Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.58 KB, 32 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
----

BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ ĐẦU TƯ 1
ĐỀ TÀI: VAI TRÒ VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN VỐN
TRONG NƯỚC VÀ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Giáo viên giảng dạy :
Nhóm

:

Lớp

:

Bình Định, năm 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
----

BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ ĐẦU TƯ 1
ĐỀ TÀI: VAI TRÒ VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN VỐN
TRONG NƯỚC VÀ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

DANH SÁCH NHÓM:


MỤC LỤC


MỤC LỤC......................................................................................................................................................1

LỜI MỞ ĐẦU

Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có những bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng
trưởng kinh tế hàng năm cao, GDP đầu người hàng năm tăng. Thêm vào đó, môi trường đầu tư ở
nước ta ngày càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước góp phần làm cho nguồn
vốn đầu tư trong nước và nước ngoài đổ vào Việt Nam ngày càng tăng mạnh. Đặc biệt, từ năm
2008, sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã làm cho lượng
vốn đầu tư đổ về Việt Nam càng nhiều hơn đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài có mối quan hệ mật thiết với nhau trong việc
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hiện nay ở nước ta cũng có rất nhiều nghiên cứu về
mối quan hệ giữa hai nguồn vốn này và nghiên cứu đó cũng đã dược rất nhiều nhận định đúng
đắn. Tuy nhiên, thực tế, nhận định của các nhà nghiên cứu vẫn chưa thực sự đi kèm với các giải
pháp đẩy mạnh mối quan hệ này nhằm tác động đến việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng phát triển
kinh tế ở nước ta. Chính vì vậy, chúng em đã chon đề tài này để nghiên cứu nhằm cung cấp thêm
cho các bạn sinh viên khối ngành kinh tế đặc biệt là chuyên ngành kinh tế đầu tư những kiến
thức chung nhất về nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời chỉ
ra mối quan hệ giữa hai nguồn vốn này trong nền kinh tế hiện nay. Từ đó, các bạn sẽ tìm ra mối
liên hệ giữa hai nguồn vốn này trong việc thúc đẩy và tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta
và cuối cùng đi đến những giải pháp thiết thực nhất nhằm kết hợp lợi ích tối ưu của hai nguồn
vốn này.
Thông qua nghiên cứu nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài, ngoài việc
chỉ ra các lý luận chung về hai nguồn vốn này, đề tài còn cung cấp những thông tin về thực trạng
sử dụng cũng như những nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn đến việc tăng giảm dòng vốn
đầu tư tại Việt Nam. Từ đó, chúng ta có được cái nhìn bao quát về tình hình kinh tế đất nước để
có những phương hướng mới thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển.
Với việc nghiên cứu đề tài “Vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nước
ngoài tại Việt Nam”. Chúng em xin trình bày những nội dung chính sau đây:
1



Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước
và nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài trong
việc thúc đẩy và phát triển kinh tế Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước
và ngoài nước trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Qua việc tìm hiểu và phân tích các số liệu, đề tài của chúng em đã đưa ra một số định hướng rõ
ràng trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu có hạn, điều kiện tiếp xúc
thực tế chưa nhiều và khả năng đánh giá còn non nớt nên đề tài của chúng em không tránh khỏi
những thiếu sót trong cách nhìn tổng thể. Kính mong cô và các bạn đóng góp thêm ý kiến để
chúng em có thể hoàn thiện đề tài. Chúng em xin chân thành cảm ơn!

2


Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu
tư trong nước và nước ngoài.
I. Khái niệm, phân loại và bản chất của nguồn vốn
1. Khái niệm
1.1 Vốn đầu tư:
“Capital – vốn ( tư bản): một từ dùng để chỉ một yếu tố sản xuất do hệ thống kinh tế tạo ra. Hàng
hóa tư liệu vốn là hàng hóa được sản xuất để sử dụng như yếu tố đầu vào quá trình sản xuất sau.
Vì vậy, tư bản này có thể phân biệt được với đất đai và sức lao động, những thứ không được coi
là do hệ thống kinh tế tạo ra. Do bản chất không đồng nhất của nó mà sự đo lường tư bản trở
thành nguyên nhân của nhiều cuộc tranh cãi trong lý thuyết kinh tế.” (Từ điển kinh tế học hiện
đại, NXB Chính trị quốc gia-Hà Nội, 1999, Tr.129).
Theo Luật Đầu tư 2005, vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt
động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.

Như vậy, bản chất của vốn đầu tư là nguồn lực tích lũy được của xã hội cơ sở sản xuất kinh
doanh dịch vụ, tiết kiệm của dân, huy động từ nước ngoài được biểu hiện dưới các dạng tiền tệ
các loại hoặc hàng hóa hữu hình, hàng hóa vô hình và các hàng hóa đặc biệt khác.
1.2 Nguồn vốn đầu tư:
Nguồn vốn đầu tư là các kênh tập trung và phân phối cho vốn đầu tư phát triển đáp ứng nhu cầu
chung của nhà nước và xã hội.
2. Phân loại nguồn vốn đầu tư
Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và
nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
2.1 Nguồn vốn đầu tư trong nước
3


Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực
dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá
trình tái sản xuất của xã hội.
2.1.1 Nguồn vốn nhà nước
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
 Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư.
Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu kinh tế - xã hội, quốc phòng – an
ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước.
Chi cho các công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng,
lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
 Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà
nước là một hình thức quá độ chuyền từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức
tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Thông qua nguồn vốn tín dụng, nhà
nước khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng, chiến
lược của mình.
 Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: Nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài

sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước, thông thường chiếm từ 14-15% tổng
vốn đầu tư xã hội.
2.1.2 Nguồn vốn cua dân cư và tư nhân
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh
nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Đầu tư của các doanh nghiệp và các hộ gia đình có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,… Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu
của các hộ gia đình. Quy mô của các nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào:
-

Trình độ phát triển của đất nước (các nước có trình độ phát triển thấp thì thu nhập thấp, quy
mô và tỉ lệ tiết kiệm cũng thấp).

-

Tập quán tiêu dùng của dân cư.

-

Chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng
góp với xã hội.

2.1.3 Thị trường vốn
Thị trường vốn là một phần của thị trường tài chính, có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp
phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn
4


trung và dài hạn cho các chủ đầu tư – bao gồm cả nhà nước và các loại hình doanh nghiệp. Thị
trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán đã huy động nguồn tiết kiệm của các hộ dân cư,

thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ tạo thành
nguồn lực tài chính cho nền kinh tế.
2.1.4 Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại trong nước
Các Ngân hàng thương mại với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình vô hình chung
đã thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân
hàng trở thành cầu nối giữa những người dân có tiền và những doanh nghiệp đang thiếu vốn đầu
tư. Từ đó, bằng việc huy động vốn và cho vay lại, các Ngân hàng thương mại đã phần nào giải
quyết được một phần nhu cầu về vốn đầu tư của xã hội.
2.2 Nguồn vốn nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm phần tích lũy của cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Có thể xem xét nguồn vốn đẩu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn
quốc tế. Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu hiện cụ thể quá trình giao nguồn
lực chính giữa các nước trên thế giới. Theo tính chất của dòng luân chuyển vốn, có thể phân loại
các nguồn vốn nước ngoài chính thức như sau:
-

Tài trợ phát triển chính thức (ODF- official development finance). Nguồn này bao gồm: Viện
trợ phát triển chính thức (ODA- official development asistance) và các hình thức viện trợ
khác, trong đó ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu trong nguồn ODF.

-

Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.

-

Đầu tư trực tiếp nước ngoài.

-


Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.

2.2.1 Nguồn vốn ODA
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với
mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu
đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho
vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (gọi là thành tố hỗ trợ) đạt
ít nhất 25%.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm các điều kiện và ràng
buộc tương đối khắc khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường), và là
nguồn vốn vay có khả năng gây nợ. Vì vậy, chính phủ các nước cần cân nhắc và sử dụng vốn
hiệu quả.
5


2.2.2 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI):
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triền không chỉ đối với các nước nghèo mà đối với
cả các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có đặc điểm khác với các
nguồn vốn khác là khi tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước nhận đầu tư. Thay
vì nhận lãi trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án hoạt
động có hiệu quả. Đầu tư nước ngoài đem toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên
có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề đòi hỏi cao về kĩ thuật,
công nghệ hay nguồn vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kì to lớn đối với quá trình
công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng nhanh của nước tiếp nhận đầu tư.
2.2.3 Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế
Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA nhưng có ưu
điểm là không gắn với các điều kiện ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối
với các nguồn vốn này thường tương đối khắc khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất
cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.

Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân
hàng (tính rủi ro của nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn
vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu
xuất khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư
phát triển, tỉ trọng của vốn có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài
đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
2.2.4 Thị trường vốn quốc tế
Với xu hướng toàn cầu hóa, mối liên kiết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ
thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng
lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu.
Thị trường vốn quốc tế được biểu hiện bằng sự phát triển của thị trường chứng khoán, dòng vốn
đầu tư qua thị trường chứng khoán của các nước đang phát triển ngày càng mạnh mẽ. Chính phủ
của các nước đang phát triển có thể phát hành trái phiếu trên thị trường vốn quốc tế để huy động
nguồn vốn lớn, tập trung cho phát triển kinh tế.
3. Bản chất nguồn vốn đầu tư
Xét về bản chất, nguồn vốn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích lũy mà nền
kinh tế có thể huy động để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ
điển đã khẳng định “tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm
để tích lũy cho quá trình tiết kiệm. Dù có tạo ra đi bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết
kiệm thì vẫn không bao giờ tăng lên”.
6


Sang thế kỉ thứ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các khu vực của
nền sản xuất xã hội, về các vấn đề liên quan trực tiếp tới tích lũy, Các Mác chứng minh rằng:
Trong nề kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất, khu vực II sản xuất tư liệu
tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm c+v+m, trong đó c là phần tiêu hao
vật chất, v+m là phàn mới sáng tạo. Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không
ngừng thì nền kinh tế sản xuất xã hội phải đảm bảo: (v+m)I > cII hay nói cách khác: (c+v+m)I >
(cII + cI)

Điều đó có nghĩa là tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất
của nền kinh tế mà còn phải dư thừa để làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trongquas trình sản xuất
tiếp theo. Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo: c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)II
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của hai khu vực phải lớn hơn giá trị tạo ra của khu vực II. Chỉ khi
điều kiện này được thỏa mãn, nề kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở
rộng. Từ đó, quy mô vốn đầu tư sẽ tăng.
Như vậy theo Mác-Lê Nin thì nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể đáp ứng do
sự gia tăng sản xuất và tích lũy cho nền kinh tế.
Quan điểm về bản chất của vốn đầu tư trực tiếp được các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm: “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, Jonh Maynard
Keynes đã chứng minh được rằng: đầu tư chính bằng phần thu nhập không chuyển vào phần tiêu
dùng. Đồng thời, ông cũng chỉ ra rằng tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu
dùng. Tức là: Thu nhập = tiêu dùng + đầu tư
Tiết kiệm = thu nhập – tiêu dùng
Từ đó suy ra: Tiết kiệm = đầu tư
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong đó, phần tiết kiệm
của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và chính phủ.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao giờ cũng
được thiết lập. Mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãn lai:
CA = S – I.
Như vậy, trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tư lớ hơn tích lũy nội bộ nền kinh tế và tài
khoản vãn lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở
thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích lũy của nền kinh
tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãn lai thì quốc gia đó
đó có thể đầu tư ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn của nền kinh tế.

7



Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước
ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam
I. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định
1. Vai trò của nguồn vốn trong nước
1.1 Nguồn vốn trong nước là nguồn đóng góp lớn vào GDP toàn xã hội, góp phần thúc
đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế.
Thông qua việc đầu tư vào nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư trong
nước đã đóng góp phần lớn vào GDP toàn xã hội, cụ thể như việc sử dụng nguồn vốn từ ngân
sách nhà nước để đầu tư cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đã tạo môi trường và
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực khác phát triển. Các dự án xây
dựng kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi nguồn vốn huy động lớn và khả năng thu hồi vốn chậm,
do đó ít doanh nghiệp nào có đủ tiềm lực kinh tế để thực hiện. Vì thế nguồn vốn trong nước
sẽ được đầu tư vào xây dựng các kết cấu hạ tầng cơ bản như hệ thống điện lưới quốc gia,
đường xá, giao thông liên lạc... từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và xây
dựng hoạt động nhà xưởng, mở rộng hoạt động kinh doanh, qua đó phát triển kinh tế vùng,
miền tạo ra nguồn GDP không nhỏ đóng góp vào tổng GDP của toàn xã hội. Còn nguồn vốn
tín dụng nhà nước với ưu điểm lãi suất thấp đã bổ sung cho các doanh nghiệp một nguồn vốn
rẻ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tranh thủ được các cơ hội tạo thêm lợi nhuận, vốn để
mở rộng qui mô cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm. Từ đó làm tăng doanh thu đồng
thời góp phần làm tăng GDP cho toàn xã hội.
1.2 Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay đổi cơ cấu kinh
tế, cân bằng thị trường hàng hóa, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng trưởng, phát triển
toàn diện, đồng đều.
Các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đa phần lựa chọn cho mình các ngành,
lĩnh vực có vốn đầu tư không quá lớn, thu hồi vốn nhanh chóng để đầu tư thu lợi nhuận. Mặt
khác, nền kinh tế lại có những ngành vai trò không thể thiếu nhưng đòi hỏi nguồn vốn đầu tư
rất lớn như điện, xi măng, dầu khí; hoặc những ngành lợi nhuận thu về nhỏ, khả năng thu hồi
8



vốn chậm ví dụ như các công trình công cộng, các hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết
những thất bại của thị trường. Chỉ có thông qua nguồn vốn trong nước cụ thể là nguồn vốn
nhà nước mới có thể đầu tư vào các vấn đề này, vì vậy, nguồn vốn trong nước, đặc biệt
nguồn vốn nhà nước lúc này sẽ đóng vai trò chủ đạo giúp cân bằng thị trường hàng hóa trong
nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng trưởng, phát triển toàn diện, đồng đều.
Không chỉ có vậy, vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư trong nước đối với
tăng trưởng và phát triển nền kinh tế còn được thể hiện trong việc định hướng cho quá trình
thay đổi cơ cấu kinh tế, bằng việc nguồn vốn đầu tư trong nước tập trung vào những ngành
quan trọng như công nghiệp, dịch vụ, cơ cấu kinh tế của quốc gia sẽ từng bước biến chuyển
theo định hướng đã đề ra của nhà nước: tăng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ; giảm tỉ trọng
nông nghiệp và theo đó, nguồn vốn nước ngoài có được định hướng đầu tư, tiếp tục trợ giúp
nguồn vốn trong nước đẩy nhanh thời kì quá độ đưa nền kinh tế quốc gia tiếp tục phát triển
lên một trình độ cao hơn.
1.3 Nguồn vốn đầu tư trong nước có vai trò đảm bảo sự phát triển toàn diện, không lệch
lạc giữa các vùng miền của nền kinh tế, góp phần giúp nền kinh tế tăng trưởng, phát triển
một cách bền vững.
Trong một quốc gia, việc phát triển không đồng đều giữa các vùng miền là khó
tránh khỏi, vì vậy cần có các nguồn vốn đầu tư hợp lí để giảm bớt sự không đồng đều này,
làm cho nền kinh tế trở nên phát triển toàn diện hơn, đối với những khu vực vùng sâu, vùng
xa, nơi mà nền sản xuất còn chưa phát triển, hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc
còn lạc hậu thì việc đón nhận nguồn vốn từ nước ngoài đầu tư vào đây là rất ít có hi vọng. Lí
do là nguồn vốn từ nước ngoài thường chọn những vùng, thành phố trọng điểm nơi mà có hệ
thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, gần nguồn nguyên liệu và có thị trường tiêu thụ
lớn, lúc này nguồn vốn đầu tư trong nước sẽ đảm nhận vai trò đầu tư vào các vùng còn khó
khăn, kinh tế chưa phát triển, giúp các vùng miền đó tận dụng và phát huy được thế mạnh,
nội lực của mình. Qua đó sẽ giải quyết công ăn việc làm cho lao động trong vùng, nâng cao
mức sống cũng như trình độ dân trí và từ đó sẽ làm giảm khoảng cách chênh lệch giữa các
vùng. Điều này cho thấy nguồn vốn trong nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm
bảo sự phát triển và tăng trưởng toàn diện của nền kinh tế.
1.4 Nguồn vốn trong nước góp phần kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế, đẩy nhanh tiến

trình cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển
kinh tế.
Đầu tư quá mức là một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát và vốn đầu tư là
yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhưng đó là nói về đầu tư có
hiệu quả. Còn nếu đầu tư không có hiệu quả, thì chẳng những tăng trưởng kinh tế phải tốn
9


nhiều vốn đầu tư hơn, mà còn gây ra lạm phát, xét trên nhiều mặt lạm phát do "chi phí đẩy"
và lạm phát do "cầu kéo". Bản thân vốn đầu tư sẽ làm cho lạm phát "cầu kéo"; còn đầu tư
kém hiệu quả sẽ làm cho lạm phát do "chi phí đẩy", lạm phát do quan hệ cung - cầu, quan hệ
tiền - hàng mất cân đối thường có bề nổi, dễ nhận thấy, nhưng lạm phát do đầu tư không có
hiệu quả thì thường là lạm phát ngầm, lúc đầu rất khó nhận thấy, nhưng khi nó bộc phát thì
rất cao, rất khó trị và việc trị nó thường phải kèm theo cái giá phải trả không nhỏ, thậm chí
còn có thể rơi vào cuộc khủng hoảng. Do đó việc kiểm soát cả về mặt lượng và mặt chất của
việc sử dụng nguồn vốn trong nước đặc biệt là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và việc
kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp được
nêu ra để chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Một trong số những vai trò không thể không kể đến của nguồn vốn trong nước đối
với tăng trưởng và phát triển kinh tế đó là : nguồn vốn đầu tư trong nước đặc biệt là nguồn
vốn dồi dào của khu vực dân cư và tư nhân là tác động lớn nhất thúc đẩy quá trình cổ phần
hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra nhanh chóng và đồng bộ.
1.5 Nguồn vốn trong nước xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đạt một trình độ nhất định,
tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như tăng tính hiệu quả,
nhanh chóng của việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, tạo nền tảng vững chãi cho sự
tăng trưởng của nền kinh tế.
Nền tảng cơ sở kiến trúc hạ tầng của quốc gia cũng có ảnh hưởng rất lớn tới khả
năng thu hút nguồn vốn, triển khai thực hiện trong các giai đoạn của quá trình sử dụng vốn
đầu tư. Mục tiêu của phát triển kinh tế là phải xây dựng được các cơ sở kiến trúc hạ tầng kinh
tế ở một trình độ nhất định: điện, nước, đường xá giao thông đi lại, các công trình văn phòng

hiện đại, các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung… để đảm bảo sao cho có thể khai thác
tốt nhất các nguồn nguyên nhiên liệu, nguồn lao động, công nghệ… cần thiết.
Bên cạnh các khu vực kinh tế nổi bật, trọng điểm dễ thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài luôn còn có các khu vực có tiềm năng nhưng còn đôi chút hạn chế về địa hình, công
nghệ, lực lượng lao động… thì lúc này vai trò của nguồn vốn trong nước để khắc phục các
hạn chế này là rất quan trọng. Nguồn vốn trong nước sẽ đóng vai trò mở đường, đầu tư vào
việc san lấp và giải phóng mặt bằng, xây dựng các kết cấu hạ tầng cơ bản, đầu tư đổi mới
trang thiết bị trong các nhà xưởng và mở các lớp đào tạo tay nghề cho đội ngũ công nhân.
Nhờ có nguồn vốn trong nước mà các vấn đề về địa điểm, công nghệ, trình độ tay nghề của
đội ngũ lao động được giải quyết, tạo nên một môi trường đầu tư thuận lợi đối với các nhà
đầu tư nước ngoài và nhờ có nguồn vốn trong nước mà các vùng có điều kiện chưa thật sự
thuận lợi đã có khả năng thu hút và đón nhận vốn đầu tư nước ngoài, tạo cơ hội phát triển
kinh tế của vùng.
10


1.6 Sự lớn mạnh, ổn định nguồn lực vốn trong nước giúp hạn chế những mặt tiêu cực của
nguồn lực nước ngoài tới nền kinh tế, đồng thờii tạo dựng một khung xương vững chắc
cho nền kinh tế, chống lại những biến động từ thị trường kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
Trong tình hình hội nhập với nền kinh tế trên thế giới như hiện nay thì việc bị ảnh
hưởng do các biến động kinh tế từ bên ngoài là điều không thể tránh khỏi. Khi những biến
động đó xảy ra thì nền kinh tế quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng ít nhiều, gặp những khó khăn như
giá cả tăng cao kéo theo lạm phát, sản xuất bị đình trệ, xảy ra tình trạng thất nghiệp... Do đó,
vai trò của nguồn vốn trong nước trong lúc này mang tính quyết định đối với sự tăng trưởng
phát triển của một quốc gia. Sự ổn định và lớn mạnh nguồn vốn trong nước sẽ tạo thành một
khung xương vững chắc giúp chúng ta thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô và các biện
pháp cần thiết để tránh và khắc phục các ảnh hưởng do các cú sốc bên ngoài gây ra cho nền
kinh tế như điều chỉnh cung cầu, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội…
Không chỉ có vậy, các nguồn vốn và nguồn lực trong nước, quan trọng là các nguồn

chi từ ngân sách nhà nước, các khoản tín dụng, các khoản đầu tư phát triển của các doanh
nghiệp nhà nước phải nắm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế: tài chính, dầu khí,
viễn thông... Mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài song các chính sách của chính phủ vẫn
quy định rõ ràng những ngành nghề mà nguồn vốn đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận. Đó là
sự cẩn trọng để kiểm soát việc tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhằm hạn
chế những mặt trái mà nguồn vốn này có thể đem theo: thâu tóm về chính trị, sự phụ thuộc về
kinh tế (trở thành sân sau của các cường quốc...).
2. Thực trạng sử dụng nguồn vốn trong nước của Việt Nam
2.1 Nguồn vốn đầu tư của nhà nước
2.1.1 Đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN)
Vốn đầu tư phát triển (ĐTPT) từ khu vực kinh tế nhà nước có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong
toàn bộ giai đoạn 2005-2012 từ 47% xuống còn khoảng 37%. Vốn ĐTPT từ khu vực ngoài nhà
nước giữ nguyên tỷ trọng trong giai đoạn này. Khu vực FDI có sự gia tăng đóng góp cho vốn
ĐTPT được coi là một tín hiệu đáng mừng. Tỷ trọng đóng góp vốn ĐTPT của khu vực này tăng
từ 14,89% năm 2005 lên 23,2% năm 2012.
Trong tổng vốn, giá trị vốn đầu tư nhà nước từ 2005 - 2012, vốn đầu tư từ NSNN luôn tăng và
đứng đầu qua các năm. Điều này phản ánh thực tế gia tăng chi tiêu công của Nhà nước cho phát
triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua.
Trong thời gian 2005 - 2012, tỷ lệ giữa vốn đầu tư từ NSNN/tổng vốn đầu tư của Nhà nước luôn
chiếm tỷ trọng cao nhất tuy tăng giảm không đều (năm 2005 - 2010 chiếm bình quân tới 55,6%,
11


thậm chí năm 2008, 2009 là trên 60%, năm 2010 là 44,8%, năm 2011 là 52,1 và năm 2012 là
54,8%).

2.1.2 Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
chính sách tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đến nay đã khẳng định tính đúng đắn đường
lối của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư, phản ánh tất yếu quá trình phát triển kinh tế xã
hội chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.trong

điều kiện khả năng tích lũy của NSNN, cùn với chính sách thu hút đầu tư, Chính phủ đã có thêm
công cụ khai thác nguồn vốn trong xã hội để hỗ trợ đầu tư phát triển phục vụ cho sự nghiệp CNH
– HĐH.
Cụ thể trên một số mặt sau:
-

Tín dụng đầu tư phát triển nhà nước đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật,
nâng cao năng lực của nền kinh tế. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển cảu Nhà nước
tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, từng
bước xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống nhân dân giữa các vùng,
miền tạo đà cho các vùng kinh tế cùng phát triển.

-

Hỗ trợ phát triển một số lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế.
+ Phát triển co sở hạ tầng kinh tế: Tăng trưởng khá mạnh mẽ và liên tục của Việt Nam
đang khiến cơ sở hạ tầng bị quá tải. Trong khi đó, sự tham gia của tư nhân trong cũng
như ngoài nước vào lĩnh vực này còn bị hạn chế, mặc dù đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
12


cũng hứa hẹn nhiều tiềm năng đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, những thiếu sót cố hữu
về cơ sở hạ tầng, tổ chức kinh tế và nguồn nhân lực vẫn còn gây trở ngại cho tăng trưởng
kinh tế trong tương lai. Nhận thức được điều này, Chính phủ đã và đang nỗ lực tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, coi đây
là cơ sở cho quá trình CNH-HDH đất nước và phát triển kinh tế. Vận tải, thời gian tới,
Việt Nam cần khoảng 110 tỷ USD cho hạ tầng giao thông. Trong đó, kế hoạch đầu tư của
Bộ Giao thông - Vận tải cho thấy, các dự án giải đoạn 2011 - 2015 cần số vốn khoảng
800.000 tỷ đồng, tương đương với 40 tỷ USD. Hiện tại, ngành giao thông vận tải đang có
rất nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cần triển khai trong thời gian tới. Cụ thể: Trong

lĩnh vực xây dựng đường bộ có các dự án như xây dựng đường cao tốc Quảng Ngãi - Quy
Nhơn cần 35.000 tỷ đồng, Quy Nhơn - Nha Trang cần 30.000 tỷ đồng, Đường Vành đai 4
Hà Nội cần số vốn lên tới 65.000 tỷ đồng; Trong lĩnh vực hàng không, các dự án như xây
dựng sân bay quốc tế Chu Lai (38.000 tỷ đồng), Sân bay Long Thành (103.000 tỷ đồng);
Lĩnh vực đường sắt gồm các dự án xây dựng đường sắt Biên Hòa - Vũng Tàu (15.000 tỷ
đồng), Đường sắt vận chuyển quặng Đăk Nông - Bình Thuận (14.500 tỷ đồng), Đường
sắt TP. Hồ Chí Minh - Cần Thơ (28.000 tỷ đồng)… Đặc biệt, trong lĩnh vực xây dựng
cảng biển hiện đang có các dự án xây dựng 2 cầu cảng tại cụm cảng Cái Mép - Thị Vải có
quy mô đầu tư dưới 100 triệu USD, dự án Cảng quốc tế Đà Nẵng và dự án Cảng trung
chuyển quốc tế Vân Phong.v.v…
+ Phát triển các ngành sản phẩm công nghiệp trọng điểm: Vốn tín dụng của nhà nước đầu
tư cho 17 nhà máy đóng taufcos khả năng đóng với hàng chục tàu vận tải từ 6.500 tấn đến
53.000 tấn mỗi năm; 42 tàu vận tải biển từ 3.600 tấn dến 22.000 tấn. Ngành đường sắt
được đầu tư đóng mới 166 toa xe khách và 610 toa xe hàng. Nguồn vốn này cũng góp
phần tăng thêm năng lực sản xuất: 2,8 triệu tấn xi măng, 0,55 triệu tấn thép, 50 vận tấn
phân bón các loại, trên 1 triệu bộ săm lớp ô tô, 45.000 tấn sợi, 110 triệu m 2 vải thàn phẩm
, 23 triệu sản phẩm dệt kim… mỗi năm.

Số dự án

Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) (*)

Tổng số

20.069,0 281.882,5

Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản

521,0


3.654,9

Khai khoáng

97,0

4.448,3

Công nghiệp chế biến, chế tạo

10.764,0 162.772,7

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí 109,0

12.567,5

Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải

43,0

1.352,7

Xây dựng

1.264,0

10.893,8

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác


1.735,0

4.602,2

Vận tải, kho bãi

505,0

3.829,3

13


Số dự án

Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) (*)

Dịch vụ lưu trú và ăn uống

445,0

11.950,3

Thông tin và truyền thông

1.263,0

4.223,7

Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm


82,0

1.333,5

Hoạt động kinh doanh bất động sản

500,0

50.896,4

Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ

1.926,0

2.103,0

Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ

170,0

412,6

Giáo dục và đào tạo

240,0

710,3

Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội


111,0

1.767,3

Nghệ thuật, vui chơi và giải trí

143,0

3.622,0

Hoạt động dịch vụ khác

151,0

742,0

-

Tạo sự chuyển biến về lượng và chất trong việc khai thác các nguồn vốn cho đầu tư , thúc
đẩy sự phát triển của thị trường tài chính.

-

Giải quyết các vấn đề về xã hội: Vốn tín dụng đã đầu tư và đưa vào sử dụng hàng trăm
trường học, trường dạy nghề, bệnh viện, trạm xá các khu nhà ở và đô thị mới. Các nguồn
vốn đầu tư băng này đã góp phần tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, đào tạo
nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ sức khỏe và nâng cao mức sống cho
người dân, đặc biệt ở khu miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bằng sông Cửu Long.


2.1.3 Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
Nguồn vốn này đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Trong tổng giá trị vốn
đầu tư của cả nước thì nó vẫn chiếm một tỉ trọng khá lớn và đang có xu hướng ngày càng gia
tăng. Tuy nhiên hiện nay ngay cả phần lớn DNNN, tuy có mục tiêu chính là sản xuất kinh doanh
có lãi, nhưng vẫn còn phải thực hiện một số mục tiêu "phi lợi nhuận" như tạo điều kiện phát triển
cho các vùng nghèo, có điều kiện khó khăn, sản xuất và cung ứng các hàng hóa công cộng, các
sản phẩm và dịch vụ ít lãi, thậm chí lỗ vốn... Nhưng không phải vì vậy mà có thể biện minh cho
việc đầu tư kém hiệu quả kéo dài của khu vực nhà nước do những nguyên nhân chủ quan như
chiến lược kinh doanh và đầu tư sai lầm, quản lý kém, thiếu trách nhiệm, lãng phí, tham nhũng...
"Các DNNN được Nhà nước hỗ trợ thông qua các chính sách ưu đãi về vốn. Các DNNN được ưu
tiên tiếp cận vốn tín dụng. Ngân sách nhà nước có một khoản đầu tư hỗ trợ các DNNN với số
tiền tăng lên hàng năm. Chính phủ cũng đứng ra bảo lãnh cho DNNN lớn đi vay nợ với lý do để
thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng. Với sự ưu đãi như vậy, một số DNNN lớn (tập đoàn,
tổng công ty) đã trở thành những lực lượng mạnh chi phối các ngành kinh tế chủ lực của Việt
Nam. Một số lĩnh vực đã có tiến bộ vượt bậc trong thời gian ngắn như viễn thông, dầu khí, đóng
tàu biển" - PGS.TS. Trần Đình Thiên cho biết.
14


Song Chính phủ chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ đối với hoạt động của các DNNN, nhất là đối
với việc đầu tư. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước được coi là "tự chủ" của doanh
nghiệp, nên quá trình kiểm tra, kiểm soát chưa cao. Các bộ cũng không thể can thiệp vào quá
trình sản xuất kinh doanh của các DNNN. Thêm vào đó, quá trình cổ phần hoá cũng tiến triển
chậm, nên sự giám sát các doanh nghiệp nhà nước cũng chưa chặt chẽ. Nhiều DNNN vay nợ lớn
để mở rộng quy mô, đầu tư dàn trải vào nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề, phát triển các hoạt
động ngoài ngành nghề chính, độc quyền và có khả năng lũng đoạn thị trường, quản lý kém gây
thất thoát vốn, kinh doanh thua lỗ. Tình trạng sử dụng chưa hiệu quả vốn đầu tư ở các DNNN đã
trở thành phổ biến và đáng báo động.
2.1.4 Nguồn vốn đầu tư của dân cư và tư nhân
Số liệu thống kê cho thấy, nguồn vốn khu vực tư nhân có tốc độ tăng trưởng bình quân

155%/năm giai đoạn 2006-2014. Xét về cơ cấu sử dụng vốn có 02 cấu thành chủ yếu là vốn đầu
tư phát triển và vốn hoạt động. Giai đoạn 2006 - 2014, phần vốn dành cho tài sản cố định và đầu
tư dài hạn tăng trưởng bình quân 214,4%/năm (gấp 28,3 lần), vốn đầu tư phát triển tăng bình
quân hàng năm 34%, gấp 3,04 lần trong vòng 09 năm. Chênh lệch huy động/sử dụng vốn là phần
dành cho vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh thông thường (tỷ trọng bình quân dưới
50%/năm). Tỷ lệ vốn dành cho đầu tư phát triển bình quân tăng 56,43%/năm là khá cao và cho
thấy sự chủ động tích cực về huy động và sử dụng vốn của khu vực này. Trong tổng nguồn vốn
tư nhân huy động được phần vốn tín dụng ngân hàng chỉ chiếm khoảng 15,68% tổng nguồn năm
2012 (9.365.753 tỷ), tương ứng khoảng 50% dư nợ tín dụng đến 31/12/2012 là 2.936.800 tỷ
đồng. Nguyên nhân phần nào cũng bởi ở nhiều thời điểm tiếp cận vay vốn ngân hàng vẫn luôn là
trở ngại đối với khu vực khu vực kinh tế tư nhân. So sánh cùng giai đoạn 2006 - 2014, sử dụng
vốn đầu tư giữa khu vực tư nhân tăng 3,04 lần, khu vực nhà nước tăng 2,63 lần, khu vực FDI
tăng 4,04 lần. Xu hướng chung tổng vốn thực hiện đầu tư so GDP giảm 9% trong vòng 9 năm.
Đến năm 2014, trong tỷ trọng vốn đầu tư chiếm 31% GDP thì phần đóng góp tính được của khu
vực kinh tế tư nhân là 11,9%, khu vực kinh tế nhà nước là 12,37%; khu vực FDI là 6,73%.
Xét về cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn tư nhân không chỉ luôn chiếm vị trí thứ 02 giữa
03 khu vực, mà còn có xu hướng tăng nhẹ từ mức 22% năm 2000 lên 38,4% năm 2014, trong khi
khu vực FDI lại giảm rõ rệt từ mức cao nhất 30,9% năm 2008 về mức 21,7% năm 2014 và khu
vực kinh tế nhà nước giảm từ 47% năm 2006 về khoảng 40% năm 2014. Ngay những giai đoạn
kinh tế khó khăn (2008-2009 và 2011-2013) thì vốn đầu tư khu vực tư nhân vẫn tăng cho thấy
tính ổn định, bền vững của khu vực này.
2.1.5. Thị trường vốn
Thị trường vốn tín dụng ngân hàng: Sau khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), Việt Nam đã quan tâm đến việc tái cấu trúc thị trường tài chính nói chung và thị
trường vốn nói riêng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Các chủ thể tham gia thị trường cũng được
15


cải thiện về năng lực tài chính, quy mô, quản trị rủi ro, để từng bước tham gia vào chuỗi kinh tế
toàn cầu. Với độ mở của nền kinh tế và thị trường vốn, đầu tư xã hội đã có sự bứt phá mạnh mẽ,

đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã đưa Việt Nam lên nhóm các nước có quy mô đầu tư xã
hội trên GDP cao nhất thế giới.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tổng đầu tư xã hội sau 4 năm hội nhập WTO đều ở mức
cao; đầu tư ngoài nhà nước cũng tăng mạnh; Xuất nhập khẩu liên tục ghi nhận các kỷ lục mới;
đưa Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp vào năm 2011. Những động thái này đã
tạo cung vốn lớn cho nền kinh tế thông qua thị trường vốn. Mặt khác, các chủ thể tham gia trên
thị trường (ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, DN, các quỹ đầu tư...) cần phải tăng
quy mô hoạt động, cải thiện tiềm lực tài chính, mở rộng sản xuất, áp dụng công nghệ trong kinh
doanh để nâng cao năng suất lao động.
Điều này đã tạo ra những cơ hội phát triển mới về phía cầu. Tuy nhiên, do thị trường vốn Việt
Nam lệ thuộc lớn vào chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, khi kinh tế vĩ mô bất ổn, lạm phát
tăng cao, chính sách tài chính – tiền tệ điều hành theo hướng thắt chặt để đạt mục tiêu kiềm chế
lạm phát, ổn định vĩ mô nên mặt bất lợi của chính sách thắt chặt đã tác động tiêu cực đến thị
trường vốn. Có thể thấy rõ sự biến động thất thường của TTCK cũng như thị trường vốn tín dụng
ngân hàng, những rủi ro tiềm ẩn từ nội tại các chủ thể tham gia thị trường, tình trạng sở hữu chéo
giữa DN với ngân hàng, giữa ngân hàng với công ty bảo hiểm, chứng khoán, giữa các ngân hàng
với nhau…
Đến nay, hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò chi phối trên thị trường vốn. Thị trường cổ phiếu
tuy đã được chú ý phát triển song song với tiến trình cổ phần hóa DN nhà nước (DNNN), nhưng
quy mô thị trường cổ phiếu vẫn nhỏ. Mức độ vốn hóa trên thị trường (của các công ty niêm yết)
so với GDP đã được cải thiện và đạt 39%/GDP vào năm 2010 nhưng lại giảm mạnh xuống còn
26% vào năm 2012 (cho dù TTCK Việt Nam vẫn được đánh giá là một trong số các nước có tốc
độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới). Vì thế, khi tín dụng cho nền kinh tế giảm, hệ số giữa tăng
trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế giảm (năm 2010 là 4,8 lần, năm 2012 giảm còn 1,76 lần, 9
tháng năm 2013 chỉ còn 1,2 lần), điều này đã ảnh hưởng lớn đến công việc làm của người lao
động.
Mặc dù là thị trường cung cấp vốn chủ yếu cho DN nhưng do khó khăn từ nền kinh tế, khó khăn
từ nội tại các DN và ngân hàng, những điểm nghẽn của nền kinh tế (nợ xấu, hàng tồn kho) không
được giải quyết rốt ráo, trong khi giá vốn rất cao (lãi suất cho vay bình quân năm 2012 ở mức
1315%/năm, năm 2013 ở mức 10 -12%/năm), quá sức chịu đựng của DN.

Tình trạng nhiều DN không tiếp cận được vốn, trong khi hàng tồn kho tăng cao (năm 2012 bình
quân khoảng 28-30%; 9 tháng năm 2013 tăng bình quân 9,3%), năng lực cạnh tranh thấp, kinh
doanh thua lỗ (tính đến 30/9/2013, số DN kê khai lỗ chiếm gần 66%)… dẫn đến nhiều DN phá
sản, ngừng hoạt động, giải thể, kéo theo cầu về vốn giảm mạnh, khiến tăng trưởng tín dụng năm
2012 chỉ dừng lại ở con số 8,91% so với mục tiêu được
16


Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra là 15-17%, 9 tháng đầu năm 2013 tăng 6,14% so với chỉ
tiêu 12%/năm. Nợ xấu và tốc độ tăng nợ xấu. Điều này không có nghĩa là chất lượng nợ tốt lên
mà do hệ thống ngân hàng đã cơ cấu lại nợ, chiếm khoảng 10% tổng dư nợ, sử dụng dự phòng
rủi ro để xử lý khoảng 3%, bán nợ xấu qua Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt
Nam (VAMC) khoảng 0,3%. Với những giải pháp xử lý này, nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã
giảm xuống còn 4,64%.
Thị trường chứng khoán: Mặc dù nền kinh tế vẫn còn phải đối mặt với không ít khó khăn
nhưng kinh tế vĩ mô dần ổn định đã góp phần tác động tích cực hơn đến tâm lý nhà đầu tư và sự
phát triển của TTCK. Kết thúc quý II/2013, thị trường cổ phiếu đã tăng khá mạnh. Chỉ số VNIndex tăng lên mức 524,5 điểm với khối lượng giao dịch lên tới hơn 94 triệu cổ phiếu, tương
đương gần
1.661 tỷ đồng/phiên.
Tuy nhiên, các giao dịch trên thị trường không ổn định, dòng vốn nội có dấu hiệu chững lại do
thiếu thông tin hỗ trợ đủ mạnh, trong khi đó các quỹ đầu tư ngoại có những hoạt động thoái vốn.
Chỉ riêng trong tháng 6 và tháng 8/2013, khối ngoại đã bán ròng với giá trị lần lượt là 1.543 tỷ
đồng và 881 tỷ đồng, dẫn đến thị trường cổ phiếu bị chững lại với nhịp giảm khá mạnh.
Như vậy, mặc dù vẫn được xem là thị trường có tốc độ tăng trưởng khá so với năm 2012 nhưng
TTCK vẫn tiềm ẩn những rủi ro ngắn hạn, tính thanh khoản còn thấp. Thị trường trái phiếu DN
vẫn chưa phát triển, ngân hàng vẫn là thành viên chủ chốt tham gia thị trường này. Những bất
cập này đã hạn chế việc cung cấp vốn với giá cạnh tranh cho các DN.
II. Tác động của nguồn vốn nước ngoài đối với nguồn vốn trong nước
1. Thành tựu
Hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu hết sức ấn tượng trên tất cả các lĩnh

vực, đặc biệt là về kinh tế. Từ một nước có tốc độ phát triển kinh tế chậm, đến nay Việt Nam đã
trở thành một trong những nước có tốc độ phát triển cao và ổn định nhất trong khu vực và trên
thế giới. FDI đã được nhìn nhận như là một trong những trụ cột góp phần vào tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam. Vai trò của FDI được thể hiện thông qua việc đóng góp vào các yếu tố quan trọng
của tăng trưởng kinh tế như: Bổ sung nguồn vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, đẩy mạnh xuất
khẩu, tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực. Tính đến ngày 30/8/2012 đã có 14.095 dự án
FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 206,8 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 97,63 tỷ USD, chiếm
47,2% vốn đăng ký (trong đó có khoảng 20% vốn của Việt Nam).
Hình 1: Vốn đăng ký và vốn thực hiện

17


Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Căn cứ vào biến động nguồn vốn FDI vào Việt Nam, có thể phân chia quá trình phát triển của
FDI thành bốn (04) giai đoạn:
- Giai đoạn 1988 – 1997:
Ba năm 1988 – 1990 được coi là thời kỳ khởi động. Từ năm 1991 đã diễn ra làn sóng FDI thứ
nhất với nhịp độ thu hút vốn FDI tăng khá nhanh, bình quân hàng năm vốn đăng ký tăng 50%,
vốn thực hiện tăng 45%, cao hơn mức tăng trung bình của tổng vốn đầu tư xã hội (23%). Vốn
FDI đăng ký đạt 35,6 tỷ USD, vốn thực hiện là 13,37 tỷ USD chiếm 37,5% vốn đăng ký.
- Giai đoạn 1998 – 2004:
Đây là thời kỳ suy thoái của FDI. Vốn FDI đăng ký giảm, năm 1997 là 5.590,7 triệu USD,
2000 là 2.838,9 triệu USD, 2004 là 4.547,6 triệu USD. Vốn thực hiện bình quân hàng năm là
2,54 tỷ USD, bằng 78% vốn thực hiện của năm 1997. Vốn FDI đăng ký đạt 23,88 tỷ USD, vốn
thực hiện là 17,84 tỷ USD, chiếm 75% vốn đăng ký.
- Giai đoạn 2005 – 2008:
Diễn ra làn sóng FDI thứ hai. Vốn FDI đăng ký 2005 là 6,839 tỷ USD, 2006 là 12,004 tỷ
USD, 2007 là 21,347 tỷ USD, 2008 là 71,726 tỷ USD. Vốn đăng ký đạt 111,918 tỷ USD, vốn
thực hiện là 26,934 tỷ USD, chiếm 24% vốn đăng ký, gấp 4,68 vốn đăng ký và 1,5 lần vốn thực

hiện so với giai đoạn trước.
- Giai đoạn 2000 đến 31/8/2012:
18


Vốn đăng ký sau khi đạt đỉnh điểm vào năm 2008 đã giảm trong những năm gần đây, tuy vậy
vốn thực hiện bình quân hàng năm ổn định 10 – 11 tỷ USD. Vốn đăng ký đạt 67,1 tỷ USD, vốn
thực hiện đạt 39,28 tỷ USD, chiếm 58,5% vốn đăng ký.
Qua 25 năm thu hút FDI, cho đến nay, FDI đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương
“trắng” FDI.
Đông Nam bộ là vùng thu hút được nhiều vốn FDI nhất với 96,9 tỷ USD chiếm 46,9% tổng
vốn đăng ký cả nước, những địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI là thành phố Hồ Chí Minh,
Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu.
Đồng bằng Sông Hồng với 49,98 tỷ USD chiếm 24,2% vốn đăng ký cả nước. Các địa
phương thu hút được nhiều vốn FDI là Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh, Bắc Ninh,
Vĩnh Phúc, Hưng Yên.
Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền trung với 42 tỷ USD chiếm 20,3% tổng vốn đăng ký của
cả nước. Các địa phương thu hút được nhiều vốn FDI là Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Phú Yên, Quảng
Nam, Đà Nẵng.
Đồng bằng sông Cửu Long với 10,56 tỷ USD chiếm 5,15% tổng vốn đăng ký cả nước. Các
địa phương thu hút được nhiều FDI là Long An, Kiên Giang, Tiền Giang, Cần Thơ.
FDI vào Việt Nam chủ yếu là từ Châu Á như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore,
Hồng Công chiếm 70,6%. Các nước Châu Âu như Đức, Pháp, Anh chiếm 8,8%, Châu Mỹ như
Mỹ, Canada chiếm 7,7%, Australia chiếm 2,7%, còn lại là các đối tác khác.


Tác động trực tiếp

Trong 25 năm vừa qua, bình quân vốn FDI thực hiện hàng năm chiếm khoảng 25% vốn đầu tư
xã hội.

Khu vực FDI đóng góp vào GDP năm 1992 là 2%, 2000 là 12,7%, 2006 là 16,98% và 2011 là
18,97%. So với trung bình của thế giới, khu vực FDI đóng góp vào GDP của Việt Nam cao
hơn 8,37 điểm % (18,97% so với 10,6%).
Khu vực FDI nộp ngân sách 2001-2005 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm, 2006 –
2008 gần 5 tỷ USD, gấp 1,4 lần 2001-2005, năm 2010 đạt 3 tỷ USD chiếm 18,4% tổng thu nội
địa (không kể thu từ dầu thô và xuất nhập khẩu).
Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI từ 27% năm 1995 tăng lên 47% năm 2000, 57,2% năm
2005 và giảm xuống đôi chút còn 54,1% năm 2010. Đóng góp của khu vực FDI vào xuất khẩu
của Việt Nam diễn ra theo xu hướng ngược với thế giới. Tỷ trọng khu vực FDI thế giới trong
tổng xuất khẩu năm 2000 là 44,5%, giảm xuống còn 26,2% năm 2008, trong cùng thời kỳ tỷ
trọng này của Việt Nam tăng từ 47% lên 56%.
Tám tháng năm 2012 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 73,3 tỷ USD, tăng 17,8% so với cùng
kỳ năm trước; trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 27,7 tỷ USD, giảm 1,9%, khu vực FDI đạt
45,6 tỷ USD, tăng 34,1% (kể cả dầu thô). Nhập siêu trong 8 tháng năm 2012 là 62 triệu USD,
19


bằng 0,08 % tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu; trong khi khu vực kinh tế trong nước nhập siêu
7,1 tỷ USD thì khu vực FDI xuất siêu 7 tỷ USD.
Khu vực FDI tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa.
Giai đoạn 2000- 2010, tỷ trọng khu vực FDI trong cơ cấu kinh tế tăng 5,4%, trong khi khu vực
nhà nước và khu vực tư nhân giảm tương ứng.
Công nghiệp- xây dựng: Giai đoạn 2000 – 2009 khu vực kinh tế Nhà nước đóng góp
44,8%, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước 27,4% và khu vực FDI 27,8% tổng giá trị sản
lượng. Hiện nay, khu vực FDI chiếm khoảng 42% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, đã góp phần
hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông, khai thác dầu khí,
điện tử, hóa chất, ô tô, xe máy, công nghệ thông tin, thép, xi măng, chế biến nông sản thực phẩm,
da giày, dệt may…. Các doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng lớn trong các ngành công nghệ cao
như khai thác dầu khí, công nghiệp điện tử, viễn thông, thiết bị văn phòng, máy tính...
Nông- lâm- ngư nghiệp: Tốc độ tăng trưởng sản lượng của khu vực FDI luôn cao hơn khu

vực kinh tế trong nước đã góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đa dạng
hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu và tiếp thu một số công nghệ tiên
tiến, giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế, tuy vậy tác động
của FDI không đáng kể do tỷ trọng khu vực FDI trong rất nhỏ
Dịch vụ: FDI tác động quan trọng nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng và kiểm toán với
các phương thức hiện đại trong thanh toán, tín dụng, thẻ. FDI trong lĩnh vực du lịch, khách sạn,
văn phòng cho thuê đã làm thay đổi bộ mặt của một số đô thị lớn và các vùng ven biển. Nhiều
khu vui chơi giải trí như sân golf, bowling, vui chơi có thưởng tạo ra điều kiện hấp dẫn đối với
nhà đầu tư và khách quốc tế.
Giáo dục, đào tạo, y tế tuy chưa thu hút được nhiều vốn FDI nhưng bước đầu đã hình thành
được một số cơ sở giáo dục có chất lượng cao, bệnh viên, cơ sở khám chữa bệnh hiện đại, phục
vụ nhu cầu của một bộ phận tầng lớp dân cư Việt Nam có thu nhập cao và người nước ngoài tại
Việt Nam.
Sau khi gia nhập WTO, dịch vụ thương mại, kể cả bán buôn và bán lẻ phát triển nhanh chóng,
tạo ra phương thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng và góp phần tăng kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa.
Khu vực FDI đã tạo việc làm cho khoảng 2,5 triệu lao động trực tiếp và nhiều triệu lao động
gián tiếp, trong đó có hàng vạn công nhân lành nghề, kỹ sư và cán bộ quản lý có trình độ cao,
góp phần hình thành đội ngũ lao động cả về số lượng và chất lượng để thực hiện công nghiệp
hóa-hiện đại hóa đất nước.
Năng suất lao động khu vực FDI cao nhất trong các khu vực kinh tế, điều đó lý giải với 4%
tổng số lao động trong nền kinh tế nhưng khu vực FDI tạo ra gần 19% GDP.
• Tác động lan tỏa

20


FDI được xem là kênh chuyển giao công nghệ hiệu quả nhất với các phương thức chuyển giao qua
hàng hóa dịch vụ, máy móc thiết bị và các dạng tài sản vô hình như kỹ năng tổ chức và quản lý. Từ
năm 1993 đến nay, trong 951 hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được đăng ký/phê

duyệt, có 605 hợp đồng thuộc khu vực FDI chiếm 63,6%.
Tác động lan tỏa công nghệ của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam diễn ra theo hai hướng: (i) theo
chiều dọc giữa doanh nghiệp FDI vớidoanh nghiệp cung ứng đầu vào và doanh nghiệp tiêu thụ
sản phẩm đầu ra; (ii) theo chiều ngang (hiệu ứng nội ngành) do cạnh tranh giữa doanh nghiệp
trong nước với doanh nghiệp FDI trong cùng một ngành công nghiệp.
Trong hoạt động nghiên cứu và phát triển – R&D thì tỷ lệ tham gia của doanh nghiệp FDI cao
hơn nhiều so với doanh nghiệp trong nước, năm 2000: 19,78%/5%, 2004: 12,41%/3,43% và năm
2010: 10,9%/2,5%.
Chi phí R&D trung bình cho một cán bộ nghiên cứu trong doanh nghiệp FDI cao hơn mức
trung bình của các doanh nghiệp Việt Nam.Năm 2000, 135,69/103,36 triệu VNĐ, năm 2009:
1.340,34/190,75 triệu VNĐ.
Khu vực FDI kích thích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất
lượng hàng hóa, tạo ra mẫu mã sản phẩm đa dạng với giá cả cạnh tranh.
Nhiều cán bộ quản lý, kỹ sư, công nhân lành nghề của doanh nghiệp FDI đã được chuyển sang
làm việc tại các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ trong nước, có tác động nâng cao trình độ
quản trị và công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam.
Một trong những đóng góp quan trọng nữa của khu vực FDI là chuyển giao công nghệ. Chuyển
giao công nghệ qua các doanh nghiệp có vốn FDI luôn đi kèm với đào tạo nhân lực quản lý, vận
hành, nhờ đó đã góp phần hình thành một đội ngũ các cán bộ, công nhân có trình độ kỹ thuật và
tay nghề cao. Đối với một số khâu chủ yếu của dây chuyền công nghệ đặc thù, lao động Việt
Nam sau khi được tuyển dụng đều được đưa đi bồi dưỡng kỹ thuật và tay nghề tại các công ty mẹ
ở nước ngoài. Đến nay, hầu hết các công nghệ tiên tiến và đội ngũ công nhân kỹ thuật cao đều
tập trung chủ yếu trong khu vực có vốn FDI. Ngoài ra, FDI cũng góp phần mở rộng hợp tác đầu
tư với các nước và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đặc biệt sau khi
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tính đến hết tháng 6.2009, đã có 86
quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam2. Trong số 96 tập đoàn của 16 quốc gia và vùng
lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam có 81 tập đoàn đứng trong danh sách “Global 500” do Tạp chí
Fortune bình chọn. Các tập đoàn đa quốc gia có khoảng 300 dự án đầu tư tại Việt Nam. Với công
nghệ cao, tiềm lực tài chính mạnh, các tập đoàn này đã đầu tư các dự án tập trung vào các lĩnh
vực quan trọng của nền kinh tế Việt Nam như: Công nghiệp dầu khí, ngân hàng, công nghiệp

điện tử – viễn thông, sản xuất ôtô.
2. Hạn chế
Bên cạnh những đóng góp tích cực, FDI cũng đã và đang tạo ra những tác động tiêu cực, ảnh
hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. Phần lớn các doanh nghiệp có vốn FDI tập
trung vào khai thác lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn tài nguyên có sẵn, thị trường tiêu thụ dễ tính
21


để lắp ráp, gia công sản phẩm tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Các doanh nghiệp có vốn FDI hiện
có đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tuy nhiên cơ cấu xuất khẩu của
Việt Nam không thay đổi, trong đó các mặt hàng nông, thuỷ sản, thực phẩm và các mặt hàng có
giá trị gia tăng thấp như dệt may, tạp phẩm chiếm đến 49,4%.
Trong khi các ngành chế tạo đòi hỏi công nghệ cao như máy công cụ, chế tạo ôtô, đồ điện tử chỉ
chiếm 7,5% so với 54,6% tại các nước Đông á và ấn Độ3. Hơn nữa, sự liên kết giữa các doanh
nghiệp có vốn FDI và các doanh nghiệp nội địa còn hạn chế. Do vậy, chưa hình thành được
chuỗi liên kết sản xuất, cung ứng hàng hoá và các ngành công nghiệp phụ trợ. Hiện tại, các
doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam phải nhập khẩu 70-80% lượng sản phẩm phụ trợ.
Các doanh nghiệp có vốn FDI cũng đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, gây bức xúc
trong dư luận thời gian qua. Chất thải của công ty VEDAN là một ví dụ tiêu biểu. Rõ ràng là,
những hậu quả về môi trường nếu không được xem xét kỹ lưỡng khi quyết định cấp phép đầu tư
sẽ làm giảm tính bền vững của tăng trưởng kinh tế.
Một trong những hạn chế nữa của khu vực FDI là các doanh nghiệp có vốn FDI chủ yếu tập
trung vào đầu tư tại các khu vực đô thị lớn mà chưa được phân bổ đều giữa các địa phương trong
cả nước, điều này cũng là một trong những nguyên nhân làm gia tăng khoảng cách phát triển
giữa vùng đô thị và vùng nông thôn, giữa miền ngược và miền xuôi. Hơn nữa, FDI tập trung quá
nhiều tại các thành phố lớn sẽ càng gia tăng sức ép cho các đô thị này về dân số, hạ tầng đô thị.

22



Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa hai nguồn
vốn trong nước và ngoài nước trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế.
I. Nguồn vốn trong nước
Nguồn vốn trong nước đóng vai trò là yếu tố thúc đẩy sự gia tăng của nguồn vốn nước ngoài đầu
tư vào Việt Nam. Nếu như nguồn vốn đầu tư trong nước dồi dào, một mặt có thể tạo niềm tin cho
các nhà đầu tư nước ngoài về độ hấp dẫn và khả năng đầu tư có lợi nhuận cao của môi trường
đầu tư trong nước. Mặt khác, nguồn vốn đầu tư trong nước là nhân tố tạo tiền đề cho hoạt động
đầu tư nước ngoài ví dụ như vốn trong nước đóng vai trò là vốn đối ứng trong quá trình vay vốn
ODA, là chỗ dựa vững chắc cho các khoản nợ, là nguồn đầu tư cơ sở hạ tầng cao, khả năng thu
hút vốn đầu tư của các địa phương tỏng cả nước…Như vậy, để tăng cường mối liên hệ giữa
nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài thì trước hết cần phải có những biện pháp quản
lý và sử dụng hợp lý để tối đa hóa lợi ích của nguồn nội lực này.
1. Huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư:
Bắt nguồn từ bản chất của nguồn vốn trong dân cư là nguồn vốn phân tán, chủ yếu là tiền mặt,
ngoại tệ và vàng tuy nhiên lại có một số lượng rất lớn nên cần phải có các chính sách để huy
động tối đa và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính của thành phần kinh tế này cho đầu tư phát
triển. Thứ nhất, thông qua việc cải thiện môi trường đầu tư, đẩy nhanh việc giải quyết các thủ tục
hành chính, công khai cơ chế chính sách …nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tiếp
cận các yếu tố sản xuất. Thứ hai, thực hiện các biện pháp ưu đãi về thuế tín dụng, giao quyền sử
dụng đất, cho thuê tài sản. Thứ ba, xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong
các văn bản pháp lý, quan niệm xã hội, các quy định hành chính. Thông qua đó, nguồn lực trong
nhân dân được sử dụng tối đa nhằm phát huy được tác dụng thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh
tế. Nguồn vốn này sẽ trở thành các tác nhân tích cực trong việc tạo ra một nguồn vốn đầu tư
trong nước dồi dào, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất nước. Nền kinh tế tư nhân ngày
càng phát triển song song với nền kinh tế quốc dân, tạo ra các cơ hội đầu tư mới cho nhà đầu tư
cả trong và ngoài nước.
2. Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là một nguồn vốn công được cấp cho các dự án của quốc gia chủ yếu tập
trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sự phát triển của xã hội nói chung nên thường được sử

dụng thiếu tiết kiệm hơn nguồn vốn trong khu vực tư nhân. Đây cũng chính là một trong những
nguyên nhân chính dẫn đến việc thất thoát nguồn vốn này. Chính vì vậy, để sử dụng có hiệu quả
23


×