Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG dạy học ở TRUNG tâm GIÁO dục QUỐC PHÒNG AN NINH, đại học QUỐC GIA hà nội đáp ỨNG yêu cầu đổi mới GIÁO dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.25 KB, 99 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Hà Nội
Giáo dục Quốc phòng - An ninh
Giáo dục Quốc phòng và An ninh
Giáo dục và đào tạo
Hoạt động dạy học
Học sinh, sinh viên
Nhà xuất bản
Quân sự, An ninh
Vũ khí trang bị
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
BGD&ĐT
ĐHKHXH&NV
ĐHQGHN
GDQP-AN
GDQP&AN
GD&ĐT
HĐDH
HS, SV
Nxb
QS, AN
VKTB
XHCN


MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH

1.1. Một số vấn đề lý luận về quản lý hoạt động dạy học tại
trung tâm giáo dục Quốc phòng- An ninh
1.2. Quản lý hoạt động dạy học ở các trung tâm giáo dục Quốc
phòng - An ninh
1.3. Vấn đề đổi mới giáo dục, đào tạo và những yêu cầu đặt ra
trong quản lý hoạt động dạy học
Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Ở
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH,
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

2.1. Khái quát về Đại học Quốc gia Hà Nội
2.2. Thực trạng hoạt động dạy học và quản lý hoạt động dạy
học ở giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động dạy học và quản lý hoạt động
dạy học ở Trung tâm giáo dục quốc phòng – an ninh
đại học quốc gia Hà Nội
Chương 3 BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Ở
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH,
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
ĐỔI MỚI GIÁO DỤC


3.1. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp
3.2. Biện pháp quản lý dạy học tại Trung tâm Giáo dục Quốc
phòng- An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội trong giai
đoạn mới
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

15
15
19
24
28
28

30

46

55
55

58
76
81
83
86



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta, con người đã trở thành nhân tố quyết định của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo năm 2014 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định: “ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu
tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội” .
Đối với giáo dục đại học, cần tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao,
phát triển phẩm chất và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động.
Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình
độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia, trong đó có
các trường và các ngành đào tạo ngang tầm trình độ khu vực và quốc tế. Đa
dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các
lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Giáo dục quốc phòng - an ninh là một nội dung quan trọng trong xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, là chủ trương lớn của
Đảng, Nhà nước trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Tăng cường quốc
phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và
toàn dân”. Tư duy mới của Đảng ta về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân trong giai đoạn hiện nay được thể hiện rõ ở việc tăng cường
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ
những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong
điều kiện mới.
Mục tiêu của quốc phòng - an ninh là giáo dục cho HS,SV lòng yêu
nước, yêu CNXH, niềm tự hào và sự trân trọng đối với truyền thống của dân


3


tộc; trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về quốc phòng - an ninh và
những kỹ năng quân sự cần thiết, để HS, SV nhận thức đầy đủ hơn quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp
phần nâng cao chất lượng toàn diện nguồn lực con người.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn
biến phức tạp, tiềm ẩn những yếu tố, những nguy cơ khó lường. Đối với nước
ta, các thế lực thù địch vẫn ráo riết chống phá, chủ yếu bằng chiến lược diễn
biến hoà bình, nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, xoá bỏ vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chuyển hoá cách mạng nước ta đi chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Các hành động xâm hại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của nước ta vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức, âm mưu và với các thủ đoạn
hết sức tinh vi.
Sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng là một lực lượng hùng hậu, có
sức khỏe, có trình độ học vấn, có tiềm năng sáng tạo, có khả năng tiếp cận và
làm chủ khoa học kỹ thuật hiện đại, chủ nhân tương lai của đất nước. Bên
cạnh đó, một bộ phận không nhỏ sinh viên đã và đang bị tác động to lớn bởi
cơ chế thị trường, có những biểu hiện xuống cấp về lối sống, dễ bị kẻ xấu
kích động, lôi kéo. Với mục tiêu giáo dục toàn diện về mọi mặt cho học sinh,
sinh viên, GDQP - AN đã tạo những cơ hội thiết thực cho thế hệ trẻ tu dưỡng
về phẩm chất đạo đức, rèn luyện và hoàn thiện bản thân, thông qua các giờ
học thực hành trên thao trường, cùng với các giờ học lý luận trên giảng đường
trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về quan điểm đường lối quân
sự của Đảng, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch cũng như công tác
Quốc phòng trong giai đoạn hiện nay
Cùng những chuyển biến chung của ngành GD&ĐT, vai trò và vị thế
của Trung tâm GDQP - AN cũng được xã hội nhận thức một cách đầy đủ và
cụ thể. Trung tâm GDQP - AN Đại học quốc gia Hà Nội bên cạnh những kết


4


quả đạt được của vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập, còn lúng túng trong
việc tìm ra các biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học.
Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học
tại Trung tâm DGQP - AN Đại học Quốc gia Hà Nội nhằm đề ra các biện
pháp quản lý phù hợp với sự đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay là một
việc làm hết sức cần thiết và cấp bách.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây tác giả chọn vấn đề
“Quản lý hoạt động dạy học ở Trung tâm giáo dục Quốc phòng – An ninh
Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay” làm
đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục. Với lòng mong muốn
góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy học ở Trung tâm
giáo dục Quốc phòng Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có những yêu
cầu khác nhau, với những hình thức, tính chất, bước đi khác nhau; song, từ
khi có Đảng lãnh đạo, quản lý của Nhà nước, giáo dục quốc phòng và an ninh
luôn được xác định là nhiệm vụ chiến lược với những định hướng khoa học
và những chế tài có tính pháp lý cao, ngày càng được hoàn thiện, đã góp phần
to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, cũng
như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thập kỷ 60 của Thế kỷ XX, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Để thức hiện hai nhiệm vụ chiến lược trên,
ngày 28 tháng 4 năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 11/SL
công bố Luật Nghĩa vụ quân sự. Tại Điều 30 của Luật quy định: Đối với sinh
viên, học sinh các trường đại học, các trường chuyên nghiệp trung cấp thì việc

huấn luyện quân sự thuộc chương trình giáo dục do Chính phủ quy định.

5


Thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự, ngày 26 tháng 12 năm 1961, Hội
đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 217- CP về Điều lệ đăng ký, thống
kê và quản lý quân nhân dự bị, trong đó quy định “những sinh viên và học
sinh trong lứa tuổi nghĩa vụ quân sự đang học tại các trường đại học và các
trường chuyên nghiệp trung cấp phải đăng ký vào loại hạ sĩ quan và binh sĩ
dự bị hạng 2”. Tiếp đó, ngày 28 tháng 12 năm 1961, Hội đồng Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 219/CP về việc Huấn luyện quân sự cho quân nhân dự
bị và dân quân tự vệ. Tại Điều 3 của Nghị định này, quy định: “…trong các
trường đại học và các trường chuyên nghiệp trung cấp việc học tập quân sự
phải đặt thành một môn học chính”. Từ đây, môn học Huấn luyện quân sự
phổ thông được đưa vào trong chương trình giáo dục của các trường chuyên
nghiệp trung cấp (nay là trung cấp chuyên nghiệp), đại học, cao đẳng và sau
đó là các trường phổ thông cấp 3 (nay là trung học phổ thông). Môn học Huấn
luyện quân sự phổ thông là dấu mốc quan trọng, góp phần thực hiện mục tiêu
giáo dục toàn diện, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ tu dưỡng phẩm chất đạo đức,
rèn luyện lối sống có kỷ luật và năng lực để sẵn sàng thực hiện 2 nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, quán triệt nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với củng cố quốc
phòng, Đảng, Nhà nước ta thường xuyên quan tâm đến nhiệm vụ giáo dục
quốc phòng. Để làm cơ sở cho các cấp, các ngành lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
triển khai thực hiện, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) ban hành Chỉ thị
số 107-CT/TW ngày 28 tháng 4 năm 1981 về tăng cường công tác giáo dục
quốc phòng nhân dân, chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng làm nghĩa vụ bảo vệ
Tổ quốc. Tiếp đó, ngày 30 tháng 7 năm 1987, Bộ Chính trị (khóa VI) ra Nghị

quyết 02-NQ/TW quy định đưa nội dung đường lối quân sự của Đảng và
nhiệm vụ quốc phòng vào chương trình học tập chính thức của các trường đào
tạo, bổ túc cán bộ của Đảng và Nhà nước; đưa nội dung chương trình giáo dục
quốc phòng vào chương trình chính khóa của các trường trung học và đại học.

6


Ngày 27 tháng 12 năm 1979, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số
387-TTg về việc huấn luyện sĩ quan dự bị trong học sinh, sinh viên các
trường đại học và cán bộ công tác tại các ngành ngoài quân đội có nghề
nghiệp phù hợp với quốc phòng. Đây là bước phát triển mới, nhằm đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan dự bị trẻ có phẩm chất tốt, có kiến thức khoa học
và những hiểu biết quân sự cần thiết, có sức khỏe đảm nhiệm được nhiệm vụ
xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng, an ninh của đất nước.
Năm 1980 sẽ tiếp tục mở rộng việc huấn luyện quân sự cho sĩ quan dự
bị trong các trường đại học, cao đẳng ở miền Bắc và làm thí điểm trong một
số trường ở miền Nam.
Từ năm 1981 trở đi, công tác đào tạo sĩ quan dự bị phải đưa vào nề nếp
theo quy chế đã ban hành. Để các trường có thể đảm nhiệm được toàn bộ
chương trình huấn luyện sĩ quan dự bị, các ngành có trường cần củng cố, kiện
toàn các ban (hoặc bộ môn) quân sự trong các trường”.
Trong sự nghiệp đổi mới, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã
hội, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến giáo dục quốc phòng và an ninh.
Vì vậy, công tác giáo dục quốc phòng và đào tạo sĩ quan dự bị trong học sinh,
sinh viên trong nhiều năm đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tích
cực vào việc củng cố quốc phòng. Tuy nhiên, do nhận thức chưa đầy đủ, chương
trình và nội dung giáo dục chưa phù hợp, phân công chỉ đạo chưa thật rõ ràng,
điều kiện bảo đảm chưa tốt... nên chất lượng công tác này còn hạn chế.
Triển khai thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự và Luật Sĩ quan Quân đội

nhân dân Việt Nam sửa đổi, bổ sung (công bố ngày 02 tháng 01 năm 1991);
để thực hiện nhiệm vụ xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng - an ninh phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong tình hình mới, Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành Chỉ thị số 420-CT ngày 30
tháng 12 năm 1991 về giáo dục quốc phòng và đào tạo sĩ quan dự bị trong học
sinh, sinh viên.

7


Đối với hệ thống các trường hành chính, chính trị, đoàn thể, môn Giáo
dục quốc phòng cũng được quy định tại Nghị định số 71/CP ngày 13 tháng 7
năm 1994 của Chính phủ.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng phục vụ sự nghiệp bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 12 tháng 02 năm
2001 về tăng cường công tác giáo dục quốc phòng toàn dân trong tình hình
mới. Chỉ thị nêu rõ: “Cần tăng cường thực hiện công tác giáo dục quốc phòng
toàn dân sâu rộng, thường xuyên có nền nếp vững chắc…”,
Ngày 01 tháng 5 năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số
15/2001/NĐ-CP về Giáo dục quốc phòng, trong đó quy định rõ về vị trí, tính
chất, mục tiêu, yêu cầu, nguyên lý, đối tượng, cơ chế, chính sách… và nội
dung cơ bản của công tác giáo dục quốc phòng
Sau năm 1975, việc huấn luyện quân sự phổ thông được điều chỉnh phù
hợp với giai đoạn phát triển mới, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo tăng cường
giáo dục nâng cao nhận thức của học sinh, sinh viên về quốc phòng và an
ninh. Ở bậc đại học, sĩ quan biệt phái đảm nhiệm giảng dạy khi ngành giáo
dục và đào tạo chưa đào tạo được giảng viên chuyên trách. Ngày 11 tháng 5
năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã có Nghị định số
86/HĐBT về chế độ biệt phái của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; Nghị

định số 153/HĐBT ngày 08 tháng 9 năm 1982 về chế độ của sĩ quan dự bị
Quân đội nhân dân Việt Nam. Các văn bản này đã quy định về tổ chức, biên
chế sĩ quan biệt phái tại ngành Giáo dục và Đào tạo; sĩ quan biệt phái chịu sự
chỉ đạo về nghiệp vụ chuyên môn theo ngành dọc từ Bộ xuống các cơ sở giáo
dục. Trước sự phát triển của kinh tế - xã hội, nhiệm vụ quốc phòng và an
ninh; để tăng cường quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng và an ninh,
ngày 22 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 165/2003/NĐCP về Biệt phái sĩ quan Quân đội nhân dân dân Việt Nam.

8


Ngày 11 tháng 5 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 119/2004/NĐCP về công tác quốc phòng ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ. Tại điều 2 của Nghị định xác định “công tác quốc phòng ở các bộ, ngành
và các địa phương là một nội dung quan trọng trong toàn bộ công tác quốc
phòng của Nhà nước”, trong đó có công tác giáo dục quốc phòng toàn dân;
đồng thời, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành, địa phương về
công tác quốc phòng
Qua hơn 5 năm (2001-2005) thực hiện Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 12
tháng 02 năm 2001 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác giáo dục quốc
phòng toàn dân trong tình hình mới và Nghị định số 15/2001/NĐ-CP ngày 01
tháng 5 năm 2001 của Chính phủ về giáo dục quốc phòng, cho thấy công tác
giáo dục quốc phòng đã được triển khai thống nhất, đồng bộ đến mọi cấp, mọi
ngành và toàn dân, từng bước đi vào nền nếp. Bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng cho các đối tượng được các cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện nghiêm túc, chặt chẽ, đúng nội dung chương trình; đối tượng được mở
rộng; đạt được một số kết quả nhất định. Giáo dục quốc phòng đối với học
sinh, sinh viên ở các loại hình đào tạo được triển khai thực hiện trong chương
trình đào tạo chính khóa.
Thông qua giáo dục quốc phòng, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an
ninh đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên và nhân

dân về nhận thức và trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Kết quả đạt được trong những năm qua
đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước về công tác giáo dục
quốc phòng, an ninh.
Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện, công tác giáo dục quốc phòng, an
ninh còn bộc lộ một số yếu kém. Nhận thức và trách nhiệm đối với nhiệm vụ
giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới của một số bộ phận cán bộ,
ngành chưa sâu sắc, cá biệt còn có cán bộ chủ chốt ngại đi bồi dưỡng kiến

9


thức quốc phòng, an ninh. Việc tuyên truyền phổ biến kiến thức quốc phòng,
an ninh toàn dân trên các phương tiện thông tin đại chúng ở một số địa
phương chưa được coi trọng đúng mức, hiệu quả thấp. Đội ngũ giảng viên
giáo dục quốc phòng, an ninh chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất
lượng; phương pháp tổ chức thực hiện ở nhiều cơ sở giáo dục - đào tạo chậm
đổi mới nên chất lượng giáo dục quốc phòng, an ninh cho học sinh, sinh viên
còn nhiều hạn chế…
Để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trên, đưa công tác giáo dục
quốc phòng, an ninh đi vào chiều sâu, góp phần làm chuyển biến mạnh mẽ về
nhận thức và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, ngày 03 tháng 5 năm
2007, Bộ Chính trị (Khóa X) đã ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh
trong tình hình mới.
Nhằm cụ thể hóa Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị, ngày 10 tháng
7 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 116/2007/NĐ-CP về Giáo dục
quốc phòng - an ninh. Nghị định quy định về phạm vi điều chỉnh, vị trí, tính
chất, mục tiêu, yêu cầu, nguyên lý đến đối tượng, nội dung, chương trình, thời
gian, địa điểm và cơ chế, chính sách đối với công tác giáo dục quốc phòng an ninh.

Giáo dục quốc phòng và an ninh luôn được Đảng, Nhà nước ta coi
trọng, điều đó được thể hiện qua các chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo của Đảng và
được thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước phù
hợp với từng giai đoạn. Hệ thống văn bản pháp luật về giáo dục quốc phòng
và an ninh từng bước phát triển và được hoàn thiện thành văn bản luật chuyên
biệt - Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh.
Luật Giáo dục Quốc phòng và An ninh được Quốc hội nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa XIII) thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2013
tại kỳ họp thứ 5 là văn bản có tính pháp lý cao nhất về công tác giáo dục quốc

10


phòng và an ninh, đáp ứng yêu cầu tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh,
gắn quốc phòng, an ninh với các hoạt động xây dựng và phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên việc nghiên cứu lý luận về việc nâng cao chất lượng dạy học
trong các Trung tâm giáo dục Quốc phòng – An ninh còn chưa được thật sự
chú ý, đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống
và toàn diện về hoạt động quản lý dạy học ở Trung tâm giáo dục Quốc phòng
- An ninh, một cơ sở giáo dục có những đặc điểm khác thường, nhưng lại hết
sức quan trọng này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác quản lý hoạt động
dạy học ở Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà
Nội, luận văn đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy học nhằm nâng
cao chất lượng dạy học ở Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học
Quốc gia Hà Nội

* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học ở Trung tâm
Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Khảo sát, phân tích thực trạng quản lý hoạt động dạy học hiện nay ở
Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở Trung tâm Giáo dục
Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Khách thể nghiên cứu
Hoạt động dạy học ở Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại
học Quốc gia Hà Nội

11


* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động dạy học ở Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An
ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động

dạy học ở Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà
Nội, tập trung vào quản lý hoạt động dạy học cho sinh viên chính quy của Đại
học Quốc gia Hà Nội.
- Phạm vi khảo sát: Đối tượng khảo sát bao gồm: Cán bộ quản lý, giảng
viên, sinh viên Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia

Hà Nội
- Phạm vi thời gian: Các số liệu trong đề tài được sử dụng từ năm 2013 đến nay.


5. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động dạy học ở Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An

ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Nếu sử dụng đồng
bộ các biện pháp quản lý hoạt động dạy học từ khâu kế hoạch, nội dung, chương
trình dạy học; đào tạo, bồi dưỡng giảng viên; đổi mới phương pháp dạy học;

quản lý công tác kiểm tra đánh giá hoạt động dạy học của giảng viên và sinh
viên; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy học …
một cách có cơ sở khoa học, thiết thực và phù hợp thì sẽ nâng cao chất lượng dạy
học ở Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội

đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng Mac – Anghen,
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối giáo dục của Đảng Cộng sản Việt Nam,
theo quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc, quan điểm lịch sử - lôgíc, quan điểm
thực tiễn để phân tích, xem xét, rút kết luận các vấn đề có liên quan.

12


* Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phương pháp phân tích và hệ thống hóa các tài liệu lý thuyết, các văn bản,
các Nghị quyết của Đảng, Pháp luật của Nhà nước nhằm xây dựng chuẩn hoá các
khái niệm, các thuật ngữ liên quan đến vấn đề quản lý hoạt động dạy học ở Trung
tâm giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Phương pháp quan sát
Mục đích chính của việc sử dụng phương pháp này là tìm hiểu thực trạng
quản lý hoạt động dạy học ở Trung tâm giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học
Quốc gia Hà Nội để khẳng định thực trạng quản lý hoạt động dạy học ở Trung tâm
Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội
Phương pháp điều tra
Bằng việc xây dựng hệ thống câu hỏi điều tra theo những nguyên tắc và nội
dung chủ định của người nghiên cứu; phương pháp này được sử dụng với mục đích
chủ yếu thu thập số liệu để làm rõ thực trạng quản lý hoạt động dạy học ở Trung
tâm giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Phương pháp chuyên gia
Bằng việc lấy ý kiến qua hệ thống các câu hỏi về các giải pháp quản lý gửi tới
các chuyên gia. Phương pháp này được sử dụng với mục đích xin ý kiến của các
chuyên gia về các biện pháp được đề xuất.
Phương pháp phỏng vấn
Hỗ trợ cho phương pháp điều tra viết, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia,
đồng thời kiểm tra độ tin cậy của kết quả nghiên cứu; bằng việc trao đổi ý kiến với
đội ngũ các cán bộ, giảng viên lâu năm có kinh nghiệm, có uy tín và sinh viên.
- Các phương pháp hỗ trợ
Sử dụng các công thức toán thống kê để xử lý các kết quả nghiên cứu, từ đó
rút ra nhận xét khoa học mang tính khái quát

13


7. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu về lý luận và các biện pháp quản lý hoạt động dạy
học có thể ứng dụng ở Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học
Quốc gia Hà Nội
8. Kết của cấu đề tài

Đề tài được kết cấu gồm: Phần mở đầu, 3 chương, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo, phụ lục.

14


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Ở
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH

1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Quản lý hoạt động dạy học
* Khái niệm dạy học:
Dạy học là hoạt động trung tâm, cơ bản và quan trọng nhất trong các
nhà trường.
- Dưới góc độ chức năng: dạy học là con đường ngắn nhất và có hiệu quả
nhất để thực hiện hiện mục đích giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ và đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ cao cho xã hội.
- Dưới góc độ hoạt động: dạy học là hoạt động tương tác giữa giảng viên
và sinh viên trong môi trường sư phạm nhằm giúp sinh viên nắm vững hệ
thông kiến thức khoa học và nghề nghiệp, hình thành hệ thống kỹ năng hoạt
động sáng tạo và hệ thống thái độ tích cực đối với cuộc sống, lao động xã
hội.
Trong quá trình dạy học có hai chủ thể tham gia, giảng viên làm nhiệm
vụ giảng dạy, còn sinh viên làm nhiệm vụ học tập. Hoạt động tương tác tích
cực, có hiệu quả giữa giảng viên và sinh viên quyết định chất lượng dạy học
trong nhà trường.
- Theo lý thuyết hệ thống: dạy học là một quá trình có nhiều thành tố
tham gia, bao gồm: mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp, phương
tiện và môi trường dạy học, các thành tố này có những tác động với nhiều

mức độ khác nhau đến hoạt động giảng viên và sinh viên, góp phần tạo nên
chất lượng của quá trình dạy học.
Trong luận văn này tác giả sử dụng khái niệm ”dạy học” dưới góc độ
hoạt động: Dạy học là hoạt động tương tác giữa giảng viên và sinh viên trong
môi trường sư phạm, nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của sinh viên,
giúp họ đạt được các mục tiêu học tập của mình.
15


- Hoạt động giảng dạy của giảng viên:
Giảng viên đại học ở trình độ lý tưởng, là chuyên gia giáo dục, là nhà
chuyên môn, là nhà khoa học. Để giảng dạy tốt, giảng viên phải được đào tạo
chu đáo, phải nắm vững đặc điểm tâm lý, quy luật nhận thức của sinh viên,
nắm vững mục tiêu, chương trình đào tạo, nội dung các môn học và có
phương pháp sư phạm sáng tạo.
- Giảng viên giữ vai trò chủ đạo trong tổ chức, điều khiển, hướng dẫn
sinh viên học tập lý thuyết và thực hành, trong giáo dục thái độ sống và đạo
đức nghề nghiệp cho sinh viên.
- Vai trò tổ chức của giảng viên thể hiện trong việc thiết kế và thực hiện
các chương trình, kế hoạch dạy học, trong việc giảng dạy các học phần nội
khoá, ngoại khoá, lý thuyết, thực hành, thực tập chuyên môn, nghiệp vụ cho
sinh viên.
- Nhiệm vụ hướng dẫn của giảng viên thể hiện khi họ giúp sinh viên
sưu tầm tài liệu, lựa chọn phương pháp học tập, tiến hành các thí nghiệm,
thực hành, thực tập nghề nghiệp, chuẩn bị hội thảo, triển khai khoá luận, luận
văn tốt nghiệp và các đề tài nghiên cứu khoa học
- Nhiệm vụ giáo dục của giảng viên thể hiện khi họ động viên, khích lệ ,
tạo nhu cầu, hứng thú, niềm say mê khoa học, nghề nghiệp, tích cực trong học
tập và hình thành đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên.
- Hoạt động giảng dạy của giảng viên thực hiện theo quan điểm ”lấy

sinh viên làm trung tâm”, sinh viên vừa là đối tượng, vừa là mục tiêu để cải
tiến, đổi mới phương pháp dạy học.
- Hoạt động giảng dạy của giảng viên được thực hiện theo một chương
trình đã được thiết kế cho từng chuyên ngành, cho từng môn học, từng tín chỉ
bằng các biện pháp sư phạm phù hợp.

16


Như vậy: giảng dạy là hoạt động của giảng viên, bao gồm một hệ thống
các biện pháp sư phạm được sử dụng nhằm kích thích tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của sinh viên để tổ chức, hướng dẫn họ học tập đạt kết quả tốt nhất.
- Hoạt động học tập của sinh viên:
Về phương diện lý thuyết: Học tập là quá trình nhận thức và kiến tạo tri
thức của người học, biến tri thức của nhân loại thành tri thức và năng lực hoạt
động của bản thân.
Về phương diện thực tế: Học tập là hoạt động của sinh viên dưới sự
hướng dẫn của giảng viên để hoàn thành các nhiệm vụ học tập của chuyên
ngành đào tạo.
- Mục tiêu học tập của sinh viên là nắm vững hệ thống kiến thức khoa
học và hình thành hệ thống kỹ năng nghề nghiệp, là phấn đấu để trở thành
những người lao động có năng lực chuyên môn tốt. Mục tiêu học tập có thể
diễn đạt ngắn gọn là: học để có hiểu biết, để trở thành người lao động sáng
tạo, để hòa nhập với cộng đồng và để tự khẳng định mình trong một thế giới
luôn biến động. Mục tiêu này do chính sinh viên thực hiện, không ai có thể
làm thay.
- Quản lý hoạt động dạy học
Quản lý hoạt động dạy học là quản lý việc thực hiện các quy định
(điều lệ, quy chế, nội quy…) về hoạt động giảng dạy của giảng viên và
hoạt động học tập của học sinh, đảm bảo cho hoạt động đó được tiến

hành tự giác, có nền nếp ổn định, có chất lượng và hiệu quả cao.
1.1.2. Trung tâm giáo dục Quốc phòng - An ninh
Trung tâm giáo dục Quốc phòng - An ninh là cơ sở giáo dục, bồi dưỡng
kiến thức quốc phòng và an ninh, kỹ năng quân sự cho công dân Việt Nam.

17


Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh bao gồm: các trung tâm
giáo dục quốc phòng và an ninh thuộc nhà trường quân đội và các trung tâm
giáo dục quốc phòng và an ninh thuộc cơ sở giáo dục đại học.
Trong luận văn này chúng tôi nghiên cứu các trung tâm giáo dục Quốc
phòng - An ninh thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.
1.1.3. Quản lý hoạt động dạy học ở trung tâm giáo dục Quốc phòng
- An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội
Quản lý hoạt động dạy học ở trung tâm giáo dục Quốc phòng - An ninh,

Đại học Quốc gia Hà Nội là cách thức, biện pháp của chủ thể quản lý theo sự
phân cấp tác động đến toàn bộ hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên
và hoạt động học tập của sinh viên nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy
và học của nhà trường, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
Quản lý hoạt động dạy học ở trung tâm giáo dục Quốc phòng - An ninh,
Đại học Quốc gia Hà Nội là những tác động của chủ thể quản lý đến hoạt động
dạy học ở trung tâm giáo dục Quốc phòng - An ninh ở Đại học Quốc gia Hà
Nội. Theo đó quản lý hoạt động dạy học ở trung tâm giáo dục Quốc phòng An ninh ở Đại học Quốc gia Hà Nội bao gồm các đặc trưng sau:
Chủ thể quản lý: Là Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, ban chủ nhiệm
khoa, tổ trưởng chuyên môn. Ngoài ra, tham gia quản lýcòn có các lực lượng:
GV trực tiếp giảng dạy tự quản lý của SV… Người Hiệu trưởng hoạch định, tổ

chức, điều khiển, kiểm tra hoạt động dạy học của GV nhằm đạt được mục tiêu

đã đề ra. Trong toàn bộ quá trình quản lý nhà trường thì quản lý hoạt động
dạy học của hiệu trưởng là hoạt động cơ bản nhất, quan trọng nhất.
Đối tượng quản lý: Gồm hoạt động dạy của GV và hoạt động học của SV.
Nội dung quản lý: quản lý thực hiện mục tiêu, chương trình dạy học; quản
lý kế hoạch dạy học; quản lý hoạt động dạy học; quản lý CSVC, TBDH môn Giáo
dục QP-AN.

18


Mục tiêu của quản lý: Quản lý hoạt động dạy học ở trung tâm giáo dục

Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội nhằm thực hiện tốt nội dung
chương trình dạy học đã xác định, góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng và hiệu

quả dạy và học của nhà trường, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động dạy học ở Trung tâm GDQP – AN,
Đại học Quốc gia Hà Nội
1.2.1. Quản lý mục tiêu, kế hoạch dạy học
Xây dựng kế hoạch chính là quá trình chuẩn bị và vạch ra phương
hướng để thực hiện mục tiêu dạy học. Cần xác định mục tiêu công tác của
giảng viên, của tổ chuyên môn. Căn cứ vào hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ
năm học của các cấp quản lý và đặc điểm tình hình của đơn vị, của tổ
chuyên môn, của cá nhân, của đối tượng sinh viên để đề ra kế hoạch cho
phù hợp. Giám đốc phải là người hướng dẫn giảng viên quy trình xây
dựng kế hoạch, giúp họ biết xác định mục tiêu đúng đắn và biết tìm ra các
biện pháp để thực hiện.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch, cần đảm bảo các yêu cầu sau:
* Cơ sở để xây dựng kế hoạch: Căn cứ vào chỉ thị nhiệm vụ năm học,
định mức chỉ tiêu được giao, kết quả điều tra chất lượng sinh viên, việc chuẩn

bị các điều kiện đảm bảo cho hoạt động dạy và học.
* Xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu phấn đấu về
các mặt hoạt động như giảng dạy lý thuyết, tổ chức thực hành, tổ chức tham
quan thực tế, ngoại khóa, bồi dưỡng phụ đạo sinh viên yếu kém, giáo dục đạo
đức sinh viên
* Xây dựng kế hoạch giảng dạy cho từng học phần, từng bài; lên kế
hoạch hàng tuần hàng tháng với nội dung công việc cụ thể và có sự điều
chỉnh, bổ sung khi cần thiết.
Trong công tác quản lý, Giám đốc phải coi trọng việc chỉ đạo giảng viên và
các tổ chuyên môn thực hiện tốt kế hoạch giảng dạy để đảm bảo chất lượng dạy học.
1.2. 2. Quản lý chương trình dạy học, phương pháp và hình thức dạy học
19


Theo tác giả Trần Thị Tuyết Oanh: “Chương trình dạy học là văn kiện
do nhà nước ban hành trong đó quy định một cách cụ thể: vị trí, mục đích
môn học, phạm vi và hệ thống nội dung môn học, số tiết dành cho môn học
nói chung, cho từng phần, từng chương, từng bài nói riêng” [35; Tr. 194].
Chương trình quy định nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học. Để quản lý tốt chương trình dạy học, phương pháp và hình thức dạy học
người Giám đốc cần:
+ Hiểu nguyên tắc cấu tạo chương trình dành cho GDQP-AN của từng
môn học và phạm vi kiến thức chung. Để từ đó cân đối hoạt động trong năm
học đảm bảo quỹ thời gian cho giảng viên thực hiện đúng nội dung dạy học
phù hợp với từng đối tượng.
+ Nắm vững phương pháp và hình thức dạy học của từng môn từ đó có
kế hoạch chuẩn bị các phương tiện dạy học cho phù hợp.
+ Thường xuyên cập nhật những thay đổi về nội dung, phương pháp
dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và truyền tải đến cán bộ giảng viên
trong nhà trường.

+ Chỉ đạo, khoa, tổ chuyên môn thảo luận bàn bạc những vấn đề nảy
sinh trong thực tiễn giảng dạy những khoá trước, năm học trước và những vấn
đề mới trong chương trình dạy học để thống nhất thực hiện trong từng đợt học
và cả năm học.
+ Người Giám đốc thông qua Phó giám đốc phụ trách chuyên môn,
khoa chuyên môn để nắm bắt tình hình thực hiện chương trình dạy học. Từ đó
có kế hoạch điều chỉnh (nếu cần) sao cho chương trình dạy học không bị cắt
xén và được thực hiện sát đúng với đề cương môn học
Hoạt động dạy học được thực hiện chủ yếu bằng hình thức dạy học trên
lớp va thực hành ở thao trường căn cứ theo phân phối chương trình. Tuy
nhiên việc học tập của sinh viên không chỉ diễn ra trong Trung tâm mà được
tổ chức một cách linh hoạt, mềm dẻo phù hợp với đối tượng sinh viên và địa
phương theo các hình thức sau:
20


- Tổ chức theo phương thức các loại hình tập trung, bán tập trung, tại chức
1.2.3. Quản lý hoạt động của đội ngũ cán bộ, giảng viên
Điều quan trọng đầu tiên trong việc quản lý cán bộ, giảng viên viên là
quản lý hồ sơ của cán bộ, giảng viên. Đây là một việc làm cần thiết bởi nó phản
ánh các hoạt động của từng cá nhân như: hoạt động chuyên môn, việc thực hiện
nội quy, nền nếp của Trung tâm. Hồ sơ của giảng viên bao gồm: Kế hoạch giảng
dạy bộ môn, giáo án, sổ gọi tên và ghi điểm (nếu có), sổ báo giảng, sổ dự giờ, sổ
tích lũy kinh nghiệm, sổ chủ nhiệm (nếu có), sổ hội họp,…
Tiếp theo, là việc quản lý hoạt động dạy của giảng viên. Để quản lý tốt
hoạt động này, Giám đốc cần có sự phân công công tác giảng dạy cho giảng
viên một cách hợp lý, rõ ràng bởi họ là người có trách nhiệm cuối cùng về sự
phân công và sử dụng đội ngũ cán bộ giảng viên. Khi phân công công tác
giảng dạy cho giảng viên Giám đốc phải căn cứ vào năng lực và nghiệp vụ sư
phạm của từng người. Việc phân công đúng khả năng của mỗi giảng viên sẽ

mang lại hiệu quả trong giáo dục. Người Giám đốc cần cân nhắc các yêu cầu
công tác và khả năng của từng giảng viên, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của
từng người và đảm bảo tính dân chủ, công bằng. Trong quá trình phân công
giảng dạy phải chú ý cân đối để tất cả giảng viên ngoài số giờ dạy đều tham
gia được các hoạt động giáo dục khác, để họ có nhiều cơ hội tiếp xúc với học
sinh. Kết quả đạt được của Trung tâm phụ thuộc rất nhiều vào khả năng bố trí
cán bộ, giảng viên của người Giám đốc, Khoa chuyên môn sao cho đúng
người đúng việc.
Giám đốc cùng với phó Giám đốc phụ trách chuyên môn và tổ trưởng
chuyên môn kiểm tra việc thực hiện chương trình hàng tuần, hàng tháng của
cán bộ, giảng viên. Đồng thời chỉ đạo các Khoa chuyên môn thực hiện việc
đổi mới phương pháp giảng dạy cho phù hợp với đối tượng sinh viên mà vẫn
đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục.
Trung tâm, khoa chuyên môn cần phải thường xuyên tổ chức kiểm tra
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của giảng viên thông qua các hoạt động dự

21


giờ, thăm lớp; kịp thời phát hiện những giảng viên có khả năng để bồi dưỡng
họ trở thành những giảng viên nòng cốt trong các tổ chuyên môn, đồng thời
nhận biết những giảng viên còn yếu trong giảng dạy chưa đáp ứng được so
với yêu cầu, nhằm đề ra những biện pháp thích hợp để khắc phục.
Hàng năm Trung tâm cần có kế hoạch cho giảng viên đi đào tạo nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ hoặc qua việc tổ chức trao đổi kinh
nghiệm với các giảng viên dạy giỏi với các trung tâm khác. Khuyến khích
tinh thần tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ, giảng viên.
Đối với cán bộ quản lý, Giám đốc cần phân công phân nhiệm rõ ràng và
quy định trách nhiệm cho từng bộ phận, từng tổ chức đoàn thể trong Trung tâm.
Có kiểm tra có đánh giá trong việc thực hiện chức trách của từng người.

Thực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng để động viên, thúc đẩy tính
tích cực hoạt động của cá nhân và tập thể. Từ đó nâng cao trách nhiệm của họ
đối với công việc. Thi đua phải gắn liền với hiệu quả công việc, thi đua không
chạy theo thành tích. Thường xuyên động viên cán bộ giảng viên vượt khó để
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
1.2. 4. Quản lý hoạt động học tập của sinh viên
Trong phạm vi quản lý hoạt động dạy học, Giám đốc quản lý hoạt động
học của sinh viên thông qua phản ánh của đội ngũ giảng viên chủ nhiệm lớp,
giảng viên bộ môn, khoa chuyên môn về kết quả học tập và rèn luyện của học
sinh. Trung tâm cần có các hình thức động viên, khen thưởng kịp thời đối với
những sinh viên có nhiều cố gắng trong học tập. Cần nghiêm khắc phê bình,
nhắc nhở những sinh viên chưa xác định rõ ý thức, trách nhiệm trong học tập
và rèn luyện để có biện pháp khắc phục kịp thời.
Giám đốc cần đề cao vai trò của tổ chức Công đoàn trung tâm, Đoàn
thanh niên trong nhà trường đối tác, thông qua các hoạt động của Đoàn mà
giáo dục học sinh tinh thần làm chủ tập thể, giáo dục truyền thống hiếu học

22


của dân tộc, xác định đúng động cơ mục đích học tập, phát huy tính tích cực
năng động, sáng tạo, tự chủ trong các hoạt động của nhà trường.
1.2. 5. Quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên
Theo tác giả Vũ Đình Cự: “Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng của
quá trình dạy học, thông qua kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên, giúp
giảng viên thu được những thông tin ngược từ học sinh, phát hiện thực trạng kết
quả học tập của học sinh cũng như những nguyên nhân cơ bản dẫn tới thực trạng
kết quả đó. Đó là cơ sở thực tế để giảng viên điều chỉnh, hoàn thiện hoạt động học
của sinh viên và hướng dẫn sinh viên tự điều chỉnh, tự hoàn thiện hoạt động học
của bản thân”. [ 6; Tr. 278].

Kiểm tra đánh giá kết quả học tập có tác dụng điều chỉnh cách dạy của
giảng viên và cách học của học sinh. Trên cơ sở các kết quả thu được qua
kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh, các nhà quản lý đưa ra
những quyết định đúng đắn, chỉ đạo kịp thời hoạt động dạy học trong nhà
trường, đảm bảo nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học.
Thường xuyên tổ chức các kỳ thi nhằm đánh giá chính xác kết quả học
tập của sinh viên để có kế hoạch bồi dưỡng sinh viên khá, giỏi; phụ đạo sinh
viên yếu, kém.
Việc xếp loại sinh viên cuối khoá phải căn cứ theo đúng quy chế đánh
giá xếp loại sinh viên theo chương trình GDQP - AN
Người Giám đốc quản lý việc kiểm tra của giảng viên đối với sinh viên và kết
quả giảng dạy của giảng viên không chỉ thông qua các điểm số mà phải thực hiện:
+ Quản lý kế hoạch kiểm tra của giảng viên.
+ Yêu cầu chấm bài, trả bài đúng thời gian quy định
+ Phân công phong đào tạo quản lý tổng hợp tình hình kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập theo định kỳ.
1.2. 6. Quản lý khai thác phương tiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy
học
Trước yêu cầu đổi mới giáo dục không thể thiếu việc kết hợp sử dụng
các phương tiện dạy học của người giảng viên trong quá trình dạy học. Các
23


phương tiện, cơ sở vật chất,vũ khí, trang thiết bị dạy học là một trong những
điều kiện thiết yếu để tiến hành quá trình giáo dục- dạy học, thiếu điều kiện
này thì quá trình đó sẽ không được hoàn thiện.
Cơ sở vật chất,vũ khí, trang thiết bị dạy học là phương tiện truyền tải
thông tin giúp giảng viên tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của học
sinh một cách sinh động, hấp dẫn, nâng cao hiệu quả giảng dạy với chi phí
sức lực ít nhất trong điều kiện đổi mới nội dung, chương trình theo luật giáo

dục quốc phòng, phương pháp dạy học.
Đồng thời giúp sinh viên hứng thú trong học tập và rèn luyện tiếp nhận kiến
thức nhẹ nhàng, vừa sức và rút ngắn thời gian lĩnh hội kiến thức. Tăng cường khả
năng tự lực học tập lý thuyết và thực hành, hình thành phương pháp tìm tòi sáng
tạo trong quá trình học tập, rèn luyện.
Người Giám đốc giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực hóa vai trò
của cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học. Mức độ thực hiện tùy thuộc vào
mức độ đúng đắn trong công tác quản lý, cần tránh chủ nghĩa hình thức và
đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả khi sử dụng.
Giám đốc cần chỉ đạo cán bộ được phân công phụ trách cơ sở vật chất
thường xuyên nắm tình hình số lượng, chất lượng về vũ khí trang bị, cơ sở vật
chất hiện có, thông báo nhu cầu cần bổ sung định kỳ. Hàng năm tiến hành
việc kiểm kê tài sản Trung tâm, có biện pháp bảo quản và sử dụng hợp lý. Khi
làm mất mát hoặc hư hỏng phải quy rõ trách nhiệm và xử lý vi phạm đúng
mức nhằm nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc bảo quản tài sản chung
của Trung tâm.
Để phù hợp với nội dung, phương pháp dạy học mới, hệ thống phương
tiện thiết bị dạy học phải được cập nhật liên tục, thường xuyên tránh tình
trạng thiết bị lỗi thời, lạc hậu. Cần phối hợp với các cơ quan chức năng, các
lực lượng xã hội trong việc tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại
cho Trung tâm. Và người Giám đốc cũng phải thường xuyên chỉ đạo việc bồi
dưỡng giảng viên cách sử dụng các phương tiện, thiết bị dạy học mới để hiệu
quả sử dụng trong quá trình dạy học ngày càng tăng lên.

24


1.3. Vấn đề đổi mới giáo dục, đào tạo và những yêu cầu đặt ra
trong quản lý hoạt động dạy học
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và

hội nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa
quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo
dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế
hệ người Việt Nam mới có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã
hội. Vì vậy giáo dục phải được đổi mới để thực hiện sứ mệnh cao cả của
mình. Để làm được điều này đòi hỏi giáo dục phải có chiến lược phát triển
đúng hướng, hợp quy luật, xu thế và xứng tầm thời đại.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Phát
triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu”, đồng thời nhấn mạnh: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa
và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội
ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt” và “ Giáo dục
và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn
hoá và con người Việt Nam”.
Chiến lược đã xác định rõ tầm nhìn giáo dục Việt Nam với mục tiêu tổng
quát: “Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta đã được đổi mới căn bản và toàn
diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập
quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện, gồm: giáo dục
đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại
ngữ và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế tri
thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho
mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội học tập”.[ 8; Tr. 6]

25



×