Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHUYỂN DỊCH cơ cấu KINH tế NÔNG NGHIỆP ở HUYỆN CHƯƠNG mỹ, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.42 KB, 92 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói
riêng là một tất yếu trong quá trình CNH, HĐH nước ta hiện nay. Những năm
qua, việc chuyển dịch CCKTNN của nước ta đã làm cho nông nghiệp có bước
phát triển mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh vững mạnh.
Là một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội, Chương Mỹ có nhiều
điều kiện thuận lợi để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
CNH, HĐH. Thời gian qua, CCKTNN của huyện có sự chuyển dịch tích cực.
Đã chuyển đổi những vùng sản xuất lúa, hoa màu kém hiệu quả sang mô hình
kinh tế trang trại, trồng cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản, với diện tích trên
388,5 ha, với 51 mô hình trong đó có 27 trại lợn, 23 trại gà, 1 trang trại tổng
hợp. Huyện đã có nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp cho hiệu quả kinh tế
cao, như mô hình sản xuất lúa hữu cơ chất lượng và giá trị kinh tế cao tại
Đồng Phú; mô hình trồng cây ăn quả bao sinh học tại thị trấn Xuân Mai; mô
hình hoa lan, ly tại xã Thụy Hương; mô hình chăn nuôi tập trung tại xã Hữu
Văn, Lam Điền, Đại Yên; mô hình cây ăn quả ở xã Trần Phú, Nam Phương
Tiến…[15, tr.4].
Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch CCKTNN của huyện vẫn còn nhiều
hạn chế như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp còn chậm so với
tốc độ phát triển và nhu cầu xã hội hiện nay; sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo vùng trên toàn huyện còn chưa đồng bộ giữa các địa
phương, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo thành phần kinh tế chưa đáp
ứng yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa có sự liên kết giữa người
nông dân và các doanh nghiệp...
Vấn đề trên, đặt ra cho huyện Chương Mỹ thời gian tới phải thúc đẩy
3


chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp một cách nhanh chóng và bền vững


hơn, nhằm phát huy tốt các tiềm năng và lợi thế của huyện trong phát triển
kinh tế, xã hội tại địa phương.
Nhận thức được tính cấp thiết của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên
địa bàn huyện Chương Mỹ trong quá trình CNH, HĐH học viên chọn:
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà
Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài
liên quan đến đề tài, tiêu biểu là:
* Tình hình nghiên cứu trong nước
Nguyễn Toàn (2001), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, khó khăn
và những thuận lợi, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Nông nghiệp thành phố
Hồ Chí Minh. Tác giả luận án đã đưa ra thực trạng chuyển dịch cơ cấu nông
thôn của nước ta trong quá trình CNH, HĐH và đề xuất những giải pháp thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng hợp lý trong thời gian tới.
PGS. TS Bùi Tất Thắng (2006), Nxb Khoa học xã hội, “Chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế ở Việt Nam”. Cuốn sách chủ yếu đề cập những vấn đề lý
luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và nghiên cứu quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam trong giai đoạn từ sau đổi mới
tới năm 2005, trong nội dung đó có đề cập đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân tác động tới
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, tác giải đưa ra những nhận định về xu
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Việt Nam trong tương lai.
Ngô Khắc Linh (2010), “Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
tỉnh Thái Bình”, luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Thông qua đề tài
này tác giả đã làm nổi bật sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh
Thái Bình trên các phương diện cơ cấu ngành, cơ cấu theo thành phần kinh tế
4



và cơ cấu lãnh thổ. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đề xuất một số định hướng,
giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại Thái Bình trong thời
gian tới.
PGS.TS Lê Xuân Bá (2010), bài nghiên cứu: “Nghiên cứu xu hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2010 –
2020”, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, tháng 6 năm 2010. Bài
nghiên cứu phân tích xu hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của Khánh Hòa
tới năm 2020 đặt dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nguyễn Thế Cường, (2010), “Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng”. Thảo
luận hội nghị. Bài thảo luận phân tích cơ sở khoa học và thực trạng của
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng thời kỳ
2007 -2010, từ đó đề ra một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của vùng. Đề tài sử dụng ma trận SWOT để đánh giá tổng hợp về thực trạng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng. Kết quả đề tài đưa ra được một số giải
pháp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Nguyễn Bá Ngọc (2011), Thí điểm sản xuất hoa màu nhằm phát triển
kinh tế nông nghiệp huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh
tế, Đại học Lâm nghiệp Hà Nội. Tác giả luận án đã khái quát cơ sở lý luận về
kinh tế nông nghiệp và phát triển kinh tế nông nghiệp, đồng thời chỉ rõ vai trò
của sản xuất hoa màu trong vấn đề sản xuất nông nghiệp. Tác giả cũng nêu
những điều kiện thuận lợi và khó khăn của huyện Hoài Đức trong sản xuất
nông nghiệp, đồng thời phân tích đánh giá về mô hình thí điểm sản xuất hoa
màu tại một số địa phương trên địa bàn huyện, từ đó đưa ra những thành tựu
và những khó khăn còn tồn tại trong công tác sản xuất hoa màu tại huyện.
Lê Văn Thông (2012), Sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia
Lâm, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị, Đại học Nông
nghiệp Hà Nội. Ngoài việc hệ thống hóa cơ sở lý luận về sản xuất nông
5



nghiệp, nghiên cứu này đã chỉ ra rằng nông nghiệp đóng vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế cũng như xã hội của các hộ dân ở huyện Gia Lâm.
Kinh tế nông nghiệp đã góp phần làm tăng thu nhập, đảm bảo nguồn lương
thực cho người dân, đồng thời góp phần giải quyết việc làm, và giải quyết các
vấn nạn xã hội trên địa bàn. Tuy nhiên, trong quá trình quy hoạch đô thị,
nhiều người dân bị thu hồi đất, nảy sinh nhiều vấn đề bất cập và mâu thuẫn
giữa việc CNH - HĐH đất nước và phát triển kinh tế nông nghiệp. Tác giả đã
phân tích và đưa ra các giải pháp nhằm giải quyết các mâu thuẫn nêu trên.
Hoàng Văn Lai (2012), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị, Đại
học Kinh tế quốc dân. Luận văn đã làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về
CDCCKT nông nghiệp huyện Thạch Thất trong thời gian qua, từ đó đưa ra
những định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp của huyện nhanh hơn theo hướng CNH, HĐH trong
thời gian tới.
Ngô Thái Hà, (2013), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát
triển bền vững ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, trường Đại học Kinh tế quốc
dân. Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, trong đó có kinh tế nông nghiệp. Tác giả phân tích các nhân tố tác động
đến quá trình chuyển dịch CCKTNN; phân tích những biến đổi của cơ cấu
kinh tế Việt Nam từ năm 2000 đến nay; từ đó, đưa ra những nhận định về các
khuynh hướng vận động và đề xuất phương hướng và các chỉ tiêu đánh giá;
những giải pháp chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế bảo đảm tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Nguyễn Hữu Cường (2013), Vai trò của kinh tế nông thôn đối với Việt
Nam giai đoạn 2010 - 2015, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Lâm nghiệp Hà
Nội. Tác giả đã nêu lên bề dày của nền kinh tế nông thôn nước ta, và làm bật
6



lên được vai trò quan trọng của nông thôn trong lịch sử đất nước, trước hết,
kinh tế nông nghiệp đảm bảo an ninh lương thực cho người dân, tiếp theo là
tạo tiền đề cho các lĩnh vực, ngành nghề kinh tế khác phát triển.
Tuy nhiên trong lộ trình phát triển của đất nước, cơ cấu kinh tế có sự
chuyển đổi mạnh mẽ, Việt Nam dần dần đang trên đà phát triển với tốc độ
quy hoạch và công nghiệp hóa tăng lên, tỷ trọng kinh tế chuyển dịch dần theo
hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng,
thương mại dịch vụ…. Tuy nhiên, còn nhiều bộ phận người dân trên khắp các
vùng miền đất nước vẫn mưu sinh bằng kinh tế nông nghiệp, nhưng bị thu hồi
đất do quá trình cải cách, quy hoạch đô thị hóa, theo đó làm cho nhiều người
dân thất nghiệp, hơn nữa hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa cao. Trên cơ sở
những luận giải khoa học, tác giả luận án đã đưa ra thực trạng và các giải
pháp nhằm phát huy vai trò của kinh tế nông thôn đối với nền kinh tế nước ta.
Bùi Hữu Dương (2013), “Phát triển kinh tế nông thôn, hướng đi nào
cho nông dân Việt Nam trong thời kỳ đô thị hóa”, Tạp chí Cộng sản, số 8.
Trong bài viết của mình, tác giả đã phản ánh những bế tắc, hạn chế, khó khăn
trong việc phát triển nông thôn trong khi diện tích đất đai đang bị thu hẹp dần
cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, trong khi giá trị nông sản nhìn
chung là thấp, nhiều người dân bỏ ruộng không tiến hành canh tác, nhưng vẫn
thất nghiệp, nguyên nhân là công sức và chi phí bỏ ra để làm ruộng không
được bù đắp, năng suất thu hoạch về thấp, người dân lỗ thêm trong khi một số
địa phương, công tác thủy lợi và phát triển nông nghiệp trên địa bàn chưa
được quan tâm đúng mức.
Nguyễn Mai Phương (2013), bài báo: “Đô thị hóa và phát triển nông
nghiệp – Hướng đi nào cho ngành nông nghiệp hiện nay?”, Tạp chí phát triển
Nông thôn. Bài báo đã đề cập tới sự dịch chuyển kinh tế ngành nông nghiệp và
những khó khăn để phát triển ngành nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa.
Nguyễn Văn Tản (2014), Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn

7


trên địa bàn huyện Thường Tín, Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị,
Học viện chính trị - Bộ Quốc phòng. Trong luận văn của mình, tác giả đã hệ
thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về kinh tế nông nghiệp, nông thôn và
phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Đồng thời, tác giả đã phân tích
những điều kiện thuận lợi và khó khăn của huyện Thường Tín trong phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Chương 2, tác giả đã phân tích, đánh giá thực
trạng phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn của huyện Thường Tín thời
gian qua và nhận định rõ những vấn đề đặt ra cần giải quyết. Chương 3 của
luận văn, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện trong thời gian tới.
* Các công trình nước ngoài
John & Jane (2012): “Vietnam - Support for Agricultural
Restructuring Project: the financial and economic competitiveness of rice
and selected feed crops in northern and southern Vietnam”,
Bài viết chỉ rõ sự yếu kém trong công tác chính sách lĩnh vực nông nghiệp
hiện nay ở Việt Nam là thiếu một sự hiểu biết rõ ràng về cả lợi nhuận riêng của
nông dân đối với hoạt động trồng khác nhau và khả năng sinh lợi xã hội của hoạt
động đó. Do đó hiệu suất nông nghiệp được hiệu chỉnh về mặt thể chất chứ
không phải là về mặt tài chính hoặc kinh tế. Điều này đã cản trở những nỗ lực để
so sánh và đối chiếu những tác động và hiệu quả của các biện pháp chính sách
và chương trình thay thế số liệu so sánh cho các loại cây trồng khác nhau và hệ
thống quản lý trang trại. Tác giả đã nêu rõ sự cần thiết và thực trạng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại miền Bắc và miền Nam Việt Nam.
Andrew Figura and William Wascher(2008), “The Causes and
Consequences of Economic Restructuring:Evidence from the Early 21st
Century”, (Các nguyên nhân và kết quả của tái cơ cấu kinh tế: Bằng chứng từ
đầu thế kỷ 20). Bài nghiên cứu phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong

các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và nguyên nhân dẫn đến tái cơ
8


cấu kinh tế.
Greoth (2012), Current restructure of Vietnamese agriculture,
Comunist review, Bài báo đã nêu rõ trong bối cảnh thay đổi phát triển kinh tế,
và xen kẽ những cơ hội và thách thức trong nước và hội nhập quốc tế, bài viết
này đề xuất một số biện pháp và giải pháp cần thiết và cấp bách, góp phần
nghiên cứu để tiếp tục đổi mới cơ bản và đồng bộ trong các chiến lược, tổ
chức và tổ chức trong cơ cấu nông nghiệp, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 26 NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá 10) và Chương trình đã
được phê duyệt chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp.
Michael Pettis (2013), “China's Economic Restructuring”, (Tái cơ cấu
kinh tế ở Trung Quốc),cụ thể tác giả đã phân tích yêu cầu và cách thức tiến
hành quá trình tái cơ cấu kinh tế tại Trung Quốc.
Tuy nhiên, tính tới thời điểm hiện tại vẫn chưa có một nghiên cứu nào
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
* Mục đích nghiên cứu
Hệ thống cơ sở lý luận, thực tiễn về chuyển dịch CCKTNN ở huyện
Chương Mỹ, đánh giá thực trạng chuyển dịch CCKTNN ở huyện Chương Mỹ
thời gian qua, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp ở huyện Chương Mỹ.
- Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện
Chương Mỹ, phân tích nguyên nhân và các vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Chương Mỹ trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp dưới

9


góc độ kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo cơ cấu
ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế.
- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành
phố Hà Nội.
- Về thời gian:phân tích thực trạng từ từ 2013 trở lại đây và định hướng
giải pháp tới năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, Nghị quyết của
Đảng bộ huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
* Cơ sở thực tiễn: Luận văn dựa vào các số liệu báo cáo hàng năm của
UBND huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội về các lĩnh vực có liên quan đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và từ khảo sát, điều tra của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác giả
sử dụng tổng hợp các phương pháp: Phương pháp trừu tượng hoá khoa học;
phân tích, tổng hợp; thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về
chuyển dịch CCKT NN; đưa ra quan niệm, phân tích nội dung, các nhân tố ảnh
hưởng đến CDCCKT nông nghiệp ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu góp phần cung cấp thêm các căn cứ
khoa học cho cấp ủy, chính quyền và các ban ngành có liên quan của huyện

Chương Mỹ, thành phố Hà Nội tham khảo để thực hiện chuyển dịch CCKT NN
trên địa bàn huyện. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin.
10


7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương với 6 tiết, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Khái niệm về nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm nông nghiệp
“Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng
đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu
và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một số
nguyên liệu cho công nghiệp; nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao
gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa
rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản.”[1]
Nông nghiệp được hiểu theo hai nghĩa, nông nghiệp theo nghĩa hẹp và
theo nghĩa rộng.
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp, bao gồm trồng trọt và chăn nuôi.
Trồng trọt bao gồm: trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây thực
phẩm, cây ăn quả, cây dược liệu… thỏa mãn nhu cầu lương thực cho con
người, thức ăn cho gia súc, gia cầm và nguyên liệu cho công nghiệp.
Chăn nuôi bao gồm: chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi ong, nuôi tằm…
thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng trong khẩu phần ăn hàng ngày của con người,
nguyên liệu cho công nghiệp và một phần quan trọng khác đáp ứng nhu cầu
mặc, dược liệu để làm thuốc chữa bệnh... Các ngành trên lại có thể phân thành

những ngành nhỏ hơn (phân ngành), chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Trồng trọt cung cấp thức ăn cho chăn nuôi và làm cho chăn nuôi phát triển.
Ngược lại chăn nuôi cung cấp phân bón, sức kéo để tăng sức sản xuất, kết hợp
11


với trồng trọt tạo ra nền nông nghiệp bền vững. Đó chính là hai bộ phận căn
bản của NN theo nghĩa hẹp.
Nông nghiệp theo nghĩa rộng, NN bao gồm các ngành nông nghiệp lâm nghiệp - ngư nghiệp - diêm nghiệp. Đây là tổ hợp các ngành gắn liền với
các quá trình sinh học bao gồm cả trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp (trồng và
khai thác, bảo vệ tài nguyên rừng), ngư nghiệp (đánh bắt và nuôi trồng thuỷ
sản) và diêm nghiệp (khai thác muối từ nước biển). Trong cơ cấu này, sản
phẩm của sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp - diêm nghiệp không chỉ đáp ứng
cho nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của xã hội, mà còn đáp ứng một lượng lớn
cho nhu cầu cuất khẩu và làm nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp. Bên
cạnh đó phát triển toàn diện NN theo nghĩa rộng còn tạo tiền đề, điều kiện để
các ngành kinh tế khác phát triển và tạo ra sự cân bằng môi trường sinh thái.
1.1.2. Khái niệm, đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp
* Khái niệm cơ cấu kinh tế nông nghiệp
“Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu về chất lượng và
số lượng tương đối ổn định của các yếu tố về kinh tế hoặc các bộ phận cấu
thành của nền sản xuất xã hội trong những điều kiện và thời gian nhất
định.”[3, tr5]
Cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân là hình thức cấu tạo bên trong
của nền KTQD, đó là tổng thể các quan hệ chủ yếu về số lượng và chất lượng
tương đối ổn định của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ
thống tái sản xuất xã hội với những điều kiện kinh tế -xã hội nhất định. Nền
KTQD dưới giác độ cấu trúc là sự đan xen của nhiều loại cơ cấu khác nhau,
có mối quan hệ chi phối lẫn nhau trong quá trình phát triển của nền kinh tế.
Tùy từng góc độ nghiên cứu mà nười ta có thể xem xét cơ cấu kinh tế dưới

các giác độ khác nhau như: cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế thành phần,
cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, cơ cấu kinh tế lao động... Trong đó cơ cấu kinh
tế ngành giữ vai trò đặc biệt quan trọng, chi phối các cơ cấu kinh tế khác.
Xem xét dưới góc độ cơ cấu kinh tế ngành thì nền KTQD là một hệ thống sản
12


xuất bao gồm những ngành lớn như: Công nghiệp, nông nghiệp, thương mại,
dịch vụ. Trong mỗi ngành lớn lại hình thành ngành nhỏ hơn thường gọi là các
ngành kinh tế – kỹ thuật. Ví dụ trong nông nghiệp thì có lương thực, thực
phẩm, cây công nghiệp...
Từ sự phân tích như trên, tác giả quan niệm, cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp là tổng thể các nhân tố, các bộ phận cấu thành ngành nông nghiệp và
quan hệ tỷ lệ giữa các nhân tố, các bộ phận đó, giữa chúng có quan hệ gắn
bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, phản ánh sự phát triển về
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong NN trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
CCKT ngành NN thường được xem xét dưới các góc độ sau:
- Cơ cấu ngành: Phản ánh số lượng, vị trí, tỷ trọng các bộ phận cấu
thành kinh tế nông nghiệp. Trong đó, nông nghiệp bao gồm: trồng trọt,
chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp. Thủy sản gồm: nuôi trồng, đánh bắt và
dịch vụ hậu cần. Lâm nghiệp bao gồm: trồng rừng, khai thác rừng và dịch
vụ lâm nghiệp và ngành diêm nghiệp.
- Cơ cấu vùng lãnh thổ: sự phân công lao động theo ngành bao giờ
cũng diễn ra trên những vùng lãnh thổ nhất định, nghĩa là cơ cấu vùng lãnh
thổ chính là việc bố trí các ngành trong sản xuất nông nghiệp theo không gian
cụ thể nhằm khai thác mọi ưu thế tiềm năng to lớn của vùng lãnh thổ. Xu thế
chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ theo hướng chuyên môn hoá và tập trung
hoá, hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn tập trung có hiệu quả cao
gắn cơ cấu của từng khu vực với cơ cấu kinh tế của cả nước. Trong từng vùng

lãnh thổ coi trọng chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp đa dạng.
Để hình thành cơ cấu vùng lãnh thổ hợp lý thì cần bố trí các ngành trên vùng
lãnh thổ hợp lý, để khai thác đầy đủ tiềm năng của từng vùng.
- Cơ cấu thành phần kinh tế: ở nước ta trong thời kỳ bao cấp, cơ cấu
thành phần kinh tế trong nông nghiệp chỉ tồn tại hai loại hình kinh tế: kinh tế
13


quốc doanh và kinh tế tập thể. Đến đại hội VI của Đảng với nội dung chuyển
nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
thì nền kinh tế phát triển đa dạng và nhiều thành phần. Đáng chú ý trong qua
trình chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế nổi lên các xu thế sau: có sự tham
gia của nhiều thành phần kinh tế trong đó: kinh tế hộ nổi lên thành kinh tế hộ
độc lập, tự chủ, đây là thành phần kinh tế năng động nhất, tạo ra sản phẩm
hàng hoá phong phú đa dạng cho xã hội. Trong quá trình phát triển, kinh tế hộ
chuyển từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá nhỏ tiến tới hình
thành các trang trại, nông trại (sản xuất hàng hóa lớn). Thành phần kinh tế
quốc doanh có xu hướng giảm mạnh. Nhà nước đang có biện pháp sắp xếp, rà
soát lại, hoặc chuyển thành phần kinh tế này sang các chức năng khác cho phù
hợp với điều kiện hiện nay. Thành phần kinh tế tập thể (kinh tế HTX) cũng
chuyển đổi chức năng của mình sang các HTX kiểu mới làm chức năng
hướng dẫn sản xuất và công tác dịch vụ phục cho nguyện vọng của các hộ
nông dân mà trước đây chức năng của HTX là trực tiếp điều hành sản xuất.
Như vậy sự phát triển đa dạng của các thành phần kinh tế cùng với việc
chuyển đổi chức năng của nó làm cơ cấu thành phần kinh tế trong nông
nghiệp có những chuyển biến mạnh mẽ theo hướng phát huy hiệu quả của các
thành phần kinh tế.
* Đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp
- Mang tính khách quan: cơ cấu kinh tế nông nghiệp tồn tại và phát
triển phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công

lao động xã hội.
Cũng như cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang
tính khách quan, lịch sử, xã hội và luôn gắn liền với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, sự phân công lao động xã hội… chuyển dịch từ thấp đến cao,
từ giản đơn đến phức tạp dưới tác động của quy luật tự nhiên, kinh tế - xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông
14


nghiệp nói riêng chịu tác động của quy luật cung cầu, giá trị và cạnh tranh. Do
vậy, xây dựng cơ cấu kinh tế nông nghiệp không thể duy ý chí, mà phải nhận
thức đúng đắn sự vận động của quy luật khách quan, vận dụng sáng tạo trong
điều kiện cụ thể.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp hình thành, biến đổi gắn liền với sự phát
triển của cơ chế thị trường, từ kinh tế tự nhiên dần dần chuyển thành kinh tế
hàng hóa, quá trình này tác động và thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển đa
dạng và năng động theo hướng tiên tiến..
- Mang tính lịch sử và xã hội nhất định: Xã hội loài người càng phát
triển, phân công lao động càng cao, nhu cầu của con người về sản phẩm để
tiêu dùng ngày càng nhiều cả về số lượng, chủng loại, mẫu mã và chất lượng
tốt hơn. Chính sự phát triển tất yếu đó đòi hỏi phải xác lập cơ cấu kinh tế
nông nghiệp phù hợp hơn đáp ứng nhu cầu của khách quan.
Ở mỗi vùng khác nhau có cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang đặc điểm
khác nhau trong cùng một thời gian nhất định. Sự khác nhau giữa các vùng
này nhằm phát huy tối đa các lợi thế của từng vùng trên cơ sở đáp ứng tối đa
nhu cầu của thị trường. Các khu vực có điều kiện tự nhiên khác nhau rõ rệt thì
cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng khác rõ rệt vì nó cần phải biến đổi để phù
hợp với khu vực đó. Vì vậy, không thể xây dựng cơ cấu kinh tế nông nghiệp
mẫu, chuẩn mực cho mọi vùng nông thôn.
- Luôn luôn vận động và là cả một quá trình: Trong triết học C. Mác đã

nêu: “Sự vật và hiện tượng luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng”.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu KTNN
nói riêng không thể cố định mà phải có sự biến đổi, điều chỉnh thích hợp với
sự thay đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao gồm tổng thể các quan hệ kinh tế các
quan hệ này không ngừng vận động biến đổi theo hướng tích cực. Cơ cấu
kinh tế nông nghiệp là cái phản ánh trực tiếp mối quan hệ của các yếu tố luôn

15


vận động của lực lượng sản xuất dưới tác động chi phối của các quy luật tự
nhiên và sự vận động xã hội.
Như vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp có những đặc trưng nhất định, bao
gồm: tính khách quan, tính lịch sử xã hội và tính vận động. Chính vì vậy, cơ cấu
kinh tế nông nghiệp giữa các thời kỳ khác nhau có sự khác nhau nhất định.
1.2. Quan niệm, nội dung, các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
Cơ cấu kinh tế là một tổng thể các mối quan hệ tỷ lệ về số lượng tương
đối ổn định của các bộ phận của nền kinh tế trong những điều kiện thời gian
và không gian nhất định. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi thành
phần và quan hệ tỷ lệ giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành của một
hệ thống kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác phù hợp với những yêu
cầu của nền kinh tế xã hội. Thực chất của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự
biến đổi lao động xã hội theo những hướng nhất định.
Cơ cấu kinh tế không thể cố định lâu dài, mà phải có những chuyển
dịch cần thiết thích hợp với sự biến động của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội. Sự duy trì quá lâu hoặc sự thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế mà không

dựa vào những biến đổi của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đều gây nên
những thiệt hại về kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là quá trình thay đổi (tăng
hoặc giảm) về quy mô, tỷ lệ giá trị và tỷ lệ lao động tham gia các chuyên
ngành, tiểu ngành trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Trong kinh tế thị
trường, sự thảy đổi về tỷ lệ trong quy mô, giá trị giữa các chuyên ngành, tiều
ngành của ngành nông nghiệp theo hướng tăng lên hoặc giảm xuống đều có
mục đích đáp ứng tốt nhất cầu của người tiêu dùng về hàng nông sản. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chính là quá trình thích ứng của sản xuất nông
16


nghiệp với thị trường về các sản phẩm do ngành nông nghipệ làm ra trong từng
giai đoạn phát triển cụ thể. Đó là, phương thức lựa chọn tự phát dưới sự vận
hành bởi các quy luật thị trường; hay lựa chọn dựa trên mong muốn và hoạt
động chủ quan của con người thông qua hoạt động điều tiết của một bộ máy
(phổ biến là Nhà nước); hoặc cũng có thể kết hợp cả hai cơ chế điều tiết này
trong một quá trình vận hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp không chỉ là sự biến đổi về tỷ lệ số lượng (như
cơ cấu diện tích trồng, cơ cấu đàn gia súc, cơ cấu giá trị của ngành trồng trọe,
của ngành chăn nuôi, lao động,...) mà còn chuyển dịch về chất (như sự thay đổi
về trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng nông sản,....)
Theo đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Chương Mỹ,
thành phố Hà Nội là sự hoạt động có mục đích, có ý thức của các chủ thể
nhằm làm thay đổi quan hệ tỷ lệ giữa các nhân tố, bộ phận cấu thành ngành
nông nghiệp của huyện theo hướng hiện đại, tiến bộ, hợp lý, năng động và
ngày càng hiệu quả.
Quan niệm trên chỉ ra:
- Chủ thể tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện
Chương Mỹ là các cấp bộ đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân. Mỗi chủ thể

có vai trò, vị trí khác nhau trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện. Vai
trò của các chủ thể trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào chức năng
nhiệm vụ chính trị của họ. Trong đó, các cấp bộ đảng giữ vị trí vai trò là lãnh
đạo, đề ra chủ trương biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp; các
cấp chính quyền tổ chức thực hiện; các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể
tham gia chuyển dịch cơ cấu KTNN theo chức năng nhiệm vụ của mình.
Nhân dân, nhất là nông dân là những người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, có
vai trò đặc biệt quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu KTNN của huyện.
- Mục đích của chuyển dịch cơ cấu KTNN của huyện Chương Mỹ,
thành phố Hà Nội là để phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng phát triển
kinh tế hành hóa, hiện đại, hiệu quả; phát huy lợi thế của các vùng, miền,
17


thành phần kinh tế; nâng cao đời sống nhân dân, góp phần vào chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của huyện theo hướng CNH, HĐH.
- Biện pháp chuyển dịch, là thông qua tổng thể các biện pháp, công cụ
(kế hoạch, pháp luật, chính sách, tâm lý xã hội) để làm thay đổi tỷ trọng các
nhân tố, bộ phận của ngành nông nghiệp huyện theo mục tiêu đã xác định.
Đối với sự phát triển của địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp tại huyện Chương mỹ, thành phố Hà Nội có vai trò quan trọng, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Có hai xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp trái chiều nhau. Khi xem xét chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, chúng ta thường xem xét chuyển dịch theo hướng hợp lý, tiến bộ.
Theo đó, tỷ trọng về giá trị các chuyên ngành nông nghiệp có lợi thế trên thị
trường ngày càng tăng lên, còn các chuyên ngành kém lợi thế ngành càng
giảm xuống trong tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp; sản xuất của các chuyên
nành nông nghiệp đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong
nước và quốc tế, theo đó tổng giá trị sản luọng nông nghiệp của quốc gia,
vùng, của tỉnh và thu nhập của nông dân cũng được cải thiện. Chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp chính là quá trình thích ứng của sản xuất nông nghiệp
với thị trường về các sản phẩm do ngành nông nghiệp làm ra trong từng giai
đoạn phát triển cụ thể.
1.2.2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện
Chương Mỹ
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp: Ngành là
một tổng thể các đơn vị kinh tế thực hiện một loạt chức năng trong hệ thống
phân công lao động xã hội. Ngành phản ánh một loạt hoạt động nhất định của
con người trong quá trình sản xuất xã hội, nó được phân bịêt theo tính chất và
đặc điểm của quá trình công nghệ, đặc tính của sản phẩm sản xuất ra và chức
năng của nó trong quá trình tái sản xuất. Dưới tác động của phân công lao
động xã hội, hoạt động sản xuất ngành nông nghiệp ngày càng chuyên môn óa
18


sâu hơn, năng suất cao hơn. Điều này hình thành các phân ngành trong nội bộ
ngành sản xuất nông nghiệp, hợp thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Phân
công lao động xã hội ngày càng cao, nhóm người sản xuất một nhóm hàng cụ
thể, phù hợp với lợi thế của họ tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp.
Trong một vùng lãnh thổ (quốc gia, tỉnh, huyện) bao giờ cũng phát
triển nhiều ngành kinh tế. Mỗi vùng lãnh thổ nông nghiệp bao giờ cũng có
nhiều ngành với mối quan hệ mật thiết với nhau. Chính vì vậy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo ngành trong nông nghiệp chính là làm thay đổi các quan hệ tỷ
lệ giữa các ngành trong nông nghiệp của vùng đó.
Các ngành trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp ra đời và phát triển gắn
liền với sự phát triển của phân công lao động xã hội. Như vậy phân công lao
động theo ngành là cơ sở hình thành các ngành và cơ cấu ngành. Chính vì vậy
chuyển dịch cơ cấu ngành trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình
chuyển từ trạng thái cơ cấu cũ sang cơ cấu mới phù hợp hơn với sự phát triển

tiến bộ của khoa học công nghệ, nhu cầu thị trường và nhằm sử dụng hiệu quả
mọi yếu tố nguồn lực của huyện.
Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp một cách khoa học và
hợp lý theo hướng giảm tỷ trọng giá trị sản xuất ngành trồng trọt, tăng tỷ
trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi, thủy sản. Trong trồng trọt, thì giảm tỷ
trọng diện tích sản xuất lúa, tăng tỷ trọng diện tích cây rau màu có giá trị kinh
tế cao ở cả 3 vụ (Đông Xuân, Hè Thu và Thu Đông) để đạt hiệu quả cao hơn
trên một đơn vị diện tích sản xuất.
Hiện nay, đối với các địa bàn thuộc huyện Chương Mỹ sản xuất lúa vẫn
là nhiệm vụ quan trọng góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Do
vậy, cần chuyển dịch cơ cấu lúa, đưa các giống lúa có năng suất, chất lượng,
hiệu quả cao vào sản xuất. Tiếp tục chuyển mạnh một phần diện tích đất
trũng, bãi bồi sang đào ao nuôi cá, lập vườn để có giá trị kinh tế cao, hình
19


thành các vùng sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp. Từng bước tăng tỷ trọng
chăn nuôi trong sản xuất nông nghiệp, xác định hợp lý cơ cấu đàn lợn, đàn gia
cầm, đàn bò. Thực hiện phương thức chăn nuôi kết hợp chế biến, tiêu thụ sản
phẩm để có hiệu quả kinh tế. Từng bước phát triển thuỷ sản trở thành thế
mạnh, kết hợp nuôi thả những giống cá có hiệu quả kinh tế cao với việc phát
triển hệ thống tiêu thụ, đưa giá trị thu nhập ở khu vực này tăng cao hàng năm.
Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành trong cơ cấu kinh tế nông thôn là
phải hướng tới một cơ cấu ngành hợp lí, đa dạng trong đó cần phát triển các
ngành chủ lực có nhiều lợi thế để đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu.
Đồng thời phải kết hợp tối ưu giữa cơ cấu ngành với cơ cấu vùng lãnh thổ và
cơ cấu các thành phần kinh tế.
Hai là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng: Sự phân công lao động
theo ngành kéo theo sự phân công lao động theo lãnh thổ, đó là hai mặt của
một quá trình gắn bó hữu cơ với nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Sự phân công

lao động theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên một lãnh thổ nhất định. Chuyên
môn hóa sản xuất ngày càng sâu hơn, với sự kích thích của kinh tế hàng hóa và
cơ chế thị trường, các hộ nông dân cũng như các cơ sở sản xuất nông nghiệp
đều hướng vào sản xuất hàng hóa gắn với thị trường. Nhiều vùng kinh tế tự
nhiên chuyển dần sang tập trung sản xuất các cây, con thích nghi với điều kiện
sinh thái của mình và có lợi tế so sánh nhiều hơn so với vùng khác. Vì vậy cơ
cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ chính là sự bố trí các ngành sản xuất và dịch vụ
theo không gian cụ thể nhằm khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh của vùng.
Xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ là theo hướng đi vào chuyên
môn hoá và tập trung hoá sản xuất và dịch vụ, hình thành những vùng sản xuất
hàng hoá lớn, tập trung có hiệu quả cao, mở rộng mối quan hệ với các vùng
chuyên môn hoá khác, gắn bó cơ cấu kinh tế của từng vùng với cả nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng thể hiện sự tái phân công lao
động theo vùng lãnh thổ. Dựa trên những lợi thế về điều kiện tự nhiên, địa lý,
20


kinh tế - xã hội của mỗi vùng mà hình thành các vùng kinh tế. Các vùng kinh
tế này có những đặc điểm khác nhau nhưng có điểm chung là dựa vào những
lợi thế đó để khai thác có hiệu quả các nguồn lực và tiềm năng kinh tế trong
vùng nhằm tạo ra sự phát triển. Kinh tế vùng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
vùng nhằm khai thác những lợi thế từ lao động, từ vị trí địa lý, điều kiện tự
nhiên để xây dựng một chiến lược phát triển sản xuất - kinh doanh theo hướng
chuyên môn hoá, đa dạng hoá. Chuyển dịch cơ cấu vùng còn làm cho những
diện tích đất trước đây chưa sử dụng, hoặc sử dụng chưa hiệu quả, hoặc chưa
chuyển đổi được sang hướng sản xuất phù hợp được sử dụng có hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, khi có một cơ cấu kinh tế vùng hợp lý sẽ thu hút được vốn đầu
tư từ bên ngoài nhằm duy trì và phát triển kinh tế vùng đó.
Trong nền kinh tế thị trường, ở mỗi vùng, xã thuộc huyện Chương Mỹ,
ngành nào có ưu thế cạnh tranh sẽ phát triển nhanh. Từ đó, kéo theo các

ngành khác có liên quan cùng phát triển cả về qui mô và tốc độ theo một quan
hệ, tỷ lệ nhất định, qua đó đạt hiệu quả kinh tế cao nhất của vùng. Xác định
cơ cấu kinh tế vùng hợp lý sẽ tạo cơ sở để khai thác và sử dụng có hiệu quả
hơn những tiềm năng về tài nguyên, sức lao động, cơ sở vật chất hiện có của
từng vùng. Điều này quyết định tốc độ phát triển kinh tế hàng hoá ở nông
thôn mỗi vùng cũng như cả nước. Khi có biến đổi lớn trong vùng kinh tế về
kết cấu hạ tầng và tình hình kinh tế - xã hội như hệ thống giao thông, thuỷ lợi,
trình độ dân trí, vốn đầu tư, thị trường tiêu thụ, đặc biệt là sự xuất hiện của
những tiến bộ mới trong công nghệ sinh học, nhu cầu mới của thị trường... sẽ
xuất hiện những ngành sản xuất - kinh doanh mới có hiệu quả kinh tế cao
hơn.
Để phát triển các ngành mũi nhọn ở huyện Chương Mỹ, trong quá trình
xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế vùng cần coi trọng tác động vĩ mô của Nhà
nước thông qua hệ thống các chủ trương, chính sách như: khuyến nông, xây

21


dựng kết cấu hạ tầng, chính sách thuế ưu đãi và những thông tin cần thiết...
Ba là, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế: Cơ cấu thành phần kinh
tế là nội dung quan trọng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và
cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng.
Trong nông nghiệp và nông thôn tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác
nhau tùy mỗi quốc gia, mỗi vùng mà số lượng thành phần kinh tế cũng khác
nhau. Các thành phần kinh tế cơ bản như: kinh tế nhà nước, tập thể, tư nhân,
hộ gia đình. Trong đó kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại là lực lượng chủ
yếu trực tiếp tạo ra các nông, sản phẩm cho nền kinh tế quốc dân và kinh tế
hộ tự chủ đang trong xu hướng chuyển dịch từ kinh tế hộ tự cung, tự cấp sang
sản xuất hàng hoá và từng bước tăng tỷ lệ hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ.

1.2.3. Các yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở huyện Chương Mỹ
Thứ nhất, điều kiên tự nhiên, kinh tế, xã hội: Các yếu tố tự nhiên có vai
trò quan trọng trong việc hình thành các hệ sinh thái nông nghiệp khác nhau.
Các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc hình thành các cơ cấu cây
trồng, vật nuôi trên một vừng lãnh thổ gồm có: Khí hậu, nguồn nước, đất đai
và hệ sinh vật.
Sản xuất nông nghiệp diễn ra trên địa bàn rộng lớn và đối tượng khai
thác là sinh vật nuôi trồng gắn liền với vị trí địa lý, thổ nhưỡng, khí hậu, chế
độ thủy văn, ánh sáng, hệ sinh thái, tài nguyên thiên nhiên... Đây là các yếu tố
tiền đề cực kỳ quan trọng đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ cấu
kinh tế nông nghiệp.
Vấn đề căn bản là lựa chọn được cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu
nghề nghiệp để huy động và khai thác có hiệu quả nhất những lợi thế so sánh
về tự nhiên, tránh và hạn chế rủi ro cũng như những tác động bất lợi của tự
nhiên để tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, hạ giá thành, nâng cao chất lượng
22


sản phẩm, góp phần cạnh tranh thắng lợi trong nền kinh tế thị trường.
Do vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện
Chương Mỹ phải bố trí được cơ cấu cây trồng, vật nuôi tương thích với điều
kiện thổ nhưỡng, chế độ thủy văn, ánh sáng, khí hậu, phải tôn trọng các quy
luật tự nhiên để đảm bảo năng suất cây trồng, vật nuôi cao nhất, đảm bảo mức
sinh lời lớn với chi phí thấp, qua đó đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Chương Mỹ là huyện ngoại thành nằm ở phía Tây Nam Hà Nội, cách
trung tâm Thủ đô 20 km; phía Bắc giáp huyện Quốc Oai; phía Đông giáp
quận Hà Đông, huyện Thanh Oai; phía Nam giáp huyện Ứng Hòa, Mỹ Đức;
phía Tây giáp huyện Lương Sơn (tỉnh Hoà Bình). Trên địa bàn có các tuyến
đường quan trọng chạy qua: Tuyến đường 419 nối liền các xã và các huyện;

quốc lộ 6 với chiều dài 18 km và đường Hồ Chí Minh với chiều dài 16,5 km
giúp cho Chương Mỹ trở thành đầu mối và cầu nối giao thương quan trọng
giữa Thủ đô với các tỉnh thành đồng bằng Bắc Bộ và các tỉnh vùng Tây Bắc;
giữa Hà Nội với các tỉnh thành phía Nam. Trong quy hoạch phát triển kinh tế
- xã hội của Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2050 đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt, Chương Mỹ nằm trong vành đai xanh phát triển
của Thủ đô với Khu đô thị vệ tinh Xuân Mai, thị trấn sinh thái Chúc Sơn
(nằm trong chùm đô thị vệ tinh và thị trấn sinh thái của Thủ đô). Đây là điều
kiện cho huyện mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm của ngành nông
nghiệp, đẩy mạnh tiêu thụ các sản phẩm đầu ra và thu hút nhiều nguồn lực
đầu tư vào huyện, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng hiện đại hóa, hợp lý hóa.
Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 232,94 km2, là huyện có diện tích
lớn thứ 3 của thành phố. Địa hình của huyện được chia làm 3 vùng rõ rệt:
Vùng Đồi gò, vùng “Núi sót” và vùng Đồng bằng với hệ thống sông Bùi sông Tích phía Tây, sông Đáy bao bọc phía Đông huyện đã tạo tiền đề cho sự
phát triển nông nghiệp trồng lúa nước ở vùng này từ rất sớm. Đồng thời kết
23


hợp với hệ thống đồi núi, sông hồ, đồng ruộng tạo nên những cảnh quan thiên
nhiên kỳ thú, thơ mộng và đầy ắp những huyền thoại: Quần thể di tích lịch sử
văn hóa, danh lam thắng cảnh thuộc các xã Phụng Châu, Tiên Phương, Ngọc
Hoà, Hoàng Văn Thụ, Thủy Xuân Tiên… dải núi rừng và hồ phía Tây của
huyện vừa là cảnh quan đẹp vừa là tuyến phòng thủ tự nhiên vững chắc về
phía Tây Nam của Thủ đô. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế
nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành và vùng
lãnh thổ trên địa bàn.
Khí hậu thủy văn là nguồn tài nguyên liên quan và tác nhân ảnh hưởng
đến các ngành kinh tế quốc dân. Đăc biệt là sản xuất nông nghiệp, yếu tố thủy
văn có ảnh hưởng tới mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, năng suất, chất

lượng sản phẩm. Huyện có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thuận lợi cho sản xuất
nông nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng thủy sản.
Dân số 31 vạn người. Toàn huyện có 32 đơn vị hành chính cấp xã gồm
30 xã và 2 thị trấn. Mật độ dân số trung bình 1.309 người/km2. Toàn huyện
có trên 70.000 hộ dân; người dân tộc Kinh chiếm đại đa số, dân tộc Mường có
01 thôn Đồng Ké (thuộc xã Trần Phú) với 123 hộ dân, 471 nhân khẩu; ngoài
ra còn có một số dân tộc thiểu số khác ở rải rác tại các xã, thị trấn... Huyện có
nguồn nhân lực dồi dào, đáp ứng nhu cầu nhân lực lớn cho ngành nông
nghiệp. Tuy vậy, nhìn chung trình độ lao động có tay nghề còn ít, chất lượng
lao động thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp và thủ công nên còn lạc hậu.
Điều này đã tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện.
Trình độ, kỹ năng của người lao động, tập quán canh tác, ngành nghề truyền
thống tại huyện Chương Mỹ cũng chi phối mạnh mẽ đến bố trí cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, cơ cấu sản phẩm ở huyện. Các nghề tiểu thủ công nghiệp,
dịch vụ cũng tác động tích cực tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp. Muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH tất yếu phải

24


phát triển lực lượng sản xuất, trong đó lực lượng lao động là nhân tố hàng
đầu. Chỉ có đội ngũ lao động với chất lượng cao, cơ cấu hợp lý mới có khả
năng tiếp thu được khoa học công nghệ, nhất là công nghệ tin học, sinh học
để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Các yếu tố của kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như hệ thống giao thông,
thuỷ lợi, điện, bưu chính - viễn thông... là điều kiện, là tiền đề cho sản xuất
hàng hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Tất cả các yếu tố đó đều
tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Thứ hai, vốn đầu tư: Vốn đầu tư cũng là yếu tố có ý nghĩa quyết định
đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Có vốn mới giải quyết

được vấn đề tăng cường cơ sở kỹ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học - công
nghệ, nâng cao chất lượng nguồn lao động. Vì vậy, để tăng trưởng kinh tế
nông nghiệp cao và ổn định, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có hiệu
quả phải tăng cường đầu tư vốn cho phát triển sản xuất và kết cấu hạ tầng
nông nghiệp, nông thôn cũng như các yếu tố kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
liên quan khác.
Năm 2015, tổng giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá so sánh năm 2010
đạt 14.915 tỷ đồng, bằng 100,2 so với kế hoạch, tăng 12,4% so với cùng kỳ.
Tổng giá trị theo giá thực tế đạt 17,036 tỷ đồng.
Tình hình sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản
trên địa bàn huyện ổn định, có chiều hướng phát triển tích cực. Toàn huyện có
421 doanh nghiệp trong lĩnh vực này và có trên 10.000 cơ sở sản xuất tiểu thủ
công nghiệp hoạt động có hiệu quả. Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, xây dựng cơ bản ước đạt 8.540 tỷ đồng, giá trị thương mại, dịch
vụ đạt 3.055 tỷ đồng, tăng 19% so với cùng kỳ; giá trị sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp ước đạt 3.320 tỷ đồng, bằng 103% kế hoạch và bằng 107% so với
cùng kỳ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp tiểu thủ công
25


nghiệp chiếm tỷ trọng 56,4%, thương mại dịch vụ 19,1%, nông nghiệp 24,5%.
Tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt hơn 1.540 tỷ đồng, tổng chi ước đạt
hơn 1.540 tỷ đồng; bình quân thu nhập đầu người 26 triệu đồng/người/năm.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 2,4%. [15,tr1-3]
Sự phát triển kinh tế đã góp phần quan trọng trong thu hút nguồn vốn
đầu tư của xã hội trên địa bàn nói chung và thu hút nguồn vốn đầu tư cho
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, ngành nông
nghiệp là ngành sản xuất có nhiều rủi ro nên nhìn chung tỷ trọng vốn đầu tư
cho ngành này còn thấp. Điều này chưa tạo điều kiện thuận lợi cho thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn.

Thứ ba, sự phát triển của khoa học - công nghệ: Sự phát triển của khoa
học - cộng nghệ tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp. Tiến bộ khoa học - công nghệ được ứng dụng vào sản xuất nông
nghiệp cho phép tạo ra những sản phẩm mới, chất lượng và năng suất cao hơn.
Những thành tựu và kiến thức về khoa học xã hội và nhân văn cũng tác động
tích cực đến việc nâng cao trình độ văn hoá, kiến thức kinh tế cho nông dân
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Khoa học - công nghệ phát triển đã tạo cho người nông dân trên địa bàn
huyện Chương Mỹ nhiều giống mới với phẩm chất tốt, cho phép đổi mới công
nghệ sản xuất, bảo quản, chế biến, cho phép thực hiện phân công lại lao động
xã hội. Khoa học - công nghệ phát triển sẽ hạn chế được những yếu tố bất lợi
của tự nhiên, kinh tế và xã hội.Thực tế “chiến tranh” nông phẩm của thế giới
đã minh chứng điều đó. Sự phát triển của khoa học - công nghệ là yếu tố tác
động mạnh mẽ và trở thành động lực trực tiếp đột phá cho sự hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Thứ tư, yếu tố tổ chức và quản lý: Đó là tổng thể những tác động về thể
chế, chính sách kinh tế nhằm định hướng và điều tiết cơ cấu kinh tế nông

26


nghiệp. Thông qua hệ thống pháp luật, các chính sách và công cụ quản lý vĩ
mô như chính sách đầu tư, chính sách tài chính, tiền tệ, tỷ giá, chính sách
thương mại, xuất nhập khẩu, chính sách kinh tế đối ngoại... yếu tố này tác
động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Trình độ tổ chức
và quản lý kinh doanh của người nông dân cũng ảnh hưởng rất lớn tới chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế là biểu hiện của đường lối, chính sách phát triển kinh tế
- xã hội của Đảng và Nhà nước. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đúng đắn, hợp lý
mang tính khách quan, khoa học và tính lịch sử xã hội, nhưng chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp chịu sự tác động chi phối, định hướng của đường lối
phát triển kinh tế của Đảng và thể chế của Nhà nước. Nhà nước tạo động lực
và hành lang pháp lý điều tiết sản xuất, kinh doanh qua hệ thống luật pháp và
chính sách. Nhà nước còn can thiệp vào thu hút, sử dụng vốn đầu tư để thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có hiệu quả theo mục tiêu,
phương hướng chung của đất nước.
Ngoài ra, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện
Chương Mỹ còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của các chính sách phát triển kinh
tế của Thành phố như chính sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông
nghiệp, nông thôn; chính sách chuyển giao khoa học và công nghệ; chính sách
khuyến khích phát triển các mặt hàng mũi nhọn trong nông nghiệp...
Thứ năm, yếu tố thị trường: Thông qua quan hệ cung- cầu, giá cả thị
trường đối với sản phẩm nông nghiệp, yếu tố này chi phối rất lớn đến chuyển
dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Bởi vì, trong kinh tế thị trường những sản
phẩm nào có lợi nhuận cao, thị trường ổn định thì các doanh nghiệp, hộ gia
đình, hợp tác xã sẽ đầu tư vốn để phát triển.
Thông qua những chức năng như điều tiết và kích thích sản xuất, thông
tin tín hiệu cho người sản xuất và quản lý, thị trường tác động mạnh đến sự
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu ngành nghề trong sản xuất
27


×