Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục QUẢN lý HOẠT ĐỘNG GIÁO dục THỂ CHẤT ở các TRƯỜNG TRUNG học cơ sở THÀNH PHỐ sóc TRĂNG, TỈNH sóc TRĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.11 KB, 110 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ

Viết tắt

Cán bộ quản lý

CBQL

Giáo dục thể chất

GDTC

Giáo dục và Đào tạo

GD&ĐT

Thể dục thể thao

TDTT

Trung học cơ sở

THCS

1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU


Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO

3

DỤC THỂ CHẤT Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.2. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục thể chất ở trường

12

trung học cơ sở
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý hoạt động giáo dục thể chất

25

ở trường trung học cơ sở thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng

29

Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC THỂ CHẤT Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC
CƠ SỞ THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC
TRĂNG

2.1. Thực trạng hoạt động giáo dục thể chất ở các trường trung
học cơ sở thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng
2.2. Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục thể chất ở các trường
trung học cơ sở thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng


36
44

Chương 3 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC THỂ CHẤT Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC
CƠ SỞ THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

3.1. Yêu cầu đề xuất biện pháp quản lý hoạt động giáo dục thể
chất ở các trường trung học cơ sở thành phố Sóc Trăng,
tỉnh Sóc Trăng
3.2. Các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục thể chất ở các

59

trường trung học cơ sở thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

62
80
87
90
93

2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người. Muốn có một sức khỏe
tốt để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, ngoài yếu tố bẩm sinh, vấn đề rèn luyện để
nâng cao sức khỏe là yếu tố vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, trong Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã xác định: “Phát triển mạnh
phong trào thể dục, thể thao đại chúng”.
Việc phát triển giáo dục nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang là những yêu cầu
cấp bách, đòi hỏi ngành giáo dục phải có những thay đổi mang tính đột phá
đối với giáo dục ở tất cả các bậc học; trong đó có giáo dục phổ thông, bậc học
có tính chất nền tảng cơ bản, là cơ sở để nâng cao chất lượng cho cả hệ thống
giáo dục. Luật Giáo dục hiện hành xác định: “Mục tiêu của giáo dục là giúp
học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[24]. Tuy vậy, ngành
giáo dục vẫn đang phải tiếp tục vượt qua nhiều thách thức lớn, trong đó có
những bất cập, yếu kém liên quan tới vấn đề nâng cao chất lượng GDTC
trong hệ thống các trường học, làm ảnh hưởng tới chất lượng của nguồn nhân
lực trong tương lai. Ở nước ta hiện nay, số học sinh phổ thông độ tuổi từ 6
đến 18 chiếm khoảng 1/4 dân số, GDTC và dinh dưỡng học đường góp phần
không nhỏ vào sự phát triển thể chất của học sinh, nhất là học sinh ở độ tuổi
11 đến 15 - thời kỳ phát triển nhanh nhất về tầm vóc và thể trọng con người.
Đối với giáo dục THCS trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói chung và thành
phố Sóc Trăng nói riêng, trong những năm qua đã có bước phát triển mạnh
mẽ. Chất lượng giáo dục toàn diện được quan tâm, cùng với giáo dục văn hóa,
GDTC cho học sinh ở các trường THCS của Thành phố đã được CBQL, giáo

3



viên các nhà trường quan tâm. Phòng GD&ĐT Thành phố đã xây dựng nhiều
giải pháp và tích cực chỉ đạo các trường THCS tập trung triển khai ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác quản lý, giảng dạy, trao đổi thông tin và
các hoạt động trong toàn ngành qua mạng nhờ đó nâng cao được chất lượng
và hiệu quả giáo dục... Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động GDTC
và quản lý hoạt động GDTC ở các trường THCS của Thành phố trong những
năm qua vẫn còn những hạn chế, bất cập như: nhận thức, trách nhiệm của một
bộ phận CBQL, giáo viên các nhà trường và phụ huynh học sinh về GDTC
chưa đầy, có biểu hiện xem nhẹ nội dung giáo dục này; chỉ đạo thực hiện
chương trình, nội dung GDTC chưa chặt chẽ, có biểu hiện cắt xén thời gian
để dành cho các môn văn hóa, nhất là đối với các lớp cuối cấp và vào thời
gian cuối năm học. Các hoạt động GDTC cho học sinh chưa được đổi mới,
chủ yếu chỉ là học môn thể dục theo chương trình quy định của Bộ GD&ĐT,
các hội thao, hội thi ít được tổ chức. Đội ngũ giáo viên thể chất và cán bộ
Đoàn, Đội là những lực lượng chủ yếu tổ chức các hoạt động GDTC trong
nhà trường nhưng kiến thức chuyên môn, năng lực tổ chức, chỉ đạo các hoạt
động GDTC còn hạn chế. Công tác quản lý cơ sở vật chất phục vụ cho giảng
dạy, tập luyện thể dục, thể thao còn thiếu và không đồng bộ; việc kiểm tra,
đánh giá kết quả GDTC trong các nhà trường chưa được coi trọng đúng
mức... Những khuyết điểm, hạn chế trên đã có ảnh hưởng nhất định đến kết
quả dạy học, giáo dục toàn diện ở các trường THCS trên địa bàn thành phố
Sóc Trăng chưa tương xứng.
Xuất phát từ những lý do trên và trước yêu cầu đòi hỏi nâng cao chất
lượng giáo dục theo quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT của
Đảng, chúng tôi lựa chọn đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục thể chất ở các
trường trung học cơ sở thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng” để nghiên cứu
là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực.

4



2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh
rất quan tâm đến giáo dục con người phát triển hoàn toàn. Bằng việc kế thừa
những tinh hoa của các tư tưởng giáo dục tiên tiến và việc vận dụng sáng tạo
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã để lại cho chúng ta
nền tảng lý luận về vai trò của giáo dục, định hướng phát triển giáo dục, mục
đích dạy học, các nguyên lý dạy học, các phương thức dạy học, vai trò của
quản lý và CBQL giáo dục, phương pháp lãnh đạo và quản lý... Thực tiễn đã
khẳng định rằng: Hệ thống các tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo
dục có giá trị cao trong quá trình phát triển lý luận dạy học, lý luận giáo dục
của nền giáo dục cách mạng Việt Nam.
Gần đây, có nhiều công trình khoa học quản lý giáo dục của các nhà
khoa học, nhà giáo, CBQL giáo dục viết dưới dạng giáo trình, sách tham
khảo, phổ biến kinh nghiệm đã dược công bố. Tiêu biểu như các tác giả:
Phạm Thành Nghị, Đặng Bá Lãm, Đặng Hữu Đạo, Nguyễn Tiến Dũng,
Nguyễn Chân, Nguyễn Bá Dương, Nguyễn Gia Quý, Bùi Trọng Tuân,
Nguyễn Đình Am... Các công trình nghiên cứu trên đã giải quyết được những
vấn đề lý luận cơ bản về khoa học quản lý như: Khái niệm quản lý; bản chất
của hoạt động quản lý; các thành phần cấu trúc, các giai đoạn của hoạt động
quản lý… đồng thời chỉ ra các phương pháp và nghệ thuật quản lý.
Tác giả Trần Kiểm trong quyển “Những vấn đề cơ bản của khoa học
quản lý giáo dục” đã nói rõ “… hoạt động quản lý nhà trường bao gồm
nhiều loại, như quản lý các hoạt động giáo dục: hoạt động dạy học, hoạt
động giáo dục, hoạt động xã hội, hoạt động văn thể, hoạt động lao động,
hoạt động ngoại khóa, hoạt động giáo dục hướng nghiêp…; quản lý các đối
tượng khác nhau: quản lý giáo viên, học sinh, tài chính, cơ sở vật chất…;
quản lý nhiều khách thể khác nhau: quản lý thực hiện xã hội hóa giáo dục,

5



điều tiết và điều chỉnh ảnh hưởng từ bên ngoài nhà trường, phối hợp với Ban
Đại diện cha mẹ học sinh…”.
Về GDTC trong nhà trường các cấp, tác giả Phạm Đình Bẩm đã viết
cuốn sách Quản lý TDTT, (Tài liệu chuyên khảo dành cho học viên cao học và
đại học GDTC); Nxb TDTT - 2003. Tác giả đã đề cập nhiều đến lý luận và
thực tiễn chương trình, nội dung GDTC của các trường phổ thông; đồng thời
nêu lên những định hướng cơ bản nhằm góp phần nâng cao chất lượng GDTC
cho HS; trang bị cho các em kiến thức, kỹ năng hoạt động thể chất để phát
triển toàn diện bản thân.
Trong cuốn tài liệu Tuyển tập nghiên cứu khoa học GDTC, y tế trường
học do Bộ GD&ĐT biên soạn (Nxb TDTT - 2006) đã công bố công trình
nghiên cứu của các tác giả trong lĩnh vực GDTC và y tế trường học. Tác giả
Đặng Thanh, Viện Tâm lý học, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc
gia đã xác định giá trị của thể thao là duy trì sự tồn tại của xã hội thông qua
việc làm cho con người khoẻ mạnh, duy trì nòi giống xã hội. Thể thao góp
phần tái sản xuất dân cư mạnh khoẻ, tăng cường thể chất con người đóng góp
cho sự phát triển văn minh xã hội. Tác giả cho rằng, GDTC trước hết và quan
trọng là phải giáo dục ý thức, tinh thần cao thượng trong thể thao.
Bên cạnh đó, trong cuốn Tài liệu Hội nghị tổng kết công tác GDTC và
phong trào Hội khoẻ Phù Đổng giai đoạn 2008 - 2012, (tổ chức tại Cần Thơ
8/2012) đã tập hợp nhiều bài viết của các tác giả về việc thực hiện chương
trình, nội dung GDTC trong các nhà trường phổ thông; nhiều bài viết đã đề
xuất các giải pháp đổi mới công tác GDTC cả trong chương trình chính khoá
và ngoại khoá.
Trong số các nghiên cứu này có thể kể đến bài viết của tác giả Ngũ
Duy Anh và Vũ Đức Thu về “Định hướng chiến lược tăng cường GDTC, bảo
vệ, chăm sóc sức khoẻ học sinh trong nhà trường phổ thông các cấp đến năm


6


2010”. Các tác giả đã đưa ra mục tiêu định hướng lâu dài, mục tiêu trước mắt
2003 - 2010 và đồng thời đưa ra các giải pháp chiến lược nhằm thực hiện để
đạt được mục tiêu đề ra.
Nghiên cứu của các tác giả Ngũ Duy Anh và Trần Văn Lam về “Thực
trạng và giải pháp nâng cao công tác GDTC trường học” (Đề tài cấp Bộ), đã
đánh giá thực trạng các hoạt động GDTC; đồng thời vạch ra những khó khăn
yếu kém và đề ra mục tiêu, giải pháp để khắc phục những hạn chế còn tồn tại.
Phạm vi nghiên cứu đề tài này thực hiện trên các địa phương cả nước, do đó
nó thể hiện được bức tranh tổng thể công tác GDTC. Do đối tượng và phạm vi
nghiên cứu nên đề tài chưa đi sâu nghiên cứu sự khác biệt trong GDTC giữa
các vùng miền, địa phương và các giải pháp tương ứng.
Theo tổng kết của tác giả Nguyễn Kim Minh [4, tr.277], từ năm 1991
đến 2005, trong số 32 luận án tiến sĩ chuyên ngành TDTT, đã có 19 luận án
nghiên cứu về GDTC. Tiêu biểu như: “Nghiên cứu hiệu quả của GDTC đối
với sự phát triển tố chất thể lực của nam học sinh phổ thông (lứa tuổi 8 - 17
tuổi) ở thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn (năm 1988);
“Nghiên cứu sự phát triển thể chất của học sinh nữ tiểu học (từ 7 - 11 tuổi)
ở thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Huỳnh Trọng Khải (năm 2000);
“Nghiên cứu đặc điểm phát triển thể chất và nhu cầu hoạt động TDTT của
học sinh các dân tộc lứa tuổi 11 đến 14 ở An Giang” của tác giả Âu Xuân
Đôn (năm 2001); “Nghiên cứu nâng cao năng lực thể chất của học sinh
THCS (12-15 tuổi)” của tác giả Tạ Hồng Hải (năm 2002); “Nghiên cứu sự
phát triển thể chất của học sinh Tiểu học ở Đồng bằng Bắc Bộ” của tác giả
Trần Đình Thuận...
Tóm lại, các công trình nghiên cứu trên đây đã làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về GDTC, đưa ra các tiêu chí đánh giá GDTC, xây dựng một
số biện pháp tác động, đánh giá kết quả các biện pháp. Đây là những công


7


trình nghiên cứu có chiều sâu về lý luận và phần thực trạng, đưa ra các biện
pháp, thực nghiệm công phu.
Một số công trình nghiên cứu về GDTC trong nhà trường phổ thông
đã xác định, đây là môn học chính khoá thuộc chương trình giáo dục
nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận đông cơ bản cho học sinh thông
qua các bài tập, các trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo
dục toàn diện.
Đã có một số tác giả đề cập đến quản lý GDTC cho các đối tượng
khác nhau, song chủ yếu mang tính tổng quát trên phạm vi rộng hoặc các
biện pháp áp dụng cho việc vận dụng phương pháp, sử dụng các bài tập cụ
thể... Việc nghiên cứu để đề xuất các hoạt động quản lý hoạt động GDTC
cho cấp học THCS nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động GDTC chưa được
đề cập nhiều.
Những quả nghiên cứu nêu trên của các nhà khoa học trong và ngoài
nước là những cơ sở giúp tác giả có thêm những cơ sở lý luận để nghiên cứu
xây dựng cơ sở lý luận, thực tiễn và đề ra biện pháp quản lý hoạt động GDTC
ở các trường THCS thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
Từ sự tổng quan trên cho thấy, cho đến nay, chưa có công trình khoa
học nào đi sâu nghiên cứu về quản lý hoạt động GDTC ở các trường THCS
thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Vì thế, tác giả lựa chọn vấn đề này để
nghiên cứu không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sơ nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp quản lý
hoạt động GDTC ở các trường THCS thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng,
nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh đáp ứng

yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT hiện nay.

8


* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về hoạt động GDTC và quản lý hoạt động
GDTC ở các trường THCS.
Khảo sát và đánh giá thực trạng hoạt động GDTC và quản lý hoạt động
GDTC ở các trường THCS thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động GDTC ở các trường THCS
thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục học sinh ở các trường THCS thành phố Sóc
Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động GDTC ở các trường THCS thành phố Sóc Trăng,
tỉnh Sóc Trăng.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu thực trạng, qua đó tìm ra các biện pháp quản lý
hoạt động GDTC ở các trường THCS thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
- Về địa bàn khảo sát: Đề tài được nghiên cứu trên 05 trường THCS
thuộc địa bàn thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
- Về thời gian: tiến hành điều tra, khảo sát từ tháng 10 năm 2014 đến
tháng 5 năm 2015; các số liệu báo cáo được sử dụng từ năm học 2012 - 2013
đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Hoạt động GDTC ở các trường THCS thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc
Trăng có vai trò rất quan trọng trong hình thành nhân cách học sinh, chất

lượng GDTC phụ thuộc rất lớn vào quản lý hoạt động dạy và học của các chủ
thể. Nếu các chủ thể quản lý sử dụng các biện pháp như: Nâng cao nhận thức,

9


trách nhiệm của các lực lượng liên về GDTC ở trường THCS; tăng cường bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho các chủ thể; quan tâm chỉ đạo thực hiện đa
dạng hoá các hoạt động GDTC cho học sinh; tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các
lực lượng; tăng cường quản lý cơ sở vật chất, điều kiện bảo đảm và thường
xuyên giám sát, kiểm tra, đánh giá kết quả thì hoạt động GDTC sẽ được quản
lý chặt chẽ, góp phần nâng cao góp phần đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện
cho học sinh THCS của Thành phố.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác - Lênin; quán triệt và cụ thể hoá tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, QLGD, nhất là
quản lý hoạt động dạy học, phương pháp GDTC và quản lý GDTC ở các
trường phổ thông nói riêng.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu
trúc, lịch sử - lôgíc và quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học.
* Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chuyên ngành, bao gồm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu
thực tiễn; xin ý kiến của các chuyên gia. Cụ thể là:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp: Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát
hóa để nghiên cứu các tài liệu lý luận, nghiên cứu các văn kiện, chính sách
của Đảng, Nhà nước; Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT, các tài liệu khoa học có liên

quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

10


Phương pháp quan sát: Phương pháp này sử dụng để thu thập dữ liệu từ
thực tiễn hoạt động GDTC và thực tiễn quản lý hoạt động GDTC.
Phương pháp điều tra phiếu hỏi: Chúng tôi tiến hành xây dựng các
phiếu điều tra bằng hệ thống câu hỏi để khảo sát các đối tượng: 15 CBQL của
Sở GD&ĐT tỉnh Sóc Trăng, Phòng GD&ĐT thành phố Sóc Trăng và CBQL
của các trường THCS thành phố Sóc Trăng, 50 giáo viên, 500 học sinh và 200
phụ huynh học sinh ở 05 trường THCS và một số đối tượng có liên quan.
Phương pháp chuyên gia: Dùng để tham khảo, lấy ý kiến của các
chuyên gia, những nhà quản lý có nhiều năm kinh nghiệm.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm hoat động
GDTC của giáo viên trực tiếp giảng dạy, kinh nghiệm công tác quản lý hoạt
động GDTC của CBQL các cấp đặc biệt là những người đang trực tiếp làm
quản lý ở các trường THCS.
Dùng phương pháp thống kê toán học để xử lý tổng hợp số liệu xử
dụng thống kê mô tả và thống kê suy luận để rút ra kết luận vừa có ý nghĩa
định tính, vừa có ý nghĩa định lượng.
7. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần bổ sung cho lý luận về quản lý giáo dục nói chung và lý luận
về quản lý hoạt động thể chất trong các trường học nói riêng.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động GDTC nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục trên địa bàn thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng cho
phù hợp với yêu cầu đổi mới.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo

và phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương (7 tiết).

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC THỂ CHẤT Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Hoạt động giáo dục thể chất ở trường trung học cơ sở
* Giáo dục thể chất
Theo Từ điển Thể thao Nga - Việt của Nguyễn Văn Hiếu chủ biên
(2000) thì “GDTC được hiểu là một loại hình giáo dục lấy nhiệm vụ chủ yếu
là phát triển thể lực tăng cường thể chất làm chính, thông qua tham gia các
môn thể thao để thực hiện” [30, tr.198].
Các nhà lý luận TDTT của Việt Nam như Nguyễn Toán, Phạm Danh
Tốn cho rằng, do bắt nguồn từ gốc hán nên có người gọi tắt GDTC là thể dục
theo nghĩa tương đối hẹp vì theo nghĩa rộng của từ Hán cũ Thể dục còn có
nghĩa là TDTT. Vì thế, các tác giả cho rằng GDTC là một trong những hình
thức hoạt động cơ bản có định hướng rõ của TDTT trong xã hội, một quá
trình có tổ chức để truyền thụ và tiếp thu những giá trị của TDTT trong hệ
thống giáo dục và giáo dưỡng chung (Chủ yếu trong các nhà trường; trong
quá trình GDTC ngoài giáo dưỡng thể chất thì việc giáo dục phẩm chất đạo
đức và phong cách TDTT cho người học cũng hết sức quan trọng [29, tr.32].
Cũng theo hai tác giả trên thì đặc trưng cơ bản và chuyên biệt nhất của
giáo dưỡng thể chất là dạy học vận động và sự tác động có chủ đích dẫn đến
sự phát triển theo định hướng các tố chất thể lực nhằm nâng cao sức vận động
của con người. Từ đó hai tác giả đã đưa ra định nghĩa: “GDTC là một loại
hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học vận động (động tác) và phát
triển có chủ đích các tố chất vận động của con người” [29, tr.24].

Từ cách tiếp cận trên chúng tôi nhận thấy, giáo dục thể chất là hoạt
động được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch với chức năng chuyên

12


biệt nhằm phát triển các kỹ năng vận động, các tố chất vận động và phát
triển thể lực của con người.
Mục tiêu của GDTC là nhằm phát triển các kỹ năng vận động, các tố
chất vận động và phát triển thể lực cho người học.
GDTC là một lĩnh vực TDTT xã hội với nhiệm vụ là: “Phát triển toàn
diện các tố chất thể lực, và trên cơ sở đó phát triển các năng lực thể chất, bảo
đảm hoàn thiện thể hình, củng cố, tăng cường sức khoẻ, hình thành theo hệ
thống và tiến hành hoàn thiện đến mức cần thiết các kỹ năng và kỹ xảo quan
trọng cho cuộc sống”.
Chủ thể GDTC là các giáo viên, huấn luyện viên,... mỗi người tham gia
vào hoạt động này cũng là chủ thể GDTC của chính bản thân mình.
Đối tượng GDTC là thành viên của các lớp học hoặc các tổ chức, các
cá nhân tham gia rèn luyện thể chất cùng các bài tập.
Phương pháp, hình thức GDTC được thực hiện rất đa dạng, phong phú;
tùy từng trường hợp cụ thể mà áp dụng các phương pháp, hình thức phù hợp.
* Hoạt động giáo dục thể chất ở trường trung học cơ sở
Giáo dục THCS nằm trong hệ thống giáo dục phổ thông, là cấp học tiếp
tục củng cố và phát triển những kết quả giáo dục tiểu học. Học sinh được
trang bị học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở, những hiểu biết ban đầu về kỹ
thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, trung cấp chuyên nghiệp, học
nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Giáo dục THCS được thực hiện trong 4 năm từ lớp 6 đến lớp 9; bao
gồm những học sinh đã hoàn thành chương trình tiểu học, có độ tuổi trong
khoảng 11-15 tuổi. Học sinh THCS được học 12 môn từ lớp 6 đến lớp 9;

riêng môn hóa học chỉ học ở lớp 8 và lớp 9; các môn học tự chọn bao gồm:
Tin học, ngoại ngữ 2 và nghề phổ thông. Trong chương trình giáo dục THCS
có kế hoạch thời gian cho các hoạt động giáo dục tập thể; giáo dục ngoài giờ

13


lên lớp; giáo dục hướng nghiệp. Chương trình thể dục chính khóa được phân
phối đều từ lớp 6 đến lớp 9, mỗi tuần 2 tiết.
Theo Điều lệ Trường THCS, trường trung học phổ thông và trường phổ
thông có nhiều cấp học, trường THCS có nhiệm vụ: Tổ chức giảng dạy, học
tập và các hoạt động giáo dục khác của chương trình giáo dục phổ thông;
quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên; tham gia tuyển dụng và điều động giáo
viên, cán bộ, nhân viên; tuyển sinh và tiếp nhận học sinh, vận động học sinh
đến trường, quản lý học sinh theo quy định của Bộ GD&ĐT; thực hiện kế
hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi cộng đồng; huy động, quản lý, sử dụng
các nguồn lực cho hoạt động giáo dục. Nhà trường phối hợp với gia đình học
sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục; quản lý, sử dụng và bảo vệ
cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy định của nhà nước; tổ chức cho giáo
viên, nhân viên, học sinh tham gia hoạt động xã hội; tự đánh giá chất lượng
giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng giáo dục của cơ quan có thẩm
quyền kiểm định chất lượng giáo dục; thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
khác theo quy định của pháp luật.
GDTC với tư cách là một mặt giáo dục giữa chức năng của “khoa học
giáo dục cơ thể, rèn luyện cơ thể” nhằm mục đích bảo vệ, bồi dưỡng sức khỏe
cho học sinh.
Như vậy, GDTC ở trường THCS là hoạt động có mục đích, có tổ chức,
có kế hoạch để hình thành, phát triển ở học sinh những phẩm chất tốt về thể
chất, các chức năng chuyên biệt, các kỹ năng, kỹ xảo vận động, tạo điều kiện
cho các em có sức khoẻ để hoàn thành mục tiêu, yêu cầu học tập, rèn luyện

và phát triển con người toàn diện.
- Vai trò của GDTC đối với sự phát triển nhân cách học sinh THCS.
GDTC là một trong mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước
“Nhằm GD&ĐT thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả

14


năng làm việc, và kéo dài tuổi thọ của con người”.
GDTC cũng như các loại hình giáo dục khác, là quá trình sư phạm với
đầy đủ đặc điểm của nó. Tuy nhiên, GDTC chia thành hai mặt tương đối độc
lập: Dạy học động tác (giáo dưỡng thể chất) và giáo dục tố chất thể lực. GDTC
được gắn liền với giáo dục trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động.
GDTC giữ vai trò quan trọng trong thực hiện mục tiêu giáo dục phổ
thông nói chung và giáo dục THCS nói riêng: “Mục tiêu của giáo dục phổ
thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học
sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và
bảo vệ tổ quốc”[24].
- Mục đích GDTC trong trường THCS:
Thông qua GDTC giúp học sinh giữ gìn vệ sinh thân thể và môi trường;
phòng chống bệnh tật; từng bước hình thành hình thái, cấu trúc và chức năng
cơ thể phát triển nhịp nhàng, hài hòa, cân đối toàn diện theo đúng quy luật
sinh lý, lứa tuổi và giới tính; tạo điều kiện để năng lực trí tuệ và vận động
phát triển đến mức cao ở từng lứa tuổi thông qua luyện tập và các hoạt động
ngoại khóa; bồi dưỡng tinh thần lạc quan, nghị lực kiên cường, ý chí dũng
cảm, thích nghi dễ dàng với môi trường sống, kể cả những điều kiện khắc
nghiệt; góp phần phát triển con người toàn diện, chuẩn bị cho học sinh vốn
hiểu biết cơ bản vận dụng vào cuộc sống lao động, sáng tạo và bảo vệ Tổ

quốc xã hội chủ nghĩa.
- Yêu cầu GDTC cho học sinh ở trường THCS:
Về kiến thức: Biết phương pháp đơn giản rèn luyện sức nhanh, sức
mạnh, sức bền. Hiểu một số chiến thuật, luật thi đấu đá cầu và môn tự chọn;
có kiến thức sơ bộ về đặc điểm cấu tạo, sinh lý cơ thể người; bước đầu hiểu

15


được cơ sở khoa học của khẩu phần ăn và các biện pháp vệ sinh, rèn luyện cơ
thể và phòng chống bệnh tật.
Về kỹ năng: Thực hiện cơ bản đúng các kỹ năng đội hình đội ngũ, bài
thể dục phát triển chung liên hoàn, kỹ thuật chạy nhanh 60m, chạy địa hình tự
nhiên; nhảy xa kiểu “ngồi”; nhảy cao kiểu “bước qua”, một số bài tập kỹ thuật
đá cầu và môn thể thao tự chọn bước đầu có kỹ năng rèn luyện sức khỏe và
các biện pháp vệ sinh phòng chống bệnh tật.
Về thái độ: Tích cực tham gia các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội
phù hợp với khả năng; có ý thức rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh bảo vệ
môi trường.
- Nhiệm vụ của GDTC trong trường THCS:
Nhiệm vụ trọng tâm của GDTC trong nhà trường là phát triển con
người toàn diện: Đức - Trí - Thể - Mĩ. Đảm bảo cho cơ thể không ốm đau, lớn
lên theo đúng độ tuổi, có sức chống đỡ những ảnh hưởng có hại đến từ môi
trường xung quanh, chuẩn bị tốt các phẩm chất vận động toàn diện. Hình
thành trong học sinh những thói quen gìn giữ vệ sinh, rèn luyện thân thể, lao
động vừa sức, tổ chức sinh hoạt có khoa học trên cơ sở nắm vững những kiến
thức khoa học cơ bản và những kỹ năng, kỹ xảo chủ yếu. Góp phần phát hiện
năng khiếu, tạo điều kiện bồi dưỡng nhân tài thể dục, thể thao cho đất nước.
Giáo dục phẩm chất đạo đức, ý chí và thẩm mĩ cùng các mặt giáo dục khác
thúc đẩy phát triển trí lực cho học sinh.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên đây, tổ chức hoạt động GDTC trong nhà
trường THCS cần nắm vững mấy nguyên tắc sau đây:
Phải nhằm mục tiêu chính là nâng cao sức khỏe cho học sinh;
Phải gắn mục tiêu chính với yêu cầu học tập, rèn luyện của học sinh;
Phải phát triển đồng thời cả thể chất và tinh thần, tuổi nào cũng rèn
luyện các tố chất cơ thể;

16


Phải lôi cuốn mọi thành viên giáo dục trong xã hội vào việc GDTC cho
học sinh.
- Nội dung GDTC trong trường THCS:
Nội dung GDTC cho học sinh THCS được xác định trên cơ sở phân
tích tác dụng của các nhân tố hàng ngày ảnh hưởng đến cơ thể học sinh. Theo
đó, nội dung GDTC trong trường THCS bao gồm:
Vệ sinh, TDTT, các chế độ sinh hoạt (học tập, lao động, nghỉ ngơi, vui
chơi) và dinh dưỡng. Giáo dục cho học sinh có tình cảm, ý thức, hiểu biết vệ
sinh tối thiểu; tạo điều kiện cho học sinh học tập và lao động hợp vệ sinh.
Tổ chức sinh hoạt hợp lý cho học sinh; nghiêm chỉnh chấp hành các qui
chế giảng dạy và học tập về khối lượng, nội dung chương trình về thời gian
quy định bảo đảm vừa sức.
Bồi dưỡng học sinh trở thành người tuyên truyền vận động gia đình cải
tạo môi trường không khí, nước sạch; biết tự bảo vệ sức khỏe cá nhân, đề
phòng các bệnh thông thường.
Nhà trường làm tốt công tác GDTC; tổ chức giảng dạy thể dục, thể thao
theo đúng chương trình quy định. Hướng dẫn học sinh rèn luyện ngoài giờ
bằng cách thể dục buổi sáng, thể dục trước giờ học, thể dục giữa giờ, chơi các
môn bóng... Mở rộng thi đấu để kiểm tra kết quả rèn luyện thân thể, dần dần
tiêu chuẩn rèn luyện thân thể sẽ được áp dụng để làm chỉ tiêu đánh giá sức

khỏe của học sinh.
* Đặc điểm GDTC cho học sinh các trường THCS:
Học sinh THCS nằm trong lứa tuổi từ 11 đến 14, đây là lứa tuổi các bộ
phận trong cơ thể đang phát triển mạnh. Các bài tập vận động hợp lý có ý
nghĩa rất lớn đến quá trình phát triển hoàn thiện một cơ thể cân đối hài hòa.
Không những phát triển về thể chất mà các em ở giai đoạn này còn đang hoàn
thiện cả về nhận thức. Do vậy ngoài việc hình thành ở các em những kiến

17


thức về vệ sinh cá nhân và bảo vệ môi trường thì GDTC cho các em có vai trò
rất quan trọng, cần được thực hiện một cách khoa học và phù hợp. GDTC cần
tạo hứng thú cho học sinh, giao khối lượng luyện tập và cường độ luyện tập
cho phù hợp lứa tuổi, giới tính và trình độ luyện tập.
Để GDTC cho học sinh THCS có hiệu quả, các hoạt động GDTC của
nhà trường phải được các em yêu thích, các bài tập cùng với khối lượng và
cường độ được áp dụng phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi. Do
đang ở trong độ tuổi sự phát triển của cơ thể diễn ra mạnh mẽ, có tính quyết
định đến phát triển thể chất của các em ở lứa tuổi trưởng thành sau này. Nhiều
những phản xạ có điều kiện, năng lực tổng hợp cao, phát triển khả năng tư
duy, tiếp thu nhanh các kỹ xảo vận động quan trọng, hình thành các kỹ năng
vận động hình thành. Đây cũng là thời kỳ tâm, sinh lý có sự phát triển mạnh
mẽ, có những thay đổi hết sức quan trọng (đột biến) về các chức năng trong
cơ thể như: Hệ thần kinh, tâm lý, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ vận động, hệ
sinh dục... GDTC phải tác động tích cực, chủ động tận dụng thời cơ thúc đẩy
quá trình phát triển của các em nhanh, mạnh và hoàn thiện hơn, đôi khi còn
giúp các em chữa được một số bệnh tật do bẩm sinh hoặc do điều kiện sống
đã tạo nên.
Về tâm lý, học sinh THCS còn mang nặng đặc điểm tâm lý nhận thức

và phương pháp học ở tiểu học; nhất là những lớp đầu cấp (lớp 6, lớp 7). Lứa
tuổi 13-15, học sinh đã biết phân biệt giới tính, nhất là học sinh nữ, cho nên
sự chững chạc hơn của em nữ thường rõ ràng hơn các em nam, thể hiện qua
phong cách đi đứng, giao tiếp, ứng xử, đặc biệt giao tiếp giữa học sinh nam và
nữ không còn tự nhiên như ở bậc tiểu học. Trong giai đoạn này, học sinh dễ
hình thành và tiếp thu nhanh hơn kỹ năng, kỹ xảo vận động phù hợp với động
tác kỹ thuật, kỹ năng cơ bản cần được lặp đi lặp lại nhiều lần.
Hệ vận động: Do còn đang ở giai đoạn phát triển và trưởng thành nên

18


thành phần của xương có sự thay đổi lớn, hàm lượng các chất vô cơ nhiều,
thành phần nước, sụn xương và độ dẻo của xương giảm đi: Diện khớp tương
đối dày, các bao khớp nhỏ và dài cho phép biên độ hoạt động của khớp lớn
hơn người trưởng thành, song độ vững chắc của khớp tương đối yếu nên rễ bị
trật khớp. Khi giảng dạy GDTC cần cần chú ý sử dụng lượng vận động một
cách hợp lý, thích hợp, thông thường nên sử dụng lượng vận động nhỏ và các
bài tập các tần xuất vừa phải. Nếu dùng khối lượng vận động quá lớn sẽ dẫn
đến xương cốt thoái hoá sớm, ảnh hưởng đến sự phát triển chiều cao của cơ
thể. Trong lứa tuổi này, các nhóm cơ đều phát triển, điều này giúp cho học
sinh thực hiện được nhiều loại động tác khác nhau. Song sự phát triển của cơ
(độ dài và thiết diện) còn chưa đồng bộ. Khi các cơ gia tăng nhiều về chiều
dài thì sức mạnh và sức bền của cơ bị hạn chế. Do vậy, ở giai đoạn này các
em thường vụng về, động tác đôi khi còn lóng ngóng. Các bài tập GDTC cần
chú trọng phát triển sức nhanh, sự khéo léo linh hoạt.
Hệ tuần hoàn: Sự tạo máu ở lứa tuổi này rất quan trọng nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển của cơ thể, do vậy lượng hồng cầu và tiểu cầu tương đương
với người bình thường. Huyết áp và mạnh đập tăng cao do tim phát triển, các
tuyến nội tiết (đặc biệt là tuyến giáp) phát triển mạnh trong khi đó các huyết

quản lại phát triển chậm. Các nhà sinh lý gọi đây là “hiện tượng huyết áp cao
thanh niên” thường gặp ở những em phát triển mạnh về chiều cao. Đặc điểm
của hiện tượng này là huyết áp tối đa tăng (không vượt quá 150mk/Hg), huyết
áp tối thiểu bình thường. Hiện tượng này bắt đầu từ lứa tuổi 11-12 và tăng dần
theo lứa tuổi, cao nhất ở tuổi 15-16 sau đó giảm dần và ổn định. Khi hướng
dẫn tập luyện cho đối tượng học sinh, người giáo viên thể chất cần phải nắm
vững đặc điểm trên để phân biệt với các trường hợp bệnh lý.
Hệ hô hấp: Ở lứa tuổi này dung tích nhỏ, nhịp thở tăng nhanh, khả
năng nợ oxy, năng lực hoạt động yếm khí thấp hơn người thường. Do vậy, khi

19


giảng dạy kiến thức chạy bền cần quan tâm dạy cách thở trong khi chạy cho
học sinh.
Trong sinh hoạt, khi lao động thì sự tiêu hao năng lượng tăng, đến một
lúc nào đó xuất hiện mệt mỏi, sau đó mệt mỏi tăng dần và dẫn đến khả năng
làm việc giảm dần. Chỉ sau khi nghỉ ngơi và bổ sung “nguyên liệu” thì khả
năng làm việc của cơ thể dần dần khôi phục. Tuy nhiên qua nhiều kết quả
nghiên cứu khoa học, người ta thấy sự khôi phục không dừng lại khi đạt mức
ban đầu, mà còn có giai đoạn hồi phục vượt mức trong một khoảng thời gian
nhất định.

Sơ đồ của GX V Phôbơn và N.N Iacôplép
Đặc điểm trên có ý nghĩa đặc biệt trong GDTC, bằng một loạt các bài
tập được tính toán khoa học phù hợp với sức khoẻ của mỗi người theo chế độ
phù hợp chặt chẽ giữa tập luyện với nghỉ ngơi và ăn uống hợp lý thì sức khoẻ
của người tập không ngừng được nâng cao. Nếu buổi tập thứ 2 tiến hành cách
buổi tập thứ nhất quá xa hoặc những buổi tập có khối lượng quá nhỏ thì kết
quả của quá trình tập luyện cũng hạn chế. Do vậy, tập luyện thường xuyên là

yêu cầu cần thiết đối với việc GDTC cho học sinh trong nhà trường. Việc này
liên quan đến thời lượng của môn học thể dục trong thời gian chính khoá,
hoạt động ngoại khoá và vấn đề tự giác rèn luyện hàng ngày của học sinh.
Người giáo viên thể chất không những cần dạy tốt giờ học nội khoá mà còn
cần làm cho học sinh ham thích luyện tập TDTT trên cơ sở phù hợp với điều
kiện thực tế của nhà trường, gia đình và xã hội. Nghỉ ngơi và nạp "nhiên liệu"
tiêu hao hồi phục.

20


Trong trường THCS, việc GDTC cho học sinh được thực hiện bằng
nhiều hình thức hoạt động (cả trong chương trình chính khoá và ngoại khoá).
Hoạt động ngoại khoá gồm: Luyện tập, thi đấu thể thao, các hoạt động vệ sinh
thân thể, vệ sinh môi trường, vệ sinh ăn uống, phòng chống bệnh tật...
Những hoạt động trên được thực hiện ở từng trường THCS phụ thuộc
vào việc phân phối chương trình của các khối lớp chỉ có 2 tiết/tuần và thực
hiện thường xuyên các tiết thể dục giữa giờ. Chính vì vậy mà thời gian tập
luyện tiêu hao năng lượng đến khi nghỉ ngơi để phục hồi không được thường
xuyên, liên tục nên ảnh hưởng đến việc tiếp thu về kiến thức, kĩ năng và phát
triển thể lực. Do vậy, CBQL, đặc biệt là giáo viên trực tiếp giảng dạy cần xây
dựng kế hoạch hoạt động ngoại khóa xen kẽ trong nhà trường và tư vấn cho
học sinh các bài tập ở nhà và tham gia tập luyện, thi đấu các môn thể thao phù
hợp để đảm bảo tính hệ thống, thường xuyên, liên tục và khoa học.
1.1.2. Quản lý hoạt động giáo dục thể chất ở trường trung học cơ sở
Quản lý gắn liền với cuộc sống, với hoạt động của con người, nó gắn
liền với quá trình kinh tế - xã hội. Trên thực tế, đã nảy sinh nhiều quan điểm
khác nhau về quản lý. Những quan niệm này có từng giai đoạn lịch sử ra đời
khác nhau và gắn với mỗi tổ chức hoạt động trong một lĩnh vực, thậm chí với
mỗi quá trình trong từng tổ chức.

Theo “Đại bách khoa toàn thư”(Liên Xô cũ): “Quản lý là chức năng
của những hệ thống có tổ chức với những bản chất khác nhau, nó bảo toàn
cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những
chương trình, mục đích hoạt động”…
Trong các giáo trình tài liệu về quản lý, khi trình bày khái niệm quản
lý, ngoài việc trích dẫn những tư tưởng của các tác giả kinh điển của lý luận
chủ nghĩa Mác-Lênin, các tác giả thường dẫn ra quan điểm của một số tác giả
nước ngoài như:

21


Theo tác giả Taylor F.W, nhà quản lý người Mỹ đại diện cho thuyết
“Quản lý theo khoa học” coi: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn
người khác làm và sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một
cách tốt và rẻ nhất.
Tác giả Henri Fayol đại diện cho thuyết quản lý hiện đại người đặt nền
móng cho lý luận tổ chức cổ điển: “Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ
huy, phối hợp và kiểm tra”.
Khi xem xét quản lý với tư cách là một hoạt động, một lao động tất yếu
trong các tổ chức của con người thì “Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ
chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý về các mặt
chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính
sách, các nguyên tắc, các phương pháp, biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi
trường và điều kiện cho sự phát triển đối tượng”.
Mặc dù cách diễn đạt có sự khác nhau xong các quan niệm trên đều có
điểm chung đó là: Quản lý là cách thức tổ chức - điều khiển (cách thức tác
động) của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm thực hiện có hiệu quả
mục tiêu mà tổ chức đã đề ra.
Quá trình quản lý chỉ diễn ra khi có hai yếu tố: chủ thể quản lý và đối

tượng quản lý. Chủ thể quản lý là người quản lý, còn đối tượng quản lý bao
gồm các nguồn lực, nội dung quản lý, mục tiêu, kế hoạch, điều kiện và
phương tiện quản lý. Các nguồn lực quản lý trong trường học, bao gồm:
nguồn nhân lực (giáo viên, nhân viên, các nhà quản lý); nguồn tài lực (các
nguồn đầu tư của Nhà nước, thu nhập để lại); nguồn vật lực (tài sản cố định,
thiết bị, bằng phát minh sáng chế….); nguồn thông tin (các báo cáo nghiên
cứu khoa học, hệ thống giáo trình). Trong các nguồn lực trên, nguồn nhân lực
con người là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của một nhà trường.

22


Quá trình quản lý bao gồm các khâu: dự báo, lập kế hoạch, thực hiện,
điều phối, chỉ đạo điều hành và kiểm tra đánh giá. Trong quá trình quản lý thì
chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động quản lý nhằm dẫn dắt đối
tượng quản lý đi đến mục tiêu. Chủ thể có thể là một người, một bộ máy quản
lý gồm nhiều người. Đối tượng quản lý tiếp nhận các tác động của chủ thể
quản lý. Quản lý được thực hiện thông qua các chức năng: Kế hoạch hoá, tổ
chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Các nhà nghiên cứu quản lý học TDTT ở nước ta tiếp cận quản lý
GDTC theo hướng hoạt động và cho rằng, đó là hoạt động có ý thức, có tổ
chức nhằm không ngừng phát triển thể chất cho học sinh, sinh viên, góp phần
đào tạo con người phát triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong nhà trường phổ thông, dạy học môn GDTC giữ vai trò quan
trọng trong các hoạt động GDTC. Quản lý hoạt động GDTC là nội dung quan
trọng trong quản lý ở trường THCS hiện nay. GDTC thực hiện cả chức năng
giáo dục (trang bị kiến thức, phẩm chất, năng lực) và chức năng phát triển
(phát triển phẩm chất, năng lực và thể chất). Giáo viên không chỉ là chủ thể
của mọi hoạt động GDTC mà còn là người điều khiển quá trình học tập, rèn

luyện thể chất của học sinh. Nhiệm vụ chính của giáo viên là hoạt động giảng
dạy, đó là việc truyền đạt kiến thức chung về GDTC cùng các động tác rèn
luyện thể lực cần trang bị cho học sinh. Đồng thời, giáo viên có nhiệm vụ
phải thường xuyên học tập, rèn luyện, bồi dưỡng, tu dưỡng để nâng cao trình
độ về mọi mặt nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động dạy học nói
chung, dạy học môn GDTC nói riêng của mình.
Theo tác giả Vũ Đức Thu, “Quản lý GDTC là sự tác động liên tục
mang tính mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý
nhằm thực hiện các mục tiêu GDTC đã đề ra” [26; tr.27].

23


Từ cách tiếp cận trên cho thấy, Quản lý hoạt động GDTC cho học sinh
các trường THCS là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản
lý đến toàn bộ các mặt hoạt động GDTC cho người học, nhằm góp phần thực
hiện mục tiêu giáo dục con người phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể, mỹ.
Mục đích quản lý hoạt động GDTC ở các trường THCS là nhằm bảo
đảm cho hoạt động này diễn ra đúng kế hoạch và đạt kết quả ngày càng cao,
góp phần thực hiện tốt mục tiêu quản lý và nhiệm vụ giáo dục - đào tạo, nhất
là nhiệm vụ rèn luyện thể chất cho học sinh của nhà trường.
Chủ thể quản lý hoạt động GDTC ở các trường THCS là Hiệu trưởng,
ban Giám hiệu nhà trường, tổ giáo viên GDTC,... và chính bản thân đội ngũ
giáo viên. Trong các lực lượng quản lý hoạt động GDTC ở trường THCS thì
hiệu trưởng là chủ thể quản lý chính; là người chịu trách nhiệm cao nhất trước
cấp ủy, ban Giám hiệu, chính quyền địa phương, ngành giáo dục, trước nhân
dân,... về chất lượng giáo dục nói chung và GDTC cho học sinh trong nhà
trường nói riêng.
Đối tượng quản lý hoạt động giáo dục thể ở các trường THCS là nội
dung và các hoạt động GDTC cho học sinh được quy định trong chương trình

khung của Bộ GD&ĐT.
Nội dung quản lý hoạt động GDTC ở các trường THCS bao gồm thực
chất là quản lý việc thực hiện tốt các thành tố của quá trình dạy học, các
nhiệm vụ quyết định đến chất lượng dạy và học của giáo viên thể chất và học
sinh trong nhà trường; đó là việc cụ thể hoá mục tiêu dạy học, mục tiêu
GDTC, thông qua: quản lý thực hiện tốt chươngviệc xây dựng và thực hiện kế
hoạch GDTC cho học sinh, quản lý thực hiện chương, trình, nội dung, kế
hoạch; tổ chức hoạt động GDTC; đội ngũ giáo viên; hoạt động học tập, rèn
luyện thể chất của học sinh. Đồng thời quản lý tốt cơ sở vật chất kỹ thuật bảo

24


đảm; hoạt động kiểm tra, đánh kết quả hoạt động giảng dạy môn GDTC của
giáo viên, hoạt động học tập, rèn luyện thể chất của học sinh.
Phương pháp quản lý hoạt động GDTC ở các trường THCS rất phong
phú, đa dạng, bao gồm toàn bộ những cách thức, biện pháp tác động, điều
khiển của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng hệ thống công cụ,
phương tiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã xác định.
Việc xác định phương pháp quản lý hoạt động GDTC phải bảo đảm
tính khoa học, thống nhất, khả thi, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của giáo
viên, tăng cường hiệu quả quản lý nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, trong đó
phương pháp quản lý hành chính, phương pháp giáo dục - tâm lý, phương
pháp kích thích là những phương pháp chủ đạo, được sử dụng phổ biến.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục thể chất ở trường trung
học cơ sở
1.2.1. Quản lý việc xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục thể chất
Kế hoạch GDTC là văn bản rất quan trọng của nhà quản lý giáo dục ở
các trường THCS nhằm đạt tới các mục tiêu của hoạt động quản lý giáo dục
nói chung và quản lý hoạt động GDTC nói riêng. Đồng thời, còn là cơ sở cho

CBQL các cấp, các lực lượng liên quan kịp thời điều chỉnh nội dung, thời
lượng tổ chức các hoạt động GDTC cho học sinh, chống tình trạng quá tải,
dồn ép dẫn đến hiệu quả không cao.
Việc quản lý hoạt động GDTC dựa theo kế hoạch là thể hiện sự đề cao,
tôn trọng tính chủ động của giáo viên và học sinh, thể hiện sự quản lý nghiêm
túc của CBQL. Tuy nhiên, trong quản lý cũng cần có sự điều chỉnh linh hoạt
khi hoàn cảnh thực tế thay đổi ảnh hưởng đến việc hoàn thành kế hoạch.
CBQL các nhà trường cần yêu cầu giáo viên xây dựng kế hoạch cho hoạt
động giáo dục cụ thể, xác định rõ mục đích, nội dung hoạt động, lực lượng
tham gia, các chỉ tiêu cần đạt được,… Bên cạnh đó cần quản lý việc tổ chức

25


×