và phát triển kinh tế" [20,73].
Theo PGS.TS Nguyễn Tiệp, "Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay
đổi trong quan hệ tỷ lệ, cũng như xu hướng vận động của các bộ phận cấu
thành nên nguồn nhân lực, được diễn ra trong một không gian, thời gian và
theo một chiều hướng nhất định. Đó là quá trình tổ chức và phân công lại lực
11


lượng lao động, qua đó làm thay đổi quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận của nguồn

nhân lực" [34, tr. 332]. Chuyển dịch CCLĐ bao gồm: Chuyển dịch cơ cấu
cung lao động theo hướng thay đổi cơ cấu số lượng và chất lượng lao động
đáp ứng yêu cầu sản xuất và thị trường lao động (thể hiện ở trình độ học vấn;
trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề; nhân cách trong lao động; tính năng
động xã hội của lao động cũng như khả năng sẵn sàng, sự linh hoạt, tính thích
ứng, tác phong và văn hóa trong lao động...); Chuyển dịch cơ cấu cầu lao
động (sử dụng lao động) theo ngành, theo vùng, theo thành phần kinh tế; theo
tình trạng việc làm...
Bàn về CCLĐ, theo Mác có nghĩa là bàn về cấu trúc bên trong của quá
trình phân công lao động xã hội. Đó là các quan hệ tỷ lệ cũng như xu hướng
vận động, phát triển nguồn lao động giữa các ngành kinh tế (công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ...), các vùng kinh tế (đồng bằng, trung du, miền núi, ven
biển...) và các thành phần kinh tế (Nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản
Nhà nước...)
Sự hình thành và phát triển CCLĐ thường gắn với những điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội từng nước, từng vùng và từng doanh nghiệp trong từng
thời gian nhất định. CCLĐ tồn tại, biến đổi thích ứng với sự biến động của
các điều kiện đó. Mọi sự biến đổi của CCLĐ không thể ắp đặt chủ quan theo
ý muốn của con người, mà phải dựa vào sự thay đổi của các yếu tố khách
quan và các mục tiêu kinh tế - xã hội được đặt ra.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: CCLĐ lacsuwj thay đổi mối quan
hệ tỉ lệ về số lượng và chất lượng lao động trong các ngành, các vùng, các
thành phần kinh tế; phản ánh trình độ phát triển của LLSX, của phân công
lao động xã hội; biểu hiện xu thế phát triển của các ngành, các thành phần
và các vùng trong nền kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi tăng, giảm của từng bộ
phận trong tổng thể lao động theo một khoảng thời gian nào đó. Còn chuyển
12



dịch cơ cấu lao động theo ngành là sự thay đổi trong quan hệ tỷ lệ, cũng như
xu hướng vận động về lao động của các ngành diễn ra trong một không gian,
thời gian và theo xu hướng nhất định.
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
* Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
Kế thừa kết quả nghiên cứu ở trên về chuyển dịch cơ cấu lao động
nói chung trong nền kinh tế. Tác giả luận văn có thể khái quát quan niệm
về CDCCLĐ theo ngành như sau: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
là sự thay đổi trong quan hệ tỷ lệ, cũng như xu hướng vận động về lao
động của các ngành diễn ra trong một không gian, thời gian và theo chiều
hướng nhất định.
Thực chất, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là quá
trình phân bố lại lực lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế theo những
xu hướng tiến bộ nhằm mục đích sử dụng lao động có hiệu quả hơn. Quá trình
phân bố lại lực lượng lao động vừa diễn ra trên quy mô toàn bộ nền kinh tế
vừa diễn ra theo phạm vi của từng nhóm ngành. Lao động của một ngành thay
đổi chỉ khi có sự thay đổi về số, chất lượng lao động trong nội bộ ngành đó.
Chẳng hạn, nếu lao động của nhóm ngành nông nghiệp giảm đi, thì rõ ràng
việc giảm này là do sự thay đổi lao động của 3 ngành nhỏ nông nghiệp, lâm
nghiệp và ngư nghiệp. Có thể trong mỗi ngành nhỏ số lao động có thể tăng
lên hay giảm xuống nhưng xét trên cả 3 ngành thì số lao động giảm đi. Như
vậy, ở đây đã có sự thay đổi về lao động của từng ngành nhỏ so với tổng số
lao động của ngành nông nghiệp, đây chính là sự thay đổi về cơ cấu lao động
trong nội bộ ngành nông nghiệp.
Có thể khẳng định rằng có mối liên hệ mật thiết giữa chuyển dịch cơ
cấu lao động nội bộ ngành và sự thay đổi lao động của ngành, suy rộng ra đó
là mối liên hệ giữa việc chuyển dịch cơ cấu lao động nội bộ ngành và cơ cấu
lao động theo ngành. Như vậy, kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
13



động theo ngành là sự thay đổi cấu trúc lao động trong nội bộ mỗi ngành. Hơn
nữa, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành còn làm thay đổi chất
lượng lao động trong từng ngành. Mỗi ngành đều có những đặc tính riêng,
do đó đặc điểm lao động của các ngành khác nhau thể hiện trước hết là
trình độ của lao động. Do vậy, quá trình chuyển dịch dẫn đến sự di chuyển
lao động không chỉ về lượng, mà còn là di chuyển về chất lượng lao động
của từng ngành.
* Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trong nền kinh
tế và trên địa bàn tỉnh Hà Nam
Quá trình CDCCLĐ theo ngành trong nền kinh tế và trên địa bàn ở tỉnh
Hà Nam là hết sức cần thiết. Điều đó bắt nguồn từ những lý do cơ bản sau:
Một là, do yêu cầu phát huy vai trò của lao động trong nền
sản xuất xã hội
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh vai trò
to lớn của lao động. Mác viết “lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa
con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động chính mình,
con người làm trung gian điều tiết và kiểm soát sự trao đổi chất giữa họ và tự
nhiên”. Ông còn cho rằng “con người không chỉ làm biến đổi hình thái những
cái do tự nhiên cung cấp... Con người cũng đồng thời thực hiện các mục đích
tự giác của mình mục đích ấy quyết định phương thức hành động của họ
giống như một quy luật và bắt ý chí của họ phải phục tùng nó” . Trong bộ tư
bản, Mác còn phân tích một cách khoa học vai trò của tư bản khả biến đối với
việc tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Lênin cũng đánh giá cao vai trò của lao
động, Ông cho rằng “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động”.
Kế thừa và phát huy những di sản quý báu của các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác-Lênin và chọn lọc những kiến thức, những thành quả của kinh tế
học hiện đại, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn nước ta. Đảng và Nhà nước ta
14



luôn quan tâm đến con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng ta khẳng định
“Phát huy yếu tố con người và lấy con người làm mục đích cao nhất của mọi
hoạt động”. [14, tr.9].
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được thông qua tại đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VII, đã đặt con người vào vị trí trung tâm, lấy mục
tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Đại hội
đã khẳng định: “Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền
thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và
công nghệ...đó là nguồn lực quan trọng nhất”. Đến đại hội lần thứ VIII, một
lần nữa Đảng ta lại khẳng định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. [21, tr.35].
CNH, HĐH phát triển theo con đường rút ngắn hiện đại ở nước ta nói
chung và mỗi địa phương nói riêng phụ thuộc khá lớn vào việc khai thác, sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực, bao gồm nguồn tài nguyên, nguồn vốn, khoa
học công nghệ, đặc biệt là nguồn lao động. Trong đó, nguồn lực lao động có ý
nghĩa quyết định, bởi vì mọi hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần, rút cuộc
đều là hoạt động của người lao động. Chính vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX đã khẳng định rằng: Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát
triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH.
Hai là, do yêu cầu thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, một nội dung
của CNH, HĐH
Với điểm xuất phát là một nước nông nghiệp đang ở thời kỳ đầu của quá
trình CNH, HĐH. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã chú trọng
đến việc chuyển dịch cơ cấu lao động nhằm tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải
thiện đời sống cho nhân dân bằng nhiều chủ trương, chính sách. Do đó, cơ cấu
lao động trong nước đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng lao động công


15


nghiệp và dịch vụ; giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp. Tuy nhiên quá trình
chuyển dịch này diễn ra còn chậm, chưa đồng đều so với khả năng thực tế
Có thể nói cho đến nay CCLĐ đang còn mất cân đối giữa các ngành,
các khu vực (giữa sản xuất và phi sản xuất), giữa các vùng (đô thị và nông
thôn) giữa các thành phần kinh tế (Nhà nước, tập thể và tư nhân...) đã gây ra
những khó khăn cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội và tạo ra sự mất cân
đối về phân bố lao động giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế
trong quá trình CNH, HĐH.
Chuyển dịch CCLĐ theo ngàng là hệ quả tất yếu của chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Hà Nam là một tỉnh hiện đang có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
với tốc độ nhanh và tích cực, từ ngành nông nghiệp có năng suất lao động
thấp sang ngành công nghiệp và dịch vụ có năng suất lao động cao hơn. Đặc
biệt là sự hình thành và phát triển nhanh các khu công nghiệp tập trung đã,
đang và sẽ thu hút một lực lượng lao động lớn của xã hội.
Ba là, do yêu cầu của việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước trong thời kỳ mới
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển biến toàn diện, lâu
dài được tiến hành trên tất cả của lĩnh vực của đời sống, trong đó trọng tâm là
phát triển kinh tế, muốn làm được điều này thì việc chuyển dịch cơ cấu lao
động theo ngành là rất cần thiết để tạo ra đội ngũ những người lao động có
trình độ tay nghề cao ở những lĩnh vực ngành nghề khác nhau, từ đó tạo ra sự
chuyển dịch lao động theo những ngành đó, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và của tỉnh Hà
Nam nói riêng. Như vậy, chính yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước mà đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch cơ cấu lao động theo
ngành cho phù hợp với từng lĩnh vực mà ở đó đang rất cần đội ngũ có chuyên
môn tạo ra năng xuất lao động ngày càng cao.


16


Bốn là, do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang diễn ra
nhanh chóng, tác động mạnh mẽ đến các châu lục trên thế giới. Quy mô GDP
và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển chủ yếu dựa vào lao động
trí tuệ và công nghệ cao. Đến lượt nó, sự phát triển của các nước này sẽ tạo ra
nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia khác, cho phép duy trì tốc độ tăng
trưởng cao, đẩy mạnh chuyển dịch CCLĐ hợp lý, tạo ra nhiều công ăn việc
làm, cải thiện đời sống cho người lao động. Tuy nhiên, để làm được điều đó,
đòi hỏi các quốc gia đang phát triển phải thay đổi cơ cấu và chất lượng nguồn
lực con người trên cơ sở đầu tư phát triển con người, tạo lập kỹ năng, tay
nghề, năng lực sáng tạo để làm ra các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao.
Người lao động với tư cách là người cung ứng sức lao động cần nhanh chóng
tri thức hóa để có sức cạnh tranh trên thị trường sức lao động và có khả năng
thích ứng cao trong giai đoạn mới giai đoạn kinh tế tri thức - hiên nay.
Hiện nay, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại, đã làm cho trình độ sản xuất của các ngành, các lĩnh vực tăng lên
một bước rõ rệt. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, thực trạng về trình độ
công nghệ của tỉnh Hà Nam hiện nay còn rất thấp; 30% doanh nghiệp, chủ
yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có trình độ tiên tiến. Còn 70%
doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp trong nước và có trình độ trung bình
và lạc hậu. Trình độ công nghệ lạc hậu là nguyên nhân chính làm cho hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thấp, chất lượng sản phẩm
kém, hạn chế khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp trên thị trường
trong và ngoài nước, đây cũng là thử thách lớn đối với các doanh nghiệp tham
gia vào hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Trước thực trạng và yêu cầu cấp bách đó, tỉnh Hà Nam có chủ trương:

phải thực hiện cho được bước nhảy vọt về khoa học công nghệ trong lĩnh vực
17


công nghiệp của tỉnh nhà. Hướng chính là hiện đại hóa từng phần, từng công
đoạn quan trọng trong dây chuyền sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành, nâng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Thông qua đầu tư nước ngoài để đi thẳng vào công nghệ hiện đại. Nhập khẩu
công nghệ và thiết bị có cân nhắc loại bỏ ngay từ đầu các công nghệ đã lạc
hậu hoặc sắp lạc hậu. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh, không ngừng tích lũy để tái sản xuất mở
rộng, ưu tiên một phần vốn của Nhà nước để nghiên cứu khoa học và vận
dụng kết quả vào nghiên cứu sản xuất, trước hết là các ngành công nghiệp
then chốt thuộc thế mạnh của địa phương, cho phép các doanh nghiệp khấu
hao tài sản cố định nhanh để thu hồi vốn, thay công nghệ mới, ưu tiên cho các
doanh nghiệp vay vốn để đổi mới công nghệ. Căn cứ vào các chính sách vĩ
mô của Nhà nước về công nghệ, tỉnh cần soạn thảo một chính sách đặc biệt
cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập
khẩu để khuyến khích họ đầu tư đổi mới công nghệ trước. Phát động phong
trào thi đua về sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong các doanh nghiệp, có chế độ
khen thưởng kịp thời và thỏa đáng cho các tổ chức, cá nhân đạt nhiều thành
tích trong phong trào này.
Ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ hiện đại là yêu cầu bức
thiết đặt ra trong giai đoạn hiện nay ở tỉnh Hà Nam. Muốn vậy, điều trước tiên
phải tính đến là đội ngũ lao động trong tỉnh, nhất là đội ngũ lao động đã và sẽ
làm việc trong các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, kể cả đội ngũ lao động
nông thôn “ly nông bất ly hương”. Họ phải có một trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn kỹ thuật nhất định để kịp thời nắm bắt và ứng dụng khoa học công nghệ mới vào lao động sản xuất trong các doanh nghiệp. Đội ngũ lao
động này có thể đang làm việc trong các nhà máy xí nghiệp, trong các khu
công nghiệp, hoặc chuyển từ các ngành kinh tế khác sang. Vì vậy, họ phải


18


được đào tạo và đào tạo lại trong các nhà trường hoặc các trung tâm dạy nghề
một cách cơ bản. Có như thế mới có thể thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao
động đáp ứng yêu cầu đổi mới kỹ thuật công nghệ của tỉnh Hà Nam trong
hiện tại và tương lai.
Năm là, do yêu cầu của sự hình thành và phát triển thị trường sức lao
động trong nước
Thị trường sức lao động là thị trường mà ở đó cung cầu về sức lao động
biểu hiện thông qua hợp đồng lao động được ký kết giữa người cung sức lao
động và người sử dụng sức lao động.
Thị trường sức lao động là nơi gắn kết giữa cung sức lao động với cầu
sức lao động cùng với các thông số như số lượng, chất lượng và cơ cấu lao
động để người lao động có nhiều cơ hội tìm việc làm. Trong mối quan hệ gắn
kết giữa cung sức lao động với yêu cầu sức lao động và giải quyết việc làm
phải dựa trên cơ sở và xoay quanh sức lao động. Mọi sự thay đổi của cầu sức
lao động về số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động giữa các ngành, các
vùng, các thành phần kinh tế, trên thị trường sức lao động phải được nhận
biết, phân tích xem xét và điều chỉnh trong cung sức lao động. Đây là sự thay
đổi căn bản nhất trong cung sức lao động của nền kinh tế hiện đại do với nền
kinh tế truyền thống. Thông qua thị trường sức lao động sẽ giúp người lao
động nắm bắt được những yêu cầu thông tin theo định hướng cần sức lao
động để từ đó mà điều chỉnh khả năng cung sức lao động cho phù hợp.
Thực tế cho thấy nước ta là nước đang phát triển, các yếu tố thị trường
chưa đồng bộ và hoàn chỉnh, thị trường sức lao động còn sơ khai, còn tồn tại
song hành hai khu vực kinh tế (truyền thống và hiện đại) đang diễn ra sự
chuyển hóa về tỷ trọng với nhau:
Khu vực kinh tế truyền thống vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn, là nơi thu hút

nhiều lao động, nhất là nông nghiệp, nông thôn, song cũng đang có xu hướng
19


giảm dần. Khu vực kinh tế hiện đại (nơi có thị trường sức lao động phát triển)
đang có sự biến động cả về quy mô và tốc độ, ngày càng thu hút nhiều sức lao
động hơn, trước hết là ở các vùng đô thị khu công nghiệp tập trung. Khu vực
kinh tế này, cần sức lao động cũng có những thay đổi lớn và nhanh chóng, đòi
hỏi cần có sự điều chỉnh cơ cấu lao động cho phù hợp.
Thị trường sức lao động giữa các vùng phát triển chưa đồng đều, hệ
thống tổ chức cung ứng sức lao động chưa phát triển và hoạt động chưa có
hiệu quả, nên chưa trở thành cầu nối, gắn kết giữa cung sức lao động và cầu
sức lao động. Điều đó biểu hiện: Việc tuyển dụng chủ yếu qua quan hệ cá
nhân; thông tin thị trường sức lao động còn yếu kém; công tác dự báo chưa
được coi trọng...đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho cung
cầu sức lao động không ăn khớp với nhau trong chuyển dịch cơ cấu lao động
giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế.
Có thể nói, việc tổ chức và phát huy tốt vai trò của thị trường sức lao
động sẽ thúc đẩy việc phân bố và sử dụng sức lao động một cách có hiệu quả,
khắc phục từng bước sự mất cân bằng giữa cung, cầu sức lao động theo
hướng nâng cao chất lượng lao động cho phù hợp với yêu cầu của khoa học
công nghệ hiện đại mà các nước công nghiệp trên thế giới đang hướng tới.
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Hà Nam
1.2.1. Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên
địa bàn tỉnh Hà Nam
Sử dụng kết quả nghiên cứu ở trên về CDCCLĐ theo ngành nói chung
trong nền kinh tế, luận văn khái quát quan niệm về CDCCLĐ theo ngành trên
địa bàn tỉnh Hà Nam như sau: Là hoạt động chủ động của các chủ thể trong
Tỉnh thực hiện quá trình thay đổi về qui mô, số lượng, vị trí, tỷ trọng, chất

lượng lao động ở các ngành kinh tế của Tỉnh nhằm tạo ra cơ cấu lao động
20


hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm tốt nguồn nhân
lực trong các giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh Hà Nam.
Từ quan niệm trên, chỉ rõ những nội hàm sau:
Một là: Chủ thể thực hiện CDCCLĐ theo ngành trên địa bàn tỉnh là cả
hệ thống chính trị trong tỉnh và nhân dân lao động. Bởi vậy, để CDCCLĐ
theo ngành có hiệu quả phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ, vai trò
quản lý tổ chức của chính quyền Tỉnh và vai trò làm chủ của nhân dân lao
động trong tỉnh.
Hai là: CDCCLĐ theo ngành phải thay đổi về qui mô, vị trí, tỷ trọng và
chất lượng lao động làm việc trong các ngành kinh tế, thực chất là quá trình
phân bố lại lao động trong nền kinh tế của Tỉnh theo hướng tiến bộ và sử
dụng lao động có hiệu quả; quá trình đó vừa diễn ra trong phạm vi của từng
ngành, nội bộ mỗi ngành.
Ba là: CDCCLĐ theo ngành trên địa bàn tỉnh Hà Nam là quá trình
CDCCLĐ đã qua đào tạo, đào tạo lại, lao động có phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp, có trình độ chuyên môn nhất định, được tuyển dụng và sử dụng hiệu
quả (chất lượng lao động) đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ phát triển kinh tế
- xã hội của Tỉnh Hà Nam.
Bốn là: Mục tiêu CDCCLĐ theo ngành trên địa bàn tỉnh Hà Nam là
tạo ra một cơ cấu lao động hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và bảo đảm tốt nguồn nhân lực trong các giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh Hà Nam.
1.2.2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn
tỉnh Hà Nam hiện nay
Nền kinh tế quốc dân bao gồm nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế khác
nhau. Các ngành, lĩnh vực kinh tế đó gắn liền với sự phát triển của phân công
lao động xã hội. Theo đó, các nhà nghiên cứu kinh tế đã chia các ngành kinh


21


tế thành ba nhóm ngành lớn: Nhóm I: Bao gồm các ngành nông - lâm - thủy
sản. Nhóm II: Bao gồm các ngành công nghiệp - xây dựng.Nhóm III: Bao
gồm các ngành thương mại - dịch vụ. Trong 3 nhóm ngành lớn, mỗi nhóm
ngành lại là sự kết hợp của các ngành nhỏ hơn có những đặc điểm tương đối
giống nhau và các ngành này đã tạo nên cơ cấu nội bộ ngành. Nhóm ngành
nông nghiệp bao gồm các ngành: ngành sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản; Nhóm ngành công nghiệp và xây dựng bao gồm các ngành: ngành
công nghiệp khai thác, ngành công nghiệp chế biến, các ngành sản xuất - phân
phối điện nước và khí đốt, ngành xây dựng; Nhóm ngành thương mại - dịch
vụ bao gồm các ngành: ngành dịch vụ kinh doanh có tính chất thị trường, dịch
vụ sự nghiệp, dịch vụ hành chính công… Mỗi nhóm ngành là sự kết hợp của
các ngành nhỏ hơn có đặc điểm tương đối giống nhau và chính cơ cấu của các
ngành này được gọi là cơ cấu nội bộ ngành.
Khi thu nhập theo đầu người tăng lên thì tỷ trọng của sản phẩm nông
nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân sẽ giảm xuống, tỷ trọng sản phẩm công
nghiệp sẽ tăng lên. Đó cũng chính là kết quả của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nền kinh tế. Đến một mức độ nào đó, sẽ có sự chuyển dịch từ
khu vực sản xuất vật chất sang khu vực dịch vụ, và đến một trình độ nhất định
tỷ trọng của dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn công nghiệp.
Các ngành kinh tế sẽ tịnh tiến đến ngành có vốn cao; chuyển từ nền
kinh tế với công nghệ cũ, lạc hậu, năng suất lao động thấp, chất lượng sản
phẩm kém sang nền kinh tế cơ giới hoá, hoá học hoá, điện khí hoá, chuyên
môn hoá với công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm cao hơn; từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức với công
nghệ cao, điện tử hoá, tin học hoá, tự động hoá, siêu xa lộ thông tin cùng với
đội ngũ công nhân trí thức đông đảo. Cùng với quá trình phát triển, các ngành

sản xuất vật chất phát triển theo chiều rộng sẽ dần dần chuyển sang xu thế

22


phát triển theo chiều sâu do tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động có hạn.
Bước tịnh tiến này sẽ đảm bảo sự phát triển bền vững.
Trên cơ sở đó, nội dung CDCCLĐ theo ngành ở tỉnh Hà Nam như sau:
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao
động trong công nghiệp và dịch vụ
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, nhiều ngành mới sẽ ra đời, nhiều
khu, cụm công nghiệp và các đô thị, thị trấn, thị tứ sẽ hình thành trong tỉnh.
Vì vậy, cơ cấu lao động sẽ có xu hướng chuyển dịch từ nền nông nghiệp là
chủ yếu sang phát triển công nghiệp và dịch vụ. Trong đó,lao động hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp giảm dần về giá trị tương đối nhưng vẫn tăng lên
về giá trị tuyệt đối. Công nghiệp và dịch vụ tăng cả tương đối và tuyệt đối.
Nội bộ các ngành cũng có sự chuyển dịch về cơ cấu, quy mô, trình độ
công nghệ với chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế ngày càng cao. Sự
biến đổi cơ cấu về lao động dẫn đến chuyển dịch cơ cấu lao động và dân cư,
lao động giản đơn có xu hướng giảm dần cùng với quá trình tăng lên của lao
động chuyên môn kỹ thuật. Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành
nông, lâm nghiệp, thủy sản: Chuyển dịch CCLĐ nội bộ ngành N, L, TS là sự
thay đổi cả về số lượng (quy mô, tỷ trọng) lao động làm việc trong các ngành,
tiến tới xây dựng một CCLĐ hợp lý, gắn với chuyển dịch cơ cấu giá trị sản
xuất giữa các ngành trên cơ sở khai thác hiệu quả các nguồn lực kinh tế.
Trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây dựng
nông thôn mới hiện nay, chuyển dịch CCLĐ trong nội bộ ngành nông nghiệp
diễn ra theo hướng lao động các ngành trồng trọt giảm, lao động ngành chăn
nuôi, ngành dịch vụ nông nghiệp tăng lên. Trong nội bộ ngành N, L, TS thì
lao động ngành nông nghiệp giảm, lao động ngành thủy sản tăng lên…

Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành công nghiệp - xây dựng:
Ngành công nghiệp - xây dựng là ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế với
hoạt động chủ yếu là khai thác, chế biến và xây dựng. Cũng như ngành nông

23


nghiệp, chuyển dịch CCLĐ nội bộ ngành công nghiệp - xây dựng thể hiện sự
thay đổi về quy mô và tỷ trọng lao động trong nội bộ các ngành công nghiệp xây dựng trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định. Chuyển dịch CCLĐ trong
nội bộ ngành công nghiệp - xây dựng hiện nay đang diễn ra theo hướng giảm
dần lao động trong các ngành khai thác mỏ, lao động các ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo, các ngành công nghệ cao tăng lên. Đây là quá trình chuyển
dịch CCLĐ tất yếu, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong điều kiện
khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ và nguồn tài nguyên thiên nhiên
ngày càng cạn kiệt. Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành TM DV: Thương mại - dịch vụ là một ngành kinh tế với những hoạt động lao động
xã hội tạo ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ đáp ứng kịp thời, thuận lợi, hiệu quả
cho thị trường kinh tế. Ngành TM - DV gồm nhiều ngành khác nhau, lao động
làm việc trong lĩnh vực TM - DV tương đối đa dạng và phong phú. Chuyển
dịch cơ cấu lao động nội bộ ngành TM - DV thể hiện sự thay đổi qui mô, tỷ
trọng lao động các ngành TM - DV trong mỗi thời kỳ nhất định. Trong điều
kiện đẩy mạnh CNH, HĐH gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, hội nhập
kinh tế quốc tế ngày nay, chuyển dịch CCLĐ trong nội bộ ngành TM - DV
diễn ra theo hướng số lượng lao động trong các ngành kinh doanh trên thị
trường, buôn bán, nhà hàng, khách sạn, dịch vụ KH - CN... ngày càng tăng.
Tỷ trọng dịch vụ chất lượng cao tăng, vì vậy chất lượng lao động dịch vụ
cũng có nhiều chuyển biến.
Thứ hai, chuyển dịch lao động từ sử dụng kỹ thuật thủ công lạc hậu,
năng suất lao động thấp, tạo ra sản phẩm kém chất lượng sang lao động sử
dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến, năng suất lao động cao, tạo ra sản phẩm
có sức cạnh tranh trong nền kinh tế của Tỉnh.

Những năm gần đây xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đang
chuyển sang sử dụng trang thiết bị hiện đại, ứng dụng khoa học kỹ thuật tạo
ra năng xuất và chất lượng cao.

24


Muốn có sự phát triển mạnh mẽ, việc CDCCLĐ theo ngành trên địa
bàn tỉnh Hà Nam phải có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng dần thay thế
công nghệ cũ, lạc hậu, năng suất lao động thấp bằng công nghệ mới, hiện đại,
năng suất cao. Sự phù hợp về cơ cấu kinh tế của Hà Nam một mặt, vừa là đòi
hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất, mặt khác, là cơ sở tạo
tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của lực lượng sản xuất trong Tỉnh;
theo đó, trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành cho phép khai thác được tiềm năng, thế
mạnh trong tỉnh, tạo đà phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Thứ ba, chuyển mạnh lực lượng lao động sang sản xuất hàng hoá lớn
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngày
càng sâu sắc, sản xuất tất yếu sẽ chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá lớn. Quá
trình đó khiến cho quá trình CDCCLĐ theo ngành ở tỉnh Hà Nam vốn dựa trên
sản xuất nông nghiệp là chính sang một nền kinh tế có cơ cấu ngành hợp lý với
vai trò hạt nhân là công nghiệp và dịch vụ. Do đó, tạo ra lực lượng lao động có
trình độ đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hóa lớn của tỉnh là nội dung rất quan
trọng phản ánh mặt chất lượng của lao động chuyển dịch ở tỉnh Hà Nam.
Thứ tư, chuyển dịch mạnh CCLĐ trong công nghiệp, dịch vụ, nông
nghiệp ở Hà Nam theo hướng mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, xu hướng toàn cầu hoá đang đặt ra những cơ hội và thách
thức đối với các ngành kinh tế trong tỉnh. Toàn cầu hoá nền kinh tế đang tạo
ra những cơ hội lớn để Hà Nam có thể nhanh chóng tiếp thu khoa học công
nghệ, phương pháp quản lý tiên tiến và tiếp cận các nguồn đầu tư nước ngoài.

Chính vì thế, CDCCLĐ theo ngành của Tỉnh phải trên cơ sở tăng cường sự nỗ
lực chủ động của các cấp, các ngành trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nguồn
nhân lực ngày càng có chất lượng để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, tăng
cường mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của các ngành công nghiệp, dịch

25


×