Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ THU hút vốn đầu tư TRỰC TIẾP nước NGOÀI ở ĐÔNG NAM bộ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.36 KB, 100 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THU HÚT
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở
VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
12
1.1.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài, những vấn đề lý luận
12
chung
1.2.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng Đông
18
Nam Bộ
1.3.
Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
một số địa phương Việt Nam và bài học rút ra cho vùng 32
Đông Nam Bộ
Chương 2 THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP 39
NƯỚC NGOÀI Ở VÙNG KINH TẾ ĐÔNG NAM
BỘ THỜI GIAN QUA
2.1.
Thành tựu, hạn chế thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Đông Nam Bộ
39
2.2.
Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề
đặt ra


59
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THU 75
HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Ở VÙNG ĐÔNG NAM BỘ THỜI GIAN TỚI
3.1.
Quan điểm chỉ đạo thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở vùng Đông Nam Bộ thời gian tới
75
3.2.
Những giải pháp chủ yếu trong việc thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế Đông Nam Bộ hiện
nay
79
KẾT LUẬN
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
97
PHỤ LỤC
101


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật Đầu tư nước ngoài (ban hành năm 1987) như một mốc quan trọng
đánh dấu và khởi đầu quá trình mở cửa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo
với nội dung cốt lõi là chuyển từ nền kinh tế với cơ chế quản lý tập trung
quan liêu sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, từ nền kinh tế khép
kín sang nền kinh tế mở. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, vốn là yếu tố đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, nguồn vốn tích lũy từ
bên trong nền kinh tế của một quốc gia luôn có hạn. Chính vì vậy, tranh thủ

nguồn vốn của các quốc gia khác là giải pháp quan trọng nhằm bổ sung cho
nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp để phát triển kinh tế. Do đó, việc thu hút
đầu tư nước ngoài là cần thiết, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển
như Việt Nam. Không những thế, đồng thời với việc thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, chúng ta còn có thể qua đó tiếp thu được khoa học công nghệ
tiên tiến và trình độ quản lý hiệu quả từ các quốc gia khác.
Đông Nam Bộ là một trong hai phần của Nam Bộ Việt Nam, có tên gọi
khác ngắn gọn được người dân Việt Nam thường gọi là Miền Đông. Vùng
Đông Nam Bộ có một thành phố và 5 tỉnh (thành phố Hồ Chí Minh, Bà RịaVũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và Tây Ninh), là một trong
các vùng kinh tế trọng điểm của nước ta. Trong những năm qua, kinh tế Đông
Nam Bộ đã có những bước phát triển nhanh chóng, đặc biệt trong đó có sự
đóng góp đáng kể của một lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn mà các
địa phương trong vùng đã thu hút được. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư), trong 6 tháng đầu năm 2014, có 3 tỉnh, thành phố vùng
Đông Nam Bộ đứng đầu cả nước về thu hút FDI. Trong đó TP. HCM đứng
thứ nhất chiếm khoảng 12,9%, Bình Dương đứng thứ 2 với 12,8% và Đồng
Nai đứng thứ 3 với 10% tổng vốn FDI cả nước. Số vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài này đã góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế vùng Đông Nam

3


Bộ. Đồng thời, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy quá trình
hội nhập quốc tế, là cầu nối gắn kết nền kinh tế trong nước với khu vực và
quốc tế, từ đó, tạo điều kiện cho quá trình đổi mới, cải cách cơ chế kinh tế
diễn ra mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thu
hút đầu tư nước ngoài vào vùng kinh tế trọng điểm này cũng đã bộc lộ những
hạn chế về định hướng, chính sách, cơ chế và các giải pháp thực hiện. Các địa
phương trong toàn Vùng chưa có sự phối hợp trong việc xây dựng chiến lược
thu hút và sử dụng có hiệu quả dòng vốn FDI, lồng ghép chiến lược này vào

chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Vùng và của cả nước, phù hợp với
từng giai đoạn, cũng như gắn liền với chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam.
Do đó, việc nghiên cứu để có được sự đánh giá khách quan thực trạng
thu hút FDI tại Đông Nam Bộ, tìm ra những thành công, chỉ ra những hạn chế
và nguyên nhân chủ yếu của chúng để từ đó đề xuất những giải pháp khả thi
nhằm tăng cường hoạt động thu hút FDI tại khu vực kinh tế trọng điểm này
trong thời gian tới là thực sự cần thiết. Với nhận thức như vậy, em đã lựa
chọn chủ đề: “Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đông Nam Bộ
hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Cho tới nay, ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu (Đề tài
nghiên cứu, Luận án, Luận văn) về FDI tại Việt Nam ở cả các phương diện lý
luận lẫn thực tiễn. Trong đó, có thể kể đến những công trình chủ yếu sau:
- Nguyễn Tiến Cơi, Chính sách thu hút FDI của Malayxia trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, LATS, trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm
2006. Trong bản luận án, tác giả đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về
FDI và vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển, cũng như các chính
sách thu hút FDI. Trên cơ sở đó, tác giả đã đi sâu phân tích chính sách thu hút

4


FDI của Malayxia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn từ
năm 1996 - 2005. Ở chương 3, tác giả đề xuất một số kinh nghiệm của Malayxia
có thể ứng dụng vào thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam;
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Sở Khoa học và Công nghệ thành phố
Hồ Chí Minh, năm 2012 “Nghiên cứu, đánh giá tác động của vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI đến thay đổi cơ cấu kinh tế tại thành phố Hồ Chính

Minh trong giai đoạn 1988-2012” do tiến sĩ Phạm Thị Minh Lý làm chủ
nhiệm. Đề tài đã tiến hành khảo sát thực tế, thực trạng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1988 tới năm 2020 và đánh giá
những tác động của nó tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố;
- Đề tài “Hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI vào thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh Việt Nam là
thành viên của WTO” do Dương Bình Minh làm Chủ nhiệm do Trường Đại
học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh chủ trì, thực hiện năm 2009. Đề tài đã
làm rõ thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2000 - 2009. Trên cơ sở đó đánh giá tác
động của môi trường đầu tư tới thu hút vốn FDI trên địa bàn thành phố. Báo
cáo đi sâu vào phân tích những giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường đầu tư
để thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại địa phương cũng như cả nước
trong giai đoạn đến năm 2020;
- Đề tài “Nghiên cứu giải pháp và phương thức thu hút đầu tư trực tiếp
của nước ngoài vào khu vực kinh tế dịch vụ ở Việt Nam” do Tiến sĩ Ngô Công
Thành làm Chủ nhiệm và Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chủ
trì năm 2009. Đề tài đã nghiên cứu thực trạng về thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam, cụ thể là trong lĩnh vực du lịch. Trên cơ sở đánh giá
thành công và hạn chế cũng như nguyên nhân của những hạn chế trong thu hút
vốn FDI cho phát triển du lịch trong thời gian qua, các tác giả đã đề xuất phương
hướng và giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư FDI vào lĩnh vực này;

5


- Luận văn “Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh - Thực trạng và giải pháp” của Trương Đăng Hùng, trường Đại học Kinh tế
TP. HCM năm 2004. Trong luận văn của mình, tác giả đã hệ thống hóa những vấn
đề lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự cần thiết phải thu hút vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế ở mỗi địa phương. Trên cơ sở
đó, tác giả đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại TP.
HCM từ năm 2001 - 2003 nhằm đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân trong công tác này. Chương 3, tác giả cũng đề xuất những giải pháp nhằm
tăng cường thu hút vốn FDI cho thành phố tới năm 2010;
- Công trình “Những nhân tố tác động tới việc thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào một số địa phương của Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Mạnh Toàn, Tạp chí Khoa học và công nghệ, Trường Đại học Đà Nẵng năm
2010. Trong đó, tác giả đã xác định những nhân tố chủ yếu giúp thu hút vốn
đầu tư của nước ngoài vào một địa phương của Việt Nam. Sau khi nghiên cứu
tổng quan các vấn đề lý luận và thực hiện phỏng vấn các nhà đầu tư nước
ngoài, tác giả đã xác định được tám nhân tố, phân thành bốn nhóm, phục vụ
cho việc nghiên cứu. Bảng hỏi với 300 câu hỏi điều tra đã được gửi đến các
công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại ba thành phố: Hà Nội, Đà Nẵng và TP.
HCM để khảo sát. Kết quả điều tra cho thấy một số nhân tố được đánh giá là
quan trọng hơn các nhân tố khác. Trong đó, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, sự ưu đãi
và hỗ trợ của chính quyền địa phương, chi phí hoạt động thấp là những nhân
tố quan trọng nhất, có ảnh hưởng mang tính quyết định khi nhà đầu tư nước
ngoài xem xét lựa chọn địa điểm đầu tư tại Việt Nam;
- Luận văn “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bắc Ninh giai
đoạn 2007 - 2011”, của Nguyễn Hữu Cường, trường Đại học Kinh tế (Đại học
Quốc gia Hà Nội) năm 2011. Nội dung chính của luận văn bao gồm những
vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự cần thiết phải thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế ở mỗi địa phương.

6


Trên cơ sở đó, tác giả đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2007 - 2011 nhằm đánh giá những thành

tựu, hạn chế và nguyên nhân trong công tác này. Ngoài ra, tác giả cũng đề
xuất những giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn FDI vào tỉnh Bắc Ninh
thời gian tới.
- Bài viết “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp
các vùng ngoại thành Hà Nội - Thuận lợi và khó khăn”, của tác giả Trà My,
Tạp chí Cộng sản, số 124 năm 2012. Trong bài viết, tác giả đưa ra thực trạng
thu hút FDI vào các khu công nghiệp ngoại thành Hà Nội tại các địa bàn như
Thanh Oai, Thạch Thất, Đông Anh, Gia Lâm, Từ Liêm,… Tác giả cũng đưa
ra những thuận lợi và khó khăn khi thu hút FDI vào khu vực này và đề xuất
những giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI trong thời gian tới;
- "Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đái
hoá ở Việt Nam giai đoạn 1988-2005" của tác giả Đỗ Thị Thuỷ (Luận án Tiến
sĩ Kinh tế, năm 2001) đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến FDI vào Việt
Nam, nhất là trong giai đoạn 1997 - 2000 do ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế trong khu vực làm giảm sút FDI vào Việt Nam giai đoạn này;
- "Kinh nghiệm thu hút FDI của các nước đang phát triển Châu Á và
khả năng vận dụng vào Việt Nam" của tác giả Hoàng Xuân Hải (Luận án Phó
Tiến sỹ khoa học kinh tế) đã nghiên cứu những kết quả đạt được của nước ta
trong lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam;
- "Thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia" của tác giả
Hoàng Thị Bích Loan viết về vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong lưu
chuyển FDI toàn cầu, chiến lược đầu tư trực tiếp của công ty xuyên quốc gia,
bài viết về toàn cảnh thực trạng đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc
gia gần 20 năm qua, triển vọng, phương hướng, giải pháp thu hút FDI của các
công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam trong những năm tới;

7


- "Tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam" của tác giả Lê

Xuân Bá và Nguyễn Thị Tuệ Anh, năm 2006 đã nêu ra được tác động tích
cực, tác động chưa tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam;
- "Một số biện pháp thức đẩy việc triển khai thực hiện các dự án FDI
tại Việt Nam" của tác giả Bùi Huy Nhượng (Luận án Tiến sỹ kinh tế, năm
2006) đánh giá việc triển khai thực hiện các dự án FDI và đưa ra một số giải
pháp nhằm thúc đẩy việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam;
- "Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của các nước ASEAN và
vận dụng vào Việt Nam" của tác giả Nguyễn Huy Thám (Luận án Tiến sĩ kinh
tế, năm 1999) đã đưa ra một số kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài của các nước ASEAN, đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài của Việt Nam và đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
- "Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển khu công nghiệp" của tác
giả Lê Xuân Trinh đăng trên Tạp chí Công sản năm 1998 viết về tác động của
đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự phát triển của các khu công nghiệp.
2.2. Tài liệu nghiên cứu nước ngoài
- J. Saul Lizondo (1990), Foreign Direct Investment, IMF Working
Paper No. 90/63. Bài viết này tóm tắt lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm về
các yếu tố quyết định đầu tư trực tiếp nước ngoài. Những yếu tố quyết định
bao gồm dự kiến tỷ lệ lợi nhuận nhận lại, phân tán rủi ro, quy mô thị trường,
lợi thế công nghệ, thất bại thị trường, sự cạnh tranh độc quyền nhóm, khả
năng thanh toán, sức mạnh tiền tệ, bất ổn chính trị, chính sách thuế và các quy
định của chính phủ;
- G. Jonh (2012), Foreign direct investment advantages and
disadvantages, Harrow. Bài viết đưa ra những ưu điểm và đồng thời cũng nêu

8



ra những nhược điểm mà vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại cho các
nước nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài;
- Z.heqser (2012), Attracting foreign direct investment fdi to India,
Daily paper. Bài viết nêu thực trạng về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Ấn Độ và nêu các biện pháp cụ thể mà chính phủ nước này đã đưa ra để tăng
cường đầu tư trực tiếp nước ngoài, như ưu đãi thuế, ưu đãi tín dụng…
2.3. Đánh giá các công trình nghiên cứu
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài đều hệ
thống hóa cơ sở lý luận về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thực trạng thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại một địa bàn cụ thể và đề xuất những giải
pháp để tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, mỗi một
địa phương đều có những đặc điểm kinh tế, xã hội và lợi thế khác nhau nên ảnh
hưởng đến thực trạng thu hút FDI tại từng địa bàn. Tính tới thời điểm hiện tại
vẫn chưa có một công trình nào chuyên nghiên cứu về thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Chính vì vậy, tác giả đã lựa
chọn đề tài là “Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đông Nam Bộ hiện
nay” để nghiên cứu về trực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
khu vực này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào một địa phương, vùng miền;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ Việt Nam, làm rõ thành tựu, hạn chế, nguyên
nhân và các vấn đề đặt ra cần giải quyết;


9


- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp, phần phát triển kinh tế vùng Đông
Nam Bộ Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào một địa phương, vùng miền.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Vùng kinh tế Đông Nam Bộ Việt Nam, cụ thể bao gồm
TP. HCM, các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước và
Tây Ninh
- Thời gian: Giai đoạn 2010 – 2014 và định hướng, giải pháp tới năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin mà trực tiếp là Kinh tế chính trị Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam về thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp chuyên ngành của ngành kinh tế chính
trị, gồm: Phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp thống kê, phân tích, điều
tra xã hội học, phướng pháp hệ thống hóa, mô hình hóa và đồ thị, phương
pháp chuyên gia,….
6. Ý nghĩa của đề tài
- Làm rõ nội dung của thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và đánh
giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Đông Nam Bộ từ
năm 2010 cho tới nay, đề xuất những giải pháp chủ yếu để thúc đẩy thu hút

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Đông Nam Bộ tới năm 2020.

10


- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu giảng dạy môn
kinh tế chính trị và tài liệu tham khảo cho lãnh đạo các cấp của các địa
phương vùng Đông Nam Bộ cũng như các địa phương khác.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục,
danh mục chữ viết tắt; Luận văn gồm 3 chương (7 tiết).

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài, những vấn đề lý luận chung
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Có rất nhiều quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài, cụ thể:
- Theo quan điểm của Hoa Kỳ, một trong những nước tiến hành đầu tư
và tiếp nhận đầu tư lớn nhất thế giới, cho rằng: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài
là bất kỳ dòng vốn nào thuộc sở hữu đa phần của công dân hoặc công ty của
nước đi đầu tư có được từ việc cho vay hoặc dùng để mua sở hữu của doanh
nghiệp nước ngoài” [16, tr.21];
- Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài được
xem như là một khoản đầu tư với những quan hệ, theo đó một tổ chức trong
một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh
nghiệp đặt tại nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có

nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế
khác đó” [16, tr.21];
- Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987: “Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn
bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp
thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp
liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật
này” [12, tr.5];
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2, Luật Đầu tư nước ngoài được sửa
đổi bổ sung năm 2000: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào để
tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này” [4, tr.32].

12


Cho đến nay, Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã được sửa đổi bổ
sung vài lần cho phù hợp với tình hình và thực trạng phát triển của đất nước,
gần nhất là Luật đầu tư sửa đổi năm 2014. Tuy nhiên, trong Luật mới nhất
này, khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài không có gì thay đổi.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực
tiếp nước ngoài như sau :
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại một quốc gia là việc nhà đầu tư
ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào vào quốc gia đó
để được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế
tại quốc gia đó với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình.
1.1.2. Bản chất đầu tư trực tiếp nước ngoài
Từ việc nghiên cứu nguồn gốc lịch sử của FDI với tư cách là hình thức
xuất khẩu tư bản trực tiếp, V.I. Lênin đã chỉ ra rằng, mặc dù xuất khẩu tư bản
nếu xét về mặt lượng một cách đơn giản thì nó đồng nghĩa với việc làm giảm

đi một phần năng lực phát triển, giảm bớt điều kiện tạo việc làm, làm giảm
khả năng cải thiện mức sống của nước sở hữu tư bản, nhưng đây chính lại là
điều kiện, là cơ hội giúp các nhà tư bản thu được lợi nhuận từ việc đầu tư vào
nước khác với mức cao hơn. FDI với tư cách là hình thức của xuất khẩu tư
bản, có bản chất ăn bám với mức độ cao mà V.I. Lênin gọi là ăn bám “bình
phương”, bởi lẽ tư bản được xuất khẩu trực tiếp vốn là kết quả mà các tổ chức
độc quyền đã bóc lột được ở trong nước, nhưng lại được sử dụng để làm công
cụ đi bóc lột nước ngoài với mức lợi nhuận ngang bằng hoặc cao hơn lợi
nhuận độc quyền cao trong nước. Hơn thế nữa, kết quả bóc lột được từ xuất
khẩu tư bản không chỉ là nguồn làm giàu trước mắt cho các tổ chức độc
quyền, mà còn là nguồn để củng cố địa vị thống trị và điều kiện ổn định cho
việc thu lợi nhuận cao của các tổ chức độc quyền trong tương lai, bởi lẽ một
phần của lợi nhuận đó còn được dùng để mua chuộc các tầng lớp lãnh đạo
phong trào công nhân trong nước và tại thuộc địa, tạo ra tầng lớp công nhân

13


quý tộc và thậm chí cả dân tộc thực lợi để phá vỡ phong trào công nhân trên
bình diện quốc gia cũng như quốc tế.
Đối với nước nhập khẩu tư bản, mặc dù FDI có tác động tích cực nhất
định đối với thúc đẩy kinh tế, phát triển kỹ thuật, song về hậu quả, trong
không ít trường hợp, do năng lực tổng thể của các nước này kém, nên nhân
dân ở các nước nhập khẩu tư bản bị bóc lột nhiều hơn, các nước này sẽ bị lệ
thuộc nhiều hơn về kinh tế, kỹ thuật nước ngoài và dễ dẫn đến bị lệ thuộc về
chính trị. “Các nước xuất khẩu tư bản hầu như bao giờ cũng có khả năng thu
được một số “khoản lợi” nào đó” [25, tr.459]. Chính đặc điểm này là nhân tố
kích thích các nhà tư bản có tiềm lực tích cực hơn trong việc thực hiện đầu tư
ra nước ngoài. Xuất khẩu tư bản trực tiếp ở thời kỳ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ
20 chủ yếu tập trung vào khai thác, bóc lột thuộc địa. Nói tóm lại, đầu tư trực

tiếp nước ngoài theo quan điểm của V.I. Lênin, thực chất là công cụ bóc lột
của tư bản tài chính nhằm củng cố địa vị thống trị của mình không những
trong các nước đế quốc mà cả tại các nước thuộc địa nhằm đạt được lợi nhuận
cao hơn.
Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, sự phát triển của hệ thống quan
hệ kinh tế quốc tế dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế và cách mạng khoa
học công nghệ đã làm cho FDI dần trở thành phương thức của các nước phát
triển chống lại chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch thông qua các hàng rào thuế quan và
phi thuế quan. Ngược lại, nguồn vốn FDI cũng được xác định là có vai trò đặc
biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế của các nước đang phát triển, vì vậy
cạnh tranh để thu hút vốn FDI giữa các nước đang phát triển với nhau có xu
hướng gia tăng. Bên cạnh đó, sự phát triển của hệ thống phân công lao động
quốc tế mới không những thúc đẩy hoạt động đầu tư của các chủ thể kinh
doanh lớn, các nhà đầu tư của các nước phát triển ra nước ngoài, mà còn tạo cơ
hội cho các chủ thể kinh doanh nhỏ và vừa ở cả các nước đang phát triển thực
hiện hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Trong bối cảnh đó, bản chất thực

14


sự của FDI với tư cách là hình thức xuất khẩu tư bản trực tiếp hầu như ít được
đề cập đến, song thực tiễn cho thấy không vì thế mà bản chất đó thay đổi, bởi
lẽ chủ thể chủ yếu chi phối và quyết định FDI ngày nay vẫn là các doanh
nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa với mục tiêu cuối cùng vẫn là lợi nhuận cao. Và
nếu như các nhà đầu tư có thể nhận được tỷ suất lợi nhuận khi đầu tư trong
nước cao hơn so với đầu tư ra nước ngoài, thì chắc chắn nước ngoài sẽ không
bao giờ là địa điểm để nhà đầu tư lựa chọn. Bản chất của FDI với tư cách là
xuất khẩu tư bản trực tiếp là nguyên nhân sâu xa nhất của các tác động tiêu cực
của FDI bên cạnh những tác động tích cực đối với nước tiếp nhận FDI.
1.1.3. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài

Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tư cách là xuất khẩu tư bản trực tiếp có
những đặc điểm chung của hoạt động đầu tư là mục tiêu lợi nhuận cao, song
cũng có nét đặc thù:
- Một là, FDI gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp. Nguồn
vốn và công nghệ của nước ngoài được đem đến để xây dựng nhà máy, xí
nghiệp, do đó nguồn vốn bị chôn chặt và không dễ dàng dịch chuyển từ ngành
này sang ngành khác, từ vùng, quốc gia này sang vùng, quốc gia khác. Nếu
như đầu tư gián tiếp, đặc biệt là đầu tư tài chính, có thể cho phép các nhà đầu
tư nhanh chóng thâm nhập cũng như rút vốn khỏi thị trường của nước tiếp
nhận đầu tư, từ đó có thể gây bất ổn về kinh tế - tài chính của nước tiếp nhận
đầu tư thì các chủ thể FDI khó có khả năng làm được việc đó. Từ đây, FDI
thường được đánh giá là nguồn vốn tương đối ổn định, ít gây ảnh hưởng xấu
đối với tình hình kinh tế vĩ mô của các nước tiếp nhận, do đó thường được các
nước đang phát triển chú trọng quan tâm thu hút và sử dụng;
- Hai là, chủ thể của FDI là các chủ thể tư nhân, mục tiêu đầu tư là lợi
nhuận cao, do đó FDI thường xuất hiện tại các nước tiếp nhận sau hình thức
đầu tư gián tiếp của chính phủ nước xuất khẩu, khi các điều kiện sản xuất
kinh doanh đã được xác lập tương đối đồng bộ, thuận lợi. Đồng thời, FDI

15


luôn tập trung vào những ngành, lĩnh vực, địa bàn có môi trường kinh doanh
thuận lợi. Do đó, để thu hút và sử dụng hiệu quả FDI, các nước tiếp nhận cần
khai thông, củng cố, phát triển quan hệ đối ngoại với các quốc gia xuất khẩu
FDI, đồng thời phải tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn đối với
FDI. Đặc điểm này cũng đòi hỏi việc cải thiện môi trường đầu tư để thu hút
và sử dụng hiệu quả FDI không phải chỉ cần quan tâm ở phạm vi toàn quốc,
mà phải được chú trọng tại từng địa phương;
- Ba là, FDI thường sử dụng công nghệ khác biệt nhằm tận dụng lợi thế

trong phân công lao động quốc tế để giảm chi phí, giảm sức ép cạnh tranh từ
phía các doanh nghiệp của nước tiếp nhận FDI. Đối với các nước đang phát
triển, FDI thường sử dụng công nghệ với trình độ cao hơn so với các doanh
nghiệp cùng ngành của nước tiếp nhận, do đó để thu hút và sử dụng hiệu quả
FDI các nước, cũng như từng địa phương tiếp nhận phải chuẩn bị được nguồn
nhân lực phù hợp, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao nếu muốn thu
hút được các dự án FDI từ các ngành công nghệ cao;
- Bốn là, trong hệ thống phân công lao động, FDI thường tập trung vào
những khâu then chốt, công nghệ nguồn để chế tạo sản phẩm, do đó để thu
hút và sử dụng hiệu quả FDI, gia tăng thu nhập trong chuỗi giá trị gia tăng
toàn cầu đối với từng sản phẩm có sự tham gia của FDI.
1.1.4. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam gồm những hình thức sau:
- Một là, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước
ngoài được đầu tư theo hình thức 100% vốn để thành lập công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân theo quy
định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan. Doanh nghiệp 100%
vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam được hợp tác với nhau và
với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài mới.

16


Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có tư cách pháp nhân theo
pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày cấp Giấy chứng
nhận đầu tư.
- Hai là, thành lập công ty liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và
nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài được liên doanh với nhà đầu tư
trong nước để đầu tư thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở

lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp
và pháp luật có liên quan. Doanh nghiệp thực hiện đầu tư theo hình thức liên
doanh có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam, được
thành lập và hoạt động kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đầu tư;
- Ba là, hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC). Hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài
với một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước (sau đây gọi tắt là các bên hợp doanh)
ký kết hợp đồng quy định về quyền lợi, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh
doanh cho mỗi bên hợp doanh mà không hình thành pháp nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai
thác dầu khí và một số tài nguyên khác theo hình thức hợp đồng phân chia sản
phẩm thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan và Luật Đầu tư.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký giữa các nhà đầu tư trong nước
để tiến hành đầu tư, kinh doanh thực hiện theo quy định của pháp luật về hợp
đồng kinh tế và pháp luật có liên quan.
Trong quá trình đầu tư, kinh doanh, các bên hợp doanh có quyền thoả
thuận thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên hợp doanh
thỏa thuận. Ban điều phối không phải là cơ quan lãnh đạo của các bên hợp
doanh. Bên hợp doanh nước ngoài được thành lập văn phòng điều hành tại
Việt Nam để làm đại diện cho mình trong việc thực hiện hợp đồng hợp tác
kinh doanh. Văn phòng điều hành của bên hợp doanh nước ngoài có con dấu;

17


được mở tài khoản, tuyển dụng lao động, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt
động kinh doanh trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ quy định tại Giấy
chứng nhận đầu tư và hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Bốn là, đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua

lại doanh nghiệp. Nhà đầu tư nước ngoài có quyền góp vốn, mua cổ phần, sáp
nhập, mua lại doanh nghiệp để tham gia quản lý hoạt động đầu tư theo quy
định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan. Doanh nghiệp nhận
sáp nhập, mua lại kế thừa các quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập,
mua lại, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Nhà đầu tư nước ngoài khi góp vốn, mua cổ phần phải thực hiện đúng
các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về tỷ lệ góp
vốn, hình thức đầu tư và lộ trình mở cửa thị trường; khi sáp nhập, mua lại
công ty, chi nhánh tại Việt Nam phải tuân thủ các quy định của Luật Doanh
nghiệp về điều kiện tập trung kinh tế của pháp luật về cạnh tranh và pháp luật
về doanh nghiệp; đáp ứng điều kiện đầu tư trong trường hợp dự án đầu tư
thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện.
1.2. Cơ sở lý luận về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
vùng Đông Nam Bộ
1.2.1 Quan niệm về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng
Đông Nam Bộ
Từ khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài, có thể hiểu đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở vùng Đông Nam Bộ là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa
vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào vào vùng Đông Nam Bộ nước ta để
được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại
vùng Đông Nam Bộ với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình.
Thu hút vốn đầu tư là những hoạt động, những chính sách của chính
quyền, cộng đồng doanh nghiệp và dân cư để nhằm quảng bá, xúc tiến, hỗ trợ,
khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn thực hiện mục đích đầu tư phát triển.

18


Thực chất thu hút vốn đầu tư là làm gia tăng sự chú ý, quan tâm của các
nhà đầu tư để từ đó dịch chuyển dòng vốn đầu tư vào địa phương hoặc ngành.

Vốn FDI là sự di chuyển vốn quốc tế gắn liền với sự chuyển giao công
nghệ và kinh nghiệm quản lý... khía cạnh trực tiếp được thể hiện ở việc
tham gia điều hành trực tiếp của nhà đầu tư nước ngoài tạo cho dòng vốn
này có lợi thế cao hơn so với hình thức đầu tư gián tiếp; nếu xét từ
khía cạnh tăng tài sản, công nghệ và năng lực quản lý. Do đó, các địa
phương thiếu vốn, thiếu năng lực và những kỹ năng quản lý đặc biệt
khuyến khích dòng vốn này. Tuy nhiên, việc thu hút vốn FDI phải phù
hợp với chiến lược phát triển kinh tế chung của từng địa phương, từng
vùng và cả nước. Thu hút vốn FDI vào địa phương đó chính là việc áp
dụng các biện pháp, chính sách để các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn đến
đầu tư trực tiếp bằng các hình thức khác nhau phù hợp với lợi ích chung
của cả nhà đầu tư và địa phương tiếp nhận.
Giai đoạn phát triển kinh tế trước đây, chúng ta tìm mọi cách để thu hút
vốn FDI càng nhiều càng tốt, thu hút bằng mọi giá và như vậy mục tiêu thu
hút đó chỉ nhấn mạnh đến sự gia tăng về số lượng các dự án, về vốn đăng ký,
vốn thực hiện, đối tác đầu tư… mà chưa chú trọng đến chất lượng, hiệu quả
của vốn FDI.
Chuyển sang giai đoạn mới, việc tiếp tục tìm các biện pháp thu hút vốn
FDI để phát triển vẫn là điều tất yếu và đóng vai trò hết sức quan trọng trong
tổng số vốn cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, việc thu hút nguồn vốn FDI cần
có cách tiếp cận mới, phù hợp với sự phát triển của đất nước, của nền kinh tế;
quan trọng về số lượng nhưng phải chú trọng đến chất lượng, hiệu quả sử
dụng vốn FDI. Chúng ta thực hiện khuyến khích thu hút vốn FDI với việc bảo
vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư nước ngoài bằng hệ thống luật pháp phù
hợp với các thông lệ quốc tế nhưng cũng cần nâng cao hiệu quả điều tiết của
Nhà nước và hiệu quả sử dụng vốn FDI để bảo đảm lợi ích của quốc gia. Tăng

19



cường thu hút vốn FDI cần được xem xét dưới giác độ phù hợp với mục tiêu
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của từng ngành, từng
lĩnh vực, vùng lãnh thổ và của từng địa phương cụ thể.
Trong thu hút vốn FDI thì hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề hết
sức quan trọng. Xét trên góc độ kinh tế, hiệu quả của vốn FDI được phản
ánh thông qua tác động hay đóng góp đến sự phát triển thị trường trong
nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước, sử
dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội, mức tăng kim ngạch xuất khẩu, cải
thiện cán cân thanh toán…Xét trên góc độ xã hội, hiệu quả FDI thể hiện ở
việc tạo ra nhiều việc làm đối với người lao động, không làm ảnh hưởng đến
môi trường sinh thái, giảm thiểu buôn lậu, chuyển giá và rửa tiền, bảo
đảm đạo đức kinh doanh… Do đó, thu hút vốn FDI vào t ừ n g địa phương
phải tránh tư tưởng chạy theo quy mô, tốc độ, thu hút bằng mọi giá mà
phải kết hợp, chú trọng đến hiệu quả sử dụng vốn FDI với mục đích gắn
kết với sự phát triển nhanh và bền vững, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân.
Từ sự phân tích ở trên, theo tác giả, khái niệm thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài : “thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng Đông Nam
Bộ là việc các địa phương thuộc Đông Nam Bộ bằng cách áp dụng các biện
pháp, chính sách thu hút đầu tư để nhằm mục đich các nhà đầu tư nước
ngoài đưa vốn đầu tư trực tiếp tại vùng, phù hợp với lợi ích chung của cả
nhà đầu tư và các địa phương tiếp nhận.”
1.2.2 Nội dung thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng Đông
Nam Bộ
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng Đông Nam Bộ phải
được thực hiện đầy đủ trên tất cả các mặt nội dung: số lượng, quy mô, chất
lượng đầu tư và cơ cấu đầu tư.

20



Thứ nhất, thu hút về mặt số lượng và quy mô vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Số lượng dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn. Đây là chỉ
tiêu tuyệt đối phản ánh khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu
môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút thì số lượng nhà đầu tư nước ngoài tham
gia đầu tư tại địa phương sẽ nhiều hơn và số lượng dự án có vốn đầu tư nước
ngoài cũng gia tăng.
- Mức độ tăng giảm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của địa phương.
Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ảnh mức độ gia tăng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài qua các năm.
Mức độ tăng
giảm số vốn FDI

=

Số vốn FDI thu hút
năm nay

-

Số vốn FDI thu hút
năm trước

- Tốc độ tăng giảm vốn đầu trực tiếp nước ngoài của địa phương. Đây
là chỉ tiêu tương đối phản ảnh tốc độ gia tăng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
qua các năm.
Tốc độ tăng giảm

=


số vốn FDI

Mức độ tăng giảm số vốn FDI
Số vốn FDI thu hút năm trước

x 100

Thứ hai, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng Đông Nam
Bộ phải đảm bảo cơ cấu đầu tư hợp lý, khai thác tốt lợi thế của vùng.
Một là, cơ cấu thu hút theo ngành:
Kết quả của phân công lao động xã hội là hình thành các ngành kinh
tế trong nền kinh tế quốc dân. Các ngành kinh tế được phân chia dựa theo đặc
điểm kinh tế kỹ thuật riêng biệt, các ngành kinh tế kết cấu với nhau tạo nên cơ
cấu ngành của nền kinh tế. Dưới góc độ ngành, cơ cấu được xem xét theo các
hình thức chủ yếu như sau:
- Nhóm ngành nông nghiệp bao gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư
nghiệp. Nhóm ngành này có ý nghĩa quyết định ở giai đoạn đầu của sự phát
triển, càng sang giai đoạn sau thì vai trò liên hệ tự nhiên giảm đi và các liên

21


hệ kinh tế càng có ý nghĩa quyết định hơn, như vậy tỷ trọng của nhóm ngành
này trong cơ cấu ngành kinh tế quốc dân sẽ giảm xuống cùng với sự phát triển
của nền kinh tế;
- Nhóm ngành công nghiệp bao gồm: công nghiệp và xây dựng, nhóm
ngành này có vai trò quyết định quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
đất nước;
- Nhóm ngành dịch vụ: đây là những ngành sản xuất ra các sản phẩm

dịch vụ không mang tính vật chất như thương mại, du lịch, bưu điện, khoa
học - kỹ thuật, tài chính - ngân hàng, vận tải, giáo dục, y tế…đối với nền kinh
tế thì nhóm ngành dịch vụ càng ngày càng có vị trí quan trọng đặc biệt khi thu
nhập và tiêu dùng của dân cư ở mức độ cao.
Ba nhóm ngành kinh tế trên có quan hệ mật thiết với nhau theo một tương
quan tỷ lệ nhất định, trong đó tương quan tỷ lệ giữa các ngành sản xuất và ngành
dịch vụ có ý nghĩa then chốt. Cơ cấu ngành kinh tế chứng minh cho trình độ phát
triển công nghiệp hoá và một phần phản ánh trình độ hiện đại hoá.
Xu hướng của nền kinh tế phát triển của các nước theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, vì
mức độ đóng góp của các ngành này trong nền kinh tế quốc dân cao hơn
ngành nông nghiệp. Dòng vốn FDI sẽ thu hút mạnh ở các ngành kinh tế có
khả năng đem lại lợi nhuận cao, giá nhân công rẻ, khả năng tiêu thụ sản phẩm
tốt, vì vậy từng địa phương phải có chính sách thu hút vốn FDI hợp lý để nền
kinh tế phát triển cân đối.
Hai là, cơ cấu thu hút theo vùng:
- Nếu như cơ cấu ngành kinh tế được hình thành từ quá trình phân công
lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất thì cơ cấu theo vùng lãnh thổ được
hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Xu hướng phát
triển kinh tế lãnh thổ thường là phát triển nhiều mặt, tổng hợp, có ưu tiên một số
ngành và gắn liền với sự hình thành phân bố dân cư phù hợp với các điều kiện,

22


tiềm năng phát triển của vùng kinh tế đó. Vì vậy, việc thu hút FDI vào một vùng
kinh tế cần chú ý đến đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, phong tục tập quán,
truyền thống của mỗi vùng, nhằm khai thác triệt để thế mạnh của vùng đó, có
như vậy chính sách thu hút mới đạt được kết quả cao;
- Với động lực chủ yếu là lợi nhuận, các dự án FDI chủ yếu tập trung

vào các vùng kinh tế - xã hội phát triển, đặc biệt là các vùng có ưu thế vượt
trội về cơ sở hạ tầng, về sự thuận lợi cho giao thông, thủy, bộ, hàng không và
năng động trong kinh doanh. Điều đó sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn
so với các vùng kinh tế kém sôi động và cũng chính điều này làm cho khoảng
cách phát triển giữa những vùng này ngày càng lớn hơn. Do vậy, nguồn FDI
được thu hút chủ yếu tập trung vào các vùng kinh tế - xã hội phát triển, đặc
biệt là các vùng có ưu thế vượt trội về cơ sở hạ tầng, về sự thuận lợi cho giao
thông, thủy, bộ hàng không và môi trường kinh doanh tốt. Điều đó sẽ thúc
đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn so với các vùng kinh tế kém sôi động và
cũng chính điều này làm cho khoảng cách phát triển giữa những vùng này
ngày càng lớn hơn. Do vậy, cần phải có chính sách phù hợp để thu hút vốn
FDI vào những vùng kinh tế - xã hội khó khăn, giảm thiểu sự khác biệt giữa
các vùng.
Ba là, cơ cấu đầu tư theo đối tác đầu tư:
Nghiên cứu cơ cấu đối tác đầu tư giúp cho nước tiếp nhận vốn đầu
tư tranh thủ những thế mạnh là một vấn đề có ý nghĩa lớn trong hoạt động
thu hút FDI. Thu hút FDI từ những đối tác có tiềm lực kinh tế mạnh, công
nghệ tiên tiến, công nghệ nguồn thì tốc độ giải ngân thường đúng hạn và việc
chuyển giao công nghệ cũng cao hơn đồng thời giúp cho nước sở tại tiếp nhận
được kỹ thuật tiên tiến hiện đại, tăng năng suất lao động và giảm thiểu tác
động tiêu cực của nguồn vốn FDI đối với môi trường, đối với nền kinh tế và
lợi ích của cộng đồng. Các công ty lớn có tiềm lực tài chính mạnh hiện nay là
các công ty đa quốc gia, các tập đoàn xuyên quốc gia hoặc các công ty đến từ

23


các quốc gia có nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc
gia ở Châu Âu, đây chính là các công ty mà các nước muốn thu hút vì những
lợi ích mà các công ty này mang lại cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, trong quá trình thu hút FDI cũng nên chú trọng vào các
công ty có sự phù hợp về kỹ thuật, công nghệ, văn hóa, phong tục tập quán…
nhằm phát huy tốt lợi thế của mình. Nếu làm tốt công tác nghiên cứu các nhà
đầu tư phù hợp với điều kiện của địa phương mình sẽ giúp cho các địa
phương thực hiện thu hút vốn FDI thực sự hiệu quả
Thứ ba, thu hút đầu tư trực tiếp vào vùng Đông Nam Bộ cần đảm bảo
chất lượng dòng vốn đầu tư.
Chất lượng dòng vốn đầu tư trực tiếp vào vùng Đông Nam Bộ được thể
hiện thông qua những đóng góp tích cực của dòng vốn này vào phát triển kinh
tế, xã hội trên địa bàn.
Một là, hiệu quả sử dụng vốn và phát triển kinh tế:
Xem xét tính hiệu quả của dòng vốn FDI, mức đóng góp cho tăng
trưởng kinh tế và cân đối trong phát triển cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Hiệu quả dòng vốn này được thể hiện thông qua các tiêu chí như:
- Doanh thu của doanh nghiệp FDI và mức tăng trưởng doanh của
doanh nghiệp FDI
Mức tăng doanh thu

=

Doanh thu khối DN

-

Doanh thu khối DN

khối DN FDI
FDI năm nay
FDI năm trước
- Đóng góp của doanh nghiệp FDI trong GDP toàn địa phương

Tỷ trọng đóng

=

góp của khu vực

GDP khu vực FDI
GDP toàn địa phương

X 100

- Góp phần tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu:
Mức tăng kin ngạch
xuất khẩu

Kim ngạch xuất
=

khẩu khối DN FDI
năm nay

Kim ngạch xuất
-

khẩu khối DN FDI
năm trước

24



Hai là, nâng cao năng lực công nghệ:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một kênh thu hút vốn quan trọng
để thực hiện CNH, HĐH. FDI cũng được đánh giá là kênh quan trọng để thu
hút công nghệ nguồn từ các nước có nền công nghiệp tiên tiến vào nước nhận
đầu tư, góp phần đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ của khu vực sản xuất,
kinh doanh và toàn bộ nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Thông
qua FDI, trình độ công nghệ sản xuất tại nước nhận đầu tư đã được nâng cao.
Mặt khác, khi phía đầu tư ứng dụng công nghệ cao vào việc đầu tư tại nước
nhận đầu tư sẽ kéo theo nhiều doanh nghiệp tại nước nhận đầu tư phải tiến
hành đổi mới hoặc nâng cấp trang, thiết bị đáp ứng yêu cầu cạnh tranh ngày
càng cao của nền kinh tế. Điều này cũng có nghĩa là chất lượng vốn đầu tư
trực tiếp được nâng cao.
Ba là, mức độ đóng góp cho Ngân sách:
Mức độ đóng góp cho ngân sách nhà nước chỉ gia tăng khi nền kinh tế
tăng trưởng, trong khi đó, muốn tăng trưởng kinh tế nhanh, nhất thiết phải có
vốn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác dụng cung ứng vốn cho nền kinh tế
của nước nhận đầu tư. Tức là mức độ đóng góp cho ngân sách nhà nước của
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài gia tăng đồng nghĩa là chất lượng vốn
đầu tư nước ngoài gia tăng.
Mức tăng đóng góp
khối DN FDI

=

Mức đóng góp khối
DN FDI năm nay

-

Mức đóng góp khối

DN FDI năm trước

Bốn là, một số ảnh hưởng đến việc làm, thu nhập và một số vấn đề xã hội:
Qua những nghiên cứu của các nhà học thuyết kinh tế học từ trước tới
nay ta thấy được tầm quan trọng của FDI đối với vấn đề tạo việc làm, nhất là
đối với các nước đang phát triển. Mặc dù FDI không trực tiếp tạo ra nhiều
việc làm nhưng ta cũng có thể khai thác nó để phục vụ cho quá trình giải

25


quyết công ăn việc làm cho người lao động nhất là trong quá trình toàn cầu
hoá hiện nay. Qua nghiên cứu cũng có thể thấy được rằng: chỉ cần tăng lượng
vốn đầu tư và mức vốn đầu tư, từ đó việc làm thì có thể tăng được cơ số việc
làm. Do đó vấn đề đặt ra là phải thu hút được nhiều vốn FDI thì mới tạo ra
được nhiều việc làm, để làm được điều này thì không phải là vai trò của Nhà
nước, các cơ quan đoàn thể từ Trung ương tới địa phương mà cả bản thân
những người lao động cũng phải không ngừng nâng cao trình độ tay nghề và
chuyên môn nghiệp vụ thì mới đáp ứng được yêu cầu của các chủ đầu tư nước
ngoài. Bởi vậy, gia tăng việc làm trong khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài và cải thiện thu nhập của người lao động là một tiêu
thức đánh giá chất lượng vốn FDI.
Năm là, tác động đến tài nguyên và môi trường:
Có cơ sở để nhận định rằng, một trong những tác động tiêu cực nhất
của FDI đối với nước nhận đầu tư là ảnh hưởng về môi trường. Tình trạng
xuất khẩu ô nhiễm từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thông
qua FDI ngày càng gia tăng. Các nước đang phát triển có nguy cơ trở thành
những nước có mức nhập khẩu ô nhiễm cao và nhiều nhất là Trung Quốc, Ấn
Độ, Việt Nam… Bên cạnh đó, ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh học, tài
nguyên nước, thủy sản, khí hậu và gia tăng ô nhiễm các lưu vực sông ngày

một rõ ràng và nghiêm trọng. Các khu vực công nghiệp mở rộng làm cho diện
tích rừng, diện tích đất nông nghiệp phục vụ cho sản xuất bị thu hẹp, cuộc
sống, nơi cư trú của động vật hoang dã, thực vật bị xáo trộn, hủy hoại.
Bởi vậy, khi dòng vốn FDI làm cho vấn đề tài nguyên và môi trường
của địa phương nhận đầu tư trở nên xấu đi, có nghĩa là chất lượng vốn FDI
không được đảm bảo và làm cho nền kinh tế - xã hội của địa phương nhận
đầu tư phát triển theo hướng không bền vững.

26


×