Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG dạy học ở TRUNG tâm GIÁO dục THƯỜNG XUYÊN từ LIÊM, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 117 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY
HỌC Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2. Nội dung quản lý hoạt động dạy học ở trung tâm giáo
dục thường xuyên
1.3. Những yếu tố tác động đến quản lý hoạt động dạy học ở Trung
Chương 2

tâm giáo dục thường xuyên Từ Liêm, thành phố Hà Nội
CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY
HỌC Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN

TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát về Trung tâm giáo dục thường xuyên Từ Liêm,
thành phố Hà Nội
2.2. Thực trạng hoạt động dạy học ở Trung tâm giáo dục
thường xuyên Từ Liêm, thành phố Hà Nội
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động dạy học ở Trung tâm giáo
Chương 3

dục thường xuyên Từ Liêm, thành phố Hà Nội
BIỆN PHÁP VÀ KHẢO NGHIỆM BIỆN PHÁP
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Ở TRUNG TÂM
GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN TỪ LIÊM, THÀNH

PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở Trung tâm giáo
dục thường xuyên Từ Liêm, thành phố Hà Nội hiện nay


3.2. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp đề xuất
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

3
12
12
23
31
38
38
41
44

59

59
83
91
94
98


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, để phát triển kinh tế xã hội, tất cả các quốc
gia trên thế giới đều quan tâm đầu tư phát triển GD&ĐT, phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, theo xu thế phát triển

chung của thời đại. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII Đảng ta đã khẳng
định “GD&ĐT là quốc sách hàng đầu” nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế xã hội tiến kịp các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Đặc biệt sang thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI sự hội nhập quốc tế đã trở
thành một quá trình tất yếu đối với tất cả các quốc gia. Sự giao thoa giữa các
nước, các châu lục nhằm chuyển giao công nghệ đã làm tăng trưởng kinh tế
cho xã hội một cách rõ rệt.
Sự hội nhập quốc tế là một thách thức đòi hỏi sự nỗ lực của của các
quốc gia trong việc xây dựng xã hội học tập cho mọi người, đảm bảo cho mọi
công dân được học tập suốt đời.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định “Đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế” và “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn
diện nền giáo dục quốc dân”[14], coi đó là một trong những giải pháp để thực
hiện mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục nước ta. Trong việc đổi mới nền
giáo dục, vấn đề nâng cao chất lượng QLHĐDH là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm, cần được quan tâm nghiên cứu và áp dụng.
Trung tâm GDTX là một mô hình giáo dục có hình thức học tập đa dạng,
giúp mọi người vừa học vừa làm, có khả năng tạo cơ hội học tập suốt đời cho
mọi người trong cộng đồng nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết,
nâng cao trình độ học vấn chuyên môn nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc
3


sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm, góp phần tăng năng suất lao động, làm lành
mạnh các quan hệ xã hội trong cộng đồng và thích nghi với đời sống xã hội.
Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020 nêu mục tiêu của GDTX là:
Phát triển giáo dục thường xuyên tạo cơ hội cho mọi người có thể học tập suốt

đời, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mình; bước đầu hình thành xã
hội học tập.
Hiện nay với quan điểm “học suốt đời”, “giáo dục cho mọi người” và
mong muốn “xây dựng xã hội học tập”, không thể bỏ qua vị trí quan trọng của
phương thức giáo dục không chính quy cũng như không thể không giải quyết
các vấn đề về QLHĐDH ở trung tâm GDTX. Hiện nay, vẫn có quan điểm cho
rằng giáo dục không chính quy đóng vai trò phụ của giáo dục chính quy, cốt
tạo cơ hội cho người học lấy văn bằng, chứng chỉ bất chấp yêu cầu chất lượng.
Vì vậy QLHĐDH ở các trung tâm GDTX có hiệu quả góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục trở thành nhu cầu cấp bách.
Chất lượng học tập của học sinh các trung tâm GDTX qua các năm
học số yếu kém chiếm tỉ lệ khá cao. Nhận thức của học sinh ở Trung tâm
còn nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự rèn luyện chưa cao, điều kiện học tập
còn nhiều thiếu thốn, gia đình một số em chưa quan tâm đúng mức. Việc
nâng cao chất lượng về mặt học tập cho học sinh là một điều trăn trở của
các cấp quản lý cũng như giáo viên giảng dạy ở Trung tâm.
Việc QLHĐDH những năm qua ở Trung tâm GDTX Từ Liêm có nhiều
đổi mới, cải tiến, nhưng kết quả vẫn chưa cao. Những biện pháp quản lý chủ
yếu được đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn. Vì vậy, mặc dù có nhiều cố gắng
nhưng vẫn không tránh khỏi những bất cập, hạn chế, chưa phù hợp với yêu
cầu dạy học hiện đại và hiệu quả mà xã hội mong muốn.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập trên, đòi hỏi cấp thiết hiện
nay là phải đề xuất các biện pháp khả thi trong QLHĐDH góp phần đảm
bảo cho hoạt động của Trung tâm GDTX Từ Liêm phát triển bền vững và
hiệu quả.
4


Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quản lý hoạt động dạy học ở
Trung tâm giáo dục thường xuyên Từ Liêm, thành phố Hà Nội ” làm đề tài

luận văn nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Từ xa xưa vấn đề dạy học đã được nhiều nhà triết học đồng thời là
nhà giáo dục ở cả phương Đông và phương Tây đề cập đến như: Khổng Tử
(551 – 479 TCN), Xôcrat (469 – 339 TCN)...
Ở Việt Nam một số tư tưởng về giáo dục đã được bàn luận đến từ lâu
trong các công trình nghiên cứu của các sử gia như Ngô Sĩ Liên (thế kỷ XV),
Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII), Phan Huy Chú (thế kỷ XIX)...
Khoa học QLGD của Việt Nam dần định hình và tiếp cận thế giới.
Trong quá trình đó đã xuất hiện nhiều tác giả nghiên cứu về QLGD như Hà
Thế Ngữ, Nguyễn Đức Minh, Phạm Minh Hạc. Gần đây xuất hiện nhiều tài
liệu đáng chú ý trong lĩnh vực QLGD như tác phẩm: Khoa học QLGD của tác
giả Trần Kiểm; Bài giảng đại cương về QLGD của tác giả Bùi Minh Hiền;
QLGD của các tác giả Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo; Lý luận QLGD học đại
cương của các tác giả Đặng Bá Lãm, Phạm Khắc Chương và Giáo trình
QLGD của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc.
Trong xu thế phát triển và hội nhập, giáo dục đang đứng trước những
cơ hội lớn để có thể khẳng định vai trò và vị thế của mình trong sự phát triển
chung của đất nước và của toàn nhân loại. Tuy nhiên, để có thể thực hiện
được vai trò đó, giáo dục đã và đang phải cải cách, đổi mới về tư duy, về cách
làm nhằm nâng cao chất lượng dạy học của các nhà trường.
Đã có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về QLGD đào tạo trong nhà
trường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Các nghiên cứu đó rất có ý nghĩa
về mặt lý luận và thực tiễn giúp cho các nhà quản lý có cái nhìn đa chiều hơn
để lựa chọn những giải pháp khả thi, phù hợp với từng nhà trường.
Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của tác giả Nguyễn Thị Mai Thu:
“Thực trạng quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng theo định hướng phát
5



huy tính tích cực của học sinh tại các trường tiểu học quận Thủ Đức, thành
phố Hồ Chí Minh” đã đánh giá thực trạng nhận thức của cán bộ, giáo viên về
HĐDH và QLHĐDH, đề ra những biện pháp QLHĐDH, điển hình là những
biện pháp: Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý dạy học; bồi dưỡng
chuyên môn về dạy học cho giáo viên…
Trong luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục: “Một số giải pháp quản lý
HĐDH ở các trường mầm non huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương” tác giả Lê
Tiến Đạt, trên cơ sở đánh giá thực trạng HĐDH ở các trường mầm non, đã đề
xuất các biện pháp quản lý HĐDH ở các trường mầm non huyện Ninh Giang,
tỉnh Hải Dương gồm: Xây dựng kế hoạch giáo dục; cải tiến hình thức, phương
pháp giáo dục; tăng cường công tác kiểm tra…
Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của tác giả Nguyễn Thị Bốn “Các
biện pháp QLHĐDH ở trường Trung cấp nghề Quy Nhơn” đã tiếp cận dưới
góc độ lý luận dạy học để luận giải mối quan hệ các thành tố của HĐDH, tác
động của quá trình dạy học đến phát triển trí tuệ, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp
và phẩm chất nhân cách của sinh viên.
Tác giả Nguyễn Trọng Trinh trong luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục
“Biện pháp QLHĐDH ở các trường THPT có học sinh dân tộc thiểu số huyện
Cư M’gar, tỉnh Đăk Lắk” (2011) đã làm rõ những đặc điểm ở các trường
THPT có học sinh dân tộc thiểu số. Những yếu tố tác động đến kết quả
HĐDH ở các trường THPT có học sinh dân tộc thiểu số. Tác giả đề xuất các
biện pháp mới để QLHĐDH ở các trường THPT có học sinh dân tộc thiểu số
ở huyện Cư M’gar, tỉnh Đăk Lắk. Các biện pháp này có tính hệ thống, được
xây dựng trên cơ sở đánh giá đúng năng lực học tập và những đặc điểm riêng
của học sinh dân tộc thiểu số.
Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của tác giả Nguyễn Trịnh Thoại
“Quản lý HĐDH ở trường Trung cấp công binh hiện nay” (2014) đã luận giải
cơ sở lý luận về QLHĐDH ở trường trung cấp, đánh giá thực trạng QLHĐDH ở
6



Trường Trung cấp Kỹ thuật công binh. Tác giả đã đề xuất 5 biện pháp
QLHĐDH bao gồm: Bổ sung hoàn thiện mục tiêu, chương trình; phát huy vai
trò trách nhiệm của cơ quan chức năng trong quản lý; thực hiện phân cấp quản
lý; tăng cường quản lý hoạt động học của học viên và quản lý tốt trang thiết bị
dạy nghề.
Tác giả Đỗ Thị Thủy Tú trong luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục
“QLHĐDH môn tiếng Anh ở các trường trung cấp chuyên nghiệp ngoài công
lập Thành phố Hồ Chí Minh ” (2014) đã luận giải những vấn đề lý luận
QLHĐDH môn tiếng Anh, ở các trường trung cấp chuyên nghiệp. Tác giả
đánh giá thực trạng quản lý giảng dạy môn tiếng Anh ở 4 trường trung cấp
chuyên nghiệp ngoài công lập tại thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất 5 biện
pháp QLHĐDH môn tiếng Anh. Các biện pháp có tính hệ thống bao gồm từ
việc hoàn thiện mục tiêu chương trình đến tổ chức HĐDH, tích cực hóa quá
trình dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học.
Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của tác giả Nguyễn Thị Thu Hương
“QLHĐDH ở Khoa Điều dưỡng Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, thành
phố Hồ Chí Minh” (2014) đã luận giải những vấn đề lý luận về QLHĐDH ở 1
cơ sở đào tạo chuyên ngành y khoa. Tác giả đánh giá thực trạng QLHĐDH ở
Khoa Điều dưỡng Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, đề xuất 6 biện pháp
quản lý hoạt động dạy học bao gồm từ việc nâng cao nhận thức; tăng cường
quản lý kế hoạch, chương trình; quản lý hoạt động dạy của giáo viên, hoạt
động học của sinh viên và đổi mới kiểm tra, đánh giá HĐDH.
Tác giả Diệp Thị Ngọc Thanh trong luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục
“QLHĐDH ở các trường THPT huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng” (2014) đã luận
giải cơ sở lý luận QLHĐDH ở các trường THPT. Tác giả đã đánh giá thực
trạng QLHĐDH các trường THPT huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, đề xuất 6
biện pháp QLHĐDH. Trong đó có những biện pháp như xây dựng kỷ cương,

7



nề nếp HĐDH; phát huy vai trò của tổ chuyên môn trong QLHĐDH và bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên.
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu đã trình bày ở trên, có thể rút
ra một số kết luận sau:
Một là, các công trình đều nhấn mạnh đến vai trò, tầm quan trọng của
QLHĐDH ở các nhà trường từ phổ thông đến đại học.
Hai là, các công trình nghiên cứu đã phân tích thực trạng về hoạt động
dạy học và QLHĐDH, chỉ rõ những nguyên nhân của thực trạng để giúp các
nhà quản lý phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, tổng kết những kinh
nghiệm trong QLHĐDH đáp ứng yêu cầu mới của GD&ĐT trong giai đoạn
hiện nay.
Ba là, trên cơ sở luận giải lý luận và thực tiễn, các công trình đều đề
xuất những biện pháp hoặc để nâng cao chất lượng hoạt động dạy học, hoặc
để QLHDDH.
Bốn là, Các công trình nghiên cứu về hoạt động dạy học và QLHĐDH
đều được tổ chức thực hiện ở những lĩnh vực cụ thể, trên địa bàn và không
gian xác định. Những biện pháp QLHĐDH được đề xuất đều gắn với những
địa danh, đối tượng cụ thể và chỉ phát huy hiệu quả cao khi được tổ chức thực
hiện ở những nơi có những đặc điểm tương tự.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống về QLHĐDH ở trung tâm GDTX. Do vậy, luận văn
Quản lý hoạt động dạy học ở Trung tâm giáo dục thường xuyên Từ Liêm,
thành phố Hà Nội của tác giả là một đề tài hoàn toàn mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn QLHĐDH ở Trung
tâm GDTX, đề xuất các biện pháp QLHĐDH ở Trung tâm GDTX Từ Liêm,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của Trung tâm.

8


* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về QLHĐDH ở Trung tâm GDTX.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng HĐDH và thực trạng QLHĐDH ở
Trung tâm GDTX Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất các biện pháp QLHĐDH ở Trung tâm GDTX Từ Liêm,
thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý giáo dục ở Trung tâm GDTX
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý HĐDH ở Trung tâm GDTX Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
* Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
Đề tài tập trung khảo sát thực trạng HĐDH và thực trạng QLHĐDH
cho học sinh hệ THPT thí điểm và học sinh hệ GDTX cấp THPT ở Trung
tâm GDTX Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Các tài liệu, số liệu điều tra, khảo sát trong 5 năm: Từ năm 2011 đến
năm 2015.
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng, hiệu quả HĐDH ở Trung tâm GDTX bị tác động và quy
định bởi nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố quản lý. Nếu trong quá trình
QLHĐDH ở Trung tâm GDTX, các chủ thể quản lý nắm chắc được lý luận
dạy học, đánh giá đúng thực trạng HĐDH ở Trung tâm và thực hiện có hiệu
quả và đồng bộ các vấn đề như: Xây dựng kế hoạch HĐDH phù hợp với đối
tượng, điều kiện cụ thể của Trung tâm; tổ chức chặt chẽ hoạt động bồi dưỡng
CMNVSP cho đội ngũ giáo viên; nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chuyên
môn; chỉ đạo đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học; đảm bảo tốt CSVCKT
và TBDH; chú trọng kiểm tra, đánh giá kết quả HĐDH, thì sẽ quản lý tốt

HĐDH, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của Trung tâm GDTX.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu

9


Luận văn được tổ chức nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về GD&ĐT.
Luận văn vận dụng các quan điểm logic - lịch sử, quan điểm thực tiễn
và sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, tiếp cận hoạt động để xem xét
phân tích các vấn đề có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành công trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của khoa học giáo dục như:
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm:
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các văn kiện, các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục; Quy chế về tổ chức và hoạt động
của Trung tâm GDTX; Quy chế đánh giá xếp loại học sinh học chương trình
GDTX (cấp THPT) và THPT thí điểm; Những tài liệu về quản lý, quản lý giáo
dục; tài liệu, tạp chí, các văn bản có liên quan vấn đề nghiên cứu.
Nghiên cứu các tác phẩm về tâm lý học, giáo dục học, khoa học
QLGD… trong và ngoài nước. Các công trình nghiên cứu khoa học QLGD
của các nhà lý luận, các nhà QLGD, các nhà giáo… có liên quan đế đề tài như
các luận văn, luận án, các báo cáo khoa học, các chuyên khảo, các bài báo.
Các tài liệu trên được phân tích, nhận xét, tóm tắt và trích dẫn phục vụ trực
tiếp cho việc giải quyết các nhiệm vụ của đề tài.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm:
+ Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động quản lý của Giám đốc

Trung tâm về xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện quản lý; quan sát hoạt
động của giáo viên … Tham gia một số cuộc họp của Trung tâm để nắm bắt
thực tiễn triển khai và tổ chức thực hiện công tác chuyên môn của Giám đốc.
Tiến hành dự sinh hoạt tổ chuyên môn, dự giờ để làm rõ công tác triển khai,
đôn đốc, giám sát, tư vấn của tổ trưởng chuyên môn đối với giáo viên.

10


+ Phương pháp điều tra, khảo sát : Tiến hành điều tra bằng anket để
khảo sát về HĐDH ở Trung tâm. Đối tượng điều tra, khảo sát là 53 CB,GV
của Trung tâm. Kết quả điều tra, khảo sát được phân tích, so sánh, đối chiếu
để tìm ra những thông tin cần thiết theo hướng nghiên cứu của luận văn.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Nghiên cứu các kế
hoạch của Giám đốc Trung tâm về QLHĐDH; các kế hoạch, các biên bản
sinh hoạt của của tổ chuyên môn; nghiên cứu các sản phẩm của giáo viên như
kế hoạch dạy học, giáo án, đồ dùng dạy học, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của
giáo viên; nghiên cứu phân tích kết quả học tập của học sinh; nghiên cứu chất
lượng dạy học của Trung tâm GDTX Từ Liêm hằng năm để phân tích, so
sánh, đối chiếu tìm giải pháp.
+ Phương pháp phỏng vấn: Thực hiện trao đổi, tọa đàm với một số
CBQL, các TTCM, giáo viên có kinh nghiệm của Trung tâm GDTX Từ Liêm
để làm rõ thực trạng QLHĐDH.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để rút ra những nguyên
nhân, hạn chế trong QLHĐDH của Trung tâm.
- Phương pháp hỗ trợ: Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử
lý báo cáo số liệu điều tra, khảo sát và khảo nghiệm.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về QLHĐDH ở Trung tâm
GDTX.

- Đánh giá đúng thực trạng HĐDH và thực trạng QLHĐDH ở Trung
tâm GDTX Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xác định rõ nguyên nhân của những
thành tựu, hạn chế, giúp chủ thể quản lý đề xuất những biện pháp quản lý phù
hợp với thực tế và có tính khả thi nâng cao chất lượng dạy học ở Trung tâm.
- Luận văn được nghiên cứu thành công có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho các cơ quan, giáo viên, giám đốc các trung tâm GDTX trong chỉ đạo
và QLHĐDH trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
11


8. Kết cấu của đề tài
Luận văn được kết cấu gồm: Phần Mở đầu; phần nội dung ( 3 chương 8
tiết); phần Kết luận và kiến nghị; Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Khái niệm Trung tâm giáo dục thường xuyên
* Khái niệm giáo dục thường xuyên
Trước những năm 1960, ở nước ta chủ yếu phát triển giáo dục trong nhà
trường chính quy tập trung. Bước vào những năm cuối của thế kỷ 20, trước sự
phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ đã cho thấy hệ thống giáo
dục chính quy không thể đáp ứng được một cách kịp thời, đầy đủ nhu cầu
GD&ĐT nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, việc mở rộng hệ thống giáo
dục bằng những loại hình không chính quy, tạo điều kiện cho mọi người học
tập mọi lúc, mọi nơi trong suốt cuộc đời đã trở thành một vấn đề cấp thiết.
Có nhiều cách gọi loại hình giáo dục không chính quy như: giáo dục
phi chính quy; giáo dục tiếp tục; giáo dục người lớn, học tập suốt đời và
GDTX. Thuật ngữ GDTX được sử dụng rộng rãi nhất.
Nhiều năm qua, ở nước ta các loại hình học tập không chính quy được

gọi là GDTX. Như vậy, về mặt logic hình thức, có thể hiểu GDTX như sau:
Giáo dục thường xuyên là một hệ thống gồm nhiều loại hình học tập
thuộc phạm vi giáo dục tiếp tục do vậy GDTX không bao hàm các hình thức
giáo dục chính quy trong hệ giáo dục ban đầu. Nói đến GDTX người ta hiểu
đó là giáo dục tiếp tục.
Về phổ cập giáo dục cho thế hệ trẻ đã được đẩy mạnh, về cơ bản nước
ta đã phổ cập giáo dục THCS đúng độ tuổi và việc học cưỡng bức sẽ áp dụng
12


cho cấp trung học vào năm 2020. Còn GDTX chủ yếu dành cho người lớn.
Trong trường hợp này, GDTX trùng khớp với giáo dục người lớn.
Như vậy, GDTX là phương thức giáo dục không chính quy nằm trong
hệ thống giáo dục quốc dân giúp mọi thành viên trong xã hội có cơ hội vừa
làm vừa học, liên tục suốt đời nhằm mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học
vấn và nghiệp vụ, hoàn thiện nhân cách, nâng cao chất lượng cuộc sống, thích
nghi và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Từ đó, có thể hiểu, GDTX là hình thức đào tạo linh hoạt bên cạnh
những quy trình đào tạo có hệ thống chặt chẽ đáp ứng nhu cầu học tập cho
mọi người, để người học có thêm cơ hội lựa chọn những kiến thức cần thiết
trong mưu sinh và hòa nhập với cộng đồng, đáp ứng kịp thời những thay đổi
thường xuyên trong quá trính phát triển xã hội.
Giáo dục thường xuyên ngày càng được khẳng định là bộ phận quan
trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Giáo dục thường xuyên có thể có những cơ sở GDTX chuyên trách
đồng thời cũng có những cơ sở chính quy kiêm nhiệm chức năng không chính
quy hoặc hợp tác, liên kết chặt chẽ với cơ sở giáo dục không chính quy nhằm
những mục tiêu: Tạo sự công bằng giáo dục; phát triển đoàn kết cộng đồng;
xây dựng xã hội học tập; nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực; giúp mọi
người cải thiện cuộc sống trong cộng đồng.

Giáo dục thường xuyên được thực hiện bằng nhiều hình thức: không tập
trung, tại chức, bổ túc, tự học, học từ xa…nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
mọi công dân ở mọi trình độ có thể học tập thường xuyên, học liên tục, học
suốt đời phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng người, đáp ứng những yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội.
* Khái niệm trung tâm giáo dục thường xuyên
Trong xã hội học tập, xu thế phát triển GDTX là tất yếu. GDTX ngày
càng được khẳng định là bộ phận quan trọng trong hệ thống giáo dục của
13


đất nước. Chính vì vậy, tại khoảng 1, Điều 4 Luật Giáo dục quy định: “Hệ
thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường
xuyên”. Trong những năm qua, mạng lưới cơ sở GDTX được củng cố, phát
triển trên khắp các địa bàn dân cư. Trong các mạng lưới của cơ sở GDTX
thì trung tâm GDTX giữ vai trò đặc biệt quan trọng, được hình thành từ cấp
huyện, thị, đến tỉnh và thành phố.
Các thiết chế giáo dục chính quy và GDTX được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1.1: Các thiết chế giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên
Giáo dục chính quy (Giáo dục ban đầu)

Giáo dục không chính quy (GDTX)

- Trường mầm non, mẫu giáo

- Các trung tâm GDTX

- Trường phổ thông các cấp

- Các lớp xóa mù chữ


- Trường trung cấp nghề

- Các trường, lớp bổ túc tiểu học,

- Trường trung cấp chuyên nghiệp
- Trường cao đẳng, đại học
- Trường của các đoàn thể chính trị

THCS, THPT
- Các trung tâm dạy nghề ngắn hạn
tư nhân
- Các trung tâm dạy tin học, ngoại
ngữ
- Bưu điện văn hóa xã
- Các trung tâm học tập cộng đồng
- Các loại hình câu lạc bộ, nhà văn
hóa
- Các tổ chức học hàm thụ, học từ xa,
tự học có hướng dẫn

Trung tâm GDTX có nhiệm vụ: Giúp mọi người vừa làm vừa học,
học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết,
nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng
cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội.
Trung tâm GDTX là một thiết chế cơ sở của hệ thống giáo dục thường
xuyên. Quy chế tổ chức và hoạt động của trung tâm GDTX do Bộ GD&ĐT
ban hành, xác định rõ đại vị pháp lý và nhiệm vụ của các trung tâm GDTX.
14



Các trung tâm GDTX bao gồm: Trung tâm GDTX quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là trung tâm GDTX cấp huyện); trung
tâm GDTX tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là trung
tâm GDTX cấp tỉnh).
Trung tâm GDTX là nơi đáp ứng nhu cầu học tập cho mọi người, là nơi
mà ai có nhu cầu học tập đều tìm thấy ở đó một tổ chức hoạt động giáo dục có
nội dung, hình thức học tập mà họ thấy hài lòng, để có thêm những kiến thức
cần thiết trong mưu sinh và hòa nhập với cộng đồng. Trung tâm GDTX chủ
yếu dành cho những người không thể theo học chính quy do quá tuổi hoặc do
điều kiện công tác. Vì vậy, chương trình giáo dục ở trung tâm GDTX chủ yếu
là chương trình GDTX.
Như vậy, có thể hiểu, Trung tâm GDTX là mô hình tổ chức chủ yếu
của hệ thống GDTX được hình thành từ các quận (huyện) đến tỉnh (thành)
có chức năng, nhiệm vụ cung ứng cơ hội học tập suốt đời, bù đắp, cập nhật
những kiến thức, kỹ năng còn thiếu trong giáo dục chính quy, góp phần
phát triển toàn diện con người mới xã hội chủ nghĩa.
Trung tâm GDTX là một loại hình cơ sở giáo dục đặc biệt, vừa có chức
năng như một nhà trường, vừa có chức năng của một trung tâm mở trong hoạt
động như có thể liên kết đào tạo, mở các lớp học ngắn hạn theo nhu cầu học
tập của nhân dân.
Mục đích hoạt động: Trung tâm GDTX là nơi đáp ứng cơ hội học tập
cho tất cả mọi người, giúp mọi người có thể học thường xuyên, học liên tục,
học suốt đời. Góp phần phát triển nguồn tài nguyên con người, phục vụ công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nguyên tắc chỉ đạo hoạt động giáo dục:
- Thiết thực: chú trọng việc cung ứng các kiến thức và kỹ năng dùng
ngay trong cuộc sống, thực hiện phương châm: “Cần gì học nấy”.

15



- Đa dạng: đa dạng hóa các loại hình, hình thức học tập nhằm cung cấp
nội dung học tập theo nhiều trình độ (từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp)
theo yêu cầu của người học, cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ;
chương trình đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ;
chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân.
- Linh hoạt: các hoạt động của trung tâm GDTX phải được xây dựng
theo một mô hình có khả năng thường xuyên tự điều chỉnh để thích hợp với
những thay đổi liên tục của xã hội đồng thời tạo điều kiện cho người học có
nhiều cơ may lựa chọn chương trình, nội dung và thời gian học tập.
Từ khi ra đời đến nay, mô hình trung tâm GDTX ngày càng tỏ ra phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và trở thành một loại hình giáo dục
chủ yếu của giáo dục không chính quy.
Chức năng của trung tâm GDTX: Theo quy chế về tổ chức và hoạt
động của của Trung tâm GDTX (ban hành kèm theo quyết định số:
01/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 02 tháng 1 năm 2007 của Bộ GD&ĐT) thì trung
tâm GDTX có chức năng, giúp mọi người vừa học vừa làm, học liên tục, học
suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học
vấn chuyên môn nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự
tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội.
Nhiệm vụ của Trung tâm GDTX
Theo quyết định số: 01/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 02 tháng 1 năm 2007
của Bộ GD&ĐT về quy chế tổ chức và hoạt động của của Trung tâm GDTX
thì Trung tâm GDTX có nhiệm vụ:
Tổ chức thực hiện các chương trình giáo dục: Chương trình xóa mù chữ
và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ; chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu
của người học, cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ; chương
trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ bao gồm:
chương trình bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học ứng dụng, công nghệ thông tin 16



truyền thông; chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn;
chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ; chương trình dạy tiếng
dân tộc thiểu số cho cán bộ, công chức công tác tại vùng dân tộc, miền núi
theo kế hoạch hằng năm của địa phương; Chương trình GDTX cấp THCS và
cấp THPT.
Điều tra nhu cầu học tập trên địa bàn, xác định nội dung học tập, đề
xuất với Sở GD&ĐT, chính quyền địa phương việc tổ chức các chương trình
và hình thức học phù hợp với từng loại đối tượng.
Tổ chức các lớp học theo các chương trình GDTX cấp THCS và THPT
dành riêng cho các đối tượng được hưởng chính sách xã hội, người tàn tật,
khuyết tật, theo kế hoạch hằng năm của địa phương.
Tổ chức dạy và thực hành kỹ thuật nghề nghiệp, các hoạt động lao
động sản xuất và các hoạt động khác phục vụ học tập.
Nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục góp phần phát triển hệ thống GDTX.
Có thể nói khái quát nhiệm vụ của Trung tâm GDTX là tạo cơ hội học
tập theo mọi nhu cầu, học tập suốt đời của người dân thông qua việc tổ chức
các chương trình giáo dục linh hoạt đa dạng. Đây chính là điểm khác biệt lớn
nhất so với các cơ sở giáo dục chính quy. Nếu so sánh giữa việc tổ chức các
lớp học dài hạn cho học sinh nhằm hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục
trung học phổ thông (THPT, bổ túc THPT, Trung học chuyên nghiệp, Trung
học nghề) thì sự khác biệt được thể hiện bằng việc: Các cơ sở giáo dục chính
quy được lựa chọn trình độ, năng lực và đưa ra những yêu cầu khá cao đối với
việc học tập và rèn luyện, ngược lại các trung tâm GDTX tạo cơ hội và đáp
ứng được nhu cầu của tất cả các đối tượng.
1.1.2. Khái niệm hoạt động dạy học ở trung tâm giáo
dục thường xuyên
* Khái niệm hoạt động dạy học

17


Theo tác giả Phạm Minh Hạc:“Dạy học là một chức năng xã hội, nhằm
truyền đạt và lĩnh hội kiến thức, kinh nghiệm xã hội đã tích lũy được, nhằm biến
kiến thức, kinh nghiệm xã hội thành phẩm chất và năng lực cá nhân” [18, tr. 18].
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Dạy học là hoạt động phối hợp của
hai chủ thể đó là giáo viên và học sinh. Dạy và học được thực hiện đồng
thời với cùng một nội dung và hướng tới cùng một mục đích” [45, tr. 53].
Như vậy, dạy học là khái niệm chỉ quá trình hoạt động chung của người
dạy và người học.
Theo tiếp cận dạy học từ góc độ tâm lý học: Dạy học được hiểu là sự
biến đổi hợp lý hoạt động và hành vi của người học trên cơ sở cộng tác hoạt
động và hành vi của người dạy và người học.
Theo tiếp cận dạy học từ góc độ điều khiển học: Dạy học là quá trình
cộng tác giữa thầy và trò nhằm điều khiển - truyền đạt và tự điều khiển - lĩnh
hội tri thức nhân loại nhằm thực hiện mục đích giáo dục.
Như vậy, có thể hiểu: Hoạt động dạy học ở TTGDTX là sự phối hợp,
thống nhất giữa hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS, nhằm giúp HS
lĩnh hội kiến thức, hình thành phẩm chất nhân cách theo mục tiêu giáo dục đã
xác định.
Hoạt động dạy học bao gồm hai hoạt động đó là hoạt động dạy của thầy
và hoạt động học của trò. Hai hoạt động này có mối quan hệ biện chứng, tồn tại
vì nhau, sinh ra vì nhau và thúc đẩy nhau phát triển.
Hoạt động dạy: Là sự tổ chức, điều khiển tối ưu quá trình học giúp học
sinh lĩnh hội kiến thức, qua đó hình thành và phát triển các phẩm chất nhân
cách. Người thầy là chủ thể của hoạt động dạy với nội dung dạy học theo
chương trình qui định, bằng nhiều hình thức. Vai trò chủ đạo của hoạt động
dạy được biểu hiện với ý nghĩa là tổ chức và điều khiển học sinh học tập, giúp
học sinh nắm kiến thức, hình thành kỹ năng, thái độ.

Chức năng xã hội bao trùm của hoạt động dạy là truyền thụ hệ thống
kinh nghiệm của xã hội cho thế hệ trẻ.
18


Hoạt động học: Là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh tri thức,
hình thành các phẩm chất nhân cách dưới sự điều khiển sư phạm của người
thầy; trong đó người học là chủ thể của HĐDH, tri thức và các phẩm chất
nhân cách là đối tượng để học sinh chiếm lĩnh.
Về bản chất: Học là sự tiếp thu, xử lý thông tin chủ yếu bằng các thao
tác trí tuệ dựa vào vốn sinh học và vốn đạt được của cá nhân, từ đó có được tri
thức, kỹ năng, thái độ mới.
Về chức năng: Học là lĩnh hội và tự điều khiển quá trình lĩnh hội tri thức,
hình thành các phẩm chất nhân cách. Hai chức năng này thống nhất với nhau.
Về nội dung: Học là toàn bộ hệ thống khái niệm của môn học, cấu trúc
logic của môn học, các phương pháp học tập và sự vận dụng các tri thức đã
được lĩnh hội vào thực tiễn cuộc sống để hình thành các phẩm chất nhân cách.
Về phương pháp: Học là phương pháp nhận thức, chiếm lĩnh các tri
thức phản ánh đối tượng của nhận thức, biến các hiểu biết của nhân loại thành
học vấn của bản thân.
Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học:
Từ những lý luận của hoạt động dạy và hoạt động học thì, dạy học là
khái niệm chỉ quá trình hoạt động chung của người dạy và người học. Hoạt
động dạy và hoạt động học tồn tại song song và phát triển trong cùng một quá
trình thống nhất, chúng bổ sung cho nhau, chế ước nhau và là đối tượng tác
động chủ yếu của nhau, nhằm kích thích động lực bên trong của mỗi chủ thể
để cùng phát triển;
Người dạy luôn luôn giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng tổ chức,
điều khiển và thực hiện các hoạt động truyền thụ kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo
đến người học một cách khoa học nhất;

Người học sẽ ý thức và tổ chức quá trình tiếp thu một cách tự giác, tích
cực, độc lập và sáng tạo hệ thống những kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo nhằm:
hình thành năng lực, thái độ đúng đắn, tạo ra động lực cho việc học (với tư
cách là chủ thể sáng tạo) và hình thành nhân cách cho bản thân.
19


Đặc điểm của người học ở trung tâm GDTX
Người học của GDTX bao gồm: Những người không có điều kiện học
tập trong các nhà trường chính quy của các cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục
chuyên nghiệp, giáo dục đại học; người đã hoàn thành chương trình “Đào tạo
ban đầu” trong các cơ sở giáo dục chính quy đã nêu trên, nay muốn được
“Đào tạo tiếp tục” theo các hình thức tổ chức của GDTX.
Như vậy, người học ở các trung tâm GDTX rất đa dạng, phong phú.
Ngành học GDTX chủ trương mở rộng các loại hình học tập theo chức năng
và nhiệm vụ được giao, nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của mọi đối tượng
trong xã hội, bao gồm: người chưa biết chữ, người trình độ văn hóa còn thấp,
từ học sinh, công chức nhà nước, người lao động,...
Hình thức học bao gồm: Học tập trung, học tại chức, vừa học vừa làm,
tự học có hướng dẫn.
Về sách giáo khoa và tài liệu học tập: Trung tâm GDTX sử dụng sách
giáo khoa, tài liệu học tập theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, tức là dùng chung
sách giáo khoa của THPT ban cơ bản.
Đa số người vào học ở các trung tâm GDTX hoặc có hoàn cảnh gia đình
khó khăn, hoặc là đã lớn tuổi, hoặc đã bỏ lỡ một số cơ hội học tập bao gồm:
- Những người mới biết chữ, muốn có cơ hội học tập tiếp tục để được
cung cấp các kiến thức kỹ năng hành dụng cần thiết cho cuộc sống cá nhân và
gia đình.
- Những người không có điều kiện học các chương trình phổ thông
chính qui, muốn có cơ hội học tập để đạt được trình độ tương đương nào đó.

- Những người chưa có nghề, chưa có việc làm, muốn học nghề một
cách nhanh chóng với các chi phí ít nhất để tìm việc làm.
- Những người đã có trong tay một nghề, muốn được tiếp tục bồi dưỡng
nâng cao hoặc đào tạo lại, học thêm mới có cơ hội tìm kiếm được việc làm có
thu nhập cao hơn.

20


- Những người đã có việc làm ổn định, những người lớn tuổi cũng
muốn được cung cấp những kiến thức, kỹ năng theo sở thích để nâng cao chất
lượng cuộc sống.
Đặc điểm của người dạy ở Trung tâm GDTX
Hiện nay, mạng lưới cơ sở giáo dục của các trung tâm GDTX ngày
càng ổn định và phát triển, nên cơ cấu đội ngũ cũng đầy đủ và ổn định hơn,
bước đầu đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội về chất lượng đội
ngũ. Tuy nhiên, cơ cấu đội ngũ giáo viên trong biên chế chỉ đáp ứng khung
các bộ môn nên các trung tâm GDTX còn phải hợp đồng, thỉnh giảng giáo
viên từ nhiều nguồn khác nhau. Vì vậy, việc phân công giảng dạy, xếp thời
khóa biểu, quản lý chất lượng, nền nếp lớp học còn gặp không ít khó khăn.
Đội ngũ giáo viên hợp đồng thỉnh giảng đa phần là giáo viên mới ra trường
chưa được điều động phân công công tác, giáo viên các trường phổ thông,
giáo viên không dạy thường xuyên các đối tượng học sinh của trung tâm
GDTX nên hiệu quả giáo dục còn hạn chế.
1.1.3. Khái niệm quản lý hoạt động dạy học ở Trung tâm giáo dục
thường xuyên
Theo tác giả Phạm Minh Hạc:“Quản lý giáo dục là tổ chức các HĐDH.
Có tổ chức được các HĐDH, thực hiện được các tính chất của các nhà trường
phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể
hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp

ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước” [18, tr. 9] .
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang:“Quản lý giáo dục là hệ thống có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng thực hiện được các tính
chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến tiến lên
trạng thái mới về chất” [37, tr. 35] .
21


Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Nguyễn Quốc Chí cho rằng:“Quản lý
giáo dục là hoạt động có ý thức bằng cách vận dụng các quy luật khách quan
của nhà quản lý giáo dục tác động đến toàn bộ hệ thống giáo dục nhằm làm
cho hệ thống đạt được mục tiêu của nó” [8, tr. 135].
Quản lý HĐDH là quản lý sự lao động của nhóm (người quản lý, người
dạy và người học). Chủ thể quản lý dạy học tác động đến người dạy và người
học thông qua việc thực hiện các chức năng quản lý: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ
đạo và kiểm tra đánh giá nhằm tạo môi trường thuận lợi cho dạy học.
Quản lý HĐDH là nội dung trọng tâm của công tác quản lý Nhà trường,
quản lý giáo dục.
Quản lý dạy học là quản lý một hoạt động với tư cách là một hệ thống
nhất toàn vẹn, bao gồm các nhân tố cơ bản: mục đích, nhiệm vụ, nội dung dạy
học, thầy với hoạt động dạy, trò với hoạt động học, các phương pháp và các
phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học, phương thức kiểm tra
đánh giá kết quả học tập.
Theo tác giả Đỗ Bích Ngọc: “Quản lý quá trình dạy học là một bộ phận
cấu thành chủ yếu của toàn bộ hệ thống quản lý quá trình GD&ĐT trong
trường học. Quá trình thực hiện các chức năng tổng hợp, phát triển nhân cách,
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Tóm lại, tuy cách diễn đạt có khác nhau nhưng các tác giả đều thống

nhất cho rằng: Quản lý giáo dục là quá trình tác động có ý thức của chủ thể
quản lý tới khách thể quản lý và các thành tố tham gia vào quá trình hoạt động
giáo dục nhằm thực hịện có hiệu quả mục tiêu giáo dục.
Như vậy có thể hiểu: QLHĐDH là những tác động có mục đích, có
hệ thống của chủ thể quản lý tới hoạt động sư phạm của người thầy và
hoạt động học tập rèn luyện của trò, để hình thành và phát triển nhân
cách học sinh.
Đặc trưng của QLHĐDH:
22


Cụ thể hóa mục tiêu dạy học nhằm nâng cao tri thức, kỹ năng bồi
dưỡng thái độ và hình thành phát triển những năng lực, phẩm chất tốt đẹp cho
người học.
Quản lý việc xây dựng và thực hiện nội dung dạy học. Nội dung dạy
học phải đảm bảo chứa đựng đầy đủ những hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
mà người học cần nắm vững
Chỉ đạo sử dụng linh hoạt và sáng tạo các phương pháp dạy học mang tính
đặc trưng bộ môn, xây dựng động cơ, tinh thần thái độ học tập cho học sinh.
Quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên soạn giáo án, kế hoạch
giảng dạy, kiểm tra, đánh giá học sinh. Quản lý hoạt động học tập của học
sinh: nề nếp, thái độ học tập, kết quả học tập. Quản lý cơ sở vật chất, trang
thiết bị kỹ thuật phục vụ cho HĐDH.
Từ những luận giải trên đây có thể hiểu QLHĐDH ở trung tâm GDTX
là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch của các chủ thể quản lý đến hoạt
động dạy của giáo viên và hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh, đảm bảo
cho quá trình dạy học thực hiện có kết quả mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đã đề ra,
góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh.
Mục đích QLHĐDH ở trung tâm GDTX là nhằm tổ chức một cách khoa
học lao động của người giáo viên, học sinh và huy động tối đa mọi nguồn lực

nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đặt ra.
Chủ thể QLHĐDH ở trung tâm GDTX bao gồm Ban giám đốc trung tâm,
TTCM và giáo viên.
Học sinh của trung tâm vừa là đối tượng quản lý, vừa là chủ thể tự quản lý
hoạt động học tập, tự rèn luyện của mình.
Nội dung QLHĐDH ở trung tâm GDTX bao gồm: Quản lý chương trình,
nội dung, kế hoạch dạy học; quản lý hoạt động dạy của giáo viên; quản lý hoạt
động học của học sinh; kiểm tra, đánh giá hoạt động dạy của giáo viên và hoạt
động học tập của học sinh; quản lý hoạt động khai thác, sử dụng cơ sở vật chất
và thiết bị dạy học.
23


Phương pháp, hình thức, phương tiện QLHĐDH ở trung tâm GDTX
được sử dụng một cách đa dạng như: Thông qua hoạt động kế hoạch hóa; thông
qua chỉ đạo tổ chức và kiểm tra HĐDH; thông qua các chế định giáo dục, bộ
máy tổ chức của trung tâm; các nguồn lực và phương tiện thông tin trong quản
lý.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động dạy học ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên
1.2.1. Quản lý chương trình, nội dung, kế hoạch dạy học
Chương trình, nội dung, kế hoạch dạy học là văn bản do cơ quan có
thẩm quyền về GD&ĐT ban hành và được cụ thể hóa để tổ chức thực hiện ở
Trung tâm. Quản lý việc xây dựng kế hoạch là khâu trọng yếu, quyết định
chất lượng, hiệu quả của HĐDH ở Trung tâm.
Quản lý chương trình, nội dung, kế hoạch dạy học là nhiệm vụ của tất
cả các cấp quản lý của Trung tâm. Thông qua việc quản lý xây dựng kế hoạch
học tập, đảm bảo cho HĐDH được tổ chức chặt chẽ, khoa học, tránh sự chồng
chéo và tùy tiện trong các HĐDH.
Quản lý chương trình, nội dung, kế hoạch dạy học phải thực hiện tốt

phân cấp quản lý, quy trình thực hiện và phê duyệt. Trước hết, Trung tâm chỉ
đạo tổ chuyên môn xây dựng chương trình nội dung kế hoạch dạy học. Kế
hoạch dạy học phải đảm bảo cấu trúc của chương trình, nội dung theo hướng
chuẩn hóa, hệ thống cơ bản và toàn diện theo quy định chuẩn kiến thức các
môn học mà giáo viên giảng dạy.
Trên cơ sở kế hoạch dạy học tổng thể của Trung tâm và kế hoạch dạy
học của tổ bộ môn để triển khai đến từng giáo viên.
Trung tâm chỉ đạo tổ bộ môn và từng giáo viên xây dựng kế hoạch dạy
học thông qua Ban Gám đốc Trung tâm phê duyệt và triển khai thực hiện.
Trung tâm và tổ bộ môn quản lý chặt chẽ các bước, các khâu trong xây dựng
kế hoạch của Trung tâm, tổ bộ môn và của từng giáo viên.
24


Quản lý chương trình, nội dung, kế hoạch dạy học cần tập trung vào
quản lý đánh giá, kiểm tra việc tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch giảng
dạy từng môn học của giáo viên so với mục tiêu đào tạo của Trung tâm và
những yêu cầu đổi mới GD&ĐT hiện nay.
Quá trình tổ chức thực hiện, các phòng ban chức năng của Trung tâm giúp
Trung tâm trong việc chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra việc xây dựng và tổ chức thực
hiện kế hoạch dạy học, phát hiện, giải quyết những vướng mắc, bất cập để điều
chỉnh, bổ sung kịp thời, đảm bảo HĐDH ở Trung tâm đạt chất lượng cao.
1.2.2. Quản lý hoạt động dạy của giáo viên
Quản lý việc lập kế hoạch giảng dạy của giáo viên
Hoạt động giảng dạy của giáo viên giữ vai trò quan trọng, là một trong
những nhân tố quyết định đến chất lượng của HĐDH. Do vậy, quản lý tốt
HĐDH của giáo viên là một yêu cầu cấp thiết. Để HĐDH của giáo viên có nề
nếp, trước hết Trung tâm phải quản lý việc lập kế hoạch giảng dạy của từng
giáo viên. Kế hoạch dạy học của từng giáo viên phải xác định rõ mục tiêu, nội
dung, thời gian... của HĐDH. Kế hoạch dạy học của giáo viên về thực chất là

thời khóa biểu của mỗi giáo viên trong hàng tuần, hàng quý và cả năm học.
Quản lý phân công giảng dạy cho giáo viên
Trung tâm phải thực hiện tốt việc quản lý phân công giảng dạy cho giáo
viên. Căn cứ vào năng lực, trình độ chuyên môn của giáo viên và số lượng các
tiết học của các môn học để phân công giảng dạy cho các giáo viên một cách
hợp lý. Đảm bảo cho giáo viên ngoài số giờ giảng dạy đều có điều kiện, thời
gian tham gia vào các điều kiện giáo dục khác của Trung tâm để họ gắn kết
với tập thể giáo viên và giao tiếp với học sinh.
Quản lý việc chuẩn bị thực hiện giảng dạy
Quản lý việc chuẩn bị thực hiện giảng dạy của giáo viên giữ vai trò
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học.
Nội dung quản lý việc chuẩn bị thực hiện giảng dạy của giáo viên tập
25


trung vào quản lý tốt vào các hoạt động chính của giáo viên như sau:
Quản lý hoạt động soạn bài giảng. Soạn bài giảng là khâu quan trọng
trong hoạt động chuẩn bị giảng dạy của giáo viên. Soạn bài giảng đòi hỏi
người giáo viên phải sáng tạo trong suy nghĩ, lựa chọn các nội dung phương
pháp và hình thức dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh của Trung tâm,
đồng thời đáp ứng được yêu cầu của chương trình dạy học. Quản lý soạn bài
giảng của giáo viên đòi hỏi phải đảm bảo các yêu cầu: đảm bảo tính tư tưởng,
tính giáo dục của bài giảng; đúng quy chế, đầy đủ, có nề nếp, nghiêm túc và
đảm bảo chất lượng, chống việc soạn bài giảng một cách hình thức, đối phó;
không sao chép, dập khuôn máy móc các bài giảng của giáo viên khác hoặc
của những năm trước
Quản lý giờ dạy trên lớp của giáo viên
Hoạt động dạy trên lớp học là hình thức hoạt động cơ bản trong HĐDH
của giáo viên. Để quản lý tốt hoạt động giảng dạy trên lớp của giáo viên,
Trung tâm cần phải nghiên cứu xây dựng được quy trình đánh giá chuẩn giờ

giảng, đồng thời hướng dẫn tổ chức thực hiện nề nếp, hiệu quả hoạt động
giảng dạy trên lớp của giáo viên.
Nội dung quản lý hoạt động giảng dạy trên lớp của giáo viên cần tập
trung quản lý việc tuân thủ giáo án của giáo viên và kế hoạch dạy học đã được
phê duyệt. Quản lý hoạt động giảng dạy trên lớp của giáo viên đảm bảo cho
giáo viên dạy đúng, dạy đủ các nội dung, các bài học theo tiến độ kế hoạch đã
xác định.
Trung tâm cần phải đánh giá hoạt động giảng dạy trên lớp của giáo viên
đối với việc đổi mới nội dung và phương pháp, hình thức giảng dạy.
Thông qua quản lý hoạt động giảng dạy trên lớp của giáo viên để kịp
thời điều chỉnh, uốn nắn những hạn chế, thiếu sót, giúp cho giáo viên trưởng
thành, tích lũy những kinh nghiệm để nâng cao chất lượng HĐDH.
Quản lý hồ sơ chuyên môn của giáo viên
26


×