Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý bồi DƯỠNG CHUYÊN môn NGHIỆP vụ CHO đội NGŨ GIÁO VIÊN mầm NON QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.32 KB, 119 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG
CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ CHO ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN MẦM NON
1.1 Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2 Nội dung quản lý bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho
đội ngũ giáo viên mầm non
1.3 Những yếu tố tác động đến quản lý bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên mầm non
Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG
CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ CHO ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN MẦM NON QUẬN HOÀN KIẾM,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1 Khái quát chung về giáo dục mầm non quận Hoàn
Kiếm, thành phố Hà Nội
2.2 Thực trạng bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ
giáo viên mầm non quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
2.3 Thực trạng quản lý bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
cho đội ngũ giáo viên mầm non quận Hoàn Kiếm, thành
phố Hà Nội
Chương 3 CÁC BIỆN PHÁP VÀ KHẢO NGHIỆM CÁC BIỆN
PHÁP QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN
NGHIỆP VỤ CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN MẦM
NON QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1 Các biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
cho đội ngũ giáo viên mầm non quận Hoàn Kiếm, thành
phố Hà Nội
3.2 Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp đề xuất


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

3

12
12
23
26

33
33
38

43

62

62
87
95
98
101


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại

hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế
QLGD, phát triển ĐNGV và CBQLGD là khâu then chốt"[20] và "GD&ĐT
có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người
Việt Nam”.
Giáo dục MN là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc
học nền tảng cho sự phát triển nguồn lực con người, phục vụ trực tiếp cho
mục tiêu phổ cập giáo dục ở các bậc học. Việc chăm lo phát triển GDMN là
trách nhiệm chung của các cấp chính quyền, của mỗi ngành, mỗi gia đình và
toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Hiện nay, ngành GDMN ở nước ta đã có những tiến bộ nhiều mặt trong
việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ. Tại các thành phố, quận, huyện…
ngành GDMN phát triển khá mạnh mẽ cả về chất lượng và số lượng. Các bậc
cha mẹ đã có niềm tin vào các trường mầm non và có nhu cầu bức thiết đưa
con đến trường.
Đảng ta luôn coi trọng sự phát triển khoa học công nghiệp cùng với
GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngành giáo dục có nhiệm vụ đào tạo ra
nguồn nhân lực có chất lượng cao về trí tuệ, đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, GDMN có vai
trò đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát
triển nhân cách con người. Luật Giáo dục, Chương II, Mục 1, Điều 22 có ghi:
“Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ
em vào học lớp một” [43]. Muốn đạt được mục tiêu giáo dục trên, vấn đề đầu


tiên chúng ta cần quan tâm là năng lực sư phạm của ĐNGV, bởi đây là người
trực tiếp tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Và muốn đạt được mục tiêu GDMN đề ra, đòi hỏi người GVMN phải

có kiến thức văn hóa cơ bản, phải được trang bị một hệ thống các kiến thức
khoa học về chăm sóc giáo dục trẻ, phải có kĩ năng lập kế hoạch, tổ chức các
hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ mầm non, kĩ năng giao tiếp với trẻ, phụ
huynh, đồng nghiệp, cộng đồng,… Đồng thời thường xuyên tự trau dồi bồi
dưỡng cho bản thân về những kiến thức mới, công nghệ thông tin. Để có được
những năng lực sư phạm trên, người GVMN cần không ngừng học tập, rèn
luyện tại trường, tự học tập một cách nghiêm túc và thường xuyên.
Muốn có ngôi trường mạnh thì phải có ĐNGV giỏi, nhưng điều hành
như thế nào để họ tận tâm với nghề lại có trách nhiệm cao trong tập thể, phối
hợp nhịp nhàng, đồng thuận, vì mục tiêu chung của trường, trách nhiệm này
lại là của các nhà quản lý.
Vì vậy vai trò của ĐNGV là cực kỳ quan trọng. Muốn chỉ đạo và điều
hành ĐNGV để họ tận tâm với nghề, có trách nhiệm cao với tinh thần tập thể,
phối hợp tốt trong công việc và đồng thuận vì mục tiêu lớn của trường đòi hỏi
người quản lý phải có những giải pháp hợp lý để bồi dưỡng xây dựng ĐNGV
góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ.
Theo báo cáo tại Hội thảo: “Phát triển chăm sóc và giáo dục mầm non
Việt Nam”, hiện nay có trên 90% GVMN có trình độ đạt chuẩn là từ Trung
cấp sư phạm mầm non trở lên, trong đó 28% trên chuẩn và khoảng 60% đạt
chuẩn nghề nghiệp theo quy định. Tuy tỉ lệ GVMN đạt chuẩn đào tạo khá
cao, nhưng phần lớn được đào tạo chắp vá qua nhiều thế hệ, nhiều loại hình
đào tạo nên năng lực thực tế chưa tương xứng với trình độ đào tạo.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Quản lý bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên mầm non quận Hoàn Kiếm,
thành phố Hà Nội” để nghiên cứu, góp phần nâng cao chất lượng ĐNGVMN
của quận Hoàn Kiếm trong giai đoạn tiếp theo.


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, nước ta đã xây dựng được

một hệ thống giáo dục liên thông và hoàn chỉnh từ GDMN đến giáo dục đại
học đáp ứng một cách tích cực nhu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và
bồi dưỡng nhân tài của xã hội. Trong suốt tiến trình đó hệ thống giáo dục Việt
Nam không ngừng xây dựng và phát triển ĐNGV với quan điểm: Chất lượng
ĐNGV là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng giáo dục.
Nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu về bồi dưỡng ĐNGV và quản lý bồi
dưỡng ĐNGV. Đề tài cấp Bộ “Các giải pháp bồi dưỡng để nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên tiểu học Đồng bằng song Cửu Long”, do tác giả
Nguyễn Thị Quy làm chủ nhiệm, đã tiến hành khảo sát thực trạng ĐNGV tiểu
học và thực trạng dạy học tiểu học ở đồng bằng sông Cửu Long, trên cơ sở đó
đề xuất các giải pháp bồi dưỡng nâng cao chất lượng ĐNGV tiểu học Đồng
bằng sông Cửu Long.
Tác giả Nguyễn Thị Hải trong bài: “Bồi dưỡng năng lực sư phạm cho
giáo viên trung học chuyên nghiệp” đã luận giải vai trò của giáo dục trung học
chuyên nghiệp và cho rằng việc tổ chức giảng dạy phải phát huy được tính tích
cực của người học, vì thế cần xây dựng chương trình bồi dưỡng cho giáo viên
đảm bảo cho họ thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục đào tạo đặt ra.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Hồng Lượng “Những giải pháp bồi
dưỡng giáo viên trường dạy nghề” (1996) đã đề cập đến thực trạng bồi dưỡng
giáo viên ở các trường dạy nghề và đề xuất những giải pháp bồi dưỡng và
quản lý bồi dưỡng giáo viên trường dạy nghề.
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục của tác giả Vũ Thị Minh
Hà (2004) “Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên mầm non Hà Nội”
đã làm rõ cơ sở lý luận của các biện pháp quản lý công tác giáo viên mầm non
và đánh giá thực trạng công tác bồi dưỡng giáo viên mầm non Hà Nội. Trên cơ
sở đó, tác giả đã đề xuất hệ thống biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng giáo
viên mầm non Hà Nội, trong đó có những biện pháp mang tính đột phá như chỉ


đạo đổi mới phương pháp, hình thức bồi dưỡng; đổi mới nội dung bồi dưỡng

và phát huy vai trò tự bồi dưỡng của giáo viên mầm non Hà Nội.
Tác giả Nguyễn Thị Thảnh với đề tài luận văn thạc sĩ QLGD: “Tổ chức
hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực ở Ban Quản lý đầu tư xây dựng khu đô thị
mới Thủ Thiêm” (2013), đã luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn bồi
dưỡng nguồn nhân lực ở Ban quản lý đầu tư xây dựng khu đô thị mới Thủ
Thiêm, thực trạng chất lượng nguồn nhân lực và bồi dưỡng nguồn nhân lực để
đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực của Ban.
Tác giả Lê Thị Kim Trinh, với đề tài luận văn thạc sĩ QLGD: “Tổ chức
bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” (2013), đã luận giải những vấn đề cơ bản về
tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm của giáo viên dạy nghề trang điểm. Trên
cơ sở đó đề xuất 4 biện pháp bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy
nghề trang điểm thẩm mỹ: xây dựng kế hoạch; tổ chức hoạt động bồi dưỡng;
kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động tự bồi dưỡng.
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục của tác Phan Thị Hán
Huệ (2014) “Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên
mầm non huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu” đã luận giải những vấn đề
lý luận về năng lực sư phạm của giáo viên mầm non; hoạt động bồi dưỡng
năng lực sư phạm và quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo
viên mầm non. Để nâng cao năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non, tác giả
đã đề xuất 5 biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho
giáo viên mầm non huyện Châu Đức tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu bao gồm những
biện pháp từ việc phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cơ quan chuyên môn;
xây dựng và thực hiện tổ chức kế hoạch bồi dưỡng cho đến thường xuyên
kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động bồi dưỡng.
Tóm lại, các công trình và các luận văn nêu trên đã luận giải ở nhiều
khía cạnh khác nhau, về bồi dưỡng ĐNGV và quản lý bồi dưỡng ĐNGV với



tư cách là chủ thể của hoạt động GD&ĐT trong các nhà trường. Các công
trình đều khẳng định tầm quan trọng của bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng
ĐNGV. Đã làm rõ được nhiều vấn đề cơ sở lý luận thực tiễn của bồi dưỡng và
quản lý bồi dưỡng ĐNGV.
Qua việc nghiên cứu, tham khảo các công trình nghiên cứu nêu trên, có
thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Một là, các công trình nghiên cứu chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu cơ sở
khoa học của việc bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng ĐNGV. Một số công trình
đề cập đến bồi dưỡng và quản bồi dưỡng ở từng lĩnh vực, từng nhà trường
trên những địa bàn, địa danh cụ thể.
Hai là, vấn đề bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng ĐNGV được nhiều tác
giả nghiên cứu chủ yếu ở góc độ lý luận. Còn ít những công trình quan tâm
giải quyết những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn là làm thế nào để bồi dưỡng
và quản lý tốt việc bồi dưỡng ĐNGV, góp phần nâng cao chất lượng GD&ĐT
nói chung và chất lượng của ĐNGV nói riêng.
Ba là, vấn đề bồi dưỡng, quản lý bồi dưỡng ĐNGV tuy đã có những
công trình chuyên khảo, đề tài khoa học, luận văn nghiên cứu ở các khía
cạnh khác nhau, ở các lĩnh vực giáo dục đại học, giáo dục phổ thông, các
nhà trường quân sự nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về bồi dưỡng
và quản lý BDCMNV cho ĐNGVMN quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Do đó, đề tài: “Quản lý bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ
giáo viên mầm non quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội” được tác giả lựa
chọn theo quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện về
giáo dục và đào tạo, xuất phát từ vai trò, vị trí của bậc học mầm non với sự
phát triển toàn diện của trẻ, là một nội dung mới, đáp ứng những đòi hỏi cấp
thiết từ thực tế bồi dưỡng và quản lý BDCMNV cho ĐNGVMN quận Hoàn
Kiếm, thành phố Hà Nội hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu



Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý BDCMNV cho
ĐNGVMN, đề xuất những biện pháp quản lý BDCMNV cho ĐNGVMN, góp
phần nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ trong các trường MN ở quận
Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về bồi dưỡng và quản lý
BDCMNV cho ĐNGVMN.
Khảo sát, phân tích đánh giá thực trạng bồi dưỡng và quản lý
BDCMNV cho ĐNGVMN ở quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội hiện nay.
Đề xuất biện pháp quản lý BDCMNV cho ĐNGVMN quận Hoàn
Kiếm, thành phố Hà Nội.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý ĐNGVMN quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý BDCMNV cho ĐNGVMN quận Hoàn Kiếm, thành phố
Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu vấn đề quản lý BDCMNV cho ĐNGVMN trong
các trường mầm non công lập ở quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Các số liệu điều tra, khảo sát sử dụng để nghiên cứu trong phạm vi 3
năm, từ năm 2011 đến năm 2014.
5. Giả thuyết khoa học
Bồi dưỡng CMNV cho ĐNGVMN là một vấn đề tuy không mới
nhưng rộng và phức tạp, lại bị chi phối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Do
vậy nếu trong quản lý BDCMNV cho ĐNGV, các chủ thể quản lý thực hiện
đồng bộ và có hiệu quả những vấn đề như: Tổ chức giáo dục nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của CBQL và giáo viên; xây dựng kế hoạch bồi dưỡng



CMNV một cách khoa học; tổ chức đổi mới nội dung, hình thức, phương
pháp bồi dưỡng đồng thời kiện toàn tổ chức bộ máy bồi dưỡng; có chính sách
phù hợp khuyến khích bồi dưỡng và tự bồi dưỡng thì sẽ quản lý tốt việc
BDCMNV cho ĐNGVMN, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo
và chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ trong các trường mầm non hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tổ chức nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bồi dưỡng GVMN và quản lý bồi
dưỡng ĐNGVMN. Đồng thời vận dụng các quan điểm logic - lịch sử, hệ
thống - cấu trúc và các quan điểm thực tiễn để xem xét phân tích các vấn đề
có liên quan.
Để hoàn thành công trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của khoa học giáo dục như:
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu, báo cáo có
liên quan đến việc quản lý BDCMNV cho ĐNGVMN quận Hoàn Kiếm,
thành phố Hà Nội. Chú trọng nghiên cứu các tài liệu, báo cáo như: kế hoạch
phát triển GDMN của thành phố Hà Nội; chính sách BDCMNV cho
ĐNGVMN, các kế hoạch quản lý bồi dưỡng, quy hoạch phát triển giáo dục và
GDMN quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội đến năm 2020.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm:
+ Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động quản lý BDCMNV
cho ĐNGVMN của các cấp như: Xây dựng kế hoạch, xây dựng tiến độ thực
hiện, quan sát hoạt động bồi dưỡng với ĐNGV các trường mầm non ở quận
Hoàn Kiếm.
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến
để khảo sát 2 cán bộ lãnh đạo Phòng GD&ĐT quận Hoàn Kiếm; 13 CBQL
các trường mầm non và 55 giáo viên ở một số trường mầm non.



+ Phương pháp phỏng vấn: Thực hiện trao đổi, tọa đàm với 4 cán bộ ở
các cơ quan như Sở GD&ĐT Thành phố, Phòng GD&ĐT Quận và 23 giáo
viên ở một số trường mầm non.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để rút ra những nguyên
nhân, hạn chế và kinh nghiệm quản lý bồi dưỡng ĐNGVMN.
+ Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu điều tra,
khảo sát.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về việc BDCMNV cho
ĐNGVMN.
- Đánh giá đúng thực trạng của việc BDCMNV cho ĐNGVMN và quản
lý BDCMNV cho ĐNGVMN, xác định rõ những nguyên nhân, hạn chế giúp
các chủ thể quản lý nâng cao chất lượng, hiệu quả trong BDCMNV cho
ĐNGVMN góp phần phát triển GDMN quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
- Luận văn được nghiên cứu thành công có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho cán bộ lãnh đạo, các cơ quan hữu quan trong hoạch định chính sách
để BDCMNV cho ĐNGVMN, chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc BDCMNV
cho ĐNGVMN quận Hoàn Kiếm.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn được kết cấu gồm: Phần Mở đầu, 3 chương 8 tiết , Kết luận,
Kiến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN
NGHIỆP VỤ CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN MẦM NON
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Khái niệm đội ngũ giáo viên mầm non
* Giáo viên mầm non
Giáo viên là những người lao động trí óc, thực hiện nhiệm vụ dạy học

trong các nhà trường. Theo Luật Giáo dục (Đã được sửa đổi bổ sung năm


2009) định nghĩa: “Nhà giáo giảng dạy ở các cơ sở GDMN, giáo dục phổ
thông, giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, trung cấp
chuyên nghiệp gọi là giáo viên” [43]. GVMN là người làm nhiệm vụ chăm sóc
giáo dục trẻ trong các trường mầm non gồm: Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng và
các giáo viên.
Giáo viên mầm non phải đạt tiêu chuẩn sau: Phẩm chất đạo đức trong
sáng; đạt trình độ chuẩn về đào tạo chuyên môn; đủ sức khỏe theo yêu cầu
nghề nghiệp; lý lịch bản thân rõ ràng.
Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của GVMN
Theo Điều 29 của Điều lệ trường mầm non, thì GVMN là người làm
nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em trong trường, có những
quyền sau đây:
1. Được nhà trường tạo điều kiện để thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng,
chăm sóc và giáo dục trẻ.
2. Được hưởng mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần và được chăm sóc,
bảo vệ sức khoẻ theo chế độ, chính sách qui định đối với nhà giáo.
3. Được trực tiếp hoặc thông qua tổ chức của mình để tham gia quản lý
nhà trường.
4. Được cử đi học để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
5. Được hưởng các quyền khác theo qui định của pháp luật.
* Đội ngũ giáo viên mầm non
Khái niệm đội ngũ được dùng một cách rộng rãi cho các tổ chức xã hội
như: đội ngũ cán bộ công chức, đội ngũ văn nghệ sĩ, đội ngũ trí thức… đều
xuất phát từ cách hiểu thuật ngữ trong quân sự về đội ngũ : “Đó là một tổ
chức gồm nhiều người, tập hợp thành một lực lượng”. Theo Từ điển Tiếng
Việt thì đội ngũ là: “Số đông người sắp xếp có thứ tự” [47]. Theo lý luận khoa
học quản lý thì đây là một đội công tác, trong đó các cá nhân kết hợp với

nhau, thường xuyên trau dồi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau để đạt được mục
tiêu và kế hoạch của tổ chức đặt ra.


Các khái niệm về đội ngũ tuy khác nhau, nhưng đều thống nhất cho
rằng: Đội ngũ là một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực
lượng để thực hiện một hay nhiều nhiệm vụ, có chung một mục đích nhất
định. Đội ngũ là tập hợp gồm nhiều cá thể, hoạt động qua sự phân công, hợp
tác lao động, có chung mục đích, lợi ích và ràng buộc với nhau bằng trách
nhiệm pháp lý.
Trong giáo dục, thuật ngữ đội ngũ được sử dụng rộng rãi như: ĐNGV,
đội ngũ CBQL, đội ngũ học sinh, đội ngũ sinh viên…
Từ điển Văn hóa Giáo dục Việt Nam định nghĩa: “ĐNGV là tập thể
những người đảm nhiệm công tác giáo dục và dạy học có đủ tiêu chuẩn đạo
đức, chuyên môn và nghiệp vụ quy định. Là lực lượng quyết định hoạt động
giáo dục của nhà trường” [30].
Như vậy, có thể hiểu: ĐNGV là tập hợp những người làm công tác
giáo dục và dạy học ở một cơ sở trường học hay một cấp học, một ngành học
nhằm thực hiện các mục tiêu giáo dục đã đề ra.
Từ những phân tích nêu trên, có thể xác định khái niệm ĐNGVMN như
sau: ĐNGVMN là tập hợp những người thực hiện các hoạt động chăm sóc
giáo dục trẻ ở các trường mầm non, có đầy đủ tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức,
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Nhà nước .
Đội ngũ GVMN có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Họ là những
người trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ ở trường mầm non, góp phần phát triển
và hoàn thiện nhân cách cho trẻ.
Đội ngũ giáo viên là lực lượng nòng cốt của chương trình cải cách và
đổi mới giáo dục, là những người trực tiếp thực hiện mục tiêu giáo dục và là
nhân tố quan trọng quyết định sự nghiệp GD&ĐT.
1.1.2 .Khái niệm bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo

viên mầm non
* Bồi dưỡng


Bồi dưỡng là một thuật ngữ được sử dụng khá rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
khác nhau. Thuật ngữ bồi dưỡng còn được gọi là đào tạo lại hoặc tái đào tạo.
Bồi dưỡng có ý nghĩa nâng cao trình độ nghề nghiệp. Quá trình này chỉ
diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kĩ năng
CMNV của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp. Theo Từ
điển Tiếng Việt: “Bồi dưỡng là làm cho tốt hơn, giỏi hơn” [47]. Từ điển Văn hóa
Giáo dục Việt Nam định nghĩa: “Bồi dưỡng giáo viên là quá trình đào tạo
nhằm nâng cao và hoàn thiện năng lực sư phạm của giáo viên. Đây là hoạt
động đào tạo lại, giúp giáo viên cập nhật được những kiến thức khoa học
chuyên ngành, tiếp thu kinh nghiệm giáo dục tiên tiến, từ đó nâng cao trình
độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm” [30].
Tuy nhiên, khái niệm bồi dưỡng có những cách hiểu khác nhau. Theo
nghĩa rộng, bồi dưỡng là quá trình đào tạo nhằm hình thành năng lực và phẩm
chất nhân cách theo mục tiêu xác định. Như vậy, bồi dưỡng bao hàm cả quá
trình GD&ĐT nhằm trang bị tri thức, năng lực, CMNV và những phẩm chất
nhân cách.
Quá trình bồi dưỡng, được hiểu theo nghĩa rộng diễn ra cả trong nhà
trường và trong đời sống xã hội, có nhiệm vụ không những chỉ trang bị những
kiến thức, năng lực chuyên môn cho người học trong nhà trường mà còn tiếp
tục bổ sung, phát triển, cập nhật nhằm hoàn thiện phẩm chất và năng lực cho họ
sau khi đã kết thúc quá trình học tập.
Theo nghĩa hẹp, bồi dưỡng là quá trình bổ sung, phát triển, hoàn thiện
nâng cao kiến thức, năng lực chuyên môn và những phẩm chất, nhân cách.
Hoạt động này diễn ra sau quá trình người học kết thúc chương trình GD&ĐT
ở nhà trường. Như vậy, theo nghĩa hẹp, bồi dưỡng là một bộ phận của quá
trình GD&ĐT, là khâu tiếp nối GD&ĐT con người khi họ đã có những tri

thức, năng lực chuyên môn và phẩm chất nhân cách nhất định được hình
thành trong quá trình đào tạo của nhà trường.


Bồi dưỡng là một quá trình cập nhật kiến thức và kỹ năng còn thiếu
hoặc đã lạc hậu trong một cấp học, bậc học và thường được xác nhận bằng
một chứng chỉ. Thực chất của quá trình bồi dưỡng là để bổ sung tri thức và kỹ
năng còn thiếu hụt, hoặc đã lạc hậu để nâng cao trình độ, phát triển thêm năng
lực trong một lĩnh vực hoạt động chuyên môn, dưới một hình thức phù hợp.
Đào tạo là quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những
kinh nghiệm, những tri thức, những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, chuyên
môn, đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất, đạo đức cần thiết và chuẩn bị
tâm thế cho người học đi vào cuộc sống lao động tự lập và góp phần xây dựng
và bảo vệ đất nước; hoặc là cách tiến hành hỗ trợ bồi dưỡng nhằm nâng cao
năng lực, phẩm chất phù hợp với các cơ quan tổ chức.
Đào tạo và bồi dưỡng GVMN là hai giai đoạn học tập có liên quan mật
thiết với nhau trong quá trình hình thành và phát triển nghề dạy học ở cấp
mầm non. Đào tạo là giai đoạn đầu hình thành năng lực và phẩm chất cần
thiết của GVMN để hành nghề. Còn BDCMNV cho GVMN là giai đoạn nối
tiếp tất yếu đối với hoạt động đào tạo nghề nghiệp. Cả đào tạo và BDCMNV
cho GVMN đều có chung một mục tiêu là giúp người học đạt được mức hoàn
thiện về tiêu chuẩn của nghề dạy học đã chọn.
* Chuyên môn nghiệp vụ
Theo Từ điển Văn hóa Giáo dục Việt Nam: “Chuyên môn là tổ hợp các
tri thức và kỹ xảo thực hành mà con người tiếp thu được qua đào tạo để có
khả năng thực hiện một loạt công việc trong phạm vi một ngành nghề nhất
định, theo phân công lao động xã hội [30].
Chuyên môn sư phạm là một ngành khoa học về lĩnh vực giáo dục, đào
tạo có nội dung và phương pháp sư phạm riêng biệt, chuyên môn sư phạm đòi
hỏi các nhà giáo dục của mình còn phải biết truyền thụ tri thức nghề nghiệp

cho học sinh.
Đối với GVMN, ở góc độ CMNV, là sự nhận thức đầy đủ về công
việc chăm sóc, giáo dục trẻ, là tấm lòng yêu trẻ, yêu nghề, có kỹ năng lựa


chọn những phương pháp giảng dạy, chăm sóc giáo dục trẻ có hiệu quả.
Ngoài ra, GVMN còn biết quan tâm đến những vấn đề mà ngành học mầm
non đang giải quyết. Ở góc độ khoa học giáo dục, CMNV của ĐNGVMN là
sự hiểu biết về tâm lý học, giáo dục học; nắm vững các kỹ năng giảng dạy,
chăm sóc giáo dục trẻ đến mức hoàn thiện trong công việc của mình.
Những giáo viên như vậy, ngoài hiệu quả đào tạo của nhà trường sư phạm
và tự bồi dưỡng, rèn luyện bản thân, còn phụ thuộc không ít vào vai trò quản
lý trường học của Hiệu trưởng trong quan tâm BDCMNV cho giáo viên.
Bồi dưỡng CMNV cho ĐNGV thể hiện quan điểm giáo dục hiện đại,
đó là: “Đào tạo liên tục và học tập suốt đời”. Nội dung bồi dưỡng được triển
khai ở các mức độ khác nhau, phù hợp cho từng đối tượng cụ thể. Sau khi
được bồi dưỡng, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và năng lực CMNV của giáo
viên được gia tăng, đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực giáo dục trong
hiện tại và trong tương lai của nhà trường.
Như vậy, có thể hiểu BDCMNV là quá trình bổ sung sự thiếu hụt về tri
thức, năng lực chuyên môn, cập nhật những cái mới để hoàn thiện hệ thống tri
thức, năng lực CMNV nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Bồi dưỡng là một
khâu tiếp nối quá trình đào tạo.
Từ cách tiếp cận trên, có thể đưa ra khái niệm: BDCMNV cho
ĐNGVMN là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể tới
ĐNGV để bổ sung, cập nhật kiến thức, năng lực CMNV, nâng cao đạo đức
nghề nghiệp nhà giáo, đảm bảo cho ĐNGVMN có phẩm chất và năng lực đáp
ứng yêu cầu chăm sóc giáo dục trẻ trong thời kỳ mới.
Mục đích bồi dưỡng: BDCMNV vụ cho ĐNGV là nhằm từng bước xây
dựng và hoàn thiện phẩm chất, năng lực sư phạm của người GVMN, phát triển

đội ngũ nhà giáo theo chuẩn nghề nghiệp.
Chủ thể bồi dưỡng: ban giám hiệu các nhà trường; cán bộ lãnh đạo,
CBQLGD cơ quan cấp trên và giáo viên được phân công làm nhiệm vụ
bồi dưỡng.


Đối tượng bồi dưỡng: ĐNGV của nhà trường, họ vừa là đối tượng bồi
dưỡng, vừa là chủ thể của quá trình bồi dưỡng. Quá trình bồi dưỡng chỉ thực sự
đạt hiệu quả khi người giáo viên biến quá trình bồi dưỡng thành tự bồi dưỡng.
Nội dung bồi dưỡng:
Bồi dưỡng CMNV là một việc không thể thiếu của người giáo viên
trong suốt quá trình công tác. Mỗi giáo viên cần phải có một trình độ chuyên
môn vững chắc, sâu rộng. Vì vậy, giáo viên cần được bồi dưỡng những kiến
thức cập nhật. Đối với những giáo viên chưa đạt trình độ chuẩn thì được bồi
dưỡng để đạt chuẩn theo quy định. Trên cơ sở những kiến thức chuyên môn
chắc chắn mới thể hiện kỹ năng sư phạm nhuần nhuyễn. Có nghĩa là người
giáo viên có một trình độ chuyên môn vững vàng, kiến thức sâu sắc, toàn diện
là cơ sở cho việc cải tiến phương pháp dạy học và hoàn thiện nghiệp vụ sư
phạm. Việc bồi dưỡng để hoàn thiện kỹ năng sư phạm là cần thiết và phù hợp
với khả năng của các trường, là hình thức phổ biến thường làm ở các trường.
Nội dung BDCMNV cho ĐNGVMN hết sức phong phú và đa dạng, có
tính toàn diện, từ những tri thức cơ bản, tri thức CMNV; kỹ năng, kỹ xảo sư
phạm đến các hệ giá trị nghề nghiệp… Cụ thể như sau:
Bồi dưỡng kiến thức
Bồi dưỡng kiến thức cơ bản về GDMN, về chăm sóc sức khỏe lứa tuổi
mầm non; các kiến thức cơ sở chuyên ngành; các kiến thức phổ thông về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội liên quan đến GDMN.
Bồi dưỡng những kỹ năng về chăm sóc, giáo dục trẻ
Bồi dưỡng về kỹ năng lập kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ theo năm
học, tháng, tuần; lập kế hoạch phối hợp với cha mẹ của trẻ để thực hiện mục

tiêu chăm sóc, giáo dục trẻ.
Bồi dưỡng kỹ năng tổ chức thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe
cho trẻ như: tổ chức môi trường nhóm, lớp đảm bảo vệ sinh an toàn cho trẻ; tổ
chức bữa ăn, giấc ngủ; rèn luyện cho trẻ một số kỹ năng tự phục vụ; phòng
tránh và xử trí ban đầu một số bệnh, tai nạn thường gặp đối với trẻ.


Bồi dưỡng kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục trẻ: tổ chức các hoạt
động giáo dục theo hướng tích hợp, phát huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ,
môi trường giáo dục phù hợp với điều kiện của nhóm, lớp; sử dụng hiệu quả
đồ dùng, đồ chơi (kể cả đồ dùng, đồ chơi tự làm) và các nguyên vật liệu vào
việc tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ; quan sát, đánh giá và có phương pháp
chăm sóc, giáo dục trẻ phù hợp.
Bồi dưỡng kỹ năng quản lý lớp học, đảm bảo an toàn cho trẻ; xây
dựng và thực hiện kế hoạch quản lý nhóm, lớp gắn với kế hoạch hoạt động
chăm sóc, giáo dục trẻ; sắp xếp, bảo quản đồ dùng, đồ chơi, sản phẩm của
trẻ phù hợp với mục đích chăm sóc – giáo dục…
Bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp, ứng xử với trẻ một cách gần gũi, tình
cảm; giao tiếp, ứng xử với đồng nghiệp một cách chân tình, cởi mở, thẳng
thắn; gần gũi, tôn trọng và hợp tác trong giao tiếp, ứng xử với cha mẹ trẻ;
giao tiếp, ứng xử với cộng đồng trên tinh thần hợp tác.
Hình thức, phương pháp bồi dưỡng: BDCMNV cho ĐNGVMN rất đa
dạng và phong phú, về cơ bản có những hình thức, phương pháp sau: bồi
dưỡng chuẩn hóa và nâng chuẩn; bồi dưỡng thường xuyên và định kỳ; bồi
dưỡng tại chỗ; bồi dưỡng cập nhật; tự bồi dưỡng…
Tùy theo nội dung và các điều kiện hiện có, các trường mầm non
thường có các hình thức bồi dưỡng sau:
Bồi dưỡng tại chỗ: Dự giờ, thăm lớp lẫn nhau; Tổ chức chuyên đề; Tổ
chức rút kinh nghiệm sau mỗi buổi sinh hoạt chuyên môn, học kì, mỗi năm
học; Các giáo viên trong trường giúp đỡ lẫn nhau, làm việc theo cặp hoặc

theo tổ. Giáo viên giỏi giúp giáo viên còn yếu về chuyên môn, giáo viên có
kinh nghiệm giảng dạy giúp giáo viên mới ra trường; Tổ chức cho giáo viên
giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong trường hoặc với các trường bạn; Tạo
điều kiện cho giáo viên tham dự các hội thảo, semina.
Bồi dưỡng thường xuyên: Là bồi dưỡng theo chu kỳ cho GVMN để họ
được bổ sung các kiến thức thiếu hụt và cập nhật kiến thức mới về chủ


trương, đường lối giáo dục, về nội dung chương trình, phương pháp giáo dục
trẻ. Việc bồi dưỡng này rất thiết thực, đòi hỏi mỗi giáo viên phải có ý thức tự
bồi dưỡng, thường xuyên trau dồi kiến thức, nếu không sẽ khó có thể dạy tốt
chương trình mới.
Bồi dưỡng thông qua tự học, tự nghiên cứu, với các yêu cầu như: Phát
huy hình thức tự bồi dưỡng, kết hợp nghe giảng, trao đổi, thảo luận; tăng
cường thực hành, rút kinh nghiệm, chia sẻ cùng đồng nghiệp; chú trọng sử
dụng các thiết bị, phương tiện, đồ dùng dạy học. Bồi dưỡng là loại hình của
hoạt động dạy và học. Yếu tố nội lực trong dạy học là tự học; yếu tố nội lực
trong bồi dưỡng là tự bồi dưỡng. Trong bồi dưỡng, việc tự bồi dưỡng sẽ
phát huy hiệu quả tối ưu khi có sự định hướng của người hướng dẫn của tổ
chức và có sự tác động đúng hướng của quản lý. Bồi dưỡng tập trung chỉ có
hiệu quả khi được quản lý hợp lý và phải dựa trên cơ sở ý thức tự giác và tự
bồi dưỡng của người học.
Phương pháp bồi dưỡng:
Phương pháp bồi dưỡng giáo viên là khâu đột phá có tính chất quyết
định đến chất lượng và hiệu quả bồi dưỡng. Do vậy cần chú trọng vận dụng
những phương pháp học tập của GVMN trong các chương trình bồi dưỡng
theo phương châm lấy tự học, tự bồi dưỡng là chính. Lôi cuốn, hướng dẫn cho
GVMN tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập với sự trợ giúp của tài liệu
và phương tiện nghe nhìn, luôn phát hiện, tìm tòi, không cứng nhắc, gò bó,
rập khuôn theo những gì đã có trong tài liệu.

Tăng cường phương pháp học tập theo nhóm, trong từng tập thể sư
phạm, nêu thắc mắc, tự giải đáp ở tổ, nhóm, mời các chuyên gia giải đáp…
Tạo điều kiện cho giáo viên được đóng góp kinh nghiệm bản thân vào xây
dựng nội dung chương trình, đổi mới phương pháp dạy học.
Tóm lại, phương pháp bồi dưỡng là phương pháp dạy học cho người
lớn, là những người đã có phương pháp sư phạm nên phương pháp bồi


dưỡng phải linh hoạt, phù hợp, nghiêng về phương pháp tự học, tự nghiên
cứu trên cơ sở hướng dẫn khai thác nhiều kênh thông tin. Hiện nay, khai
thác những tiến bộ của khoa học công nghệ trong hoạt động bồi dưỡng đang
được khuyến khích.
Chất lượng hiệu quả của hoạt động BDCMNV cho ĐNGV phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố, mà chủ yếu và trực tiếp phụ thuộc vào công tác tổ chức
với những biện pháp cụ thể, khoa học, sự phối hợp chặt chẽ của nhà quản lý và
hoạt động tự học, tự bồi dưỡng, tự hoàn thiện của ĐNGV trong nhà trường.
Trong quá trình bồi dưỡng vai trò chủ thể của ĐNGVMN là một trong những
yếu tố quyết định chất lượng hoạt động sư phạm thông qua con đường tự học,
tự hoàn thiện, tự bồi dưỡng nhằm phát huy nội lực của mỗi cá nhân.
Như vậy, BDCMNV cho ĐNGVMN, là quá trình diễn ra liên tục thường
xuyên, là quá trình tạo cơ hội cho giáo viên tham gia vào các hoạt động học tập,
giáo dục cả trong và ngoài nhà trường để cập nhập, bổ sung kiến thức, kỹ năng
CMNV; bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực sư
phạm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp GD&ĐT.
1.1.3. Khái niệm quản lý bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ
giáo viên mầm non
Quản lý là một hoạt động có từ rất lâu, nhà Sử học Daniel A.Wren đã
từng nhận xét: “Quản lý cũng xưa cũ như chính con người vậy”, có nghĩa là
hoạt động quản lý xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện loài người. Trải qua các
thời kỳ phát triển của xã hội loài người, từ nền văn minh mông muội, đến nền văn

minh lúa nước, nền văn minh công nghiệp và hiện nay xã hội loài người đang bước
vào nền văn minh tri thức thì hoạt động quản lý càng trở nên phổ biến và tiếp tục
khẳng định vai trò của mình trong các hoạt động của đời sống xã hội.
Nói đến hoạt động quản lý người ta hay nhắc đến ý tưởng sâu sắc của
C.Mác (1818-1883): : “Bất cứ lao động hay lao động chung nào mà tiến hành
trên một quy mô khá lớn, đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hòa


những hoạt động cá nhân… Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình,
nhưng một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng” [9]
Vậy quản lý là gì? Đã có rất nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm
này. Theo một số quan niệm của tác giả nước ngoài: F.W.Taylor (1856-1915),
được coi là cha đẻ của Thuyết quản lý khoa học đã định nghĩa: “Quản lý là biết
chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành
công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” [24].
H.Fayol (1841-1925), tác giả của Thuyết quản lý tổng quát, định nghĩa như
sau: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các
hoạt động: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ huy (lãnh đạo) và kiểm tra” [24].
M.P.Follett (1868-1333), đại diện của Thuyết quan hệ con người cho
rằng: “Quản lý là một quá trình động, liên tục, kế tiếp nhau chứ không tĩnh
tại. Bởi một vấn đề đã được giải quyết, thì trong quá trình giải quyết nó, người
quản lý sẽ phải đương đầu với những vấn đề mới nảy sinh” [24].
Theo quan niệm của các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc
“Quản lý” được hiểu là: “quá trình tác động có chủ hướng, có chủ đích của chủ
thể quản lý (người quản lý) đến khách thể (người bị quản lý) trong một tổ chức,
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [10].
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý, song khái niệm quản lý được cụ
thể bởi nội dung sau đây:
Quản lý là một loại hoạt động xã hội, luôn gắn liền với một nhóm người
hay một tổ chức xã hội. Bản chất của hoạt động quản lý, là sự tác động có mục

đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông qua các chức năng quản lý
là kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra giúp cho hệ thống ổn định, thích
ứng, tăng trưởng và phát triển.
Quản lý vừa được xem như là một “khoa học”, sử dụng tri thức của nhiều
môn khoa học tự nhiên và xã hội khác nhau, ví dụ như: toán học, thống kê, kinh
tế, tâm lý học, xã hội học... Đồng thời quản lý được xem như là một “nghệ thuật”,
do đó đòi hỏi các nhà quản lý trong quá trình quản lý phải luôn chủ động, khéo


léo, linh hoạt, tổ chức, điều khiển, hướng dẫn mọi thành viên trong tổ chức cùng
hướng tới mục tiêu đã xác định.
Từ những cách tiếp cận trên, có thể quan niệm: Quản lý BDCMNV cho
ĐNGVMN là những tác động có mục đích, có hệ thống của chủ thể quản lý đến
quá trình xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ bồi dưỡng, đánh giá
kết quả bồi dưỡng nhằm thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ BDCMNV cho
ĐNGVMN, góp phần nâng cao chất lượng ĐNGVMN và chất lượng giáo dục,
nuôi dạy trẻ của nhà trường mầm non.
Mục tiêu quản lý
Quản lý BDCMNV cho ĐNGVMN, là một nội dung quan trọng, cơ bản
trong công tác quản lý giáo viên. Mục tiêu quản lý bồi dưỡng GVMN, là tạo
dựng môi trường và những điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt mục tiêu, kế
hoạch bồi dưỡng cho giáo viên, nâng cao trình độ CMNV cho ĐNGV đạt
chuẩn quốc gia đáp ứng với yêu cầu GDMN hiện nay. Mục tiêu quản lý bồi
dưỡng hướng vào phát triển phẩm chất chính trị đạo đức, lối sống; năng lực
tìm hiểu đối tượng và môi trường dạy học; năng lực thực hiện các hoạt động
dạy học; năng lực thực hiện các hoạt động giáo dục; năng lực thực hiện các
hoạt động chính trị, xã hội; năng lực phát triển nghề nghiệp…
Chủ thể quản lý bồi dưỡng cho ĐNGVMN gồm chủ thể trực tiếp và
chủ thể gián tiếp. Chủ thể trực tiếp là tổ trưởng tổ chuyên môn, ban giám hiệu
nhà trường mầm non, chuyên viên phụ trách GDMN, các nhà quản lý thuộc

Sở GD&ĐT. Chủ thể gián tiếp quản lý BDCMNV cho ĐNGVMN là các cấp
ủy đảng, chính quyền địa phương có chức năng và quyền hạn QLGD ở bậc
học mầm non.
Đối tượng quản lý là toàn bộ hoạt động BDCMNV cho ĐNGVMN.
Trong đó quan trọng nhất là quản lý các hoạt động của chủ thể bồi dưỡng và
hoạt động của các đối tượng được bồi dưỡng.
Nội dung quản lý BDCMNV cho ĐNGVMN: Để quản lý BDCMNV cho
ĐNGVMN có hiệu quả, cần tập trung vào những nội dung quản lý cơ bản sau:


quản lý xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch; quản lý việc thực hiện
mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức bồi dưỡng; quản lý chủ thể và đối
tượng bồi dưỡng; quản lý các điều kiện, cơ sở vật chất bồi dưỡng; quản lý tự bồi
dưỡng của giáo viên; quản lý kiểm tra và đánh giá kết quả bồi dưỡng.
1.2. Nội dung quản lý bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ cho đội ngũ giáo viên mầm non
Quản lý BDCMNV cho ĐNGVMN bao gồm những nội dung cơ bản
sau đây:
1.2.1. Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện
kế hoạch bồi dưỡng
Xây dựng kế hoạch là một khâu quan trọng trong quy trình quản lý
BDCMNV cho ĐNGVMN. Khi xây dựng kế hoạch, chủ thể quản lý cần phải
khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng ĐNGV, các nguồn lực,
điều kiện hiện có của nhà trường, bộ máy quản lý và lực lượng bồi dưỡng để
xây dựng và ban hành kế hoạch bồi dưỡng. Kế hoạch cần phải xác định rõ
mục tiêu, nội dung bồi dưỡng, hình thức, phương pháp bồi dưỡng, các lực
lượng bồi dưỡng và tiến độ thực hiện.
Trong tổ chức thực hiện kế hoạch, trước hết cần phải xây dựng quy chế
hoạt động của bộ máy bồi dưỡng, tổ chức điều phối các lực lượng, đảm bảo
điều kiện cơ sở vật chất cho các hoạt động bồi dưỡng, sử dụng và phát huy

vai trò của các lực lượng, các công cụ phương tiện quản lý để bồi dưỡng đạt
hiệu quả cao và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của giáo viên trong
bồi dưỡng và tự bồi dưỡng.
1.2.2. Chỉ đạo tổ chức thực hiện mục tiêu, nội dung, phương pháp và
hình thức bồi dưỡng
Mục tiêu BDCMNV cho ĐNGVMN là mô hình kết quả bồi dưỡng dự
định đạt được. Việc xây dựng mục tiêu bồi dưỡng là vấn đề đặc biệt quan
trọng. Mục tiêu bồi dưỡng là một phần của mục tiêu xây dựng người GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp của Bộ GD&ĐT đã ban hành. Do vậy, mục tiêu bồi
dưỡng ĐNGV chính là góp phần xây dựng ĐNGVMN vững mạnh toàn diện
cả về chính trị, tư tưởng đạo đức và trình độ năng lực CMNV sư phạm. Quản


lý BDCMNV cho ĐNGV phải xây dựng được mục tiêu cụ thể của từng đợt
bồi dưỡng và tổ chức thực hiện mục tiêu bồi dưỡng đã xác định.
Trên cơ sở mục tiêu bồi dưỡng đã xác định, cần xây dựng, lựa chọn các
nội dung bồi dưỡng. Hình thức và phương pháp BDCMNV cho ĐNGV, phải
hết sức linh hoạt, phù hợp với nội dung, với trình độ của giáo viên, lôi cuốn,
hấp dẫn giáo viên, để họ tích cực tham gia vào các hoạt động bồi dưỡng.
1.2.3. Quản lý chủ thể và đối tượng bồi dưỡng
Sau khi đã xây dựng được kế hoạch, xác định mục tiêu, nội dung và
phương pháp bồi dưỡng thì việc quản lý các lực lượng tham gia bồi dưỡng là
một trong những điều kiện quyết định đến chất lượng bồi dưỡng.
Quản lý chủ thể bồi dưỡng bao gồm: Quản lý về số lượng, Quản lý về
trình độ nhận thức, kỹ năng, Quản lý các hoạt động của chủ thể bồi dưỡng, với
mục đích phát huy tối đa vai trò của các chủ thể trong bồi dưỡng ĐNGV.
Đối tượng bồi dưỡng là những giáo viên tại các trường mầm non Quận
Hoàn Kiếm. Quản lý đối tượng bồi dưỡng là quản lý về số lượng, Quản lý về
chất lượng, Quản lý các hoạt động học và tự học, tự bồi dưỡng của đối tượng,
với mục tiêu phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo trong hoạt động bồi

dưỡng và tự bồi dưỡng của ĐNGV.
1.2.4. Quản lý các điều kiện, cơ sở vật chất bồi dưỡng
Bồi dưỡng chỉ đạt hiệu quả cao khi chủ thể quản lý tạo những điều kiện
tốt nhất cho bồi dưỡng như tạo ra những cơ hội cho ĐNGV tham gia vào các
chương trình bồi dưỡng bằng cách cử ĐNGV tham gia các hội thảo chuyên
môn, dự các lớp tập huấn, tham gia các hội nghị sơ kết, tổng kết, rút kinh
nghiệm về GD&ĐT. Tạo những điều kiện thuận lợi như kinh phí, phương tiện
và thời gian để ĐNGV có thể tham gia các hình thức bồi dưỡng, không chỉ ở
trong trường mình mà còn ở bên ngoài trường, ngoài Thành phố...
Chủ thể quản lý một mặt khuyến khích động viên các lực lượng bồi
dưỡng sử dụng hiệu quả trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật dạy học hiện có,
mặt khác quan tâm đầu tư mua sắm thêm những trang thiết bị, phương tiện kỹ
thuật dạy học hiện đại đảm bảo cho bồi dưỡng đạt chất lượng, hiệu quả cao.


1.2.5.Quản lý tự bồi dưỡng của đội ngũ giáo viên mầm non
Bồi dưỡng chỉ đạt hiệu quả cao khi ĐNGV nhận thức được tầm quan
trọng của bồi dưỡng, nỗ lực, tự giác biến quá trình bồi dưỡng thành quá trình
tự bồi dưỡng.
Phải tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho ĐNGV thấy được tính cấp
thiết, tầm quan trọng và ý nghĩa của bồi dưỡng đối với việc hoàn thiện phẩm
chất, tri thức và năng lực CMNV sư phạm của người giáo viên.
Từng giáo viên căn cứ vào năng lực, khả năng và điều kiện của mình
để xây dựng kế hoạch cá nhân về tự bồi dưỡng.
Kế hoạch tự bồi dưỡng của cá nhân phải bao gồm những vấn đề cơ bản
như mục tiêu, nội dung bồi dưỡng, điều kiện đảm bảo và tiến độ thực hiện.
Nhà trường cần tạo điều kiện về thời gian, vật chất, khuyến khích động viên
ĐNGV thực hiện tốt, đúng tiến độ kế hoạch đặt ra.
1.2.6. Kiểm tra, đánh giá kết quả bồi dưỡng
Kiểm tra là một chức năng cơ bản và quan trọng của quản lý. Lãnh

đạo mà không kiểm tra thì xem như không lãnh đạo. Kiểm tra trong quản lý
là một nỗ lực có hệ thống nhằm thực hiện ba chức năng: phát hiện, điều
chỉnh và khuyến khích, thông qua kiểm tra, đánh giá phát hiện những vấn đề
tồn tại để kịp thời điều chỉnh nội dung, phương pháp hình thức bồi dưỡng cho
phù hợp.
Nhờ có kiểm tra mà CBQL có được thông tin để đánh giá thành tựu
công việc và uốn nắn, điều chỉnh hoạt động một cách đúng hướng nhằm đạt
mục tiêu. Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về
kết quả của công việc trên cơ sở những thông tin thu được, đối chiếu với
những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra nhằm đề xuất những quyết định thích
hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả công
việc.
Kiểm tra, đánh giá kết quả BDCMNV cho ĐNGVMN phải được tiến
hành một cách chính xác, khoa học, khách quan và công bằng. Việc quản lý


chặt chẽ kết quả bồi dưỡng sẽ là cơ sở để tiếp tục xác định kế hoạch, nội dung
của các đợt bồi dưỡng tiếp theo.
1.3. Những yếu tố tác động đến quản lý bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên mầm non
1.3.1. Các yếu tố khách quan
1.3.1.1. Tác động từ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới của đất nước đã thu
được những thành tựu quan trọng. Kinh tế xã hội phát triển, chính trị ổn định.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo những nguồn lực
cho phát triển GD&ĐT nói chung và phát triển GDMN nói riêng. Kinh phí
đầu tư của Nhà nước cho GDMN được tăng lên hàng năm. Nhiều trường mầm
non được đầu tư xây dựng mới. Cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật dạy học
được cải thiện đã góp phần nâng cao chất lượng GDMN đồng thời là nguồn

đông viên khuyến khích ĐNGVMN yên tâm gắn bó với nghề và nỗ lực phấn
đấu vươn lên.
Sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và ở địa phương đã tạo những
điều kiện thuận lợi cho việc huy động kinh phí đóng góp cho xây dựng nhà
trường, cho chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Trong điều kiện kinh tế gia
đình của người dân được cải thiện, nhiều gia đình, cha mẹ trẻ mầm non có
nhu cầu đưa con em mình đến những trường mầm non tiện nghi, đồng thời
đòi hỏi sự chăm sóc, nuôi dạy của ĐNGVMN được đào tạo cơ bản, có kiến
thức và kinh nghiệm nuôi dạy trẻ.
Sự phát triển của kinh tế xã hội và nhu cầu chính đáng của các bậc cha
mẹ học sinh mầm non đã đặt ra cho ĐNGVMN những yêu cầu mới, buộc họ
phải hoàn thiện năng lực CMNV để hoàn thành nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dạy
trẻ trong giai đoạn mới.
Bên cạnh những tác động tích cực thì nền kinh tế thị trường cũng tác
động tiêu cực tới GDMN và tới quá trình bồi dưỡng ĐNGVMV. Những biểu


hiện coi trọng lợi ích vật chất dẫn đến việc xem nhẹ các giá trị tinh thần đã
làm méo mó mối quan hệ giữa cô và trò. Cá biệt đã có sự phân biệt đối xử
giữa các trẻ trong một lớp, trong một trường khi đồng tiền xen vào mối quan
hệ ở các trường mầm non. Đã có hiện tượng việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục trẻ phụ thuộc một phần vào sự đầu tư, đóng góp và quan tâm về lợi ích
vật chất của cha mẹ trẻ đối với GVMN. Những hành động lệch chuẩn đó đã
làm mất bình đẳng trong giáo dục trẻ, dễ gây tổn thương cho trẻ. Tình trạng
này đòi hỏi người GVMN phải có một thái độ, nhân cách hoàn thiện, không bị
chi phối bởi những lợi ích vật chất tầm thường, phải yêu thương trẻ, tận tâm
với nghề. Đây là những yêu cầu khách quan, một mặt buộc các chủ thể QLGD
phải bồi dưỡng cho GVMN cả về phẩm chất nhân cách, cả về CMNV, đồng
thời người GVMN cũng phải tự hoàn thiện vươn lên.
1.3.1.2. Tác động từ quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối

với giáo dục mầm non và giáo viên mầm non
Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán với quan điểm coi GD&ĐT là
quốc sách hàng đầu. Quan điểm đó của Đảng được thể hiện qua các kỳ đại hội
Đảng đã mở ra triển vọng cho sự phát triển mạnh mẽ của GD&ĐT ở tất cả các
bậc học, cấp học trong đó có GDMN trên phạm vi toàn quốc cũng như ở từng
địa phương.
Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Đảng, trong những năm gần đây nhiều
văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực GD&ĐT đã được ban hành, trong đó
có Chuẩn nghề nghiệp GVMN.
Để chuẩn hóa GVMN, một mặt phải đổi mới quá trình GD&ĐT ở các
cơ sở đào tạo GVMN nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, mặt khác, phải bồi
dưỡng ĐNGVMN ở các cơ sở GDMN để từng bước góp phần xây dựng
ĐNGVMN đạt chuẩn và trên chuẩn.
Những yêu cầu xây dựng ĐNGVMN đạt chuẩn không chỉ tác động đến
ĐNGVMN mà còn tác động đến cả quá trình bồi dưỡng GVMN trong việc


×