Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục QUẢN lý GIÁO dục PHÁP LUẬT CHO học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG HUYỆN tứ kỳ, TỈNH hải DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.85 KB, 112 trang )

LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG
12
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
12
1.2. Nội dung quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh trung
học phổ thông
22
1.3. Những yếu tố tác động đến quản lý giáo dục pháp luật cho
học sinh trung học phổ thông
31
Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG
36
2.1. Khái quát đặc điểm giáo dục pháp luật cho học sinh trung
học phổ thông huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương
36
2.2. Thực trạng quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh trung
học phổ thông huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương
41
Chương 3 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG
57
3.1. u cầu có tính ngun tắc trong xây dựng biện pháp quản lý


giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông
57
3.2. Biện pháp quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh trung
học phổ thông huyện Tứ Kỳ, Tỉnh Hải Dương
61
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
81
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
89
9DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
91
PHỤ LỤC
95

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, một trong những yêu cầu cấp thiết đặt ra cho đất nước ta là
phải tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Để có được Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân ở nước ta, điều quan trọng hàng đầu hiện nay là
phải quan tâm làm tốt công tác giáo dục pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân,
đặc biệt là với học sinh, sinh viên, lớp người sẽ kế tục và phát huy những
thành tựu lớn lao của đất nước trong tương lai.
Thực tế cho thấy, công tác giáo dục pháp luật nói chung và cơng tác
giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên tại các trường giữ một vị trí, một
vai trị vơ cùng quan trọng trong q trình giáo dục và đào tạo. Đảng ta đã
khẳng định vị trí, vai trị và tầm quan trọng của cơng tác giáo dục pháp luật,

rèn luyện đạo đức, lối sống thể hiện trong các văn kiện của Đảng ta như: Văn

kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI ( năm 2011) đã ghi
nhận: "Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo
dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng
lập nghiệp”.
Trên tinh thần đó, chính phủ chỉ đạo các bộ, các cấp, các ngành phối
hợp thực hiện giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên. Bộ giáo dục và đào
tạo đã đưa giáo dục pháp luật vào chương trình học tập chính khố trong các
cơ sở giáo dục. Tuy nhiên, hiệu quả chưa cao, sự hiểu biết pháp luật của học
sinh, sinh viên cịn nhiều hạn chế. Tình trạng vi phạm pháp luật ở độ tuổi này
còn xảy ra rất nhiều. Đặc biệt là tình trạng vi phạm pháp luật ở độ tuổi 15-18
ngày càng gia tăng về số lượng và mức độ. Ở lứa tuổi này nhân cách các em

2


đang trong giai đoạn hình thành và chưa ổn định. Các em rất dễ sa ngã, dễ bị
rủ rê, lôi kéo vào các hành vi phạm tội do đặc tính hiếu động, tị mị, thích thể
hiện mình của tuổi trẻ nhưng cũng dễ uốn nắn khi được định hướng, được
giáo dục và được trang bị một số kiến thức pháp luật ngay từ đầu.
Công tác giáo dục pháp luật cho học sinh THPT nói chung, học sinh
THPT huyện Tứ Kỳ nói riêng thời gian qua ln được các cấp, các ngành, ban
giám hiệu quan tâm thực hiện và về cơ bản đã đạt được những mục tiêu,
nhiệm vụ đề ra. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế nhất định như: chương
trình, nội dung chưa có tính hệ thống cao; việc phân bổ thời gian học tập chưa
thật phù hợp; một số bộ phận giáo viên chưa thật sự nhiệt tình tâm huyết;
chưa thực sự đổi mới về phương pháp giảng dạy nhất là những phương pháp
giảng dạy tích cực áp dụng trong các tình huống pháp luật; hình thức giáo dục
pháp luật chủ yếu là học tập trên lớp... Để khắc phục được những hạn chế trên

cần phải có các biện pháp quản lý giáo dục pháp luật trong các nhà trường
chặt chẽ, khoa học.
Vấn đề GDPL, quản lý GDPL trong các nhà trường đã được nghiên cứu
ở nhiều góc độ và cấp độ khác nhau nhưng chưa có cơng trình khoa học nào
nghiên cứu một cách chuyên sâu về quản lý GDPL cho học sinh THPT nói
chung và quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh các trường THPT huyện Tứ
Kỳ, Tỉnh Hải Dương nói riêng. Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn trên và
các yêu cầu của khoa học quản lý giáo dục nên tôi chọn đề tài "Quản lý giáo
dục pháp luật cho học sinh trung học phố thông huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải
Dương” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước ta luôn
luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đồng thời thường xuyên chăm lo đến việc giáo dục pháp luật cho mọi người
3


dân. Đặc biệt, trong giai đoạn phát triển của đất nước ta hiện nay, việc giáo
dục pháp luật cho lớp trẻ trong các nhà trường càng quan trọng hơn bao giờ
hết. Vì vậy, giáo dục pháp luật là một trong những nội dung thu hút sự quan
tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà giáo dục. Trong thời gian vừa
qua, có thể điểm lại một số cơng trình nghiên cứu đã được công bố như sau:
Nguyễn Anh Tuấn (1997), qua nghiên cứu đã làm rõ “Những ảnh
hưởng của kinh tế thị trường tới đạo đức và ý thức pháp luật của sinh viên sư
phạm”, tác giả đã có q trình khảo sát, phân tích số liệu, đánh giá những ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường tới đạo đức và ý thức pháp
luật của sinh viên sư phạm. Từ thực trạng mà tác giả đưa ra sẽ giúp các cơ
quan quản lý giáo dục, nhà trường, cán bộ quản lý giáo dục đề xuất và áp
dụng những biện pháp giáo dục đạo đức và ý thức chấp hành pháp luật cho
sinh viên nói chung, sinh viên sư phạm nói riêng trong điều kiện xây dựng và

phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta.
Các tác giả Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai (1995) có tác
phẩm: ”Bàn về giáo dục pháp luật” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội), đã làm
rõ những vấn đề cơ bản của giáo dục pháp luật, tác giả đã phân tích làm rõ
bản chất và mục đích của q trình giáo dục pháp luật. Trong đó, các tác giả
chỉ rõ các mục tiêu giáo dục pháp luật cho lớp trẻ, phải bắt đầu từ việc giáo
dục nâng cao nhận thức đến xây dựng thái độ, niềm tin và rèn luyện hình
thành hành vi chấp hành pháp luật bền vững cho mỗi người.
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp. Có đề tài khoa học:
”Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong thời kỳ đổi
mới” (Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92 - 98 - 223 - ĐT). Các tác giả đã luận
giải làm rõ cơ sở lý luận giáo dục pháp luật, phân tích, đánh giá thực trạng về
giáo dục pháp luật trong thời kỳ đổi mới ở nước ta.

4


Tác giả Đào Trí Úc ( 1995), với tác phẩm ”Xây dựng ý thức và lối
sống theo pháp luật”. Tác giả chỉ rõ rằng, trong tổ chức giáo dục pháp luật
cho công dân, nhất là cho thanh thiếu niên, cần phải tăng cường giáo dục,
làm cho họ hiểu rõ, hiểu sâu về các quy định của pháp luật. Đồng thời, các
tổ chức, các đơn vị, các lực lượng phải duy trì nghiêm và khoa học việc
thực hành pháp luật, làm cho mỗi người có được thói quen, nếp sống, lối
sống theo pháp luật.
Tác giả Đinh Xuân Thảo (1996), với công trình luận án Phó tiến sĩ: “Giáo
dục pháp luật trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở nước ta
hiện nay” Tác giả đã đi sâu vào việc luận giải làm rõ cơ sở lý luận giáo dục pháp
luật trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, đánh giá thực trạng
và đã đề xuất được một số giải pháp quan trọng, có giá trị về giáo dục pháp luật
trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở nước ta hiện nay.

Tác giả, Bạch Đức Thịnh (2014), với luận án thạc sỹ: “Quản lý quá trình
giáo dục pháp luật cho học viên ở trường sĩ quan không quân hiện nay”. Tác giả
đã đi vào nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng quản lý giáo dục pháp luật cho
học viên ở các trường sĩ quan khơng qn hiện nay, trên cơ sở đó tác giả đề ra hệ
thống các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý giáo dục pháp luật cho
học viên ở trường sĩ quan không quân hiện nay. Mặc dù, khác nhau về phạm vi
và khách thể nghiên cứu nhưng công trình nghiên cứu đã giúp tác giả tiếp thu, kế
thừa một số cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của tác giả.
Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp, có cơng trình: “Một số vấn
đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay’ (Nxb Thanh niên, 1997).
Tác giả Nguyễn Trọng Bích, với cơng trình nghiên cứu ”Giáo dục ý
thức pháp luật, đăng trên Tạp chí Xây Dựng Đảng, số 4/1989. Trong đó tác
giả phân tích, làm rõ tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức pháp luật cho
mọi người hiện nay, coi đó là cơ sở, tiền đề của việc chấp hành nghiêm pháp
5


luật. Đó chính là xây dựng ý thức tự giác của mọi người làm nền tảng cho sự
thống nhất giữa ý chí và hành động chấp hành, tuân thủ theo pháp luật.
Tác giả Hồ Hữu Hiệp (2000), với cơng trình: “Xã hội hố cơng tác phổ
biến, giáo dục pháp luật trong tình hình mới” (đăng trên Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 9). Tác giả chỉ ra trong tình hình mới, cơng tác phổ biến, giáo
dục pháp luật cần có sự tham gia của mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi người;
điều đó sẽ mang lại chất lượng và hiệu quả cao trong việc xây dựng ý thức và
hành vi chấp hành pháp luật.
Tác giả Nguyễn Đình Đặng Lục, với cơng trình: Giáo dục pháp luật và
q trình hình thành nhân cách (Nxb pháp lý, Hà Nội). Tác giả đã nêu lên
những vấn đề cơ bản về giáo dục pháp luật và mối liên hệ giữa giáo dục pháp
luật với sự hình thành và phát triển nhân cách.
Tác giả Nguyễn Hữu Phúc (2012), với cơng trình: Giáo dục ý thức pháp

luật cho cán bộ, công chức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta hiện nay” Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự.
Tác giả Hoàng Thị Kim Quế ( 2015) với bài viết: ”Nội dung, hình thức
và phương pháp giáo dục pháp luật trong nhà trường”. Trong bài viết này tác
giả đã đưa ra những nhận định cơ bản về nội dung, hình thức và phương pháp
giáo dục pháp luật trong nhà trường hiện nay.
Tác giả Phan Chí Hiếu( 2015), với bài viết: ”Vị trí, vai trị, ý nghĩa của
cơng tác giáo dục pháp luật trong nhà trường và quá trình đưa giáo dục pháp
luật vào nhà trường”, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Trong bài viết
này, tác giả đã khái qt về vị trí, vai trị, ý nghĩa của công tác giáo dục pháp luật
trong nhà trường, chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước về giáo dục pháp luật và quá trình đưa giáo dục pháp luật vào trong trường
học thông qua chương trình giáo dục chính khố và hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp cho người học.
6


Tác giả Lê Thị Kim Dung (2015), với bài viết “ Giáo dục pháp luật trong
nhà trường những kết quả đạt được và những vấn đề mới đặt ra”, đăng trên Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 3. Tác giả đã chỉ những ưu điểm và
hạn chế cơ bản của công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường những năm
qua. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra những vấn đề mới mang tính cấp bách cần phải
giải quyết nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật trong các nhà trường.
Các cơng trình nghiên cứu trên đây đã đề cập và giải quyết những vấn
đề về lý luận và thực tiễn trong hoạt động giáo dục pháp luật, quản lý giáo
dục pháp luật. Các tác giả nghiên cứu về giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức
pháp luật và hành vi tuân thủ pháp luật cho các đối tượng khác nhau, nhất là
cho lớp trẻ trong bối cảnh đất nước đang tập trung xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là một trong những cơ sở lý luận và thực tiễn
quan trọng để học viên tiếp tục nghiên cứu, bảo đảm sự kế thừa, bổ sung, phát

triển trong đề tài luận văn đã xác định.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn quản lý giáo dục pháp luật, đề
xuất các biện pháp quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh THPT huyện
Tứ Kỳ, Tỉnh Hải Dương, nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục
của nhà trường.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh
THPT huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương hiện nay.
- Đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh THPT
huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
*Khách thể nghiên cứu
7


Quản lý giáo dục phẩm chất, nhân cách cho học sinh các trường THPT
huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
*Đối tượng nghiên cứu
Quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông huyện Tứ
Kỳ, tỉnh Hải Dương.
*Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở tiếp cận theo q trình giáo dục
(nghĩa hẹp), trong đó tập trung nghiên cứu quá trình giáo dục pháp luật cho
học sinh các trường THPT huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật
và đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường THPT
huyện Tứ Kỳ, Tỉnh Hải Dương trong thời gian vừa qua và đề xuất biện pháp

giáo dục pháp luật cho học sinh THPT huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
Các số liệu khảo sát, điều tra từ năm 2012 đến năm 2015
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý giáo dục cho học sinh THPT huyện Tứ Kỳ, Tỉnh Hải Dương, phụ
thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu chủ thể quản lý giáo dục ở các trường thực hiện một
cách khoa học và đồng bộ các biện pháp như: Tổ chức giáo dục xây dựng ý
thức, hành vi tuân thủ pháp luật cho học sinh; bồi dưỡng kiến thức và phương
pháp cho các lực lượng tiến hành giáo dục; thực hiện nghiêm túc kế hoạch giáo
dục; chỉ đạo sử dụng tốt phương pháp, hình thức, quy trình giáo dục pháp luật
phù hợp với lứa tuổi học sinh; duy trì nghiêm các quy định của pháp luật Nhà
nước, nội quy của Nhà trường; thực hiện kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục
pháp luật cho học sinh trong Nhà trường một cách liên tục và thường xuyên,...
thì sẽ nâng cao được hiệu quả quản lý giáo dục pháp luật, góp phần thực hiện
thành cơng mục tiêu giáo dục phẩm chất nhân cách toàn diện cho học sinh của
nhà trường.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
8


*Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục - đào tạo,
quản lý giáo dục và giáo dục pháp luật. Đồng thời, tác giả vận dụng quan
điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc, quan điểm logic - lịch sử và quan điểm thực
tiễn để xem xét, phân tích các vấn đề liên quan.
*Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Thực hiện việc đọc tài liệu, thu thập thơng tin, phân tích, tổng hợp, hệ
thống hố, mơ hình hố, khái qt hố; bao gồm, một số công văn chỉ đạo

thực hiện phối hợp giáo dục pháp luật cho học sinh của bộ tư pháp; các văn
kiện, nghị quyết của Đảng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Luật giáo dục; các giáo
trình, sách tham khảo, tài liệu về khoa học quản lý và quản lý giáo dục; các
cơng trình nghiên cứu, báo khoa học có liên quan đến đề tài đã được cơng bố
và đăng tải trên các tạp chí, báo, kỷ yếu khoa học, hội thảo.
Sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp hệ thống hoá các tài liệu
liên quan làm cơ sớ lý luận của đề tài.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: Quan sát quá trình dạy học, GDPL cho học sinh
THPT huyện Tứ Kỳ, Tỉnh Hải Dương tại nhiều thời điểm khác nhau.
Phương pháp tọa đàm trao đổi: Tọa đàm trao đổi với cán bộ quản lý,
các thành phần lực lượng tham gia GDPL và đối tượng học.
Phương pháp tổng kết kinh nhiệm: Nghiên cứu những vấn đề đã và
đang diễn ra.
Phương pháp điều tra: Điều tra đối với 1120 học sinh, 186 giáo viên và
10 cán bộ quản lý các trường THPT huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.

9


Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Xin ý kiến chuyên gia về pháp
luật, nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục về nội dung nghiên cứu.
- Nhóm các phương pháp hỗ trợ
Phương pháp toán thống kê: Sử dụng toán thống kê để tổng hợp, tính
tốn các số liệu điều tra.
7. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần làm phong phú về lý luận quản lý GDPL và đề xuất các biện
pháp quản lý GDPL học sinh THPT.
Có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý giáo dục, cho giáo
viên và các lực lượng phối hợp hoạt động GDPL cho học sinh.

8. Kết cấu của đề tài
Luận văn bao gồm phần mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận và kiến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.

10


11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1 Giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông
Giáo dục: Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Về bản chất, giáo dục là
hiện tượng truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ
con người. Về mục đích, giáo dục là sự định hướng của thế hệ đi trước đối với
sự phát triển của thế hệ tiếo theo. Về phương thức đối với mỗi cá nhân, giáo
dục là cơ hội để học hỏi, tiếp thu và thành đạt, tránh được những mò mẫm, va
vấp, đối với nhân loại giáo dục là phương thức bảo tồn và phát triển kho tàng
tri thức văn hoá xã hội”.
Theo Từ điển Giáo dục học (Nxb Từ điển Bách Khoa - 2001): Giáo dục
là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác
động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và
lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình
thành năng lực và phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu
chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội.
Pháp luật: Là hệ thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung
do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí

của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển
phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Pháp luật có các thuộc tính cơ bản:
Tính bắt buộc chung (tính qui phạm phổ biến): Trước hết, qui phạm
được hiểu là những qui tắc xử sự chung, được coi là khuôn mẫu, chuẩn mực,
mực thước đối với hành vi của một phạm vi cá nhân, tổ chức. Pháp luật được
biểu hiện cụ thể là những qui phạm pháp luật. Do vậy nó cũng là qui tắc xử sự
chung cho phạm vi cá nhân hoặc tổ chức nhất định. Pháp luật được Nhà nước
ban hành hay thừa nhận không chỉ dành riêng cho một cá nhân, tổ chức cụ thể
12


mà áp dụng cho tất cả các chủ thể. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa pháp
luật với các loại qui phạm khác ở chỗ, Pháp luật là qui tắc xử sự mang tính
bắt buộc chung.
Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức: Yêu cầu của pháp luật là phải
xác định chặt chẽ về mặt hình thức, được diễn đạt bằng lời văn, phải chính
xác, cụ thể, dễ hiểu, khơng đa nghĩa. Nếu không đúng được yêu cầu này, chủ
thể sẽ hiểu sai, hiểu khác. Pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và
thông qua cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Tuy nhiên mỗi một cơ
quan, loại cơ quan chỉ được ban hành những loại văn bản nhất định có tên gọi
xác định và theo một trình tự, thủ tục nhất định.
Tính đảm bảo được thực hiện bằng Nhà nước. Pháp luật do Nhà nước
ban hành và thừa nhận đồng thời Nhà nước sẽ đảm bảo cho Pháp luật đó được
thực hiện trong thực tiễn đời sống. Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích giúp
đỡ để chủ thể thực hiện pháp luật. Nhà nước đảm bảo cho Pháp luật được
thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Tính cưỡng chế là tính khơng thể tách rời khỏi pháp luật. Mục đích
cưỡng chế và cách thức cưỡng chế là tuỳ thuộc bản chất Nhà nước.
Giáo dục pháp luật: Giáo dục pháp luật là vấn đề lý luận cơ bản có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong khoa học giáo dục cũng như trong sự nghiệp

giáo dục của nước ta. GDPL gắn liền với việc triển khai thực hiện pháp luật
cũng như trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật.
Với tư cách là một loại hình giáo dục thì GDPL ở nước ta được hình
thành và triển khai muộn hơn so với giáo dục chính trị và giáo dục đạo đức.
GDPL là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo
dục tác động đến đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xun
nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành
vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật hiện hành. Ý thức pháp luật là sản

13


phẩm, là kết quả của sự tác động tổng hợp của các yếu tố khách quan và nhân
tố chủ quan nhưng nhân tố chủ quan lại giữ vai trò chủ đạo, quyết định đến sự
hình thành ý thức pháp luật.
Trong xã hội hiện nay có rất nhiều các yếu tố khách quan mang tính
tiêu cực của cơ chế thi trường như: Tham ô, hối lộ, lối sống hưởng thụ lệch
lạc... đang tác động đến nhận thức, tư tưởng, niềm tin vào pháp luật, đi ngược
lại với mục tiêu của nhà nước pháp quyền. Vì vậy chúng ta phải tác động một
cách có định hướng đến q trình hình thành ý thức pháp luật cho cơng dân,
tạo thói quen sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật cho mọi tầng lớp
nhân dân.
Cùng với giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, GDPL tạo ra những điều
kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Đối với
công dân cần trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về pháp luật để có thể
hưởng đầy đủ quyền lợi, lợi ích và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cơng dân của
mình. Vì vậy GDPL giữ một vị trí, một vai trị vơ cùng quan trọng trong việc tạo
nên nhân cách con người, là một trong những mục tiêu căn bản của giáo dục.
Giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông
Từ cơ sở luận giải như trên, có thể hiểu: Giáo dục pháp luật cho học

sinh trung học phổ thông là q trình tác động có mục đích, có tổ chức, phối
hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục, nhằm nâng cao
nhận thức, hình thành niềm tin và rèn luyện thói quen hành vi ứng xử cho học
sinh theo đúng các quy định của pháp luật, đáp ứng mục tiêu giáo dục của
nhà trường.
Mục tiêu giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thơng: Nhằm
hình thành cho các em có kiến thức, hiểu biết, niềm tin vào hệ thống pháp luật
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; trên cơ sở đó hình thành ý thức
tự giác chấp hành pháp luật, rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ pháp luật,...
14


Nội dung giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông: Là
giáo dục quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về nội dung của Hiến pháp và các văn
bản luật, các pháp lệnh, nghị định, thông tư,... cùng với các quy định, quy
tắc, chuẩn mức xã hội đã được ban hành; giáo dục những nội dung liên
quan đến đạo đức, kinh tế chính trị, xã hội, pháp luật cơ bản. Nội dung giáo
dục pháp luật cho học sinh cần tập trung vào những quy định pháp luật cơ
bản, cần thiết liên quan đến học sinh như an tồn giao thơng, quyền con
người, quyền cơng dân, pháp luật về thanh thiếu niên, pháp luật về an tồn
giao thơng, phòng chống các tội phạm các tệ nạn xã hội, luật bảo vệ môi
trường, luật biển đảo Việt Nam, pháp luật về lao động và việc làm, hôn
nhân và gia đình, các quy định về pháp luật có liên quan đến công tác đảm
bảo an ninh trật tự, nếp sống văn minh, luật giáo dục có liên quan đến học
sinh, các nội quy của nhà trường...
1.1.2. Quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông
Quản lý là một trong những hoạt động cơ bản nhất của con người xét
trên nhiều phạm vi cá nhân, tập thể, quốc gia hoặc nhóm quốc gia. Hoạt động
quản lý xuất hiện khi lồi người hình thành hoạt động nhóm. Qua lao động, để

duy trì sự sống, địi hỏi sự phối hợp hoạt động giữa các cá nhân con người.
Hoạt động quản lý là một hiện tượng tất yếu phát triển cùng với sự phát triển
của xã hội loài người nhằm đoàn kết nhau lại tạo nên sức mạnh tập thể, thống
nhất thực hiện một mục đích chung.
Theo từ điển Tiếng Việt, quản lý là trơng coi, giữ gìn theo những yêu
cầu nhất định; là tổ chức và điều khiển theo những yêu cầu nhất định.
Theo Các Mác: “Bất cứ một lao động mang tính chất xã hội trực tiếp
hay lao động cùng nhau, được thực hiện ở quy mô tương đối lớn, đều cần đến
mức độ nhiều hay ít sự quản lý, nhằm thiết lập sự phối hợp giữa những công
15


việc cá nhân và thực hiện những chức năng chung, nảy sinh từ vận động của
toàn bộ cơ chế sản xuất, khác với sự vận động của các cơ quan độc lập của
nó. Một người chơi vĩ cầm riêng lẻ tự điều khiển mình, cịn dàn nhạc thì cần
người chỉ huy”. [26, tr. 38].
Các Mác đã nói lên được bản chất của quản lý là một hoạt động lao động
để điều khiển quá trình lao động, một hoạt động tất yếu của xã hội loài người.
Hoạt động lao động là khá phức tạp, phong phú và đa dạng, quản lý là
một hiện tượng lịch sử, xã hội. Có nhiều nhà nghiên cứu về quản lý đã nêu lên
các khía cạnh khác nhau của khái niệm “Quản lý”.
Theo Ơmaror (Liên Xơ) - 1983: Quản lý là tính tốn sử dụng hợp lý các
nguồn lực nhằm thực hiện các nhiệm vụ của sản xuất và dịch vụ với hiệu quả
kinh tế tối ưu.
Theo W.Taylor - Người đầu tiên nghiên cứu quá trình lao động trong
từng bộ phận của nó, nêu ra hệ thống tổ chức lao động nhằm khai thác tối đa
thời gian lao động, sử dụng hợp lý nhất các công cụ và phương tiện lao động
nhằm tăng năng suất lao động thì quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác
cái gì cần làm và làm cái đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất và rẻ tiền
nhất. Quản lý là các hoạt động được thực hiện nhằm bảo vệ sự hồn thành

cơng việc qua những nỗ lực của người khác.
Ở Việt Nam, cũng đã có rất nhiều tác giả đưa ra những khái niệm về
QL. Đó là:
Theo Bùi Trọng Tuân - Nguyễn Kì : “Quản lý là chức năng của những
hệ thống có tổ chức với những bản chất khác nhau (kỹ thuật, sinh vật, xã hội),
thực hiện những chương trình mục đích hoạt động”. [33, tr.19].
Trong sự tác động qua lại giữa hệ thống và môi trường thì quản lý được
hiểu là đảm bảo hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi liên tục
của hệ thống và môi trường, là sự chuyển hệ thống đến trạng thái mới thích
16


ứng với hoàn cảnh mới. “Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục
đích đến tập thể người, thành viên của hệ, làm cho hệ vận hành thuận lợi và
đạt mục đích dự kiến”.
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý nhằm phối hợp sự nỗ lực của
nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu
của xã hội”. [24 tr.32].
Quản lý là cơng tác phối hợp có hiệu quả hoạt động của những người
cộng sự khác nhau cùng chung tổ chức.
Theo tác giả Phạm Viết Vượng, “ Quản lý là một q trình tác động có
định hướng, có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các
thơng tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự vận hành
của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã định”;
“Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể
những người lao động nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến”. [40, tr 24]
Như vậy, bản chất của hoạt động quản lý một hệ thống là nhằm làm
cho hệ thống đó vận động theo mục tiêu đã đặt ra và tiến đến các trạng thái có
tính chất lượng mới. Trong quản lý có chăm sóc, giữ gìn sự ổn định, có sửa
sang, sắp xếp, đổi mới để phát triển; Tuy nhiên hệ thống có sự ổn định mà

khơng có phát triển thì tất yếu cũng sẽ dẫn đến suy thối. Ngược lại hệ thống
phát triển mà khơng ổn định ắt sẽ dẫn đến rối ren. Như vậy trong quản lý có
cả sự ổn định và sự phát triển.
Nói về Nhà nước và quản lý Nhà nước trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh ta có thể thấy Người thể hiện một quan điểm khoa học, rõ ràng,
minh bạch. Người nói: “...Một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là Nhà
nước được cai trị bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong
thực tế” và “Trong một Nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn
luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau...”. Đồng thời “xây dựng một nền
17


pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo được việc thực hiện quyền lực của nhân
dân là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh” [27, tr.22].
Như vậy, quản lý là một khái niệm rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội, và được hiểu dưới những góc độ, quan điểm khác nhau.
nhưng dù ở lĩnh vực hay góc độ nào đi nữa thì quản lý chính là sự tác động có
định hướng, mang tính hệ thống, được thực hiện có ý thức, có tổ chức của chủ
thể quản lý lên đối tượng quản lý, bằng cách vạch ra mục tiêu của tổ chức
đồng thời tìm kiếm các biện pháp, cách thức tác động vào tổ chức nhằm đạt
mục tiêu đề ra. Quản lý là sự điều khiển có tổ chức và thoả mãn yêu cầu, mục
tiêu đã đề ra, chứ khơng mang tính áp đặt, cai trị; Nhưng tuỳ theo những
trường hợp cụ thể mà có những chính sách, biện pháp quản lý cứng rắn hay
mềm mỏng phù hợp nhất để luôn đạt được kết quả như mong muốn đồng thời
phải làm cho tổ chức, bộ máy ngày càng phát triển.
Quản lý giáo dục:
Cũng như khái niệm quản lý nói chung, khái niệm quản lý giáo dục cho
đến nay được nhiều tác giả ở trong lẫn ngoài nước nêu ra và bàn luận như:
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là q trình
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ lồi người;

Giáo dục có vị trí đặc biệt quan trọng, khơng chỉ là sản phẩm xã hội mà
cịn là nhân tố tích cực, động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Trong xã hội hiện đại khi các quốc gia đua tranh về khoa học và cơng
nghệ thì giáo dục có vai trị quyết định giúp các quốc gia thắng lợi trong cuộc
tranh đua đó. Phát triển giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu thể hiện trong
chiến lược và mọi chính sách của mỗi quốc gia.
Trong các nước phát triển người ta vận dụng lý luận quản lý giáo dục
bắt nguồn từ lý luận quản lý xã hội. Trong cuốn sách nổi tiếng “Con người
trong quản lý xã hội” A.Gafanaxép (Viện sĩ Liên Xô) chia xã hội thành 3 lĩnh
18


vực: “Chính trị - Xã hội”, “Văn hố - Tư tưởng” và “Kinh tế” và từ đó có 3
loại quản lý: “Quản lý chính trị - xã hội” , “Quản lý văn hoá - tư tưởng” và
“Quản lý kinh tế”. Quản lý giáo dục nằm trong quản lý văn hoá - tư tưởng
[17, tr97]. Trong cuốn “Cơ sở lý luận của khoa học quản lý giáo dục” thì
M.I.Kơndakov viết: “Khơng địi hỏi một định nghĩa hồn chỉnh thì chúng ta
khơng hiểu quản lý nhà trường (công việc nhà trường) là hệ thống xã hội - sư
phạm chuyên biệt, hệ thống này địi hỏi những tác động có ý thức, có khoa
học và có hướng chủ thể quản lý trên cơ sở các mặt của đời sống nhà trường
để bảo đảm sự vận hành tối ưu xã hội - kinh tế và tổ chức sư phạm của quá
trình dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên” [25, tr94].
Theo P.V. Khuđôminxki (nhà lý luận Xô Viết): Quản lý giáo dục là tác
động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của các chủ thể quản
lý ở các cấp khác nhau đến các khâu của hệ thống (từ Bộ giáo dục đến nhà
trường) nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục Cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ
trẻ, đảm bảo phát triển toàn diện cho thế hệ trẻ, bảo đảm phát triển toàn diện
và hài hoà của họ.
Theo Phó giáo sư Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là hệ thống những
tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm

cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự
kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”.
Tác giả phạm Minh Hạc cho rằng “Quản lý giáo dục là quản lý trường
học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của
mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới
mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng
học sinh” .
19


Theo tác giả Bùi Trọng Tuân, “QLGD nói chung (và QL trường học
nói riêng) là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui
luật của chủ thể QL (hệ GD) nhằm làm cho hệ vận hành theo đ ường lối và
nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường
XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế
hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới
về chất.” [33, tr.12].
Quản lý nhà trường phổ thông là quản lý hoạt động dạy và học tức là
đưa hoạt động đó từ trạng thái này đến trạng thái khác để dần tiến tới mục
tiêu giáo dục.
Như vậy, công tác quản lý trường học bao gồm quản lý các quan hệ
giữa trường học và xã hội và quản lý chính nhà trường.
Quản lý giáo dục là quá trình tác động có định hướng của nhà quản lý
giáo dục (chủ thể) trong việc vận hành những nguyên lý, phương pháp...
chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh vực giáo dục nhằm đạt được các
mục tiêu giáo dục đề ra. Những tác động đó thực chất là những tác động khoa
học đến nhà trường, làm cho nhà trường tổ chức một cách khoa học, có kế
hoạch q trình dạy học - giáo dục theo mục tiêu đào tạo.

Chủ thể quản lý là trung tâm thực hiện các tác động có mục đích của
giáo dục, trung tâm ra quyết định điều hành và kiểm tra các hoạt động của hệ
thống giáo dục theo mục tiêu đề ra.
Đối tượng quản lý giáo dục bao gồm nguồn nhân lực của giáo dục, cơ
sở vật chất kĩ thuật của giáo dục và các hoạt động có liên quan đến việc thực
hiện chức năng của giáo dục, đó chính là những đối tượng chịu sự tác động
của cán bộ quản lý (chủ thể) để thực hiện và biến đổi phù hợp với ý chí của
chủ thể quản lý đã đề ra.
Nhà trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản của quản lý giáo dục,
trong đó đội ngũ giáo viên và học sinh là đối tượng quản lý quan trọng nhất,
20


nhưng đồng thời cũng là chủ thể trực tiếp thực hiện mục tiêu của q trình
quản lý giáo dục.
Có thể nói rằng QLGD chính là một q trình tác động có định hướng của
nhà QLGD (chủ thể) trong việc vận hành những nguyên lý, phương pháp chung
nhất của khoa học quản lý vào lĩnh vực giáo dục nhằm đạt được những mục tiêu
giáo dục đề ra. Thực chất đó là những tác động khoa học đến nhà trường, làm
cho nhà trường tổ chức một cách khoa học, có kế hoạch quá trình dạy học, giáo
dục theo mục tiêu đào tạo. Chủ thể của quản lý giáo dục là trung tâm thực hiện
các tác động có mục đích của giáo dục, ra quyết định, điều hành và kiểm tra các
hoạt động của hệ thống giáo dục theo mục tiêu đề ra. Đối tượng của quản lý giáo
dục bao gồm nguồn nhân lực của giáo dục, cơ sở vật chất, kỹ thuật của giáo dục
và các hoạt động có liên quan đến việc thực hiện chức năng của giáo dục. Đó
chính là những đối tượng chịu sự tác động của chủ thể quản lý giáo dục để thực
hiện và biến đổi phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã đề ra.
Như vậy, quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực
lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu phát triển xã hội. Nhà trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất

của QLGD, trong đó đội ngũ giáo viên và học sinh là đối tượng quản lý quan
trọng nhất nhưng đồng thời là chủ thể trực tiếp quản lý quá trình giáo dục.
Quản lý giáo dục pháp luật:
Trên cơ sở những luận giải các khái niệm về Quản lý, Giáo dục pháp luật,
quá trình Giáo dục pháp luật và quá trình vận dụng thực tiễn hoạt động giáo dục
và đào tạo ở các trường THPT huyện Tứ Kỳ, Tỉnh Hải Dương , tác giả quan
niệm: Quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông là sự tổ
chức, điều khiển của chủ thể quản lý giáo dục đến toàn bộ quá trình giáo dục
pháp luật cho học sinh để quá trình giáo dục pháp luật cho học sinh diễn ra theo
đúng kế hoạch, đạt được mục tiêu giáo dục pháp luật của nhà trường.

21


Mục tiêu quản lý GDPL nhằm đảm bảo cho quá trình GDPL diễn ra theo
đúng kế hoạch, từ đó hình thành ý thức và hành vi tuân thủ pháp luật cho học
sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Chủ thể quản lý GDPL bao gồm uỷ ban nhân dân huyện, hội đồng phối
hợp phổ biến GDPL huyện, ban giám hiệu nhà trường, hội đồng phối hợp phổ
biến GDPL nhà trường, đồn thanh niên, giáo viên bộ mơn giáo dục công dân.
Mỗi chủ thể quản lý GDPL đảm nhiệm những chức năng, nhiệm vụ nhất định
trong quá trình GDPL cho học sinh nhằm đảm bảo cho quá trình GDPL diễn
ra theo đúng kế hoạch và đạt được mục tiêu GDPL đề ra.
Đối tượng quản lý GDPL là toàn bộ quá trình GDPL của nhà trường
bao gồm mục tiêu GDPL, nội dung, phương pháp, hình thức, thời gian, kế
hoạch sử dụng nguồn nhân lực tham gia GDPL, kết quả GDPL và hoạt động
của lực lượng tham gia giáo dục pháp luật, học sinh.
Phương thức quản lý GDPL rất đa dạng và phong phú. Quản lý GDPL
thông qua các nghị quyết hội đồng sư phạm về việc chỉ đạo xây dựng và tổ
chức thực hiện kế hoạch GDPL, kiểm tra đánh giá kết quả GDPL, kiểm định

chất lượng... Để đạt được mục tiêu quản lý GDPL cần sử dụng các phương
thức quản lý GDPL một cách linh hoạt, phù hợp với nội dung, chủ thể, đối
tượng quản lý GDPL trong từng giai đoạn nhất định.
1.2. Nội dung quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh trung học
phổ thông
1.2.1. Quản lý mục tiêu giáo dục pháp luật
Mục tiêu giáo dục là một hệ thống các chuẩn mực của một mẫu
hình thành nhân cách cần hình thành ở một đối tượng người được giáo
dục nhất định. Đó là một hệ thống các yêu cầu xã hội trong mỗi thời đại,
trong từng giai đoạn nhất định, đối với nhân cách một loại đối tượng
giáo dục.
Mỗi nội dung giáo dục đều có mục tiêu riêng và giáo dục pháp luật

22


cũng vậy. Mục tiêu giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông là
giúp học sinh nâng cao hiểu biết, có ý thức tơn trọng thực thi pháp luật, góp
phần tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật mọi lúc mọi nơi, góp phần
hình thành ý thức và phẩm chất công dân, xây dựng các mối quan hệ lành
mạnh, hoà nhập, yêu thương chia sẻ và giúp đỡ của học sinh với người thân,
bạn bè và cộng đồng.
Để hình thành cho học sinh ý thức, lối sống và học tập theo hiến pháp
và pháp luật cần trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về pháp luật,
xây dựng cho học sinh niềm tin vào pháp luật. Từ đó học sinh sẽ có biện pháp
phịng và đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật, đấu tranh chống các
hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Mục tiêu giáo dục pháp luật được
xây dựng phải phù hợp với yêu cầu giáo dục và đào tạo trong mỗi thời đại,
trong từng giai đoạn với từng đối tượng giáo dục. Quản lý mục tiêu giáo dục
pháp luật là quản lý mục tiêu, kế hoạch giáo dục pháp luật của chủ thể giáo

dục đến đối tượng giáo dục. Đối với mỗi đơn vị giáo dục, xây dựng mục tiêu
giáo dục, kế hoạch giáo dục mang tính chiến lược, khoa học là một trong
những yếu tố quyết định đến hiệu quả giáo dục pháp luật.
Mục tiêu giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông gồm các
mục tiêu:
Mục tiêu nhận thức: Mục tiêu nhận thức của giáo dục pháp luật cho học
sinh trung học phổ thông là sự phát triển về ý thức và tư duy pháp luật. Học
sinh có sự hiểu biết cơ bản về những quy định của pháp luật và vai trò của pháp
luật trong đời sống xã hội. Từ đó học sinh có thể nhận định đúng đắn về các
hiện tượng xã hội, hình thành ý thức về quyền và nghĩa vụ cơng dân.
Mục tiêu thái độ, niềm tin: Là mục tiêu xây dựng cho học sinh niềm tin
vào pháp. Đây là mục tiêu quan trọng. Để học sinh sống và làm việc theo hiến
pháp luật nếu chỉ trang bị cho học sinh kiến thức pháp luật thơi thì chưa đủ
23


mà quan trọng nhất là phải xây dựng ở học sinh niềm tin vào pháp luật. Từ đó
sẽ nâng cao ý thức trách nhiệm tuân thủ pháp luật, ý thức đấu tranh với các
hành vi vi phạm pháp luật.
Mục tiêu hành vi: Khi hình thành ở học sinh được nhận thức và xúc
cảm với pháp luật sẽ hình thành được mục tiêu hành vi. Khi các em đã hiểu
biết và tin vào pháp luật các em sẽ luôn sống, học tập tuân thủ theo các quy
định của pháp luật, sẽ tích cực tham gia vào các mặt đời sống pháp lý, tích
cực đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật và biết cách bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của mình.
Để quản lý tốt mục tiêu giáo dục pháp luật cho học sinh các trường
trung học phổ thông huyện Tứ Kỳ, chủ thể giáo dục phải căn cứ trên các luật
giáo dục, quy chế đào tạo của nhà trường, nội dung chương trình, tình hình
thực tiễn và các văn bản hướng thực hiện phổ biến giáo dục pháp luật của sở
giáo dục, các cấp các ngành có liên quan và thường xuyên cập nhật các văn bản

pháp luật mới và các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết khác trong lĩnh vực
giáo dục để xây dựng mục tiêu giáo dục pháp luật cho học sinh. Đồng thời chủ
thể giáo dục phải thường xuyên kiểm tra đánh giá quá trình thực hiện, kết quả
đạt được so với mục tiêu đề ra để có biện pháp điều chỉnh kịp thời.
1.2.2 . Quản lý chủ thể giáo dục pháp luật
Lực lượng tham gia giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ
thông chủ yếu là giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ mơn giáo dục cơng dân.
Ngồi ra cịn có sự tham gia của các báo cáo viên, tuyên truyền viên đến từ
cơng an xã, cơng an huyện, đồn thanh niên, hội phụ nữ...
Chủ thể GDPL cho học sinh là một trong những nhân tố quan trọng
trực tiếp quyết định kết quả GDPL cho học sinh bởi họ là những người trực
tiếp tham gia giảng dạy, rèn luyện ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh.
Vì vậy ban giám hiệu cần quản lý sâu sát chủ thể giáo dục pháp luật cho
24


học sinh cả về chuyên môn nghiệp vụ và lối sống. Đảm bảo thầy luôn là
những người chuẩn mực trong lời nói và hành vi, là tấm gương sáng cho
các em học tập. Quản lý chủ thể GDPL cho học sinh là xây dựng kế hoạch,
tổ chức, điều khiển và kiểm tra các hoạt động của các chủ thể GDPL. Ban
giám hiệu cần nắm vững trình độ, năng lực, tinh thần trách nhiệm của từng
cá nhân, đoàn thể tham gia vào công tác giáo dục pháp luật cho học sinh để
phân cơng nhiệm vụ phù hợp và có kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ kịp thời cho lực lượng tham gia giáo dục pháp luật cho học sinh. Đồng
thời có chế độ chính sách phù hợp, để giáo viên chun tâm học hỏi bồi
dưỡng chun mơn nghiệp vụ, tích cực tìm tịi đổi mới phương pháp nâng
cao chất lượng GDPL cho học sinh.
1.2.3. Quản lý đối tượng giáo dục pháp luật
Căn cứ vào quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 9/4/2012 của thủ tướng
chính phủ, đối tượng giáo dục pháp luật là các em học sinh ở các trường trung

học phổ thông. Quản lý đối tượng giáo dục pháp luật là quản lý về số lượng,
quản lý về kết quả nhận thức và khả năng vận dụng pháp luật vào học tập và
đời sống, quản lý về ý thức chấp hành pháp luật.
Để quản lý tốt đối tượng giáo dục pháp luật, chủ thể quản lý giáo dục
phải nghiên cứu cứu kỹ nội dung chương trình, kế hoạch giáo dục và phối hợp
tốt với các lực lượng giáo dục trong nhà trường như giáo viên chủ nhiệm, giáo
viên bộ môn, bộ phận quản sinh và phối hợp với các ban nhành như đồn
thanh niên, hội phụ nữ... nắm bắt tình hình rèn luyện, học tập, sinh hoạt của
tập thể học sinh và từng học sinh để kịp thời khuyến khích những biểu hiện
tích cực, động viên, định hướng cho những trường hợp có biểu hiện tiêu cực,
nguy cơ vi phạm nội quy, vi phạm pháp luật cao, xử lý nghiêm những trường
họp vi phạm nội quy, vi phạm pháp luật.
Các em học sinh đang trong tầm tuổi đang lớn, rất dễ bị rủ rê, lôi
25


×