Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục QUẢN lý HOẠT ĐỘNG bồi DƯỠNG CHUYÊN môn CHO đội NGŨ GIÁO VIÊN mầm NON, TỈNH sóc TRĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.16 KB, 110 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Nguồn nhân
lực con người và tiềm năng con người chính là nhân tố quyết định sự phát triển
xã hội bền vững. Trong chiến lược phát triển con người, GD&ĐT có vai trò
quyết định và được xem là nhiệm vụ trọng tâm. Phát triển giáo dục là nền tảng
để tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, là động lực của sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tại Điều 61, Hiến pháp năm 2013 có nêu: Phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài. GDMN là bộ phận cấu thành của hệ thống giáo dục
quốc dân, có vị trí rất quan trọng và là nền tảng ban đầu trong sự nghiệp phát
triển nguồn nhân lực của đất nước.
GDMN thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi
đến 6 tuổi. Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ
vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ những chức năng tâm sinh lý, những
kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp
theo (Luật Giáo dục 2005). Với ý nghĩa đó thì lực lượng GVMN chính là yếu tố
quan trọng quyết định đến chất lượng giáo dục, bởi vì GVMN chính là người đặt
nền móng đầu tiên cho sự phát triển nhân cách toàn diện của trẻ sau này. Lao
động của GVMN là lao động vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật:
các cô không chỉ là cô giáo, mà còn là người mẹ thứ hai, cô cũng vừa là bác sĩ
và là nghệ sĩ của trẻ thơ. Chính vì thế mà cô giáo Mầm non phải hội tụ đủ những
yêu cầu về phẩm chất đạo đức, nhân cách và năng lực chuyên môn để thực hiện
tốt mục tiêu GDMN như Bác Hồ đã dạy: “Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ.
Muốn làm được thế thì phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ chịu
khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây
non được tốt thì sau này cây lên tốt, dạy trẻ tốt thì sau này các cháu thành
người tốt. Anh chị em giáo viên mẫu giáo cần luôn luôn gương mẫu về đạo đức
để các cháu noi theo...”
1




Vì vậy xây dựng đội ngũ GDMN đủ về số lượng và chuẩn về trình độ đào
tạo, giỏi về chuyên môn và mẫu mực về nhân cách đạo đức là khâu then chốt.
Trong đó tổ chức BDCM cho giáo viên được xác định trong giai đoạn này là
nhiệm vụ thường xuyên quan trọng, có ý nghĩa đổi mới về chất lượng đội ngũ
giáo viên. Hơn nữa, việc quản lý thật tốt hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN
để đạt hiệu quả cao còn là trách nhiệm của các cấp quản lý ngành giáo dục.
Đối với tỉnh Sóc Trăng, trong những năm gần đây GDMN được sự quan
tâm đặc biệt của Tỉnh ủy, HĐND - UBND tỉnh và ngành GD&ĐT nên có điều
kiện phát triển cả về quy mô và chất lượng, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học.
Đội ngũ giáo viên và CBQL từng bước đủ về số lượng, chuẩn về chuyên môn để
có thể theo kịp mặt bằng chung của khu vực và cả nước.
Trong thời gian qua Sở GD&ĐT quan tâm nâng cao trình độ cho đội ngũ
nên hoạt động BDCM cho GVMN được đẩy mạnh với nhiều hình thức đào tạo
và bồi dưỡng, nhờ vậy mà tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn khá cao. Tuy
nhiên, công tác quản lý đội ngũ và các hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN
trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng vẫn còn nhiều bất cập, bộc lộ những hạn chế nhất
định. Trong đó, công tác quy hoạch và đánh giá đội ngũ chưa sát thực tiễn, chưa
có sự phối hợp nhu cầu xã hội với yêu cầu phát triển bậc học; chưa triển khai
sâu rộng chương trình BDTX. Đối với việc BDCM hàng năm thì việc lập kế
hoạch và triển khai thực hiện chưa đồng bộ từ Sở đến Phòng và các cơ sở
GDMN, chưa đẩy mạnh khâu giám sát, kiểm tra; chưa thu thập ý kiến phản hồi
sau khi được bồi dưỡng (ít có thông tin ngược); việc đánh giá chất lượng, sự
thay đổi của giáo viên còn mang tính hình thức. Vì vậy ít nhiều tác động đến tư
tưởng nhận thức của một bộ phận giáo viên về nhiệm vụ học tập bồi dưỡng nên
không toàn tâm, toàn ý tập trung vào việc tiếp thu cái mới. Đối với các cấp quản
lý chưa có biện pháp rút kinh nghiệm kịp thời để có những định hướng tiếp theo.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như hạn chế nêu trên, với trọng
trách của người quản lý bậc học Mầm non trên địa bàn toàn tỉnh, tôi quyết định

chọn đề tài “Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên
mầm non tỉnh Sóc Trăng” để làm đề tài luận văn cho mình, nhằm xây dựng
2


một số biện pháp khắc phục những hạn chế, đáp ứng yêu cầu cấp thiết đang đặt
ra và để quản lý bậc học Mầm non của địa phương đạt hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
2.1. Trên thế giới
Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền kinh tế tri thức. Bởi vậy giáo dục của thế kỷ
này cũng cần phải có những thay đổi cụ thể và điều đó được phản ánh ở bốn trụ
cột giáo dục mà tổ chức UNESCO đã đặt ra: “Học để biết; Học để làm; Học để
tồn tại; và Học để chung sống”. Mặt khác vấn đề đào tạo, bồi dưỡng là mục tiêu
xuyên suốt của nền giáo dục XHCN Việt Nam. Vấn đề này cần phải được thực
hiện như thế nào, nhất là trong bối cảnh nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng liên
tục ra đời đáp ứng yêu cầu “đổi mới căn bản và toàn diện” nền giáo dục Việt
Nam và những đòi hỏi về năng lực thực chất của đội ngũ nhà giáo hiện nay.
Đào tạo bồi dưỡng giáo viên không chỉ là mối quan tâm của các nhà khoa
học mà nó còn là mối trăn trở lớn đối với các nhà quản lý giáo dục. Không ít các
công trình của tập thể và cá nhân (kể cả trong và ngoài nước) đã đầu tư nhiều
thời gian, công sức để nghiên cứu, tìm tòi, đề xuất giải pháp liên quan đến chất
lượng, hiệu quả của công tác quản lý và BDCM cho giáo viên.
GDMN là giai đoạn khởi đầu đặt nền móng cho sự hình thành và phát
triển nhân cách trẻ em, thời kỳ Mầm non còn được gọi là “thời kỳ vàng” của
cuộc đời. Sự phát triển của trẻ trong thời kỳ này rất đặc biệt, chúng hồn nhiên
non nớt, buồn vui, khóc cười theo ý thích. Những gì trẻ được học, được trang bị
ở trường Mầm non có thể sẽ là những dấu ấn theo trẻ suốt cuộc đời. Nhà giáo
dục Nga đã nói: “Những cơ sở căn bản của việc giáo dục trẻ, đã hình thành
trước tuổi lên năm, những điều dạy cho trẻ trong thời kỳ đó chiếm tới 90% tiến
trình giáo dục trẻ. Về sau giáo dục đào tạo con người vẫn còn tiếp tục, nhưng

đó chỉ là bước đầu đếm quả, còn những nụ hoa thì được trồng năm năm đầu
tiên”.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi hoạt động bồi dưỡng đội ngũ
giáo viên là vấn đề cơ bản trong phát triển giáo dục. Việc tạo mọi điều kiện để
mọi người có cơ hội học tập, học tập thường xuyên, học tập suốt đời để kịp thời
3


bổ sung kiến thức và đổi mới phương pháp giảng dạy để phù hợp với sự phát
triển kinh tế - xã hội là phương châm hành động của các cấp quản lý giáo dục.
Qua tìm hiểu giáo dục một số quốc gia trên thế giới cho thấy họ có một hệ thống
BDCM cho GVMN từ Trung ương đến địa phương nhằm góp phần nâng dần
chất lượng GD&ĐT. Hình thức bồi dưỡng và biện pháp quản lý còn tùy thuộc
vào điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia để có lựa chọn cho phù hợp với
xu thế luôn đổi mới của thế giới.
Đại đa số các trường sư phạm ở Úc, NewZeland, Canada, đã thành lập các
cơ sở chuyên bồi dưỡng giáo viên để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tham
gia học tập nhằm không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Tại Nhật Bản, việc bồi dưỡng và đào tạo lại cho đội ngũ giáo viên và
CBQL giáo dục là nhiệm vụ bắt buộc đối với người lao động sư phạm. Tùy theo
thực tế của từng đơn vị, từng cá nhân mà cấp quản lý giáo dục đề ra các phương
thức bồi dưỡng khác nhau trong một phạm vi nhất định theo yêu cầu.
Ở Ấn Độ từ năm 1988 đã quyết định thành lập hàng loạt trung tâm học tập
trong cả nước nhằm tạo cơ hội học tập suốt đời cho mọi người. Việc bồi dưỡng
giáo viên được tiến hành ở các trung tâm này đã mang lại hiệu quả rất thiết thực.
Ở Thái Lan, từ năm 1998 việc bồi dưỡng giáo viên được tiến hành ở các
trung tâm học tập cộng đồng nhằm thực hiện giáo dục cơ bản, huấn luyện kỹ
năng nghề nghiệp và thông tin tư vấn cho mọi người dân trong xã hội.
Ở Singapore việc đánh giá giáo viên được đặc biệt coi trọng. Có hệ thống
đánh giá giáo viên để giúp họ nâng cao kĩ năng của mình. Đào tạo vừa học vừa

làm được thiết kế cho phù hợp với nhu cầu phát triển năng lực của đội ngũ. Mọi
người đều có cơ hội được học tập và làm việc để giúp họ phát triển tốt hơn.
Tại Philippin, công tác nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên không thực
hiện trong năm học mà tổ chức bồi dưỡng thành từng khóa học trong thời gian
học sinh nghỉ hè và có nội dung bồi dưỡng cụ thể cho từng mùa hè.
2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam ngay từ xưa đến nay đều rất coi trọng giáo dục và vai trò của
người thầy vì “không có thầy giáo thì không có giáo dục”. Điều đó nhắc nhở
4


mọi người phải quan tâm mọi mặt và toàn diện đến giáo dục mà chủ thể đóng
vai trò quan trọng nhất đó chính là đội ngũ giáo viên. Vấn đề phát triển giáo dục
và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra
trong thư gửi các cán bộ, các thầy giáo, cô giáo, công nhân viên, học sinh, sinh
viên nhân dịp bắt đầu năm học mới ngày 16 tháng 10 năm 1968 rằng: “Giáo dục
nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và
nhân dân, do đó các ngành các cấp Đảng, chính quyền địa phương phải thực sự
quan tâm đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự
nghiệp giáo dục của ta những bước phát triển mới…Cán bộ và giáo dục phải
tiến bộ cho kịp thời đại mới làm được nhiệm vụ, chớ tự túc tự mãn cho là giỏi
rồi thì dừng lại”.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu về
xây dựng và phát triển đội ngũ GVMN như:
- Vụ giáo dục mầm non “60 năm giáo dục mầm non Việt Nam”, Nxb giáo
dục – 2008.
- Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ nhân lực
trong điều kiện mới. Chương trình công nghệ cấp nhà nước KX 07-14 Hà Nội.
- Luận văn của tác giả Vũ Thị Minh Hà với đề tài "Biện pháp quản lý
công tác bồi dưỡng giáo viên mầm non Hà Nội" (2004).

- Luận văn của tác giả Trần Thị Kim Thoa với đề tài "Các biện pháp
tăng cường quản lý đội ngũ giáo viên của Hiệu trưởng trường Mầm non Quận
Tân Bình - Thành phố Hồ Chí Minh" (2006).
- Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Lý với đề tài “Một số giải pháp phát
triển đội ngũ giáo viên mầm non tỉnh Bắc Giang đến 2010” (2006).
- Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Lê Hữu Huyên với đề tài “Thực
trạng công tác quản lý việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên ở một số
trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh” (2011).
- Luận văn Thạc sỹ của tác giả Lê Thị Diệu Thủy với đề tài “Biện pháp
quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên các trường mầm non thành phố Đà Nẵng
đáp ứng chuẩn nghề nghiệp” (2012).
5


Các công trình này chủ yếu tập trung nghiên cứu về phát triển đội ngũ
GVMN dưới góc độ phát triển nguồn nhân lực; trên cơ sở phân tích thực trạng
với những thế mạnh của từng địa phương, mỗi tác giả đề xuất những giải pháp
tích cực khác nhau đảm bảo tính phù hợp và khả thi. Nhưng các tác giả đều có
chung mục đích là muốn quản lý có hiệu quả hoạt động BDTX của GVMN để
nâng cao chất lượng đội ngũ nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các biện pháp nâng
cao hiệu quả quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho GVMN tỉnh Sóc
Trăng, nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của đội ngũ GVMN đáp ứng nhu
cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động BDCM cho GVMN.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng về quản lý hoạt động BDCM cho GVMN
tỉnh Sóc Trăng trong thời gian qua.

- Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động BDCM cho GVMN tỉnh Sóc
Trăng trong thời gian tới. Khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp quản lý đã
đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Khách thể nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà
nước về GDMN.
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý hoạt
động BDCM cho đội ngũ GVMN tỉnh Sóc Trăng.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về lý luận, đề tài nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động BDCM cho đội
ngũ GVMN dưới góc độ của khoa học quản lý giáo dục.
Đề tài đánh giá, khảo sát thực trạng hoạt động BDCM và quản lý hoạt
động BDCM cho GVMN tỉnh Sóc Trăng.
6


Đối tượng khảo sát: Lãnh đạo Sở và Lãnh đạo các phòng, ban chuyên
môn thuộc Sở GD&ĐT; Lãnh đạo và giáo viên các trường Mầm non .
Số liệu và tư liệu sử dụng trong đề tài được giới hạn trong 3 năm học:
2012-2013; 2013-2014; 2014-2015.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu nghiên cứu xây dựng được cơ sở lý luận về quản lý hoạt động
BDCM cho đội ngũ GVMN cập nhật trình độ phát triển của lý luận quản lý giáo
dục hiện đại, đánh giá đúng thực trạng quản lý hoạt động này, đề xuất được hệ
thống các biện pháp quản lý phù hợp với xu thế phát triển của lý luận và thực
tiễn GDMN tác động vào nhận thức, vào hoạt động bồi dưỡng, vào các thành tố
cấu trúc của quá trình bồi dưỡng thì sẽ phát triển được phẩm chất, năng lực của
đội ngũ GVMN đáp ứng nhu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu:

Để hoàn thành công trình nghiên cứu, tác giả đã dựa trên nền tảng các
quan điểm, tư tưởng về BDCM và quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng
thời quán triệt và vận dụng sâu sắc quan điểm hệ thống, cấu trúc, lôgíc, lịch sử và quan
điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học giáo dục.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Thu thập, phân tích, tổng hợp các tài liệu lý luận về quản lý giáo dục, bồi
dưỡng đội ngũ; các văn kiện Đại hội Đảng các cấp; các văn bản pháp quy về
giáo dục và các tài liệu khác có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Từ đó rút ra cơ
sở lý luận để đề xuất các giải pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng GVMN trên địa
bàn tỉnh Sóc Trăng.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Sử dụng phiếu xin ý kiến của lãnh
đạo các phòng, ban chuyên môn thuộc Sở GD&ĐT; lãnh đạo các phòng
GD&ĐT và hiệu trưởng các trường Mầm non nhằm thu thập nhiều thông tin có
7


liên quan đến đề tài nghiên cứu; về vấn đề nghiên cứu để có cơ sở cho việc đưa
ra các giải pháp thực hiện.
+ Phương pháp quan sát: Sử dụng biện pháp quan sát để thu thập các
thông tin có liên quan đến công tác quản lý hoạt động BDCM cho GVMN trên
địa bàn tỉnh Sóc Trăng để có cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp tổ chức thực
hiện.
+ Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn lãnh đạo các phòng, ban chuyên
môn thuộc Sở GD&ĐT; lãnh đạo các phòng GD&ĐT cùng hiệu trưởng các
trường Mầm non về thực trạng công tác quản lý hoạt động BDCM cho GVMN
nhằm làm căn cứ đề xuất các giải pháp một cách hiệu quả.
+ Phương pháp thống kê: Sử dụng các công thức toán để xử lý kết quả

khảo nghiệm, phân tích kết quả nghiên cứu và đánh giá mức độ tin cậy của
phương pháp điều tra.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài này đã xây dựng các khái niệm công cụ, đặc điểm, nội dung và
những nhân tố tác động đến công tác BDCM cho GVMN tỉnh Sóc Trăng và làm
sáng tỏ thực trạng vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở đó, đề xuất những biện pháp
mang tính khả thi cao nhằm áp dụng cho công tác quản lý hoạt động BDCM cho
GVMN tỉnh Sóc Trăng trong thời gian tới đạt kết quả và hiệu quả cao nhất. Kết
quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp quản lý giáo dục và
GVMN trong toàn tỉnh Sóc Trăng.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu; 3 chương nội dung; phần kết luận, kiến nghị;
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG CHUYÊN
MÔN CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN MẦM NON
1.1. Những vấn đề chung về giáo dục mầm non
1.1.1. Vị trí, vai trò của giáo dục mầm non
Mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. GDMN
đặt nền móng ban đầu cho việc giáo dục lâu dài nhằm hình thành, phát triển
nhân cách cho trẻ em. Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục đã
ghi rõ: “Việc chăm sóc giáo dục các em từ tuổi sơ sinh cho đến 6 tuổi có tác
dụng cực kỳ quan trọng trong sự hình thành con người mới xã hội chủ
nghĩa”.“Ra sức nâng cao chất lượng nuôi dạy các cháu, làm cho các cháu phát
triển một cách thuận lợi về thể lực, tình cảm và trí thông minh, chuẩn bị tốt cho
các cháu vào học trường phổ thông...” (Trích Nghị quyết 14 của Bộ chính trị về

Cải cách giáo dục, tr.14). Niềm tin và hy vọng của từng gia đình và cả xã hội về
tương lai của trẻ và của đất nước đều trông chờ ở sự phát triển của lứa tuổi mầm
non này. Đề án của Chính phủ về phổ cập GDMN cho trẻ 5 tuổi đã chỉ rõ quan
điểm: Việc chăm lo để mọi trẻ em năm tuổi được đến trường, lớp mầm non là
trách nhiệm của các cấp, các ngành, của mỗi gia đình và toàn xã hội. Đẩy mạnh
xã hội hóa với trách nhiệm lớn hơn của Nhà nước, của xã hội và gia đình để phát
triển GDMN.
Có thể thấy, tăng cường khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ Mầm non là
nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác nâng cao chất lượng CS - GD, tạo tiền đề
cho trẻ 5 tuổi bước vào lớp một, vào giai đoạn giáo dục phổ thông nhằm góp
phần đưa sự nghiệp giáo dục phát triển bền vững.
Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, ngoài việc thực hiện mục
tiêu phổ cập GDMN cho trẻ 5 tuổi, các độ tuổi còn lại cũng luôn được quan tâm,
vì bất kỳ sự phát triển nào cũng phải tuân theo quy luật từ thấp đến cao, từ nhỏ
đến lớn. Vì vậy giai đoạn mầm non chính là giai đoạn rất quan trọng trong sự
hình thành và phát triển nhân cách toàn diện trong cuộc đời của mỗi người.
9


1.1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục mầm non
Tại Điều 21, 22, Luật giáo dục (2005) đã xác định nhiệm vụ và mục tiêu
của GDMN: “GDMN thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3
tháng tuổi đến 6 tuổi”, “Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát triển và về thể
chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1”.
Để làm rõ hơn về nhiệm vụ của GDMN, trong cuốn sách “60 năm GDMN
Việt Nam” đã nhấn mạnh: “Nhiệm vụ cơ bản của GDMN là hình thành cho trẻ
những cơ sở ban đầu của nhân cách con người mới, làm cho trẻ phát triển toàn
diện, hài hòa và cân đối, tạo điều kiện tốt cho bước phát triển sau này, xây dựng
cho mỗi trẻ em một nền tảng nhân cách vừa khỏe khoắn, vừa mềm mại, đầy sức

sống cả về thể chất lẫn tinh thần. Có nghĩa là GDMN một mặt cần làm cho trẻ
hồn nhiên, vui tươi, tích cực, chủ động, nhạy cảm để trở thành người dễ tiếp thu
giáo dục; mặt khác, GDMN lại phải ngay từ đầu hướng sự phát triển của trẻ
vào việc hình thành những tiền đề nhân cách con người mới, chuẩn bị cho trẻ
khả năng học tập tốt, sống và làm việc phù hợp với xã hội mới của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở thế kỷ XXI” [tr.42, 276]
1.1.3. Đặc điểm của giáo dục mầm non
GDMN là cấp học đầu tiên rất quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc
dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ của
trẻ em, có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của các cấp học sau. Trong đó, yếu tố
quan trọng quyết định chất lượng GDMN là đội ngũ GVMN vì họ là người trực
tiếp chăm sóc – giáo dục trẻ, là người đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện
của trẻ và là người mẹ thứ hai của trẻ. Lao động của GVMN là lao động mang
tính khoa học và nghệ thuật đòi hỏi công phu vì cô giáo là tấm gương cho trẻ
học và bắt chước. Chính vì vậy mà cô giáo mầm non phải hội tụ đầy đủ những
yêu cầu về phẩm chất và năng lực chuyên môn để thực hiện mục tiêu chương
trình GDMN mới nhằm phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ.
Lao động của GVMN là một loại hoạt động sư phạm đặc biệt. Trẻ em vừa
là đối tượng tác động, vừa là chủ thể của lao động sư phạm. Đây là yếu tố quan
10


trọng để biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Quá trình lao động
này sẽ mang lại hiệu quả cao khi cô giáo biết cách hướng dẫn trẻ khám phá để
trẻ hiểu biết nhưng phải phù hợp với tuổi của trẻ. Có thể nói lao động của cô
giáo mầm non là loại hình lao động vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ
thuật cao. Cô giáo mầm non vừa là mẹ, vừa là bác sĩ và là nghệ sĩ.
Từ đặc điểm trên đặt ra những yêu cầu riêng cho đội ngũ GVMN. Ngoài
các tiêu chí của các yêu cầu được quy định trong Chuẩn nghề nghiệp GVMN,
người GVMN cần phải có một số năng lực và phẩm chất sau:

Người GVMN phải có xu hướng nghề nghiệp sư phạm phát triển cao. Xu
hướng đó được thể hiện ở tình yêu thiết tha, hứng thú với nghề nghiệp, phải yêu
nghề và mến trẻ, tôn trọng trẻ, là tấm gương hằng ngày đối với chúng. Người
GVMN cần có ý chí cao, tính tình cởi mở, cứng rắn nhưng lại kiên nhẫn và biết
tự kiềm chế.
Người GVMN phải có năng lực sư phạm để thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ chăm sóc của GDMN. Người GVMN cần có năng lực tổ chức cuộc
sống và các hoạt động CS – GD trẻ một cách linh hoạt, sáng tạo và phải có khả
năng khéo léo trong xử lý sư phạm. Người GVMN phải có một số năng lực sư
phạm riêng biệt như múa, hát, đọc và kể diễn cảm, ứng dụng công nghệ thông
tin trong soạn bài và tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp với khả năng của
trẻ…
Người GVMN phải lấy đạo đức làm gốc cho mọi hoạt động chuyên môn.
Đạo đức là phẩm chất tối cần thiết của bất kỳ người lao động chân chính nào
trong công việc, nhưng riêng đối với những người làm công tác giáo dục thì yếu
tố đạo đức luôn là tiêu chí quan trọng hàng đầu trong việc đánh giá năng lực
toàn diện của một nhà giáo. Nhà giáo phải là người có đạo đức tốt thì mới có
đầy đủ vị thế truyền đạt những kiến thức, những kỹ năng, những kinh nghiệm
sống đến học sinh, giúp học sinh hình thành và phát triển nhân cách. Đặc trưng
của giáo dục là nơi truyền đạt những tinh hoa của văn hóa nhân loại, là “lò rèn
đạo đức, nhân cách” cho thế hệ trẻ, do đó yếu tố đạo đức phải là chuẩn đầu tiên
của bất kỳ ai nếu muốn đứng trong hàng ngũ những người làm công tác giáo
11


dục, đồng thời phải luôn duy trì, phát huy, rèn luyện phẩm chất tốt đẹp này để
mãi là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
GDMN là một bậc học đòi hỏi khắc nghiệt phẩm chất đạo đức ở các thầy,
cô giáo. Khi chấp nhận vào ngành mầm non, các tố chất cần thiết nhất cho người
công tác ở bậc học này là lòng yêu nghề, yêu người, là sự kiên trì nhẫn nại, giàu

đức hy sinh, sẵn sàng bỏ thời gian, công sức, thậm chí cả tiền bạc cho sự nghiệp
giáo dục trẻ như lời Bác Hồ đã từng nói với lớp đào tạo cán bộ mẫu giáo năm
1955: “…Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế thì trước hết
phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó mới nuôi dạy được
các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này
cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt… Điều trước
tiên là dạy các cháu về đạo đức. Anh chị em giáo viên và mẫu giáo cần luôn
luôn gương mẫu về đạo đức để các cháu noi theo”.
Người GVMN phải tự học, tự rèn luyện thường xuyên. Hoạt động của
GVMN đòi hỏi phải có kiến thức văn hóa cơ bản và một hệ thống tri thức khoa
học nuôi dạy trẻ, phải nhiệt tình, chu đáo và dễ hòa nhập cùng với trẻ. Những
năng lực sư phạm này là kết quả của một quá trình học tập, rèn luyện tại trường
và tự học tập một cách nghiêm túc, thường xuyên.
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1.Khái niệm giáo viên mầm non và đội ngũ giáo viên mầm non
Theo điều 34 Điều lệ trường mầm non, giáo viên trong các cơ sở GDMN
là người làm nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em trong nhà trường,
nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập. GVMN là những người được đào tạo
qua nghiệp vụ sư phạm mầm non, có bằng tốt nghiệp trung cấp sư phạm mầm
non trở lên, có đủ các tiêu chuẩn về đạo đức, nhân cách và năng lực chuyên
môn để thực hiện mục tiêu GDMN.
Theo đó, khái niệm đội ngũ GVMN được hiểu như sau: Đội ngũ GVMN
là tập hợp những người làm công tác CS - GD trẻ em tại các cơ sở GDMN,
được tổ chức thành một tập thể sư phạm, đảm bảo về số lượng, chất lượng và cơ
cấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển GDMN trong tình hình mới.
12


Đặc trưng bản chất của đội ngũ GVMN là ở tính tổ chức của đội ngũ về
số lượng, chất lượng và cơ cấu. Đội ngũ GVMN mạnh hay yếu, một phần phụ

thuộc vào phẩm chất, năng lực cá nhân của mỗi giáo viên, phần quan trọng hơn
phụ thuộc vào tổ chức biên chế đội ngũ đó. Thực tiễn sư phạm cho thấy, đôi khi
một cơ sở GDMN không thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đã đề
ra, không phải vì thiếu các giáo viên có phẩm chất và năng lực tốt mà do khâu tổ
chức biên chế không hợp lý về số lượng và cơ cấu, không khai thác, phối hợp
được năng lực của các cá nhân trong đội ngũ. Vì vậy, xây dựng, phát triển đội
ngũ GVMN phải kết hợp thống nhất biện chứng giữa hoạt động xây dựng phát
triển phẩm chất, năng lực cá nhân với hoạt động xây dựng, phát triển đội ngũ về
tổ chức. Hai mặt hoạt động này luôn tác động qua lại lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau
cùng phát triển. Trong đó, tổ chức đội ngũ GVMN hợp lý về số lượng, chất
lượng, cơ cấu là cơ sở để xây dựng, phát triển phẩm chất, năng lực của mỗi cá
nhân GVMN. Ngược lại, bồi dưỡng, phát triển phẩm chất, năng lực cá nhân của
mỗi GVMN là điều kiện để xây dựng, phát triển đội ngũ.
GVMN là nhà giáo đang tham gia các hoạt động giáo dục ở một bậc học
cụ thể trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trước hết, GVMN có vai trò, nhiệm vụ
và những yêu cầu chung của nhà giáo. Đảng ta chỉ rõ: “Nhà giáo giữ vai trò
quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng
học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học. Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng nhà giáo; có chính sách đảm bảo các điều kiện cần thiết về vật chất và
tinh thần để nhà giáo dục thực hiện nhiệm vụ của mình; giữ gìn và phát huy
truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học”.
Mỗi bậc học khác nhau, có đặc điểm cụ thể không giống nhau, do đó vai
trò của nhà giáo trong các nhiệm vụ cụ thể cũng khác nhau. Người GVMN là
người thầy đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách con người trong
tương lai. Nhân cách của con người trong xã hội tương lai như thế nào phụ thuộc
rất nhiều vào nền móng ban đầu này. Trong trường mầm non, giáo viên giữ vai
trò chủ đạo trong việc tổ chức các hoạt động CS – GD trẻ. Người giáo viên
13



không chỉ là người thầy mà còn là người mẹ, người bạn lớn tuổi đáng tin cậy và
gần gũi với trẻ nhiều nhất. GVMN có các nhiệm vụ cơ bản như sau:
1. Bảo vệ an toàn sức khoẻ, tính mạng của trẻ em trong thời gian trẻ em ở
nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập.
2. Thực hiện công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em theo chương
trình GDMN: lập kế hoạch CS – GD; xây dựng môi trường giáo dục, tổ chức
các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em; đánh giá và quản lý trẻ
em; chịu trách nhiệm về chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em;
tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn, của nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ,
lớp mẫu giáo độc lập.
3. Trau dồi đạo đức, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo;
gương mẫu, thương yêu trẻ em, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của trẻ
em; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em; đoàn kết, giúp đỡ đồng
nghiệp.
4. Tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ em cho cha mẹ
trẻ. Chủ động phối hợp với gia đình trẻ để thực hiện mục tiêu giáo dục trẻ em.
5. Rèn luyện sức khỏe; học tập văn hoá; BDCM nghiệp vụ để nâng cao
chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
6. Thực hiện các nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và của
ngành, các quy định của nhà trường, quyết định của Hiệu trưởng.
Quyền của GVMN được đảm bảo các điều kiện để thực hiện nhiệm vụ
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Được đào tạo nâng cao trình độ, BDCM,
nghiệp vụ, được hưởng lương, phụ cấp và các chế độ khác theo quy định của
pháp luật khi được cử đi học để nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ.
Được hưởng mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần và được chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe theo chế độ, chính sách quy định đối với nhà giáo. Được bảo vệ nhân
phẩm, danh dự. Được thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên mầm non
* Khái niệm chuyên môn của giáo viên mầm non
14



Thuật ngữ chuyên môn của giáo viên được sử dụng khá phổ biến trong lý
luận và thực tiễn giáo dục, đào tạo. Cho đến nay, nhận thức về khái niệm chuyên
môn của giáo viên thường được hiểu là lĩnh vực chuyên ngành mà người giáo
viên được đào tạo và sử dụng trong thực tiễn hoạt động giáo dục. Có những cách
phân loại chuyên môn của giáo viên khác nhau. Phân chia theo môn học ta có
giáo viên chuyên môn toán, giáo viên chuyên môn lý, giáo viên chuyên môn
văn, giáo viên chuyên môn sử… Đối với GVMN, có giáo viên chuyên môn về
nhạc, họa; có giáo viên chuyên môn về dinh dưỡng. Một cách tiếp cận khác,
chuyên môn của đội ngũ giáo viên nói chung, đó là chuyên môn về nghiệp vụ sư
phạm. Tất cả mọi giáo viên đều phải có chuyên môn về nghiệp vụ sư phạm. Mỗi
loại hình nhà trường, mỗi cấp học có yêu cầu khác nhau về chuyên môn nghiệp
vụ sư phạm. Đối với GVMN, khi nói đến chuyên môn là bao gồm cả chuyên
môn về môn học và chuyên môn nghiệp vụ sư phạm. Trong đó, chuyên môn
nghiệp vụ sư phạm mầm non là chủ yếu.
Chuyên môn của GVMN là trình độ nghiệp vụ sư phạm mầm non mà
người giáo viên sử dụng trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, chăm
sóc trẻ ở nhà trường và các cơ sở GDMN.
Mỗi ngành nghề, mỗi lĩnh vực hoạt động khác nhau đều có chuyên môn
nghiệp vụ riêng. Chuyên môn nghiệp vụ sư phạm là chuyên môn của nhà giáo.
Mỗi nhà giáo, dù ở cấp nào cũng phải được trang bị về nghiệp vụ chuyên môn
sư phạm. Nghiệp vụ chuyên môn sư phạm giúp cho người giáo viên thực hiện
các nhiệm vụ giáo dục, đào tạo một cách có hiệu quả. Thực tiễn đã chứng minh
rằng, đôi khi giáo viên được đào tạo cơ bản, có trình độ hiểu biết nội dung lý
thuyết của môn học khá tốt, nhưng kết quả hoạt động sư phạm vẫn thấp, chưa
đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đào tạo đã đặt ra. Nguyên nhân chủ yếu của
hiện trạng đó là do trình độ chuyên môn nghiệp vụ sư phạm của giáo viên còn
yếu. Trình độ hiểu biết và thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ sư phạm vừa tạo
cơ sở cho giáo viên xử lý mục tiêu, nội dung, sử dụng phương pháp dạy học một

cách có hiệu quả, vừa là điều kiện để họ xử lý linh hoạt, sáng tạo các tình huống
sư phạm phức tạp.
15


Cấu trúc chuyên môn nghiệp vụ sư phạm của GVMN bao gồm một hệ
thống các thành tố về kiến thức lý thuyết, về kỹ năng và kỹ thuật thực hành sư
phạm. Trong đó, các kiến thức lý thuyết về khoa học giáo dục, về tâm lý học, về
sinh lý học…có vai trò tạo nền tảng định hướng cho sự rèn luyện kỹ năng, kỹ
xảo và hình thành kỹ thuật trong hoạt động sư phạm. Đặc biệt, cấu trúc chuyên
môn nghiệp vụ sư phạm của GVMN còn bao hàm trong đó cả những yếu tố
năng khiếu chuyên biệt và những phẩm chất đặc thù theo yêu cầu của lĩnh vực
GDMN. Như vậy, chuyên môn nghiệp vụ sư phạm của GVMN là sự hòa quyện
giữa kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm sư phạm của người giáo viên với các
phẩm chất của người bảo mẫu.
* Khái niệm bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên mầm non
Trong lĩnh vực giáo dục, thuật ngữ bồi dưỡng giáo viên là chỉ việc nâng
cao, hoàn thiện trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên đang
dạy học. Nghĩa hẹp, bồi dưỡng là trang bị thêm các kiến thức, kỹ năng nhằm
mục đích nâng cao và hoàn thiện năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể.
Nghĩa rộng, bồi dưỡng là quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình thành nhân cách
và những phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định hướng mục đích đã
chọn. Bồi dưỡng là quá trình tác động của chủ thể giáo dục đến đối tượng giáo
dục, làm cho đối tượng được bồi dưỡng tăng thêm năng lực, phẩm chất và phát
triển theo chiều hướng tốt hơn.
Theo quan niệm của tổ chức UNESCO: "Bồi dưỡng với ý nghĩa nâng cao
nghề nghiệp. Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng
cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng
nhu cầu lao động nghề nghiệp". Riêng tác giả Nguyễn Minh Đường cho rằng
"Bồi dưỡng có thể coi là một quá trình cập nhật kiến thức và kỹ năng còn thiếu

hoặc đã lạc hậu trong một cấp học, bậc học và thường xuyên được xác định
bằng một chứng chỉ ".
Các quan điểm trên đây cho thấy, bồi dưỡng là hoạt động có chủ đích
nhằm cập nhật những kiến thức mới tiến bộ, hoặc nâng cao trình độ cho giáo
viên để tăng thêm năng lực, phẩm chất theo yêu cầu phát triển chung của giáo
16


dục và yêu cầu phát triển riêng của mỗi cá nhân. Mọi hoạt động bồi dưỡng được
thực hiện trên nền tảng các loại trình độ đã được đào tạo cơ bản từ trước.
Bồi dưỡng được hiểu là một dạng đào tạo không chính quy. Về bản chất
thì bồi dưỡng là một con đường của đào tạo. Đối tượng của bồi dưỡng là những
người đương nhiệm trong các lĩnh vực hoạt động đa dạng của xã hội. Vì vậy,
trong công tác đào tạo bồi dưỡng hiện nay phải kết hợp tính chất đào tạo với tính
chất bồi dưỡng, trong bồi dưỡng có tính chất đào tạo và trong đào tạo có tính
chất bồi dưỡng. Bồi dưỡng là việc làm thường xuyên, liên tục cho mỗi giáo viên,
mỗi cấp học nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ để đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của ngành giáo dục. Quá trình BDCM cho đội ngũ GVMN thể hiện quan
điểm giáo dục hiện đại đó là: “Đào tạo liên tục và học tập suốt đời”.
BDCM là bổ sung những kiến thức, kỹ năng tay nghề và những kiến thức,
kỹ năng chuyên biệt góp phần tăng trưởng về chuyên môn cho người được bồi
dưỡng. BDCM cho giáo viên có thể coi là việc đào tạo lại, đổi mới, cập nhật
kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công
việc đang làm. Đó là dạng lao động đặc biệt, là giai đoạn tất yếu tiếp theo của
quy trình đào tạo liên tục, tiếp nối, thường xuyên trong cuộc đời sự nghiệp của
người giáo viên.
BDCM cho đội ngũ GVMN là quá trình bổ sung, hoàn thiện cho đội ngũ
giáo viên về kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm mầm non và những vấn đề
cần thiết khác, được thực hiện một cách có mục đích, có tổ chức, nhằm tạo điều
kiện cho sự phát triển hoàn toàn năng lực, phẩm chất chuyên môn của người

GVMN, đáp ứng yêu cầu phát triển mới của GDMN và yêu cầu phát triển cá
nhân của mỗi giáo viên.
BDCM cho đội ngũ GVMN vừa là yêu cầu thường xuyên, vừa là yêu cầu
cấp thiết hiện nay. Chuyên môn nghiệp vụ sư phạm của giáo viên được hình
thành trong quá trình đào tạo ở nhà trường sư phạm và trong thực tiễn hoạt động
nghề nghiệp. Trong quá trình đào tạo ở nhà trường sư phạm, chỉ có thể hình
thành cho người học những phẩm chất chuyên môn nghề nghiệp sư phạm đại
cương, chung nhất, còn lại những phẩm chất chuyên biệt chủ yếu được hình
17


thành trong thực tiễn hoạt động nghề nghiệp. Quá trình hoạt động thực tiễn sư
phạm, nếu được tổ chức một cách khoa học thì đó sẽ trở thành quá trình bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm tốt nhất cho mỗi giáo viên.
Lý luận và thực tiễn năng lực chuyên môn nghiệp vụ sư phạm của giáo
viên là một bộ phận của khoa học giáo dục, luôn vận động, phát triển theo sự
vận động phát triển của khoa học, công nghệ, của các khoa học giáo dục, theo
yêu cầu của thực tiễn phát triển giáo dục và xã hội. Mặt khác, trong xu thế hội
nhập, hợp tác quốc tế hiện nay, nhiều lý thuyết mới lạ về khoa học giáo dục đã,
đang xuất hiện và thâm nhập vào thực tiễn, tác động mạnh mẽ đến từng cá nhân
giáo viên. Việc BDCM nghiệp vụ sư phạm cho GVMN là con đường để mỗi
giáo viên phát triển đúng hướng, đồng thời để họ cập nhật được trình độ phát
triển của khoa học, công nghệ, của lý luận giáo dục hiện đại.
Trong thực tế, có nhiều mô hình BDCM nghiệp vụ sư phạm khác nhau,
với những nội dung và phương thức bồi dưỡng vô cùng đa dạng. Bồi dưỡng về
chuyên môn nghiệp vụ theo chức trách, bồi dưỡng chung, bồi dưỡng riêng,
BDTX, bồi dưỡng định kỳ… Tùy theo đặc điểm cụ thể, điều kiện sư phạm cụ
thể mà lựa chọn nội dung và phương thức bồi dưỡng cho thích hợp. Tức là,
BDCM nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ GVMN phải có kế hoạch, có tổ chức, có
các loại hình hoạt động bồi dưỡng khác nhau.

1.2.3. Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên mầm
non
Hoạt động BDCM là hoạt động phối hợp giữa chủ thể bồi dưỡng với đối
tượng được bồi dưỡng trong quá trình bổ sung kiến thức và các yếu tố cần thiết
cho sự phát triển, hoàn thiện phẩm chất, năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp cận dưới góc độ của tâm lý học, hoạt động
BDCM cho đội ngũ GVMN là tập hợp những thao tác, động tác, hành vi, hành
động mà chủ thể bồi dưỡng và đối tượng bồi dưỡng sử dụng để thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ bồi dưỡng đã được xác định. Theo góc độ của khoa học giáo
dục, hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN được hiểu như sau:
18


Hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN là sự tác động qua lại lẫn nhau
giữa chủ thể bồi dưỡng với đối tượng bồi dưỡng, trong quá trình bổ sung, hoàn
thiện kiến thức, kỹ năng mới, nhằm phát triển phẩm chất, năng lực chuyên môn
của GVMN, thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ bồi dưỡng đã đề ra.
Hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN là một loại hình hoạt động giáo
dục, đào tạo có mục đích, có tổ chức, có chủ thể, đối tượng, có nội dung,
phương pháp và được tiến hành trong điều kiện sư phạm xác định. Về bản chất,
hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN là tổ chức cho GVMN tự hoàn thiện, phát
triển phẩm chất và năng lực của bản thân, thông qua các loại hình hoạt động
tương tác giữa chủ thể bồi dưỡng và đối tượng bồi dưỡng.
Mục đích hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN là nhằm chuẩn hóa chất
lượng đội ngũ giáo viên theo yêu cầu nâng cao chất lượng GDMN hiện nay.
Hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN là hoạt động thường xuyên nhằm giúp
các GVMN tự hoàn thiện bản thân theo chuẩn nghề nghiệp. Mục đích cuối cùng
của hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN là nhằm nâng cao chất lượng GDMN
đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay.
Chủ thể BDCM cho đội ngũ GVMN là những chuyên gia sư phạm có

trình độ hiểu biết sâu rộng về chuyên môn nghiệp vụ sư phạm mầm non . Bao
gồm những giảng viên và CBQL được phân công đảm nhiệm những nội dung
bồi dưỡng trong chương trình xác định. Hoạt động của chủ thể bồi dưỡng là hoạt
động truyền thụ, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, có mục đích, có tổ chức.
Chủ thể bồi dưỡng tác động lên đối tượng bồi dưỡng thông qua các loại hình
hoạt động sư phạm đã xác định.
Đối tượng bồi dưỡng là đội ngũ GVMN, những người đang trực tiếp
giảng dạy, giáo dục, chăm sóc trẻ ở các nhà trường và các cơ sở GDMN. Đây là
những người có nhu cầu nâng cao trình độ năng lực sư phạm, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ phát triển mới của GDMN. Hoạt động của đối tượng được bồi dưỡng
là hoạt động nhận thức và rèn luyện về chuyên môn. Phương thức hoạt động của
đối tượng được bồi dưỡng là hoạt động nhận thức của người học nhưng có sự
kiểm soát của ý thức và sự trải nghiệm thực tiễn sư phạm của bản thân.
19


Vai trò, mối quan hệ của chủ thể bồi dưỡng và đối tượng bồi dưỡng. Hoạt
động BDCM cho đội ngũ GVMN là hoạt động phối hợp của chủ thể bồi dưỡng
và đối tượng bồi dưỡng. Hai hoạt động này luôn thống nhất với nhau, hỗ trợ cho
nhau cùng hướng vào thực hiện mục tiêu chung là hoàn thiện, phát triển năng
lực và phẩm chất của người GVMN, đáp ứng nhu cầu phát triển GDMN trong
tình hình mới. Trong mối quan hệ đó, hoạt động của chủ thể bồi dưỡng giữ vai
trò định hướng cho hoạt động của đối tượng được bồi dưỡng. Hoạt động của đối
tượng được bồi dưỡng vừa chịu sự điều khiển của chủ thể bồi dưỡng, vừa mang
tính chủ động, tích cực cá nhân, phù hợp với đặc điểm riêng của bản thân.
Nội dung bồi dưỡng là những vấn đề phát triển mới về lý luận và thực tiễn
giáo dục nói chung và GDMN nói riêng. Những chủ trương, chính sách, những
văn bản pháp luật và các quy định mới trong ngành giáo dục. Trong đó, cần tập
trung vào các vấn đề cấp thiết đang nổi lên, như bồi dưỡng về tư tưởng chính trị,
đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng; đạo đức, lối sống. Bồi dưỡng những

kiến thức pháp luật, kiến thức về quản lý; về văn hóa, ngoại ngữ, tin học, sức
khỏe, thể dục thể thao, văn nghệ. Bồi dưỡng về kiến thức chuyên ngành, về
nghiệp vụ sư phạm, bồi dưỡng chuyên đề nâng cao, đổi mới phương pháp dạy
học, những kiến thức tâm lý học, giáo dục học…
Phương thức bồi dưỡng. Hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN là một
loại hình bồi dưỡng được tiến hành thường xuyên và định kỳ theo kế hoạch xác
định. BDTX là hình thức được áp dụng rộng rãi và phổ biến nhất vì nó phù hợp
với đặc điểm công việc của giáo viên và điều kiện các nhà trường; nhất là việc
bố trí thời gian để giáo viên tự bồi dưỡng, nghiên cứu các nội dung học tập và
liên hệ thực tế vào bài học cụ thể. Việc bồi dưỡng thường thông qua các hội
nghị khoa học, báo cáo chuyên đề, hội thảo, seminar, các đợt tập huấn, thao
giảng, dự giờ ...
Bồi dưỡng định kỳ, giúp giáo viên vượt qua sự lạc hậu về tri thức do
không được cập nhật kiến thức thường xuyên. Bồi dưỡng nâng cao, là hình thức
bồi dưỡng các giáo viên nòng cốt trong nhà trường để làm hạt nhân cho sự phát
triển của đơn vị cũng như tạo nguồn CBQL trong tương lai.
20


Tóm lại, hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN là một loại hình hoạt
động giáo dục, đào tạo có kế hoạch, có tổ chức, được tiến hành thường xuyên,
liên tục với nhiều hình thức tổ chức đa dạng. Hoạt động BDCM cho đội ngũ
GVMN là một nhiệm vụ được quy định tại Luật giáo dục. Các cơ quan quản lý
nhà nước về giáo dục phải có chính sách bồi dưỡng nhà giáo nói chung, BDCM
cho đội ngũ GVMN nói riêng.
1.2.4. Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm
non
Thuật ngữ quản lý, có nhiều cách giải nghĩa khác nhau. Từ điển giáo dục
học, quản lý là hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ

chức làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung là
khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến”.
Theo góc độ xã hội học quản lý, Vũ Hào Quang cho rằng: “ Quản lý
chính là sự tác động liên tục, có tổ chức, có ý thức hướng mục đích của chủ thể
vào đối tượng nhằm đạt được hiệu quả tối ưu so với yêu cầu đặt ra”. {24,
tr.105}
Hà Sĩ Hồ lại cho rằng: “Quản lý là một quá trình tác động có định hướng,
có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể dựa trên các thông tin về tình
trạng của đối tượng nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và
làm cho nó phát triển tới mục đích đã định”.{15, tr.21}
Theo Tâm lý học quản lý: “Quản lý được coi như là sự kết hợp của quản
và lý. Quản bao gồm sự coi giữ, tổ chức, điều khiển, trông nom và theo dõi. Lý
được hiểu là lý luận về sự phân biệt phải trái, sự sửa sang, sắp xếp, thanh lý, sự
dự đoán cùng sự tạo ra thiết chế hành động để đưa hệ vào sự phát triển”{6,tr.
33,34}. Theo cách hiểu này, quản lý là “ lý luận về sự cai quản”. Chức năng của
quản lý là lãnh đạo, tham mưu và thừa hành. Nếu người quản lý chỉ lo “quản”
mà coi nhẹ “lý” thì tổ chức sẽ trì trệ chậm phát triển; còn ngược lại thì dễ rơi vào
21


thế mất cân bằng. Vì thế trong “quản” phải có “lý’, trong “lý” phải có “quản”,
“quản và lý” phải đi đôi với nhau. Quản lý là yếu tố tạo nên sự ổn định để phát
triển của hệ thống trên lộ trình tiến tới trạng thái mới có chất lượng cao hơn.
Như vậy, có thể hiểu quản lý là quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ
thể quản lý tới khách thể quản lý thông qua việc thực hiện các chức năng quản
lý, bằng những công cụ và phương pháp mang tính đặc thù nhằm đạt được mục
tiêu chung của toàn bộ hệ thống. “Quản lý không chỉ là một khoa học mà còn là
nghệ thuật”, và “hoạt động quản lý vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ

quan, vừa có tính pháp luật của nhà nước, vừa có tính xã hội rộng rãi; chúng là
những mặt đối lập trong một thể thống nhất”. Quản lý có các chức năng cơ bản
là duy trì và phát triển. Bất kỳ một hoạt động tập thể nào cũng cần phải quản lý.
Quản lý hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN là thực hiện chức năng
quản lý trong quá trình tổ chức bồi dưỡng giáo viên, từ chức năng lập kế hoạch,
tổ chức, điều khiển đến kiểm tra đánh giá, để công tác BDCM của giáo viên đạt
mục đích và hiệu quả.
Quản lý hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN là hệ thống những tác
động của chủ thể quản lý đến các hoạt động BDCM, nhằm tổ chức, điều khiển
các hoạt động đó diễn ra theo một kế hoạch xác định, đảm bảo cho phẩm chất,
năng lực chuyên môn của GVMN được phát triển liên tục và đúng hướng, đáp
ứng nhu cầu chuẩn hóa chất lượng đội ngũ GVMN.
Quản lý hoạt động BDCM cho GVMN là hoạt động phối hợp giữa các
cấp quản lý từ trung ương đến cơ sở, với các cấp có liên quan. Đây là hoạt động
có chủ đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý, nhằm tạo điều kiện cho giáo viên
có cơ hội học tập nâng cao trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu phát triển
GDMN. Quản lý hoạt động BDCM chính là thực hiện các chức năng quản lý
trong quá trình tổ chức bồi dưỡng, đảm bảo cho các hoạt động bồi dưỡng diễn ra
đúng mục đích, đúng kế hoạch, nhanh chóng và đạt hiệu quả cao.
Mục tiêu chung của quản lý hoạt động BDCM cho GVMN là đảm bảo
cho hoạt động của các chủ thể bồi dưỡng và hoạt động của đối tượng được bồi
dưỡng diễn ra một cách khoa học, hướng vào phát triển phẩm chất, năng lực của
22


đội ngũ GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Mục tiêu cụ thể của quản lý hoạt động
BDCM cho GVMN nhằm đưa hoạt động này vào khuôn khổ nề nếp, thực hiện
thường xuyên, bài bản và hiệu quả hơn để góp phần nâng cao chất lượng chăm
sóc, giáo dục trẻ ở các nhà trường và cơ sở GDMN.
Chủ thể quản lý là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực GD&ĐT tại địa

phương, cụ thể cấp tỉnh là Sở và cấp huyện, thị xã, thành phố là Phòng GD&ĐT,
trực tiếp quản lý là lãnh đạo phụ trách bộ phận GDMN và phòng chuyên môn
mầm non của Sở, đối với phòng GD&ĐT có lãnh đạo và cán bộ phụ trách
GDMN. Chủ thể quản lý là tập thể và cá nhân CBQL các cấp có trách nhiệm tổ
chức, điều khiển các hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN trong phạm vi quản
lý của mình.
Đối tượng quản lý là hoạt động BDCM cho GVMN của tỉnh và huyện, thị
xã, thành phố. Bao gồm hoạt động của tất cả các thành viên tham gia vào quá
trình bồi dưỡng, trong đó chủ yếu là hoạt động của người đi bồi dưỡng với tư
cách là chủ thể bồi dưỡng và hoạt động của người được bồi dưỡng với tư các là
đối tượng bồi dưỡng. Đối tượng quản lý tiến hành các hoạt động bồi dưỡng dưới
sự tổ chức, điều khiển của chủ thể quản lý.
Chủ thể quản lý có chức năng xây dựng kế hoạch, tổ chức, điều khiển và
kiểm tra các hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN. Đảm bảo cho hoạt động của
người đi bồi dưỡng và người được bồi dưỡng luôn phối hợp thống nhất với
nhau, phù hợp với mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức BDCM
của GVMN, phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục hiện đại và đặc điểm của
GDMN. Như vậy, chủ thể quản lý hoạt động của người đi bồi dưỡng với hoạt
động của đối tượng được bồi dưỡng, đặt các hoạt động này trong mối quan hệ
với các thành tố cấu trúc của quá trình BDCM cho đội ngũ GVMN.
1.3. Nội dung quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn
1.3.1. Quản lý kế hoạch bồi dưỡng
Trong quản lý nói chung và quản lý giáo dục nói riêng, kế hoạch giữ vai
trò vị trí rất quan trọng. Đối với người quản lý thì kế hoạch đóng vai trò là công
cụ quản lý, căn cứ vào kế hoạch để kiểm tra quá trình triển khai thực hiện và dự
23


báo trước được kết quả của quá trình. Đối với người bị quản lý thì kế hoạch có
tính chất định hướng cho quá trình phấn đấu và phát triển của cá nhân hay của

tập thể. Căn cứ vào kế hoạch để xác định mục tiêu phấn đấu, nhiệm vụ phải thực
hiện để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Vai trò của quản lý kế hoạch là rất quan trọng và quyết định kết quả của
quá trình quản lý, bởi vì mọi hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN đều phải
được kế hoạch hóa. Kế hoạch là bản thiết kế hoạt động cho các lực lượng, là văn
bản pháp quy cho các lực lượng phải tuân theo. Trong hoạt động dạy học việc
lập kế hoạch là điều kiện quan trọng hàng đầu và quyết định kết quả thực hiện.
Kế hoạch phải đảm bảo tính khoa học, phù hợp, khả thi và phải được triển khai
thực hiện một cách nghiêm túc thì mới đạt kết quả.
Các loại kế hoạch bồi dưỡng bao gồm: kế hoạch chiến lược về phát triển
đội ngũ GVMN; kế hoạch trung hạn, kế hoạch ngắn hạn. Kế hoạch BDTX hàng
năm; kế hoạch bồi dưỡng theo chủ đề; kế hoạch bồi dưỡng tại chỗ…
Yêu cầu xây dựng kế hoạch bồi dưỡng phải đảm bảo tính pháp lý, tính hệ
thống, đồng bộ, tính khoa học, tính thực tiễn và tính khả thi. Việc lập kế hoạch
BDCM cho GVMN phải được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
quá trình bồi dưỡng. Kế hoạch phải được xây dựng trên cơ sở phát triển, mang
tính chiến lược dài hạn, đảm bảo phù hợp và cân đối giữa các nội dung. Cần xác
định một cách cụ thể mục tiêu phải đạt được sau mỗi đợt bồi dưỡng. Khi xây
dựng kế hoạch phải dựa trên nhu cầu thực tiễn, xuất phát từ tình hình năng lực
của đội ngũ GVMN. Kế hoạch phải mang tính thống nhất trong nội dung và
phương pháp. Dự tính rõ trình tự, quy trình tiến hành bồi dưỡng và các tình
huống có thể xảy ra trong quá trình thực hiện. Kế hoạch phải mang tính thiết
thực, khả thi, kiểm tra được. Trong kế hoạch BDCM cần tập trung vào nhu cầu
và mong muốn của GVMN để phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
Như vậy, việc xây dựng kế hoạch quản lý hoạt động BDCM cho GVMN
góp phần thực hiện các nguyên tắc quản lý giáo dục. Thực chất quản lý kế hoạch
bồi dưỡng GVMN là quản lý bằng kế hoạch, quản lý thông qua kế hoạch bồi
dưỡng. Quản lý kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn GVMN là điều quan trọng phải
24



làm vì có quản lý được kế hoạch bồi dưỡng thì mới có thể nắm được toàn bộ
hoạt động từ khâu thực hiện đến phương pháp và hình thức cũng như kết quả
của quá trình.
1.3.2. Quản lý các nguồn nhân lực trong hoạt động bồi dưỡng
Nội dung quản lý hoạt động tổ chức BDCM cho đội ngũ GVMN nhằm
thực hiện chức năng tổ chức của quản lý nhà nước về giáo dục. Tổ chức là quá
trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận
trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt
được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Tổ chức là một bước cụ thể hóa của kế
hoạch quản lý đã xác định. Trong việc thực hiện kế hoạch bồi dưỡng phải tổ
chức chặt chẽ, khoa học các hoạt động bồi dưỡng. Tổ chức phân công người,
phân công việc sao cho phù hợp, phát huy được tối đa các nguồn lực trong thực
hiện các nhiệm vụ bồi dưỡng. Phân bổ thời gian, lực lượng, các nguồn lực, các
điều kiện đảm bảo hợp lý. Quản lý hoạt động tổ chức BDCM cho đội ngũ
GVMN là chức năng của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục. Các cơ quan
quản lý nhà nước về giáo dục căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của
cấp mình mà tiến hành các hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN.
Quản lý hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN là quản lý một loại hình
hoạt động phối hợp của hai chủ thể. Hoạt động BDCM cho đội ngũ GVMN bao
gồm hoạt động của người đi bồi dưỡng và hoạt động của người được bồi dưỡng.
Các hoạt động này được đặt dưới sự chỉ đạo, điều hành của cơ quan quản lý nhà
nước về giáo dục. Như vậy, trong quá trình BDCM cho đội ngũ GVMN đồng
thời diễn ra hoạt động của người quản lý, người bồi dưỡng, người được bồi
dưỡng. Mỗi lực lượng có chức năng khác nhau, nhưng lại có chung một mục
tiêu là phát triển phẩm chất, năng lực của đội ngũ GVMN.
Người quản lý có chức năng tổ chức phối hợp hoạt động của các lực
lượng này tạo thành sự thống nhất với nhau, cộng hưởng với nhau cùng hướng
tới thực hiện mục tiêu chung. Để tạo ra được sự phối hợp thống nhất hoạt động
của các lực lượng bồi dưỡng, vấn đề cơ bản nhất đối với người CBQL là phải

xây dựng được cơ chế quản lý, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng lực
25


×