Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH xã hội ở HUYỆN BA vì, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.96 KB, 99 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
An sinh xã hội
Bảo hiểm xã hội
Chủ nghĩa xã hội
Chính trị quốc gia
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Đảng Cộng sản Việt Nam
Hội đồng nhân dân
Hệ thống chính trị cơ sở
Năng lực lãnh đạo
Nhà xuất bản
Mặt trận Tổ quốc
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
ASXH
BHXH
CNXH
CTQG
CNH, HĐH
ĐCSVN
HĐND
HTCTCS
NLLĐ
Nxb
MTTQ
UBND
XHCN



MỤC LỤC
Tran
g
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

3

AN SINH XÃ HỘI Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề chung về An sinh xã hội và thực hiện chính

9

sách An sinh xã hội
1.2. Quan niệm, nội dung và vai trò của thực hiện chính sách an

9

sinh xã hội ở huyện Ba vì, Thành phố Hà Nội
Chương 2. THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN

16

SINH XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Một số đặc điểm ảnh hưởng đến thực hiện chính sách An sinh

29


xã hội ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
2.2. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân

29

2.3. Những vấn đề đặt ra và cần giải quyết

62

38

Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở HUYỆN BA VÌ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Những quan điểm cơ bản chỉ đạo thực hiện chính sách An

65

sinh xã hội ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội
3.2. Giải pháp thực hiện thực hiện chính sách An sinh xã hội

65

ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

69

88
90
94


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thực hiện chính sách an sinh xã hội (ASXH) là vấn đề quan trọng
trong thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”; là sự thể hiện rõ nhất tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” của nền kinh
tế thị trường tại Việt Nam. Vì vậy, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách ASXH, coi đây vừa là
mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã nhấn mạnh: “Phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, đồng thời thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã
hội, đảm bảo an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”.
Bảo đảm an sinh xã hội trở thành vấn đề trung tâm trong chiến lược phát
triển đất nước.
Ba Vì là một huyện nghèo của Thành phố Hà Nội. Những năm qua, với
những chủ trương, chính sách đúng đắn, huyện Ba Vì đã từng bước thực hiện
tốt chính sách ASXH, đời sống của người dân được đảm bảo, kinh tế, chính trị,
xã hội ngày càng phát triển ổn định…Tuy vậy, thực hiện chính sách ASXH vẫn
còn nhiều bất cập, hạn chế như: tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững, tỉ
lệ hộ cận nghèo, tái nghèo còn cao; thực hiện mức trợ cấp xã hội còn thấp, chưa
tập trung, còn chồng chéo, hiệu quả chưa cao; công tác bảo vệ và chăm sóc sức
khoẻ người dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa còn
nhiều hạn chế; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao và giảm chậm; tỉ lệ người
tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm y tế (BHYT) còn thấp; đời sống
của một bộ phận người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số chưa bảo đảm được

mức tối thiểu và có sự chênh lệch giữa vùng núi với vùng đồng bằng ven thị
còn cao.
Những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ
yếu là sự thiếu thống nhất trong nhận thức về nội dung, vị trí và vai trò của
3


thực hiện ASXH trong mô hình phát triển kinh tế - xã hội; nguồn lực tại chỗ
của các huyện nghèo trong thực hiện chính sách ASXH còn hạn chế, chủ yếu
phải dựa vào nguồn ngân sách của Thành phố, của Trung ương; chưa khuyến
khích người dân và các đối tác xã hội tích cực, chủ động tham gia. Vì vậy, An
sinh xã hội trước những khó khăn và thách thức cần thực hiện tốt hơn chính
sách an sinh xã hội, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của huyện Ba Vì đang là vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi chọn vấn đề: “Thực
hiện chính sách an sinh xã hôi ở huyện Ba Vì – Thành phố Hà Nội ” làm
đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
An sinh xã hội là vấn đề đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.
Do đó, nhiều công trình đã được công bố, đề cập những khía cạnh khác nhau, với
nội dung và cách tiếp cận phong phú, đa dạng. Trong đó có những công trình tiêu
biểu như:
- “Luận cứ khoa học cho việc đổi mới và hoàn thiện các chính sách bảo
đảm xã hội trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Công trình nghiên cứu cấp nhà nước
mang mã số KX 04.05 do Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội thuộc
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội làm chủ đề tài. Kết quả nghiên cứu của
đề tài đề cập đến một cách khá hệ thống vấn đề đổi mới, hoàn thiện các chính
sách bảo đảm xã hội như: đã làm rõ khái niệm về đảm bảo xã hội; mối quan hệ
giữa bảo đảm xã hội với các chính sách xã hội, vị trí, vai trò và sự cần thiết

khách quan của bảo đảm xã hội trong nền kinh tế thị trường, khẳng định bảo
đảm xã hội vừa là nhân tố ổn định, vừa là động lực cho phát triển kinh tế xã hội;
đề tài đã nghiên cứu làm rõ các bộ phận cấu thành của bảo đảm xã hội là BHXH,
trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội; đã đánh giá thực trạng của các bộ phận cấu thành
4


này, chỉ ra những thành tựu, hạn chế của nó và chỉ ra quan điểm, phương hướng
và giải pháp phát triển trong tương lai của hệ thống bảo đảm xã hội ở nước ta.
- “An sinh xã hội đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam”. Luận văn Tiến sỹ của tác giả Mai Ngọc Anh – Chuyên ngành quản
lý kinh tế, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu làm
sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
ASXH đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường; tổng kết kinh nghiệm
về xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân ở một số nước trên
thế giới, rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào việc xây dựng hệ thống
ASXH đối với nông dân ở nước ta; khái quát thực trạng hệ thống ASXH ở nước
ta hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của hệ
thống ASXH hiện hành đối với nông dân.
- "Ảnh hưởng của hệ thống ASXH tới vấn đề nghèo đói của hộ nông dân
huyện Văn Chấn - tỉnh Yên Bái". Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Chương
Phát, Trường đại học Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên. Tác
giả đã làm rõ quan niệm, đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và đề xuất
những giải pháp tăng cường sự ảnh hưởng của hệ thống ASXH tới vấn đề nghèo
đói của hộ nông dân huyện Văn Chấn - tỉnh Yên Bái".
- “Phát triển hệ thống ASXH ở Việt Nam đến năm 2020”. Sách chuyên khảo
do Viện khoa học Lao động và xã hôi thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội Việt Nam biên soạn. Cuốn sách đã đề cập và làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn
cũng như những nội dung, chính sách chủ yếu và thực trạng của hệ thống ASXH ở
Việt Nam hiện nay; định hướng phát triển chính sách ASXH đến năm 2020.


5


Ngoài ra, khi nghiên cứu về an sinh xã hội còn nhiều nhà khoa học,
nhà nghiên cứu đã có những bài viết, công trình nghiên cứu như: “Về an
sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2012- 2020 NXB chính trị Quốc gia (năm
2013); PGS.TS, Mai Ngọc Cường chủ biên, Chính sách xã hội nông thôn:
kinh nghiệm CHLB Đức và thực tiễn Việt Nam. NXB lý luận chính trị, Hà
nội 2006; PGS, TS Vũ Văn Phúc – Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản, An sinh
xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn; GS, TS Hoàng Chí Bảo
– Hội đồng lý luận Trung ương, An sinh xã hội với ổn định và phát triển bền
vững ở Việt Nam (Tạp chí Tuyên giáo, năm 2014); Bùi Văn Hồng, nghiên
cứu mở rộng đối tượng tham gia BHXH đối với người lao động tự tạo việc
làm và thu nhập, đề tài cấp Bộ năm 2002; Đặng Cảnh Khanh, vấn đề trợ
giúp xã hội trong chính sách bảo đảm xã hội ở Việt nam đề tài KX. 04. 05
(năm 1994); Nguyễn Hải Hữu, Phát triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp
với bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nguyễn
Tiệp, các giải pháp nhằm thực hiện xã hội hoá công tác trợ giúp xã hội, đề
tài cấp Bộ năm 2002; Nguyễn Văn Định, tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở
Việt nam trong nền kinh tế thị trường, đề tài cấp Bộ (năm 2000);
ThS.Nguyễn Văn Hội, Phó cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội, tiếp tục thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo
và ASXH vùng đặc biệt khó khăn…ThS. Nguyễn Văn Chiều – khoa Khoa
học quản lý, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội, ASXH và định hướng nghiên cứu nhằm nâng cao vai trò của
khoa học xã hội vào quá trình hoạch định chính sách ASXH ở Việt Nam ;
Cùng tác giả ThS. Nguyễn Văn Chiều có bài đăng trên Báo điện tử Đảng

6



Cộng sản, Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện an sinh xã
hội trong thời kỳ đổi mới;
Các nghiên cứu trên tuy đã góp phần cung cấp cơ sở khoa học, lý luận
thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH nói chung ở nước
ta những năm qua. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thực hiện ASXH dưới góc độ
của môn kinh tế chính trị ở một huyện miền núi thuộc Thành Phố Hà Nội vẫn
chưa có công trình nào đi sau nghiên cứu, giải quyết thấu đáo những vấn đề
đang đặt ra trong thực hiện chính sách ASXH. Vì vậy, với tình cảm và trách
nhiệm đối với quê hương, tôi chọn đề tài này với mong muốn góp phần nhỏ bé
của mình vào việc đưa ra các biện pháp thực hiện chính sách ASXH ở huyện Ba
Vì, Thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực hiện chính sách
ASXH ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội hiện nay trên góc độ của khoa học kinh
tế chính trị. Trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm và giải pháp để thực hiện
chính sách ASXH ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách ASXH
ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách ASXH ở huyện Ba Vì,
Thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp thực hiện chính sách ASXH ở
huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu

7



Thực hiện chính sách ASXH ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội
* Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Tài liệu, số liệu nghiên cứu, điều tra từ năm 2010 đến năm 2014.
- Về Nội dung: Tập trung nghiên cứu những vấn đề về thực hiện chính sách
an sinh xã hội ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở những nguyên lý lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về ASXH và thực hiện chính sách ASXH; các Nghị quyết của Đại hội đại
biểu Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Đảng bộ huyện Ba Vì, nghị quyết của Thành ủy, Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân huyện Ba Vì về ASXH và thực hiện chính sách ASXH; đồng thời sử dụng
số liệu khảo sát thực tế, tham khảo các tài liệu có liên quan và kế thừa kết quả nghiên cứu
của các công trình khoa học đã công bố.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính
trị Mác - Lê nin: trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng
hợp và một số phương pháp khác: thống kê, so sánh, chuyên gia v.v…
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài nghiên cứu thành công sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhất định
để có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, giúp các cơ quan nghiên cứu, các sở,
ban, ngành liên quan của huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội tham khảo, hoạch định
cơ chế, chính sách thực hiện chính sách ASXH.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các trường đào tạo và các
lớp tập huấn cho cán bộ quản lý của Thành phố Hà Nội, huyện Ba Vì.

8


7. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
AN SINH XÃ HỘI Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Những vấn đề chung về an sinh xã hội và chính sách an sinh xã hội
1.1.1. Khái niệm an sinh xã hội
An sinh xã hội là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trên thế
giới cũng như ở Việt Nam trong những năm gần đây. Tuy nhiên khái niệm,
bản chất và nội dung của nó vẫn còn nhiều quan điểm nhận thức khác nhau. Vì
vậy, tổ chức hệ thống an sinh xã hội ở các nước vẫn chưa có sự thống nhất. Theo
những tài liệu hiện có thì thuật ngữ an sinh xã hội được sử dụng chính thức lần
đầu tiên trong tiêu đề của một đạo luật ở Mỹ. luật 1935 về an sinh xã hội..
Trong cuốn: “Cẩm nang an sinh xã hội” , ILO đưa ra khái niệm: “ An
sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông
qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình cảnh khốn khổ về
kinh tế và xã hội gây ra bởi tình trạng bị ngưng hoặc giảm sút đáng kể về thu
nhập do ốm đau, thai sản, thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi
già, tử vong; sự cung cấp về chăm sóc y tế và các khoản tiền trợ cấp giúp cho
các gia đình đông con”.
Bên cạnh khái niệm mà ILO đưa ra, một số nhà khoa học đứng trên các

góc độ nghiên cứu khác nhau còn đưa ra các khái niệm khác nhau về an sinh
xã hội. Chẳng hạn, theo H.Bevedridre, một nhà kinh tế học người Anh cho
rằng: “ an sinh xã hội là sự đảm bảo về việc làm khi người ta còn sức làm
việc và đảm bảo một lợi tức khi người ta không còn sức làm việc nữa”.Hay
đạo luật về an sinh xã hội của Mỹ năm 1935 lại đưa ra khái niệm, an sinh xã
hội là sự đảm bảo của xã hội, nhằm bảo trợ nhân cách cùng giá trị của cá
nhân, đồng thời tạo lập cho con người một đời sống sung mãn và hữu ích để
phát triển tài năng đến tột độ. Trong hiến chương Đại Tây Dương thì cho rằng:
An sinh xã hội là sự đảm bảo thực hiện quyền con người trong hòa bình, được tự
10


do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát triển chính kiến trong khuôn khổ pháp luật,
được bảo vệ và bình dẳng trước pháp luật, được học tập, làm việc và nghỉ ngơi, có
nhà ở, được chăm sóc y tế và đảm bảo thu nhập để có thể thỏa mãn nhu cầu thiết
yếu.
Theo đà phát triển kinh tế xã hội, nội dung của ASXH đã ngày càng
được mở rộng và vì thế mô hình tổ chức hệ thống ASXH ở những nước khác
nhau, tùy theo hoàn cảnh cụ thể và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà
từng nước theo đuổi. Ngày nay, nội dung của ASXH thường được thể hiện ở
các chính sách kinh tế, xã hội như; BHXH, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội, trợ
giúp xã hội; các quỹ dự phòng, xóa đói giảm nghèo…Với nội dung mở rộng
này, khái niệm về ASXH được thế giới nhìn nhận trên một bình diện mới: “
ASXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên trong cộng đồng
không may lâm vào hoàn cảnh yếu thế trong xã hội thông qua các biện pháp
phân phối lại tiền bạc và dịch vụ xã hội”.
Ở Việt Nam , ASXH được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm, một
mặt là do mục tiêu phấn đấu để làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh; mặt khác là do hậu quả của những cuộc đấu tranh,
thiên tai lại thường xảy ra trên diện rộng, đất nước còn nhiều khó khăn, số hộ

nghèo còn nhiều…Vì vậy, quan niệm về ASXH cũng rất rõ ràng.
Tại hội thảo Quốc tế với chủ đề: “ Hệ thống ASXH ở Việt Nam” ngày
22/8/2007, tiến sỹ Nguyễn Hải Hữu đại diện cho phía Việt Nam đã đưa ra
khái niệm: “ASXH là một hệ thống các cơ chế chính sách , biện pháp của nhà
nước và xã hội nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi
ro, các cú sốc về kinh tế xã hội làm cho họ có nguy cơ bị suy giảm mất nguồn
thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn
sưc lao động hoặc vì những nguyên nhân khách quan rơi vào hoàn cảnh

11


nghèo khổ và cung cấp dịch vụ sức khỏe cho cộng đồng, thông qua hệ thống
mạng lưới về BHXH, BHYT và trợ giúp xã hội” .
Do sự đa dạng về nội dung, phương thức và góc độ tiếp cận nên giới
nghiên cứu lý luận cũng như những nhà chỉ đạo thực tiễn hiện có nhiều cách
hiểu về an sinh. Tổng hợp các ý kiến có thể khái quát, phạm trù an sinh xã hội
thường được đề cập đến ở hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng: An sinh xã
hội là sự bảo đảm thực hiện các quyền để con người được an bình, bảo đảm an
ninh, an toàn trong xã hội. Theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội là sự đảm bảo thu
nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân , gia đình, cộng đồng trong
trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập vì lý do bị giảm hoặc mất khả năng lao
động hay mất việc làm, cho những người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật,
những người yếu thế, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai địch họa…
Việt Nam thì khái niệm của ASXH là: “ASXH là sự bảo vệ của xã hội
đối với các thành viên của mình thông qua hàng loạt các biện pháp công
cộng nhằm chống lại tình cảnh khốn khổ vềkinh tế và xã hội gây ra bởi tình
trạng bị ngừng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhaapjdo ốm đau, thai sản,
thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, tử vong, sự cung cấp
về chăm sóc y tế và cả sự cung cấp các khoản tiền trợ cấp cho các gia đình

đông con”.
1.1.2. Chính sách an sinh xã hội
Chính sách an sinh xã hội là hệ thống các chính sách can thiệp của
nhà nước (bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội, và sự hỗ trợ của tổ chức hay tư
nhân (các chế độ không theo luật định) nhằm giảm mức độ nghèo đói và tổn
thương, nâng cao năng lực tự bảo vệ của người dân và cộng đồng trước
những rủi ro hay nguy cơ giảm hoặc mất thu nhập, bảo đảm ổn định, phát
triển và công bằng xã hội.
Chính sách an sinh xã hội là văn bản quy định pháp quy cụ thể của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền được ra quyết định này, trong đó quy định bảo
12


đảm an sinh xã hội cho từng đối tượng, hoặc từng nhóm đối ngjcuj thể:
( chính sách đối với người có công, thương binh, liệt sỹ, người tham gia
kháng chiến, người nhiễm chất độc da cam), hoặc chính sách về hỗ trợ bảo
hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội đối với người nghèo, hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ
em dưới 6 tuổi.
Về cấu trúc của an sinh xã hội: Có nhiều quan điểm và cách tiếp cận
khác nhau, theo quan điểm phổ biến của các tổ chức Quốc tế, thì một hệ thống
an sinh xã hội phải có tối thiểu 3 phần cơ bản tương ứng với 3 chức năng
chính của an sinh xã hội gồm:
Thứ nhất, những chính sách, chương trình phòng ngừa rủi ro. Đây là
tầng trên của hệ thống an sinh xã hội. Chức năng của những chính sách này là
hướng tới can thiệp và bao phủ toàn bộ dân cư; giúp cho mọi tầng lớp dân cư
có được việc làm, thu nhập, có được năng lực vật chất cần thiết để đối phó tốt
nhất với rủi ro. Trụ cột cơ bản của tầng này là những chương trình về thị
trường lao động tích cực như đào tạo nghề, hỗ trợ người tìm việc, tự tạo hoặc
đào tạo nâng cao kỹ năng cho người lao động.
Thứ hai, những chính sách, những chương trình giảm thiểu rủi ro. Đây là

tầng thứ hai, gồm các chiến lược giảm thiểu thiệt hại do rủi ro của hệ thống an
sinh xã hội, có vai trò đặc biệt quan trọng. nội dung quan trọng nhất trong tầng
này là các hình thức bảo hiểm, dựa trên các nguyên tắc đóng, hưởng như: bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, nhóm chính sách này rất nhạy
cảm, nếu phù hợp sẽ thúc đẩy sự tham gia tích cực của người dân, tiết kiệm
nguồn lực cho nhà nước, tăng độ bao phủ hệ thống. ngược lại , nếu chính sách
không phù hợp, người dân sẽ không tham gia hoặc chính sách sẽ bị lạm dụng.
Thứ ba, những chính sách, chương trình khắc phục rủi ro, bao gồm các
chính sách chương trình về cứu trợ và trợ giúp xã hội. Đây là tầng cuối cùng
của hệ thống an sinh xã hội với chức năng bảo đảm an toàn cho các thành
viên xã hội khi họ gặp phải rủi ro mà bản thân không tự khắc phục được như :

13


thất nghiệp, người thiếu việc làm, người có thu nhập thấp, người già, người
tàn tật, trẻ em mồ côi, người nghèo,..
Ở Việt Nam cấu trúc an sinh xã hội gồm 5 trụ cột: Bảo hiểm xã hội; Bảo
hiểm y tế; Bảo hiểm thất nghiệp; Cứu trợ xã hội; Trợ giúp và ưu đãi xã hội
Xét về thực chất, 5 trụ cột này là nhằm thực hiện 3 chức năng chiến
lược của hệ thống an sinh xã hội; phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc
phục rủi ro. So với mô hình phổ biến trên thế giới , hệ thống an sinh xã hội ở
nước ta có một phần đặc thù, đó là chính sách ưu đãi xã hội, chính sách này
nhằm thực hiện cả mục tiêu cao cả là đền ơn, đáp nghĩa với sự hy sinh , công
lao đặc biệt và cống hiến to lớn của những người có công với cách mạng, với
đất nước, thực hiện trách nhiệm của nhà nước, của xã hội chăm lo, bảo đảm
cho người có công có cuộc sống ổn định và ngày càng được cải thiện.
An sinh xã hội được tất cả các nước trên thế giới cũng như Liên Hợp
quốc thừa nhận một trong những quyền của con người trong mọi thời đại và
mọi chế độ xã hội vì nó có mục tiêu và bản chất rất tốt đẹp. Mục tiêu của

ASXH là tạo ra một lưới an toàn cho mội thành viên trong cộng đồng xã hội,
khi bất kỳ một cá nhân trong cộng đồng không may gặp tủi ro hoặc lâm vào
tình cảnh yếu thế. Bản chất của an sinh xã hội thể hiện ở chỗ:
* An sinh xã hội là là một chính sách xã hội có mục tiêu cụ thể. Và
chính sách này thường được cụ thể hóa bởi luật pháp, chương trình Quốc gia
và nó còn tồn tại nay trong tiềm thức của mỗi con người, mỗi cộng đồng dân
tộc. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đã có rất nhiều bởi luật và rất nhiều
chương trình kinh tế - xã hội để cụ thể hóa chính sách ASXH, như: Luật
BHXH; Luật trợ giúp pháp lý; luật phòng chốn ma túy và tệ nạn xã hội,
Chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình xóa nhà dột nát…
Ngoài ra do mục tiêu cao đẹp mà mọi người đều hướng tới, cho nên
ASXH đã từ lâu ít nhiều tồn tại ngay trong tiềm thức của mọi người. Chẳng
hạn” Tinh thần tương thân tương ái”, truyền thống” lá lành đùm lá rách” hay “
14


hương người như thể thương thân” đã có từ khi loài người sinh ra và loài
người coi đó là đạo lý, là truyền thống của mỗi dân tộc, mỗi nước.Thế nhưng
ASXH là một hệ thống các chính sách, các chương trình… cho nên để cụ thể
hóa và tổ chức thực hiện ASXH, tùy theo điều kiện và hoàn cảnh của từng
nước mà người ta xây dựng thành từng chế độ an sinh xã hội hoặc xây dựng
một hệ thống ASXH cụ thể và độc lập. Chẳng hạn, xây dựng các chế độ
ASXH để cụ thể hóa chính sách BHXH hay tổ chức một cụm chính sách để
xây dựng hê thống ASXH như; Chính sách BHXH; chính sách ưu đãi xã hội,
chính sách cứu trợ xã hội…
* An sinh xã hội là một cơ chế, là công cụ để thực hiện phân phối lại
thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng xã hội. Cơ chế phân phối lại thu
nhập vừa chặt chẽ, cụ thể theo đúng pháp luật có liên quan, lại vừa năng động
linh hoạt để phát huy tối đa sức mạnh của cộng đồng. Trong đó, phân phối lại
theo luật pháp có liên quan đóng vai trò chủ đạo. Theo pháp luật, phân phối

lại được thực hiện theo cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Theo chiều nganh có
nghĩa là, phân phối lại giữa những người khỏe mạnh với những việc không may bị
ốm đau, tai nạn giữa nam với nữ, giữa những gia đình không có con hoặc ít con
với những gia đình đông con… Còn theo chiều rộng có nghĩa là phân phối lại
giữa những người giàu có thu nhập cao với những người nghèo có thu nhập thấp
thậm chí mất thu nhập. Kinh nghiệm của các nước kinh tế phát triển cho thấy, tiến
hành phân phối lại theo chiều dọc thường có hiệu quả nhiều hơn và diện được
phân phối sẽ rộng hơn. Bởi vì, thông qua các chính sách thuế thu nhập , giá cả
chính sách chi tiêu công cộng sẽ góp phần làm cho số thu ngân sách ngày càng
tăng, đồng thời lại tiết kiệm được chi tiêu ngân sách. Từ đó, ngân sách nhà nước
và ngân sách địa phương mới có cơ sở vững chắc và đủ lớn để tiến hành phân
phối lại nhằm đảm bảo an sinh xã hội.
* An sinh xã hội là sự che chắn, bảo vệ cho các thành viên trong xã hội
trước các rủi ro và những biến cố bất lợi xảy ra
15


Tuy nhiên, cứu trợ và diện được che chắn và bảo vệ lại không giống nhau
ở mỗi nước và ngay trong một nước cũng luôn có sự khác nhau giữa các thời kỳ.
bởi vì, tất cả còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và thể chế chính trị của
từng nước. Chẳng hạn, trong thời kỳ bao cấp ở nước ta cũng như nhiều nước
XHCN, tuy ngân sách nhà nước có hạn, song người dân đi khám chữa bệnh
không phải trả tiền, người lao động không bị thất nghiệpvà tính ưu việt thể hiện
khá rõ trong các chính sách xã hội. tuy nhiên do điều kiện kinh tế yếu kém nên
không thể thực hiện và duy trì được lâu dài cho dù mục tiêu là hết sức tốt đẹp. vì
thế, khi bước vào cơ chế thị trường, Chính phủ các nước XHCN đã buộc phải
thay đổi lại chính sách. Và trong hoàn cảnh đó bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp đã lần lượt ra đời ở mỗi nước trên cơ sở đóng góp của cộng đồng để hình
thành quỹ bảo hiểm, đồng thời có sự bảo trợ của nhà nước. Cũng do điều kiện
kinh tế - xã hội chi phối mà diện được bảo vệ vệ và che chắn trong hệ thống

ASXH cuả các nước thường được chia ra thành các “ lưới” khác nhau.
+ Lưới thứ nhất thường che chắn và bảo vệ cho người lao động và dòng họ.
+ Lứơi thứ hai là bảo vệ cho những đối tượng được ưu tiên.
+ Lưới thứ ba, là che chắn, bảo vệ cho mọi thành viên trong xã hội
Việc chia ra các lưới ASXH là rất cần thiết, vì nó liên quan đến rất
nhiều vấn đề khi ban hành chính sách cũng như tổ chức thực hiện chính sách.
Theo quy luật chung thì lưới thứ nhất có đối tượng ngày càng được mở rộng
và lưới thứ ba có đối tượng ngày càng thu hẹp, từ đó làm cho hệ thống ASXH
ở các nước ngày càng vững mạnh.
* An sinh xã hội thể hiện chủ nghĩa nhân đạo và nhân văn cao đẹp của
con người trong mọi thời đại
Mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội dù có địa vị sang hèn khác nhau
nhưng đều có một giá trị xã hội nằm trong cả hệ thống giá trị xã hội. Họ phải
được đảm bảo mọi mặt cả tinh thần lẫn vật chất tối thiểu để sống và phát huy
hết khả năng của mình cho những giá trị cao đẹp của xã hội. Một khi gặp rủi
ro, bất hạnh xã hội phải tạo cho họ những lực đẩy cần thiết để học khắc phục
16


và vươn lên. Từ đó kích thích tính tích cực của họ, giúp họ phấn đấu hướng
tới những chuẩn mực của chân – thiện – mỹ. Chủ nghĩa nhân đạo và nhân văn
ở đây không chỉ thể hiện trong bản thân mỗi con người, mỗi cộng đồng người,
mà còn thể hiện ở cộng đồng nhân loại. Nó không chỉ thể hiện ở trong phạm
vi Quốc gia mà còn thể hiện rất rõ trên phạm vi toàn thế giới.
1.2. Quan niệm, nội dung và vai trò của thực hiện chính sách an
sinh xã hội ở huyện Ba vì, Thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm thực hiện chính sách an sinh xã hội ở huyện Ba Vì
Trên cơ sở nghiên cứu, kế thừa kết quả những công trình đã được
nghiên cứu, các khái niên về an sinh xã hội và khái niệm chính sách an sinh
xã hội, có thể quan niệm về thực hiện chính sách an sinh xã hội như sau:

Thực hiện chính sách an sinh xã hội là tổng thể các hoạt động của toàn
xã hội dựa trên các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước nhằm huy động, hình thành và sử dụng đúng mục đích, có hiệu
quả các nguồn lực vật chất, tài chính cho các đối tượng được hưởng chính
sách ASXH, để tạo điều kiện cho họ đảm bảo, nâng cao mức sống vật chất,
văn hóa, tinh thần và tái sản xuất sức lao động.
Từ khái niêm trên, cần hiểu thực hiện chính sách ASXH theo nghĩa đầy
đủ là công việc của toàn xã hội trên một lĩnh vực rất rộng lớn, phức tạp và
quan trọng của toàn bộ đời sống xã hội. Đó là hoạt động mà mục tiêu cao cả
của nó là vì cuộc sống hạnh phúc và các quyền con người trong chế độ ta.
Cho nên thực hiện chính sách ASXH không phải là sự ban phát hay đem đến
cho đối tượng nào đó được hưởng thụ những giá trị vật chất mang tính tạm
thời giống như một sự cứu trợ vì lý do của những hoàn cảnh không may mà
đây là hoạt động có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội mang tính nhân văn hết
sức sâu sắc.
Nếu xét trong quá trình tái sản xuất xã hội thì nó thuộc về quá trình tái
sản xuất sức lao động và tái sản xuất các quan hệ sản xuất xã hội. Rõ ràng
17


thực hiện chính sách ASXH phản ảnh bản chất của một chế độ kinh tế - xã hội
nhất định. Bởi vậy, ở nước ta thực hiện chính sách ASXH được đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, là sự nghiệp của toàn
dân mà đối tượng được hưởng là mọi công dân Việt Nam. Tất nhiên tùy theo
hoàn cảnh, điều kiện khác nhau việc thực hiện chính sách ASXH đối với từng
đối tượng cụ thể sẽ có những nội dung và sự quan tâm không giống nhau. Để
xây dựng hoàn thiện hệ thống các giải pháp về thực hiện chính sách ASXH,
không thể không tiếp cận theo phương pháp trong cách nhìn nhận đánh giá
Thực hiện chính sách ASXH ở Huyện Ba Vì là vấn đề quan trọng trong việc
thực hiện mục tiêu:” dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là

sự thể hiện rõ nhất tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường tại Việt Nam.Vì vậy: Trong những năm qua Huyện Ba Vì luôn quan
tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách ASXH, coi đây vừa là mục
tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa theo đúng định hướng mà Đảng ta đã nhấn
mạnh “ Phát triển kinh tế nhanh, bền vững, đồng thời thực hiện có hiệu quả
tiến bộ công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong từng bước và từng
chính sách phát triển” bảo đảm an sinh xã hội trở thành vấn đề trung tâm
trong chiến lược phát triển đất nước”.
Ba Vì là một huyện nghèo của Thành phố, trong những năm qua, với
những chủ trương, chính ssách đúng đắn, huyện Ba Vì đã từng bước thực hiện
tốt chính sách an sinh xã hội, đời sống của người dân được đảm bảo, kinh tế
chính trị, xã hội ngày càng phát triển ổn định..Xác định việc thực hiện chính
sách an sinh xã hội nhằm đảm bảo đời sống ấm no hạnh phúc cho người
nghèo, giúp họ vươn lên hòa nhập với cuôc sống ộng đồng, góp phần vào
công cuộc xóa đói, giảm nghèo, đào tạo dạy nghè cho người nghèo, đảm bảo
tốt các chính sách bảo trợ xã hội, trợ giúp xã hội và ưu đãi người có
công…..Huyện Ba vì đã tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn
18


bản về việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, xây dựng các kế hoạch triển
khai việc thực hiện chính sách an sinh xã hội của huyện. Tăng cường sự lãnh
đạo chỉ đạo và quản lý của các cấp ủy đảng chính quyền các cấp, phát huy sức
mạnh của cả hệ thống chính trị vào cuộc hoàn thành và thực hiện tốt chính
sách an sinh xã hội trên địa bàn huyện.
Mặc dù việc thực hiện chính sách ASXH vẫn còn nhiều bất cập, hạn
chế như: Tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững, tỉ lệ hộ cận nghèo, tái
nghèo còn cao; thực hiện mức trợ cấp xã hội còn thấp, chưa tập trung, còn
chồng chéo, hiệu quả chưa cao; công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ người

dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn
chế; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao và giảm chậm; tỉ lệ người tham gia
Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm y tế (BHYT) còn thấp; đời sống của một
bộ phận người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số chưa bảo đảm được mức tối
thiểu và có sự chênh lệch giữa vùng núi với vùng đồng bằng ven thị còn cao.
Những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân
chủ yếu là sự thiếu thống nhất trong nhận thức về nội dung, vị trí và vai trò
của thực hiện ASXH trong mô hình phát triển kinh tế - xã hội; nguồn lực tại
chỗ của các huyện nghèo trong thực hiện chính sách ASXH còn hạn chế, chủ
yếu phải dựa vào nguồn ngân sách của thành phố, của trung ương; chưa
khuyến khích người dân và các đối tác xã hội tích cực, chủ động tham gia. Vì
vậy, An sinh xã hội trước những khó khăn và thách thức cần thực hiện tốt hơn
chính sách an sinh xã hội, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của huyện Ba Vì đang là vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay.
1.2.2. Nội dung thực hiện chính sách an sinh xã hội ở huyện Ba Vì.
Thành phố Hà Nội
Trong nhiều năm qua, huyện Ba Vì đã có nhiều chủ trương, biện pháp,
nhất là các chương trình để thực hiện chính sách ASXH, ưu tiên đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội như: Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy
19


nghề; chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo nhanh và bền vững;
chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo… Tuy nhiên để các
chương trình, dự án phát huy hết hiệu quả trong công cuộc giảm nghèo nhanh
và bền vững trong thời gian tới, huyện cần tập trung tiếp tục xây dựng và thực
hiện cải cách thể chế, đổi mới phương thức hoạt động, xây dựng kế hoạch cụ
thể, chi tiết đến từng hạng mục, nội dung hỗ trợ, khoản mục trợ giúp có như
vậy kết quả đạt được là rất lớn và mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực cho những
đối tượng thụ hưởng. Để thực hiện được điều này cần hình thành cơ quan, tiểu
ban quản lý chương trình theo chuyên môn, lĩnh vực, giảm các đầu mối quản

lý; phân công, cử đội ngũ cán bộ chuyên trách triển khai chương trình đồng
bộ từ cấp huyện đến cấp cơ sở thôn, bản; tăng cường hoạt động tập huấn,
nâng cao năng lực thiết kế, thực hiện các chương trình, dự án cho nhân dân,
nhất là người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đi đôi với việc tăng cường
kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện, cần nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung các
chính sách cho phù hợp.
Tập trung giải quyết tốt vấn đề xóa đói, giảm nghèo - mục tiêu quan
trọng trong thực hiện chính sách an sinh xã hội
Trước mắt cần tiếp tục thực hiện các chính sách và chương trình giảm
nghèo tập trung vào việc tạo lập môi trường thể chế, nâng cao năng lực của hộ
nghèo, vùng nghèo; nâng cao vai trò các địa phương, tổ chức, cá nhân trong
việc thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo thông qua việc thực hiện mạnh
mẽ cơ chế phân cấp và đầu tư trọn gói. Ngân sách Nhà nước đảm bảo thực
hiện các mục tiêu kế hoạch được phê duyệt, ưu tiên các địa phương có tỷ lệ
nghèo cao. Huyện cần thực hiện lồng ghép các nguồn lực giảm nghèo trên địa
bàn; hoàn thiện cơ chế xác định đối tượng của chương trình giảm nghèo: tách
đối tượng nghèo kinh niên sang hưởng các chính sách ASXH; tập trung hỗ trợ
bộ phận người nghèo có việc làm, tăng thu nhập, có khả năng vươn lên thoát
nghèo, người mới thoát nghèo có nguy cơ tái nghèo, người nghèo tạm thời do
20


bị rủi ro về kinh tế, sức khỏe và thiên tai; tập trung hỗ trợ toàn diện đối với trẻ
em nghèo về giáo dục, dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, nước và vệ
sinh, giải trí và bảo trợ xã hội.
Nhìn chung những năm qua, với sự quan tâm của các cơ quan, ban
ngành và sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, hoạt động của BHXH huyện Ba Vì
ngày càng có nhiều kết quả tích cực. Để thực hiện tốt công tác BHXH cần tập
trung thực hiện tốt một số nội dung sau: Tăng cường quản lý đối tượng và quỹ
lương đóng BHXH của từng đơn vị tham gia; đẩy mạnh công tác tuyên truyền

BHXH; tăng cường công tác đốc thu, truy thu nợ đọng; nâng cao năng lực của
đội ngũ cán bộ thu BHXH; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý
nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật về BHXH;tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin vào quản lý thu BHXH;cải cách thủ tục hành chính
Việc thực hiện có hiệu quả các dự án, chương trình, chính sách hỗ trợ phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Trung ương và địa phương, nhất là những
gia đình chính sách, người có công với cách mạng đã góp phần to lớn trong
việc thực hiện xóa đói giảm nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao dân trí,
cải thiện dân sinh, đẩy lùi tập quán lạc hậu, xây dựng nông thôn mới theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, củng cố lòng tin của người dân đối với
Đảng, chính quyền, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội tại địa phương được giữ vững ổn định, thực hiện thắng
lợi những mục tiêu mà nghị quyết Đại hội lần thứ XXII của huyện đã đề ra.
Hiện nay Huyện Ba Vì đang áp dụng phổ biến cấu trúc thực hiện chính
sách ASXH theo 4 nội dung cơ bản sau:
Một là, nhóm thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo và trợ giúp tạo
việc làm
Chính sách xóa đói giảm nghèo là mục tiêu của toàn xã hội với các hệ
thống chính sách cho vay ưu đãi đối với các đối tượng hộ nghèo, hộ cận
nghèo, học sinh, sinh viên con hộ nghèo hộ có hoàn cảnh khó khăn; trợ cấp xã
21


hội cả thường xuyên, đột xuất; hỗ trợ đầu tư trực tiếp tác động đến sản xuất,
kinh doanh, khu vực nông nghiệp, khu, cụm công nghiệp, làng nghề; tác động
tới việc làm và đời sống của nhân dân và người nghèo.
Công tác giảm nghèo được huyện Ba Vì đặc biệt quan tâm, ưu tiên bố
trí nguồn lực hỗ trợ , có nhiều chính sách đặc thù dành riêng ưu tiên cho đồng
bào nghèo trong huyện, đặc biệt là đồng bào dân tộc miền núi.
Lồng ghép các chương trình nông thôn mới, các chương trình phát triển

hạ tầng, các chương trình giáo dục , đào tạo cho các xã miền núi được đặc biệt
quan tâm hỗ trợ tốt cho công tác trợ giúp người nghèo trên địa bàn huyện.
Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình giảm nghèo, đặc biệt
là 7 xã miền núi, các xã khó khăn có tỷ lệ nghèo cao. Đa dạng hóa nguồn lực
và phương thức giảm nghèo,gắn công tác giảm nghèo với phát triển nông
nghiệp nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề, xây dựng xã hội học tập và
giải quyết việc làm. Bên cạnh đó ý thức lao động sản xuất, cần cù chịu khó
năng động sáng tạo của người dân khu vực miền núi không chỉ giúp cho điều
kiện kinh tế của huyện phát triển 7 xã miền núi được nâng lên mà còn giúp cho
công tác giảm nghèo được bền vững. Phấn đấu đên năm 2020 tỷ lệ hộ nghèo
giảm 2%/ năm theo chuẩn nghèo mới.Giải quyết tốt chính sách người có công
và gia đình chính sách. Nâng cao chất lượng hệ thống đảm bảo an sinh xã hội
trên địa bàn huyện phát triển bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong dân.
Nâng cao chất lượng công tác giải quyết việc làm, trong đó ưu tiên lao
động thuộc diện chính sách, lao động ở những hu vực bị thu hồi đất canh tác ,
đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Phấn đấu bình quân hàng năm giải quyết việc
làm mới cho 3.500 lao động . Duy trì và phát huy có hiệu quả các phiên giao
dịch việc làm trên địa bàn huyện.
Hai là, nhóm thực hiện chính sách BHXH
Bảo hiểm là sự bảo đảm thay thế hay bù đắp một phần thu nhập của
người dân khi họ gặp rủi ro trong đời sống (sức khỏe, tai nạn, mùa màng…)
22


thông qua việc đóng thường xuyên một khoản tiền (phí bảo hiểm) cho tổ chức
(nhà nước hoặc tư nhân) tương ứng với xác xuất xảy ra và chi phí của rủi ro
liên quan đến chu kỳ sống của người lao động và gia đình họ.
Chính sách bảo hiểm xã hội tốt đóng vai trò tích cực cho sự phát triển
ổn định kinh tế - xã hội, mang đến trạng thái an toàn về tinh thần, giảm bớt sự
lo âu trước rủi ro, bất trắc cho người được bảo hiểm; giảm sức ép đối với hệ

thống phúc lợi xã hội; chính sách BHXH bao gồm các chế độ hưu trí, mất sức
lao động; ốm đau, thai sản, tại nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và tử tuất. Tuy
nhiên, chế độ ốm đau lại được giải quyết chủ yếu thông qua chính sách bảo
hiểm y tế bắt buộc và số lượng tham gia không lớn, do vậy vẫn có trụ cột thứ
ba là BHYT với phạm vi rộng hơn so với bảo hiểm y tế bắt buộc.
Cấu phần BHXH bao gồm: bảo hiểm y tế; bảo hiểm xã hội tự nguyện;
bảo hiểm xã hội bắt buộc; bảo hiểm thất nghiệp.
Ba là, nhóm thực hiện các chính sách trợ giúp xã hội và hỗ trợ giảm nghèo
Trợ giúp xã hội là sự trợ giúp bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật của
Nhà nước (lấy từ nguồn thuế, không phải đóng góp của người nhận) nhằm
đảm bảo mức sống tối thiểu cho đối tượng được nhận. Hầu hết các khoản trợ
cấp dựa trên cơ sở đánh giá gia cảnh hoặc mức thu nhập nhất định. Theo quan
điểm hiện đại, trợ giúp xã hội bao gồm 3 loại hình: hỗ trợ thu nhập, trợ cấp
gia đình và dịch vụ xã hội. Các chính sách, chương trình này hướng vào
những người sống trong nghèo cùng cực, nghèo và dễ bị tổn thương, ngăn
chặn sự suy giảm trong thu nhập và năng lực tiêu dùng của những người trong
tình huống dễ bị tổn thương, kết nối và tạo điều kiện tiếp cận các dịch vụ trợ
giúp xã hội.
Chính sách giảm nghèo là tập hợp các chính sách, biện pháp và dự án
nhằm thúc đẩy khả năng tiếp cận của người nghèo đến dịch vụ sản xuất và
dịch vụ xã hội, như: chương trình mục tiêu giảm nghèo, chương trình 134,
chương trình 135, và chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại 63
23


huyện nghèo trong cả nước (Nghị quyết 30a của Chính phủ). Hỗ trợ giảm
nghèo cho các đối tượng yếu thế (đối tượng bảo trợ xã hội) bao gồm trợ cấp
xã hội hàng tháng cho đối tượng bảo trợ xã hội (trẻ em mồ côi; người già cô
đơn; người 90 tuổi trở lên không có nguồn thu nhập; người tàn tật nặng; gia
đình có từ hai người tàn tật nặng trở lên không có khả năng tự phục vụ; người

có HIV/AIDS nhà nghèo; gia đình, người nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ
em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt); trợ giúp về y tế; giáo dục; dạy
nghề, tạo việc làm; tiếp cận các công trình công cộng; hoạt động văn hoá thể
thao và trợ giúp khẩn cấp mà từ trước đến nay hay gọi là trợ giúp xã hội cho
những người không may gặp rủi ro đột xuất bởi thiên tai.
BHXH huyện Ba Vì thực hiện tốt việc trợ cấp xã hội cho các đối tượng
BHXH theo nghị định 67, nghị định 13 và các đối tượng già yếu không có khả
năng tự phục vụ và người bị bệnh hiểm nghèo không có khả năng lao động
thoát nghèo. Mức trợ cấp hiện tại là 350.000 đồng/tháng.
Thực hiện tốt các chế độ chính sách xã hội an sinh xã hội, thự hiện đầy
đủ và kịp thời đúng đối tượng đúng chế độ chính sách đối với người có công
và người hưởng chính sách xã hội, triển khai có hiệu quả các mục tiêu Quốc
gia về việc làm và dạy nghề, giảm nghèo bền vững, chính sách.bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới…
Bốn là, nhóm thực hiện các chính sách dịch vụ xã hội cơ bản
Dịch vụ xã hội cơ bản là dịch vụ cung cấp cho các đối tượng nhằm đáp
ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, do vậy, có vai trò quan trọng và
quyết định sự thành công của các chính sách ASXH.
Dịch vụ xã hội cơ bản có vai trò rất qua trọng trong hệ thống ASXH.
Các hoạt động giúp người dân tiếp cận hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản là
những hoạt động đầu tiên và ở tầng thấp nhất trong hệ thống ASXH, tạo điều
kiện cho người dân từng bước vươn lên để có cuộc sống tốt hơn.
Các dịch vụ xã hội cơ bản, gồm:
24


* Dịch vụ việc làm: tạo điều kiện cho những người thuộc nhóm thu
nhập thấp có việc làm và tham gia các hoạt động sản xuất tạo thu nhập có thể
đáp ứng được nhu cầu tối thiểu và duy trì được sự độc lập về tài chính.
* Dịch vụ công tác xã hội: trợ giúp những đối tượng khó khăn, không

nơi nương tựa; giúp người tàn tật có khả năng sống độc lập hơn và tham gia
một cách tích cực trong các hoạt động kinh tế cũng như hoạt động cộng đồng;
* Dịch vụ y tế: thúc đẩy việc chăn sóc sức khỏe, chính sách và các
chương trình trợ giúp người nghèo (chính sách và chương trình xóa đói giảm
nghèo). Đây là một hệ thống chính sách, giải pháp mới được hình thành trong
vài thập kỷ gần đây, ở Việt Nam bắt đầu từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX.
1.2.2. Vai trò của thực hiện chính sách An sinh xã hội
Thực hiện chính sách ASXH là một lĩnh vực hoạt động rất rộng lớn
trong toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội lấy con người làm đối tượng của mọi
quốc gia nên nó có ý nghĩa rất quan trọng trên nhiều mặt kinh tế, chính trị, xã
hội…Đối với nước ta ý nghĩa đó càng trở nên đặc biệt trên con đường phát
triển theo định hướng XHCN, vì chính trên lĩnh vực hoạt động này tính ưu
việt của chế độ kinh tế, chính trị, xã hội mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn
được thể hiện rất rõ nét. Vai trò, ý nghĩa của thực hiện chính sách ASXH đối
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc ở nước ta có thể trình bày trên một số
nội dung sau:
Thứ nhất: thực hiện chính sách ASXH là sự thể hiện rõ nét bản chất ưu
việt của chế độ XHCN, mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh tất cả vì hạnh phúc của con người.
Thuật ngữ ASXH chỉ mới xuất hiện trong những văn kiện, tài liệu, sách
báo ở nước ta thời gian gần đây nhưng những nội dung cơ bản của nó đã được
Bác Hồ khẳng định trong tư tưởng của người và được xác định từ rất lâu trong
các văn kiện, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước theo con đường XHCN
25


×