Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.51 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG NHUNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CHO NGƢỜI NGHÈO TỪ THỰC TIỄN
QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG NHUNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CHO NGƢỜI NGHÈO TỪ THỰC TIỄN
QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Võ Khánh Vinh


HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho
người nghèo từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” là công trình
nghiên cứu của riêng cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của GS.TS Võ Khánh
Vinh. Các tài liệu, số liệu sử dụng là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả

Nguyễn Hồng Nhung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH ............................................................................................................. 10
1.1. Khái quát về chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo .................... 10
1.2. Đặc điểm, vai trò và nội dung thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý ..... 15
1.3. Quy trình thực hiện các hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo .... 21
1.4. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người
nghèo ............................................................................................................... 30
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO Ở QUẬN THANH XUÂN, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI................................................................................................. 38
2.1. Những yếu tố tác động đến thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho
người nghèo quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội ........................................ 38
2.2 Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo
tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội ........................................................ 42
2.3 Kết quả thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo tại quận

Thanh Xuân, thành phố Hà Nội ...................................................................... 51
2.4 Đánh giá kết quả thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo
tại quận Thanh Xuân và nguyên nhân ............................................................. 55
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO TỪ
THỰC TIỄN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............... 64
3.1 Quan điểm tăng cường thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người
nghèo ............................................................................................................... 64
3.2. Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người
nghèo ............................................................................................................... 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Trợ giúp pháp lý

TGPL

Quản lý nhà nước

QLNN

Công bằng xã hội

CBXH

Kinh tế - xã hội

KT - XH


Tư vấn pháp luật

TVPL

Chính trị - xã hội

CT - XH

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

UBMTTQ

Mặt trận Tổ quốc

MTTQ

Hội đồng nhân dân

HĐND

Ủy ban nhân dân

UBND


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ và CBXH,
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về kinh tế, văn

hoá, xã hội nhằm khắc phục những tiêu cực vốn có của nền kinh tế thị trường.
Cùng với việc đẩy mạnh cải cách kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Nhà
nước Việt Nam đã thông qua Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói
giảm nghèo, trong đó có chính sách TGPL cho người nghèo và đối tượng
chính sách. Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
734/TTg về việc thành lập tổ chức Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách. Từ đó đến nay, trên cơ sở Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006
và các văn bản hướng dẫn thi hành, công tác TGPL đã phát triển cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu, đạt được những kết quả quan trọng.
Thực tiễn tư pháp và bảo đảm quyền con người trên thế giới đã cho
thấy, hoạt động TGPL có tầm quan trọng đặc biệt trong việc bảo đảm và hiện
thực hóa các quyền con người. Ở Việt Nam thì điều này rất cần thiết, nhất là
trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
mà người nghèo, đặc biệt là người nghèo ở khu vực đô thị đang ngày càng gia
tăng. Với tính chất là hoạt động bổ trợ tư pháp, TGPL cung cấp dịch vụ pháp
lý miễn phí cho người nghèo và các đối tượng khác theo quy định của pháp
luật, nhằm giúp họ bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao
hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào
việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm CBXH, phòng
ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.

1


Trong những năm qua, chính sách TGPL cho người nghèo được triển
khai thực hiện trên khắp các vùng miền của đất nước. Ở mỗi địa phương, việc
thực hiện chính sách có sự điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với đặc điểm và tình
hình riêng của địa phương đó. Trong đó, quận Thanh Xuân là một trong
những quận nội thành Hà Nội luôn dẫn đầu trong công tác thực hiện chính

sách TGPL cho người nghèo. Hiện nay, công tác thực hiện chính sách TGPL
cho người nghèo của quận Thanh Xuân đã mang lại một số kết quả cụ thể
như: thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; luôn
theo dõi sát sao đối tượng;… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu thì việc
thực hiện chính sách TGPL cho người nghèo trên địa bàn quận vẫn còn tồn tại
những hạn chế nhất định như: công tác kiểm tra còn ít; thiếu sự phối hợp giữa
các bên liên quan trong việc thực hiện chính sách;…
Với mong muốn đưa ra giải pháp góp phần tăng cường thực hiện chính
sách TGPL cho người nghèo ở khu vực đô thị nói chung và quận Thanh Xuân
nói riêng, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý
cho người nghèo từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” làm
đề tài luận văn thạc sỹ ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chính sách TGPL cho người nghèo là một chủ đề thu hút được nhiều
sự quan tâm của các nhà khoa học cũng như các nhà quản lý. Điều đó thể hiện
qua các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau.
2.1. Những công trình nghiên cứu về giáo dục, trợ giúp pháp lý
Tiêu biểu trong các công trình này là cuốn “Trợ giúp pháp lý ở Việt Nam”
(Nxb Chính trị Quốc gia, 2008) của tác giả Tạ Thị Minh Lý (chủ biên) đã khái
quát được các kiến thức cơ bản về lĩnh vực TGPL tổ chức thực hiện trợ giúp
hình thức và lĩnh vực trợ giúp, câu lạc bộ trợ giúp, quỹ trợ giúp, cơ quan quản lý
nhà nước về trợ giúp, ngân sách trợ giúp, hợp tác về trợ giúp và các kết quả đạt
được sau 10 năm cùng các khó khăn và định hướng phát triển TGPL.
2


Luận án tiến sĩ Luật học “Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Huỳnh Huyện đã trình bày cơ sở lí luận thực hiện pháp luật về TGPL
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; nghiên cứu thực

trạng cùng các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về TGPL
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam;…
Cuốn “Nghiệp vụ tổ chức một số hình thức phổ biến, giáo dục pháp
luật” của tác giả Nguyễn Tất Viễn (chủ biên) đã giới thiệu một số hình thức,
phương pháp kỹ năng chủ yếu thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật: tuyên truyền miệng, tổ chức thi tìm hiểu pháp luật, phổ biến, giáo dục
pháp luật thông qua sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật, thông qua hoạt động
TGPL và hoạt động tư vấn pháp luật,…
2.2. Công trình nghiên cứu về trợ giúp pháp lý cho người nghèo
Cuốn “Công tác trợ giúp pháp lý nhà nước cho người nghèo, đối tượng
chính sách thành phố Hà Nội” (Nxb Hà Nội, 2006) của tác giả Trần Thị Quốc
Khánh (chủ biên) đã khái quát về kết quả và phương hướng tổ chức hoạt động
TGPL nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội, tổng hợp các văn bản chỉ đạo
của Trung ương và thành phố Hà Nội về công tác TGPL nhà nước từ năm
2000 – 2005,…
Kỷ yếu Hội thảo “Trợ giúp pháp lý cho người yếu thế” do Viện nghiên
cứu chính sách pháp luật và phát triển phối hợp với Đại sứ quán Hoa Kỳ tại
Việt Nam tổ chức với các bài tham luận tập trung vào phân tích thực trạng
hoạt động TGPL tại Việt Nam, các vấn đề quan trọng, những tồn tại khó khăn
trong hoạt động TGPL, đặc biệt là TGPL cho người yếu thế. Các thành viên
tham gia hội thảo cũng chia sẻ những quan điểm, kinh nghiệm thực tiễn, đặt
ra những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động TGPL.

3


Ngoài ra, vấn đề thực hiện chính sách TGPL cho người nghèo còn được
bàn luận qua các bài bào, tạp chí. Cụ thể: tác giả Đoàn Thị Ngọc Hải với bài
“Vai trò của trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lai Châu trong công
tác tuyên truyền thi hành pháp luật” (Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 8

(209)/2009); tác giả Phùng Ngọc Đức với bài “Trợ giúp pháp lý với hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật” (Số chuyên đề: Phổ biến, giáo dục pháp
luật, 2006, tạp chí Dân chủ và pháp luật); tác giả Nguyễn Hoàng Anh với bài
viết “Một số suy nghĩ về hoạt động của các trung tâm trợ giúp pháp lý hiện
nay” (số 11(164)/2005, tạp chí Dân chủ và pháp luật; bài “Để nâng cao hiệu
quả công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo về đối tượng chính sách” của
tác giả Nguyễn Huy Liệu (Số 312/2007, Tạp chí Lao động và xã hội);…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu chính
sách TGPL nói chung và chính sách TGPL cho người nghèo nói riêng, làm rõ
được nhiều nội dung như: khái niệm TGPL, người nghèo; quan điểm, đường lối
của Đảng trong thực hiện chính sách TGPL cho người nghèo; các vấn đề về thực
tiễn và các giải pháp, phương hướng để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
TGPL, v.v. Có thể khẳng định dù đã có nhiều công trình nghiên cứu đi sâu phân
tích chính sách TGPL cho người nghèo nói chung và các địa phương nói riêng,
nhưng cho đến nay chưa có một nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về thực
hiện chính sách TGPL cho người nghèo từ thực tiễn quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Vì vậy, đề tài không trùng với các công trình đã công bố, đã biết.
Để thực hiện luận văn, tác giả đã kế thừa và tiếp thu có chọn lọc một số
quan điểm, nội dung trong các công trình khoa học có liên quan đến đề tài
như: khái niệm, nội dung, vai trò của chính sách TGPL cho người nghèo, v.v.
Đối chiếu với mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài xác định cần tiếp tục
làm rõ một số nội dung như cơ sở lý luận về chính sách TGPL cho người
nghèo; thực trạng thực hiện chính sách TGPL trên địa bàn quận Thanh Xuân,
4


Hà Nội; giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thực hiện chính sách này ở
những vùng đô thị từ thực tiễn quận Thanh Xuân, Hà Nội.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu

Làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách TGPL cho người
nghèo; qua khảo sát, đánh giá thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng đến việc
thực hiện chính sách TGPL ở quận Thanh Xuân, luận văn đề xuất các giải
pháp nhằm tăng cường thực hiện chính sách TGPL cho người nghèo từ thực
tiễn quận Thanh Xuân, Hà Nội.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu, luận văn xác định 3 nhiệm vụ
trọng tâm sau:
Thứ nhất, làm rõ những khái niệm cơ bản liên quan đến thực hiện chính
sách TGPL cho người nghèo; các quan điểm, chính sách của Đảng, quy định
của Nhà nước về thực hiện chính sách TGPL cho người nghèo.
Thứ hai, nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách TGPL cho người
nghèo từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách TGPL cho người nghèo trong thời gian tới từ thực tiễn quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách TGPL cho
người nghèo từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: vấn đề thực hiện chính sách TGPL cho người nghèo ở
khu vực đô thị.
5


- Về không gian: quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: từ năm 2013 – 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng để luận giải vấn
đề thực hiện chính sách TGPL cho người nghèo; lấy cơ sở lý luận là chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về vấn đề con người, nguồn nhân lực….để phân tích, đánh giá
kết quả thực hiện chính sách TGPL cho người nghèo từ thực tiễn quận Thanh
Xuân, Hà Nội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu, phân tích các tài liệu
khoa học về chính sách, chính sách xã hội; các văn bản quy phạm pháp luật
có liên quan tới chính sách TGPL cho người nghèo.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: tác giả tiến hành phỏng vấn một số đối
tượng là cán bộ chính sách Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội quận
Thanh Xuân, Phòng Tư Pháp quận Thanh Xuân, Trung tâm Trợ giúp pháp lý
nhà nước Hà Nội và người nghèo.
Những cán bộ được lựa chọn phỏng vấn là những người chịu trách
nhiệm hoặc có liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý nói riêng và hỗ trợ
người nghèo nói chung của quận Thanh Xuân.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa về lý luận
Đề tài góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về chính sách TGPL,
thực hiện chính sách TGPL cho người nghèo đô thị và nhu cầu TGPL của
người nghèo đô thị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

6


6.2. Ý nghĩa về thực tiễn
- Các giải pháp của đề tài trực tiếp góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu
quả thực hiện chính sách TGPL cho người nghèo từ thực tiễn quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội.

- Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo đối
với các địa phương có điều kiện tương đồng như quận Thanh Xuân trong thực
hiện chính sách TGPL cho người nghèo.
- Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về thực hiện chính sách TGPL
cho người nghèo trong điều kiện hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách trợ giúp pháp
lý cho người nghèo
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người
nghèo trên địa bàn quận Thanh Xuân
Chương 3. Quan điểm và giải pháp tăng cường thực hiện chính sách
trợ giúp pháp lý cho người nghèo từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố
Hà Nội

7


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO
1.1. Khái quát về chính sách trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo
1.1.1. Khái niệm “chính sách trợ giúp pháp lý”
* Chính sách
Theo tác giả Vũ Cao Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được
thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó
tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động
của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên

nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội” [12, 11]. Hệ
thống xã hội ở đây được hiểu theo một ý nghĩa khái quát. Đó có thể là một
quốc gia, một khu vực hành chính, một doanh nghiệp, một nhà trường, v.v…
“Chính sách là chương trình hành động, thể hiện những tác động của
chủ thể quản lý nhằm giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi trách
nhiệm và thẩm quyền của mình [11, 3].
Như vậy, ở những cấp độ, tổ chức khác nhau thì sẽ có những chính
sách khác nhau. Ở các tổ chức tư nhân, phi nhà nước có thể có những chính
sách riêng nhằm thực hiện những nhiệm vụ trong phạm vi thẩm quyền của
mình. Các chính sách này chỉ có hiệu lực trong phạm vi của tổ chức đó, vì thế
cho nên nó mang tính chất riêng biệt và chúng ta gọi đó là các “chính sách tư”
để nhằm phân biệt với “chính sách công” do nhà nước ban hành và thực hiện.
Như vậy, phân tích khái niệm “chính sách” thì thấy:
- Chính sách là do một chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra;
- Chính sách được ban hành căn cứ vào đường lối chính trị chung và
tình hình thực tế;
8


- Chính sách được ban hành bao giờ cũng nhắm đến một mục đích nhất
định; nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó; chính sách được ban hành
đều có sự tính toán và chủ đích rõ ràng.
* Trợ giúp pháp lý
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” đã được định nghĩa theo nhiều quan niệm
khác nhau ở các nước trên thế giới. Hầu hết pháp luật của các nước đều dựa
trên lý luận về nhân quyền và đảm bảo nhân quyền, coi TGPL như là một
biện pháp bảo đảm tiếp cận pháp lý cho người không có điều kiện kinh tế.
Tiêu biểu như: ở nước Đức, quan niệm "TGPL là giúp đỡ một phần hoặc toàn
bộ tài chính cho những người không có khả năng thanh toán cho các chi phí
về tư vấn pháp luật, đại diện hoặc bào chữa trước toà án"; Điều 5 Luật Trợ

giúp pháp lý năm 1997 của Bang Queensland (Úc) quy định "TGPL có nghĩa
là cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí hoặc có thu phí nhưng với mức thấp hơn
so với giá trị thực tế của dịch vụ"; nhìn dưới góc độ mục đích của hoạt động
TGPL, pháp luật TGPL của Úc lại định nghĩa "TGPL là sự giúp đỡ cho một
người có được hoàn cảnh và điều kiện tương tự như người khác trong việc
tiếp cận pháp luật, tức là tạo ra được sự công bằng khi tiếp cận với pháp
luật"; theo pháp luật của Anh và xứ Wales thì TGPL là giúp đỡ pháp lý cho
những người không có khả năng chi trả cho việc tư vấn, hỗ trợ và đại diện
pháp lý; đạo luật Trợ giúp pháp lý năm 1995 của Singapore thì định nghĩa
"TGPL là việc giúp đỡ những người không có khả năng chi trả cho dịch vụ
pháp lý" [16].
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” là một cụm từ ghép “trợ giúp” và “pháp
lý”. Theo Đại từ điển tiếng Việt (1999), “trợ giúp” được hiểu là “sự giúp đỡ,
bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem lại cho ai cái gì đang lúc khó khăn,
lúc cần đến”; “pháp lý” được hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, nói một cách
khái quát thì “pháp lý” là lý luận [32]. Theo từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn
9


ngữ học, “trợ giúp” được hiểu là giúp đỡ [29, 767], “pháp lý” là nguyên lý về
pháp luật [29, 1045]. Từ điển Luật học thì cho rằng, “pháp lý” chỉ những lý
lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị pháp lý bắt buộc từ một sự việc, hiện tượng
xã hội, những nguyên lý, phạm trù, khái niệm lý luận về pháp luật [27, 606].
Ở Việt Nam, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” chính thức được sử dụng
trong Quyết định 734/TTg ngày 06/09/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc
thành lập tổ chức Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách.
Đồng thời, trong quá trình xây dựng “Luật Trợ giúp pháp lý”, các nhà khoa
học đã đưa ra một số khái niệm về “trợ giúp pháp lý” theo hai nghĩa, nghĩa
rộng và nghĩa hẹp như sau:
Trong đề tài “Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương

hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay” (1999) có nêu: theo nghĩa rộng,
TGPL là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, đối tượng
chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận với các dịch vụ pháp lý (tư
vấn pháp luật, đại diện, bào chữa), nhằm đảm bảo cho mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật và thực hiện CBXH; theo nghĩa hẹp, TGPL là sự giúp
đỡ của các tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước cho người nghèo, đối
tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận với các dịch vụ pháp
lý (tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa), nhằm bảo đảm mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật và thực hiện CBXH [30, 10].
Cũng định nghĩa theo hai nghĩa trên, đề tài “Luận cứ khoa học và thực
tiễn của việc xây dựng Pháp lệnh trợ giúp pháp lý” (2004) đưa ra khái niệm
cụ thể hơn: theo nghĩa rộng, TGPL là việc thực hiện các dịch vụ pháp lý miễn
phí của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, người được hưởng chính sách
ưu đãi và một số đối tượng khác do pháp luật quy định thông qua hoạt động
tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết vụ việc và tham gia
thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công dân bình
10


đẳng trong tiếp cận pháp luật, góp phần thực hiện CBXH; theo nghĩa hẹp,
TGPL là việc thực hiện các dịch vụ pháp lý miễn phí của các tổ chức trợ giúp
pháp lý của Nhà nước cho người nghèo, người được hưởng chính sách ưu đãi
và một số đối tượng khác theo lĩnh vực, phạm vi trợ giúp do pháp luật quy
định [31, 21].
Tại Điều 3, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 thì: TGPL là việc cung
cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL theo quy định của Luật
này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật;
góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm
CBXH, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [4].

Theo tác giả Trần Huy Liệu thì “TGPL là việc giúp đỡ pháp lý (tư vấn
pháp luật, hòa giải, đại diện, bào chữa, kiến nghị) miễn phí của Nhà nước và
xã hội cho người nghèo và đối tượng chính sách theo quy định của pháp luật
nhằm giải toả vướng mắc pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật để họ tự mình
biết cách ứng xử phù hợp với pháp luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình”[19]. Theo tác giả, khái niệm này mang tính khoa
học, khái quát cao, thể hiện bản chất và đặc điểm của TGPL.
Như vậy, TGPL được hiểu là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí
cho người được TGPL theo quy định của Nhà nước, giúp người được TGPL
giải đáp các vướng mắc về pháp luật; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình; nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật;
góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm
CBXH, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Người được
TGPL là người nghèo; người có công với cách mạng; người già cô đơn, người
tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa và người dân tộc thiểu số thường trú ở
vùng có điều kiện KT - XH đặc biệt khó khăn [4].
11


* Chính sách trợ giúp pháp lý
Nghiên cứu dưới góc độ chính sách công và từ định nghĩa “chính sách”
và “trợ giúp pháp lý”, có thể định nghĩa “chính sách trợ giúp pháp lý” như
sau: “Chính sách TGPL là toàn bộ các chương trình hành động của Nhà
nước bao gồm thực hiện, tổ chức thực hiện các dịch vụ pháp lý miễn phí cho
người nghèo, đối tượng chính sách và khuyến khích, tạo điều kiện để Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư và luật
sư, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt
động TGPL”. TGPL là trách nhiệm của Nhà nước và Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo trong việc chỉ đạo và thực hiện chính sách này.
1.1.2. Lịch sử hình thành chính sách trợ giúp pháp lý ở Việt Nam

Với chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nhằm “thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân”, “vì mục tiêu dân giầu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[13, 129], Ban Bí thư
Trung ương Đảng đã quan tâm chỉ đạo: “...Cần phải mở rộng loại hình tư vấn
pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp
nhân dân nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng xử pháp luật của
công dân trong quan hệ đời sống hàng ngày...; cần nghiên cứu lập hệ thống
dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm
việc theo pháp luật” [6]; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII tiếp tục khẳng định cần “tổ chức hình thức tư vấn pháp
luật cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo
được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí…” [13].
Nhằm mục đích là “tạo môi trường tăng trưởng nhanh, bền vững và
xoá đói, giảm nghèo”, “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm
nghèo” được Thủ tướng phê duyệt tại công văn số 2685/VPCP-QHQT ngày
12


21/05/2002 xác định: “Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, tăng cường TGPL và
khả năng tiếp cận pháp lý cho người nghèo. Mở rộng mạng lưới trợ giúp
pháp luật để người nghèo ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa có thể tiếp cận với
các dịch vụ trợ giúp pháp luật” [8]. TGPL cho người nghèo và các đối tượng
chính sách được coi là một trong những chính sách của Chiến lược.
Để thể chế hoá chủ trương, Nghị quyết của Đảng, cũng là văn bản pháp
lý trong nước đầu tiên của Việt Nam ghi nhận các quy định điều chỉnh về
TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác, ngày
6/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg về việc
thành lập tổ chức trợ giúp pháp lýcho người nghèo và đối tượng chính
sách.Và sau đó, với sự ra đời của Luật Trợ giúp pháp lý và Luật Luật sư năm

2006, quyền tiếp cận TGPL được nêu trong các công ước quốc tế về quyền
con người mà Việt Nam là thành viên một lần nữa đã được nội luật hoá và
được bảo đảm tương đối đầy đủ trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Kể từ đó đến nay, các địa phương đã tổ chức quán triệt các quan điểm
của Đảng về TGPL và ban hành Chỉ thị về tăng cường công tác TGPL. Việc
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đã tạo cơ sở pháp lý cho
việc thành lập hệ thống tổ chức TGPL từ Trung ương đến địa phương và triển
khai hoạt động TGPL có hiệu quả, tạo nên cơ chế đưa chủ trương, chính sách
xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, đảm bảo CBXH của Đảng và Nhà nước
đi vào cuộc sống, đáp ứng kịp thời nhu cầu cần được giúp đỡ pháp luật của
người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số được các ngành,
các cấp đồng tình ủng hộ và đông đảo quần chúng nhân dân hoan nghênh.
1.1.3. Vai trò của chính sách trợ giúp pháp lý
TGPL là một phần quan trọng trong chính sách giảm nghèo của nhà
nước bởi các lý do sau:

13


Thứ nhất, chính sách TGPL là công cụ để nhà nước thực hiện nghĩa vụ
đối với công dân của mình.
Nhà nước ban hành pháp luật, buộc người dân phải tuân theo, do vậy
nhà nước cũng phải bảo đảm để pháp luật bảo vệ được quyền lợi của nhân
dân. Nếu không đảm bảo được quyền lợi của dân thì sẽ làm mất sự tin tưởng
của họ đối với pháp luật và đó sẽ là nguy cơ lớn đối với khả năng thực thi
pháp luật. TGPL là cần thiết đối với việc củng cố pháp luật, với việc xây dựng
nhà nước pháp quyền và có tầm quan trọng như một bộ phận không thể tách
rời của việc thực thi công lý và cũng cần thiết như một bộ phận không thể
thiếu trong quá trình xét xử. Để có được trật tự xã hội trong nhà nước pháp
quyền thì chính sách TGPL là một công cụ quan trọng và không thể thiếu.

Đồng thời, chính sách TGPL góp phần tăng cường quan hệ phối hợp
với các cơ quan, ban, ngành và tổ chức đoàn thể, tạo hành lang pháp lý, định
hướng quan hệ TGPL cho đối tượng phát triển ổn định, thúc đẩy sự phát triển
của hoạt động TGPL.
Thứ hai, chính sách TGPL đảm bảo công bằng xã hội, quyền dân chủ
của công dân.
Thực hiện TGPL miễn phí là thực hiện một hoạt động tiến bộ, có tính
nhân đạo nhân văn cao cả vì con người và nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của con người đồng thời cũng là bảo vệ lợi ích pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Đặc biệt, TGPL đã trở thành chỗ dựa của người nghèo, nhóm người
yếu thế trong xã hội trong các vướng mắc, tranh chấp pháp lý.
Tổ chức TGPL không chỉ góp phần đưa chủ trương, chính sách xoá đói,
giảm nghèo về mặt pháp luật, đền ơn đáp nghĩa, đảm bảo CBXH của Đảng và
Nhà nước đi vào cuộc sống mà còn tạo ra cơ chế bảo đảm cho mọi công dân
dù giàu hay nghèo đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tiếp cận với dịch
vụ pháp lý như nhau trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường.
14


Thứ ba, chính sách TGPL góp phần nâng cao trình độ dân trí pháp lý
cho người dân.
Chính sách TGPL ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu TGPL của nhân dân,
góp phần nâng cao trình độ dân trí pháp lý và ý thức pháp luật để cho nhân
dân tự mình biết cách ứng xử phù hợp với các quy định của pháp luật, thực
hiện pháp luật, tự mình sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Trên cơ sở đó góp phần làm lành mạnh quan hệ xã hội, xây
dựng nếp sống văn minh “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Đặc
biệt, đối với người nghèo, đối tượng chính sách, hoạt động TGPL đã góp phần
nâng cao hiểu biết pháp luật của họ, qua đó giúp nhận thức được quyền, nghĩa
vụ của mình, tự lựa chọn cách ứng xử phù hợp với pháp luật, thúc đẩy phát

triển kinh tế, thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân.
Ngoài ra, TGPL là một yếu tố quan trọng trong hệ thống tư pháp hình
sự, hỗ trợ tích cực cho công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bảo đảm giải quyết vụ án khách quan,
công bằng, đúng pháp luật, góp phần thực hiện cải cách tư pháp theo chủ
trương của Đảng đã đề ra trong Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
góp phần tạo niềm tin cho xã hội trong hoạt động tố tụng hình sự.
1.2. Đặc điểm, vai trò và nội dung thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý
1.2.1. Đặc điểm của thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý
Thứ nhất, đối tượng được TGPL là người yếu thế trong xã hội bao
gồm: người nghèo; người có công với cách mạng; người già cô đơn; người
tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa; người dân tộc thiểu số thường trú ở
vùng có điều kiện KT - XH đặc biệt khó khăn, nạn nhân theo quy định của
pháp luật phòng, chống mua bán người.
Tại Việt Nam, Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và
15


Nghị định số 14/2013/NĐ-CP ngày 05/02/2013 Nghị định Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp
pháp lý quy định như sau:
- Người nghèo được TGPL là người thuộc chuẩn nghèo theo quy định
của pháp luật;
- Người có công với cách mạng được TGPL bao gồm: Người hoạt động
cách mạng trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945; Bà mẹ Việt Nam anh
hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động; Thương
binh, người hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh; Người hoạt động
kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học; Người hoạt động cách mạng, hoạt

động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; Người hoạt động kháng chiến giải
phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; Người có công giúp
đỡ cách mạng; Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng của liệt sĩ; con của liệt sĩ; người có
công nuôi dưỡng liệt sĩ.
- Người già được TGPL là người từ đủ 60 tuổi trở lên, sống cô đơn,
không có nơi nương tựa;
- Người tàn tật được TGPL là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều
bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật
khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn; người bị nhiễm chất độc
hóa học, bị nhiễm HIV mà không có nơi nương tựa;
- Trẻ em TGPL là người dưới 16 tuổi không nơi nương tựa;
- Người dân tộc thiểu số được TGPL là người thường xuyên sinh sống
tại vùng có điều kiện KT - XH đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật;
- Các đối tượng khác được trợ giúp pháp lý theo quy định tại điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên [2], [3].

16


Thứ hai, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện chính
sách TGPL.
Để thực hiện vai trò của mình, Nhà nước phải thông qua các cơ quan
chức năng có thẩm quyền như Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, các Trung tâm Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước,
các tổ chức tham gia TGPL,… để tổ chức thực hiện chính sách TGPL. Bên
cạnh đó, Nhà nước phải khuyến khích, tạo điều kiện để huy động lực lượng xã
hội tham gia thực hiện chính sách, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư và luật sư, cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động TGPL.
Thứ ba, chính sách TGPL là hoàn toàn miễn phí cho đối tượng được

hưởng.
Với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng, hỗ trợ
pháp lý cho nhóm yếu thế trong xã hội, nhóm không đủ khả năng chi trả cho
các dịch vụ pháp lý, Nhà nước là đơn vị cung cấp dịch vụ miễn phí cho hoạt
động này. Đây là một đặc điểm nổi bật của chính sách, vừa mang tính nhân
đạo, lại mang tính bình đẳng cao, đảm bảo sự CBXH cho công dân, đồng thời
cũng phù hợp với các công ước quốc tế cũng như các chính sách TGPL của
các nước trên thế giới.
1.2.2. Vai trò của thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong việc
giảm nghèo đô thị
Với việc gia tăng nghèo đô thị như hiện nay, TGPL đóng vai trò không
nhỏ trong việc giảm nghèo đô thị.
Một là, thực hiện TGPL cho người nghèo giúp rút ngắn khoảng cách
phân hóa giàu nghèo trong tiếp cận dịch vụ xã hội ở khu vực đô thị.
Với sự phát triển KT - XH chóng mặt ở đô thị như hiện nay, sự phân
hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư ở đô thị ngày càng rõ rệt. Khoảng
17


cách giàu nghèo về kinh tế tất yếu dẫn đến sự bất bình đẳng trong việc tiếp
cận với các điều kiện về giáo dục, y tế, văn hoá… và đặc biệt là tiếp cận với
các dịch vụ pháp lý. Người nghèo đô thị thường không có điều kiện về kinh tế
để tiếp cận với các loại dịch vụ pháp lý có thu phí, nên trong nhiều trường
hợp không được TVPL hoặc không mời được luật sư bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình khi bị xâm hại. Vì vậy, TGPL giúp người nghèo đô thị
giảm sự yếu thế trong tố tụng,…
Hai là, thực hiện TGPL giúp tăng hiểu biết pháp luật cho người nghèo,
góp phần giảm thiểu các vụ việc ở khu vực đô thị.
Trong điều kiện hệ thống pháp luật của nước ta đang trong quá trình
phát triển và hoàn thiện, số lượng văn bản pháp luật ngày càng nhiều, thường

xuyên được bổ sung, sửa đổi thì việc người dân nói chung và người nghèo nói
riêng tiếp cận với pháp luật để nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, để xử sự
theo đúng pháp luật trong các quan hệ của đời sống xã hội không phải dễ
dàng. Do vậy, TGPL tạo cơ hội và những điều kiện cần thiết để người nghèo
nâng cao hiểu biết pháp luật, điều chỉnh hành vi của mình, giúp họ cũng như
cơ quan nhà nước ngăn chặn được các hành vi, vụ việc vi phạm pháp luật.
Ba là, thực hiện TGPL là điều kiện nhằm để bảo vệ nhân quyền, bảo
đảm công lý, là một trong những mục tiêu của mục tiêu giảm nghèo đô thị
toàn cầu và phù hợp với xu thế phát triển, tiến bộ của thế giới.
Việc thành lập tổ chức TGPL miễn phí cho người nghèo xuất phát từ
chủ trương xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, đảm bảo CBXH của Đảng
và Nhà nước. Tổ chức TGPL của Nhà nước ra đời đã tạo cơ hội và những
điều kiện cần thiết để người nghèo nói chung và người nghèo đô thị nói riêng
trong tiếp cận với các dịch vụ pháp lý, củng cố lòng tin của quần chúng nhân
dân vào pháp luật và góp phần thực hiện CBXH.

18


1.2.3. Nội dung thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo
Về nguyên tắc của chính sách TGPL, thực hiện chính sách TGPL phải
tuân thủ các nguyên tắc sau: các hoạt động TGPL không thu phí, lệ phí, thù
lao từ người được trợ TGPL; thực hiện chính sách TGPL phải trung thực, tôn
trọng sự thật khách quan; trong quá trình thực hiện TGPL cho đối tượng phải
sử dụng các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất
quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL; người thực hiện TGPL phải
tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp TGPL và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về nội dung trợ giúp pháp lý.
Về tổ chức thực hiện chính sách, tổ chức thực hiện TGPL do Trung tâm
trợ giúp pháp lý Nhà nước và các tổ chức tham gia TGPL đảm nhận bao gồm:

tổ chức hành nghề luật sư; tổ chức tư vấn pháp luật thuộc tổ chức CT - XH, tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi
chung là tổ chức tư vấn pháp luật). Cụ thể:
Quyền và nghĩa vụ của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thực hiện
TGPL là đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan phối hợp, cung cấp thông tin, tài
liệu về vụ việc TGPL; bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra trong khi
thực hiện TGPL; thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về TGPL; giải quyết
khiếu nại theo quy định tại Khoản 1, Điều 49 của Luật Trợ giúp pháp lý; giải
quyết tranh chấp trong TGPL; kiến nghị về những vấn đề liên quan đến thi
hành pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ của tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp
luật khi tham gia TGPL là thực hiện TGPL theo Giấy đăng ký tham gia TGPL;
đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến vụ
việc TGPL; bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra trong khi thực hiện
TGPL; thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về TGPL; giải quyết tranh chấp trong
TGPL; kiến nghị về những vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật.
19


Về phạm vi thực hiện TGPL, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước ở
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện TGPL trong phạm vi sau
đây: người được TGPL đang cư trú tại địa phương, vụ việc TGPL xảy ra tại
địa phương, vụ việc TGPL do tổ chức thực hiện TGPL lý khác chuyển đến;
Tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL trong
phạm vi đăng ký.
Về các hình thức TGPL, có 4 hình thức như sau:
- Tư vấn pháp luật: Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên, luật sư, tư vấn
viên pháp luật thực hiện tư vấn pháp luật cho người được TGPL bằng việc
hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật, giúp soạn
thảo văn bản liên quan đến vụ việc TGPL.

- Tham gia tố tụng: Trợ giúp viên pháp lý, luật sư tham gia tố tụng hình
sự để bào chữa cho người được TGPL là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc
để bảo vệ quyền lợi của người được TGPL là người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
Trợ giúp viên pháp lý, luật sư tham gia tố tụng dân sự, tố tụng hành chính để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong vụ việc dân sự,
vụ án hành chính.
- Đại diện ngoài tố tụng: Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện đại
diện ngoài tố tụng cho người được TGPL khi họ không thể tự bảo vệ được
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc đại diện ngoài tố tụng được thực hiện
trong phạm vi yêu cầu của người được TGPL.
- Các hình thức trợ giúp pháp lý khác: Trợ giúp viên pháp lý, luật sư
thực hiện các hình thức TGPL khác cho người được TGPL bằng việc giúp đỡ
họ hoà giải, thực hiện những công việc liên quan đến thủ tục hành chính,
khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.

20


×