Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Luận văn Thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển từ thực tiễn huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.9 KB, 85 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia ven biển có bờ biển dài 3.260 km với diện tích 1 triệu
Km2 rộng gấp ba lần lãnh thổ trên đất liền, vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền
và quyền tài phán quốc gia của nước ta chứa đựng nhiều tài nguyên và tiềm năng
phong phú để phát triển kinh tế - xã hội. Xuất phát từ lợi ích của biển mà các nước
trong khu vực tiếp giáp Biển Đông với nước ta luôn có xu hướng cạnh tranh, tạo ra
những mâu thuẫn bất đồng trong việc tranh giành quyền chủ quyền quốc gia trên biển.
Nhận thức được vị trí, vai trò, tiềm năng của biển trong phát triển kinh tế - xã hội và
quốc phòng, an ninh nên từ năm 1993 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 03NQ/TW ngày 06/5/1993 Về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm
trước mắt, trong đó khẳng định rằng phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với
tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; xây dựng quốc gia Việt
Nam mạnh về biển và phát triển kinh tế biển thành một bộ phận mũi nhọn của nền
kinh tế quốc dân là một mục tiêu chiến lược, đồng thời là nhiệm vụ bức bách đang đặt
ra cho dân tộc ta trước thách thức lớn trên Biển Đông. Ngày 09 tháng 02 năm 2007
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, trong đó xác định phấn đấu đưa nước ta trở
thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền
chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh. Nhằm cụ thể hóa quan điểm của Đảng
về chiến lược biển, Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã ban hành Chương trình hành động số 15CTr/TU ngày 29/6/2007, trong đó xác định mục tiêu tổng quát là “Phấn đấu đến năm
2020, đưa tỉnh ta trở thành một trong các tỉnh mạnh về biển, góp phần bảo vệ vững
chắc chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển và đảo”. Phát huy tiềm năng lợi thế sẵn
có, trên cơ sở chương trình hành động số 15 – CTr/ TU của tỉnh ủy Quảng Ngãi, huyện
Lý Sơn đã xây dựng và triển khai kế hoạch để thực hiện chương trình hành động. Với
mục tiêu kinh tế biển là ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương trong thời gian đến.
Huyện đảo Lý Sơn có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh, là
1


đảo tiền tiêu trong khu vực phòng thủ của tỉnh Quảng Ngãi. Trong những năm qua,


dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà đặc biệt là từ khi có các Nghị quyết chuyên đề về phát
triển kinh tế biển và Chiến lược biển Việt Nam, kinh tế của huyện không ngừng phát
triển theo hướng chuyển dịch từ nông nghiệp sang ngư nghiệp, sản lượng đánh bắt
thủy sản ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP của huyện và chiếm
gần 1/3 tổng sản lượng khai thác thủy sản của tỉnh Quảng Ngãi. Với những kết quả đạt
được từ lĩnh vực thủy sản đã và đang góp phần quan trọng trong việc nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân huyện đảo Lý Sơn.
Trên cơ sở đó, huyện Lý Sơn đã thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển và
coi đây là chủ trương lớn thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Hiện nay, ngành kinh
tế biển của Lý Sơn đã không ngững phát triển, trong đó lĩnh vực thủy sản của huyện có
bước phát triển đáng kể, số lượng và công suất tàu thuyền tăng lên hàng năm, ngư
trường đánh bắt được mở rộng, năng suất đánh bắt ngày càng tăng, đặc biệt là sự hiện
diện của ngư dân trên các vùng biển (Hoàng Sa, Trường Sa) đã góp phần quan trọng
trong công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Tuy nhiên, những kết quả đạt
được chưa xứng tầm với lợi thế tiềm năng hiện có; công tác quy hoạch phát triển chưa
đồng bộ, việc thực hiên các chính sách hổ trợ từ nguồn vốn nhà nước tuy có nhiều khả
quan nhưng còn nhiều bất cập, đặc biệt là chủ trương hiện đại hóa đội tàu đánh bắt xa
bờ theo NĐ 67 của Chính Phủ tuy được thực hiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu đề ra;
lĩnh vực chế biến, nuôi trồng thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề cá tuy được quan tâm đầu
tư khai thác nhưng chưa phát huy hết tiềm năng sẵn có.
Trước thực trạng trên, cấp ủy Đảng, chính quyền huyện đảo Lý Sơn đã ban
hành nhiều đề án, dự án, kế hoạch về phát triển kinh tế trong đó xác định kinh tế biển
là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, xong những chương trình, kế hoạch chỉ dừng lại
ở tính định hướng chưa đi sâu nghiên cứu đánh giá, phân tích thực trạng và có những
giải pháp mang tính khoa học để vận dụng vào thực tiễn, đồng thời đến nay vẫn chưa
có đề tài khoa học nghiên cứu về kinh tế biển huyện đảo Lý Sơn. Chính vì vậy, đề tài
“Thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển từ thực tiễn huyện đảo Lý Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi” nhằm đánh giá thực trạng và đưa ra những giải pháp có tính khoa học và
khả thi để vận dụng vào quá trình quản lý, điều hành phát triển ngành kinh tế biển
2



huyện đảo Lý Sơn xứng tầm với tiềm năng hiện có.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, có một số tác giả đã đề cập đến các khía cạnh mà đề
tài nghiên cứu quan tâm. Trong số đó có:
Giải pháp phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 theo
tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng của TS. Nguyễn Văn Cường, Phó Vụ
trưởng Văn phòng Chính Phủ.
Tiếp cận Chiến lược kinh tế biển của Việt Nam của PGS. TS. Trần Đình Thiên,
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam. Tác giả đánh giá Viêt Nam có hai lợi thế đó là:
Tiềm năng tự nhiên và vị trị địa kinh tế và địa chiến lược và đi sâu phân tích về hiện
trạng kinh tế biển và những định hình chiến lược kinh tế biển.
Về Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam trong hội nhâp quốc tế của tác
giả Phạm Ngọc Anh, Đại học Sư phạm Hà Nội.
Nhóm giải pháp phát triển kinh tế biển của TS. Hồ Văn Hoành, Phó Chủ tịch
Hội khoa học phát triển nguồn nhân lực, nhân tài Việt Nam.
Tổng cục Biển và Hải đảo với nhiệm vụ phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc của Nguyễn Đăng Đạo, Phó Tổng cục trưởng, Chỉ huy
trưởng Ban CHQS Tổng cục.
Bài viết của TS. Tạ Quang Ngọc - Nguyên Bộ trưởng Bộ thủy sản Việt Nam “
Để Việt nam sớm trở thành mốt quốc gia mạnh về biển và giàu lên từ biển” trong Tạp
chí Cộng sản số 777, tháng 7/2007.
Và còn nhiêu công trình nghiên cứu khác liên quan đến kinh tế biển, song trong
pham vi nghiên cứu tác giả đã tiếp cận và tham khảo các công trình nghiên cứu nhưng
chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu vấn đề thực hiện chính sách phát triển kinh tế
biển từ thực tiễn Huyện đảo Lý Sơn. Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài này làm
luận văn thạc sĩ của mình, đề tài luân văn thực hiện có sự kế thừa, phát triển những kết
quả thực hiện trước đó để đánh giá, phân tích, từ đó đề xuất ra các giải pháp phù hợp
với tình hình thực tế của địa phương trong những năm tới.


3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng về thực hiện chính sách
phát triển kinh tế biển và những yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển kinh tế
biển tù thực tiễn huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp tăng cường thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến thực hiện chính sách phát triển
kinh tế biển;
Đánh giá, phân tích thực trạng thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển tại
huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua;
Đề xuất các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
trong thời gian đến.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
từ thực tiễn huyện Lý Sơn Quảng Ngãi dưới góc độ khoa học chính sách công.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: Tập trung chủ yếu về thực hiện chính sách phát triển
kinh tế biển từ thực tiễn huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi
Phạm vi về thời gian: Từ năm 2005 đến 2015 và giải pháp đến năm 2020.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và vận dụng
phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách
công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện, đánh giá chính

sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách.Luận văn được thực hiện dựa trên
cơ sở lý luận và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác phát triển
kinh tế biển.
4


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan, bao gồm các
Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị, Nghị định, Quyết định của Đảng, Nhà nước, các văn
bản quy phạm pháp luật ở trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các
báo cáo, tài liệu thống kê liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách phát
triển kinh tế biển ở nước ta nói chung và thực tế ở Lý Sơn nói riêng.
Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, chuyên gia, phương pháp dự báo
các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, phương pháp phân tích chiến lược phát triển.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài nghiên cứu thành công sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và
đóng góp vào sự hoàn thiện lý luận về thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài nghiên cứu thành công sẽ là cơ sở khoa học để áp dụng vào quá trình
hoạch định chính sách và đề ra biện pháp phát triển kinh tế biển tại huyện Đảo Lý
Sơn; đồng thời là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến vấn đề thực hiện
chính sách phát triển kinh tế biển.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
Chương 2: Thực trạng thực hiện kinh tế biển tại huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng
Ngãi
Chương 3: Tăng cường thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển ở nước ta

hiện nay

5


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
1.1. Khái quát về chính sách phát triển kinh tế biển
Thấy rõ tầm quan trọng của kinh tế biển đối với phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề cập đến vai trò của kinh tế biển và
khẳng định mục tiêu khai thác tổng hợp kinh tế biển, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến
thuỷ sản, nhất là các loại có khả năng xuất khẩu, gắn liền với chiến lược khai thác và
bảo vệ vùng biển của đất nước. Thực hiện chủ trương này ngày 06/5/1993 Bộ Chính trị
ra Nghị quyết số 03-NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những
năm trước mắt, trong đó khẳng định rằng phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi
với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia;
Trên cơ sở nhận định mang tính khoa học trên, ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị
ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ những quan điểm cơ bản của chỉ thị này, cùng với việc
tiếp tục nhấn mạnh chủ trương lớn xây dựng Việt Nam trở thành một nước mạnh về
biển, phát triển kinh tế - xã hội vùng biển, hải đảo, ven biển phải gắn kết với yêu cầu
bảo vệ đất nước. Để kinh tế biển phát triển một cách đồng bộ chúng ta cần đặt kinh tế
biển trong tổng thể kinh tế cả nước, trong quan hệ tương tác với các vùng và trong xu
thế hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Vì vậy, lợi ích kinh tế biển không chỉ
xuất phát từ một địa phương, một ngành mà cần được liên kết một cách khoa học sự
phát triển của các ngành trên toàn vùng, trên từng địa bàn cụ thể thành một chương
trình phát triển thống nhất. Đặc biệt, phát triển kinh tế biển phải chú trọng ngay từ đầu
sự tiến bộ xã hội của vùng biển.
Ngày 9/2/2007, BCH Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết 09 –

NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Đây là chủ trương tổng thể
mang tính toàn diện để phát triển kinh tế biển Việt Nam trong thời gian tới.
Do đó, để thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, trước hết cần có sự kết
hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh, hợp tác
6


quốc tế và bảo vệ môi trường.; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, ven biển,
hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mở rộng
không gian kinh tế biển và nhất thể hóa trên phạm vi vùng biển, ven biển và hải đảo
gắn kết chặt chẽ với các vùng quy hoạch lâu nay trong đất liền. Sự phát triển các
ngành kinh tế biển được gắn kết hữu cơ với nhau trên cơ sở phát huy cao nhất lợi thế
của mỗi ngành.
Qua gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9-2-2007 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, chúng ta
có thể nhận thấy ngành kinh tế biển đã có những bước phát triển đáng kể góp phần
quan trọng trong chiến lược phát triển của đất nước. Hiện nay, các ngành kinh tế biển
và liên quan đến biển đóng góp khoảng 47 - 48% GDP cả nước. Trong đó, các ngành
kinh tế biển như khai thác dầu khí, hải sản, vận tải biển và dịch vụ cảng biển, du lịch
biển… đóng góp khoảng 20-22% GDP cả nước. Với tốc độ phát triển như hiện nay, dự
báo đến năm 2020 kinh tế biển đóng góp khoảng 53 – 55% GDP, 55 – 60% kim ngạch
xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời
sống của nhân dân vùng biển và ven biển.
Để đảm bảo tính đồng bộ và bền vững trong phát triển kinh tế biển, Chính phủ
đã ban hành và phê duyệt nhiều nghị quyết và quyết định như: Một số giải pháp cấp
bách trong quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường biển; Đề án đẩy mạnh công
tác tuyên truyền và quản lý bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo; Quy hoạch
phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020; … và gần đây, ngày 06/9/2013 Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1570/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược khai
thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn

đến năm 2030, Nghị định 67/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 7/7/2014 về một số chính
sách phát triển thủy sản và NĐ 89/NĐ-CP một số nội dung sửa đổi bổ sung NĐ
67/NĐ-CP và cơ chế, chính sách liên quan đến phát triển kinh tế biển.
1.2. Khái niệm, vai trò của thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
1.2.1. Khái niệm về chính sách và chính sách công
Khái niệm chính sách:
Theo từ điển Tiếng Việt, Chính sách là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi
7


trong đời sống xã hội; chính sách là sách lược, kế hoạch cụ thể nhằm đạt được một
mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra
chính sách.
Theo tác giả Vũ Cao Đàm thì “chính sách là một tập hợp biện pháp được thể
chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi
một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ nhằm thực
hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”.
Khái niệm chính sách công:
Chính sách công là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã
hội. Hiện nay có nhiều các khái niệm về chính sách công trên thế giới vì các hình thái
nhà nước, hệ thống chính trị khác nhau. Ở nước ta, tồn tại cụm từ “chính sách của
Đảng và Nhà nước” vì Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua việc vạch ra các
cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách. Đây là các căn cứ chỉ đạo để nhà
nước ban hành chính sách công. Như vậy, chính sách công là một trong những công cụ
cơ bản được Nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Do đó, có thể định nghĩa chính sách công như sau: “Chính sách công là một tập hợp
các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể
với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu xác định
của đảng chính trị cầm quyền”
1.2.2. Khái niệm kinh tế biển

Kinh tế biển hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn
ra trên biển và các hoạt động kinh tế diễn ra trên đất liền nhưng trực tiếp liên quan đến
khai thác biển. Cụ thể là:
- Các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu bao gồm: Kinh tế hàng hải
(vận tải biển và dịch vụ cảng biển); Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); Khai thác
dầu khí ngoài khơi; Du lịch biển; Làm muối; Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; và
Kinh tế đảo.
- Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy không phải
diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển hoặc trực
tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm: Đóng và sửa
8


chữa tàu biển ( hoạt động này cũng được xếp chung vào lĩnh vực kinh tế hàng hải);
Công nghiệp chế biến dầu, khí; Công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản; Cung cấp dịch vụ
biển; Thông tin liên lạc biển; Nghiên cứu khoa học - công nghệ biển; Đào tạo nhân
lực phục vụ phát triển kinh tế biển; Điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển.
Từ khái niệm trên cho chúng ta thấy rằng, kinh tế biển có những đặc trưng sau
đây:
- Kinh tế biển là một ngành kinh tế tổng hợp, là một bộ phận mũi nhọn của nền
kinh tế quốc dân.
- Kinh tế biển luôn gắn liền với nguồn tài nguyên thiên nhiên trên biển như các
hoạt động đánh bắt, khai thác thủy sản, khai thác dầu khí, du lịch, vận tải, …
- Kinh tế biển phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, Việt Nam là quốc gia nhiệt đới
nằm ở cực Đông Nam bán đảo Đông Dương nên trung bình hàng năm có khoảng 5 - 6
cơn bão và 2 - 3 ấp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam. Điều này đã tác động rất
lớn đến hoạt động kinh tế biển.
- Kinh tế biển là ngành kinh tế chủ yếu khai thác các nguồn tài nguyên từ biển
nên có sự tác động đến môi trường sinh thái biển, như các hoạt động đánh bắt thủy
sản, khai thác

dầu khí…
- Kinh tế biển luôn gắn kết với yếu tố bảo vệ chủ quyền vùng biển của Tổ quốc;
các hoạt động đánh bắt thủy sản, thăm đò khai thác tài nguyên trên biển cũng đồng
nghĩa với sự khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển.
Từ những nội dung trên cho thấy tầm quan trọng của kinh tế biển đối với phát
triển đất nước và hội nhập quốc tế. Để thể hiện điều này, Đảng và nhà nước ta đã có
nhiều chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế biển trước mắt và trong tương
lai.
1.2.3. Khái niệm về thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
Từ khái niệm chung về chính sách công có thể định nghĩa thực hiện chính sách
phát triển kinh tế biển như sau: Thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển là một tập
hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước với mục tiêu, giải pháp, công
cụ cụ thể nhằm thực hiện chinh sách phát triển kinh tế biển phù hợp với thực tiến đáp
9


ứng yêu cầu xây dựng, phát triển kinh tế biển hiện nay.
1.2.4. Vai trò của việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
Phát triển kinh tế biển đồng bộ và bền vững góp phần thúc đẩy tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế:
Thời gian qua, việc triển khai thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển đã
góp phần đẩy mạnh quan hệ và hội nhập quốc tế của nước ta, đến nay nước ta có mối
quan hệ ngoại giao với 167 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó thiết lập quan hệ kinh
tế thương mại với trên 100 đối tác. Việt Nam cũng là thành viên tích cực của các tổ
chức như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu Á- Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), …Các sản
phẩm thủy sản của Việt Nam đã có mặt trên nhiều thị trường lớn như: Trung Quốc,
Nga, Mỹ, Nhật, EU, …Năm 2000 Việt Nam ký Hiệp định hợp tác nghề cá với Trung
Quốc nhằm đảm bảo sự ổn định và khai thác nghề cá trên Vịnh Bắc Bộ và những cam
kết với các Quốc gia có chung biển đông.

Tuy nhiên, theo đánh giá ban đầu việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế
biển chưa được quán triệt sâu rộng trong hệ thống chính trị, cộng đồng các doanh
nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân. Việc phát triển kinh tế biển trong thời gian qua chưa
quan tâm đầy đủ đến vốn đầu tư, đào tạo nhân lực, . . .chưa lồng ghép các chương trình
phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền an ninh biển đảo.
Nhiều địa phương, các ngành, các cấp, các doanh nghiệp, cư dân ven biển còn thờ ơ
với tác động của biến đổi khí hậu đến sự phát triển kinh tế biển bền vững, chưa nhận
thức đầy đủ về ngành kinh tế biển là ngành đầu tiên chịu sự thiệt hại nặng nề do biến
đổi khí hậu và nước biển dâng.
Để phát triển kinh tế biển bền vững chúng ta cần phải tập trung nâng cao nhận
thức cho toàn xã hội về chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với phòng ngừa, thích
ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo, xem đây là ba mặt của một
vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau. Xây dựng đề án tái cơ cấu ngành kinh tế biển,
các cơ chế, chính sách nhằm phát huy quyền chủ động của các ngành, các cấp, các địa
phương và vùng lãnh thổ, có sự quản lý tập trung của trung ương, tạo nên bước đột
phá về tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, theo chiều rộng
10


và chiều sâu. Bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành theo nội dung mới
gắn phát triển kinh tế biển với phòng ngừa thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ
chủ quyền biển đảo trên tất cả các lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng tuyến đảo,
hệ thống cảng biển, đô thị ven biển, các ngành dầu khí, đóng tàu, giao thông, du lịch,
khai thác nuôi trồng thủy hải sản, …đồng thời thúc đẩy liên kết hợp tác giữa các
ngành, các địa phương và vùng lãnh thổ, hiện đại hóa các doanh nghiệp, các hợp tác
xã, xây dựng các thương hiệu biển quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài và
đầu tư tư nhân vào phát triển kinh tế biển, ...Xây dựng chiến lược thích ứng cho sinh
kế ven biển, bảo vệ môi trường sinh thái, xác định và tiếp cận cho từng lĩnh vực, như
vận tải biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi, …có sự tham gia
của đại diện các cơ quan ở địa phương, các chuyên gia kỹ thuật, các tổ chức quần

chúng, các hộ gia đình, lập bản đồ về các mối hiểm nguy, kế hoạch lưu giữ nước ngọt,
áp dụng cách tiếp cận vùng để quản lý tài nguyên thiên nhiên ven biển dựa trên cộng
đồng. Huy động cộng đồng tham gia vào việc kiên cố hóa đê điều, khôi phục và phát
triển rừng phòng hộ ven biển tạo hành lang bảo vệ đê biển, ngăn ngừa nước biển dâng
và nước mặn lấn sâu vào đồng ruộng. Tổ chức các tổ đoàn kết, hợp tác xã vận tải trên
biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy hải sản, … để có điều kiện hỗ trợ nhau trong sản
xuất ứng phó với bão tố, sóng thần, ...Tăng cường đầu tư xây dựng mới và củng cố hệ
thống đê biển vững chắc, kiện toàn hệ thống thông tin truyền thông, hệ thống cảnh báo
sớm sóng thần và dự báo thời tiết, phát triển hệ thống rừng và rừng ngập mặn, trước
mắt triển khai sớm hệ thống đê biển ở vùng thấp và vùng ngập nước. Ưu tiên giải
quyết di dời cơ sở hạ tầng, dân cư ở những vùng có nguy cơ ngập nước, bổ sung lực
lượng lao động có chất lượng cho huyện đảo và quần đảo. Đổi mới cơ cấu nghề
nghiệp, phát triển các nghề mới thích ứng với các vùng mặn hóa, hạn hán, ngập nước;
áp dụng công nghệ mới hiện đại vào các lĩnh vực khai thác khoáng sản, dầu khí, đóng
tàu và khai thác chế biến các sản phẩm của biển, …Tăng cường mở rộng hợp tác quốc
tế trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và chuyển giao công nghệ, thu
hút các nguồn vốn ODA, nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các nước, ...Tổ chức đào tạo
và bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu quản lý các ngành kinh tế biển và cộng đồng cư dân
ven biển không những có trình độ chuyên môn mà còn có kỹ năng ứng phó với biến
11


đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Với sự phát triển đồng bộ và bền vững, ngành kinh tế biển sẽ giữ vai trò chủ
yếu không chỉ để đảm bảo cho nhu cầu đời sống của nhân dân, mà còn góp phần thúc
đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, góp phần
bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Phát triển kinh tế biển góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho vùng nông thôn ven biển:
Việt Nam có 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là vùng ven biển và 12

huyện đảo. Các huyện đảo đồng thời là địa bàn chính trong xây dựng khu vực phòng
thủ và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế biển Việt Nam. Hiện nay, nước ta có
khoảng trên 20 triệu người dân ven biển và trên các hải đảo có sinh kế trực tiếp hay
gián tiếp phụ thuộc vào nguồn lợi từ biển. Trong những năm qua, mà đặc biệt là từ khi
thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư cơ sở hạ
tầng cho các địa bàn ven biển và hải đảo. Một số đảo lớn như: Côn Đảo, Phú Quốc,
Trường Sa, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Vân Đồn, …đã được
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, mạng lưới điện, thông tin liên lạc,
cung cấp nước ngọt, trường học, bệnh xá, bố trí lại dân cư, tham gia vào phát triển
kinh tế, nông nghiệp, du lịch, công nghiệp dầu khí có bước phát triển nhanh; bảo vệ
môi trường biển đảo bước đầu được chú trọng, đã có 16 khu bảo tồn biển và các vườn
quốc gia ven biển và hải đảo, …được công nhận và thiết lập; đồng thời đảm bảo tốt
công tác quốc phòng, an ninh; hình thành hệ thống các khu công nghiệp, các cảng
biển, cảng cá, khu du lịch từ Quảng Ninh cho đến Cà Mau, …
Tính đến nay cả nước đã có 9 cảng biển và 15 khu kinh tế ven biển được thành
lập với tổng diện tích mặt đất và mặt nước lên đến gần 700.000 ha, thu hút khoảng trên
700 dự án do nước ngoài và trong nước đầu tư, với tổng số vốn gần 40 tỷ USD và gần
350.000 tỷ đồng. Nhiều thị trấn, thị tứ, khu nghỉ dưỡng đã hình thành dọc theo chiều
dài ven biển của đất nước. Bên cạnh đó, Nhà nước đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để hiện
đại hóa đội tàu đánh bắt xa bờ từng bước chuyển đổi ngư trường đánh bắt hải sản ven
bờ sang ngư trường khơi xa với phương tiện kỹ thuật hiện đại để phát triển kinh tế
thủy sản mà trước mắt là tăng thu nhập cho ngư dân.
12


Theo số liệu thống kê cho thấy, nếu năm 2005 mức thu nhập bình quân đầu
người của khu vực ven biển là 310 USD thì đến năm 2015 mức thu nhập bình quân đầu
người đã tăng lên 2.300 USD, phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển
đóng góp khoảng 53% – 55% tổng GDP của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội,
cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển. Phấn đấu thu nhập

bình quân đầu người cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước, …
Bên cạnh việc hiện đại hóa đội tàu đánh bắt xa bờ thì đầu tư phát triển các cơ sở
chế biến thủy sản, các dịch vụ hậu cần tại chỗ là điều kiện làm tăng giá trị sản xuất và
đồng thời giải quyết công ăn, việc làm cho nông, ngư dân ven biển, góp phần tăng thu
nhập nhằm ổn định cuộc sống cho người dân.
Phát triển kinh tế biển góp phần vào công tác bảo vệ chủ quyền vùng biển của
tổ quốc:
Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền vùng biển là một yêu cầu
khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Một nền kinh tế phát triển toàn
diện là điều kiện xây dựng một nền quốc phòng mạnh, còn một nền quốc phòng mạnh
sẽ tạo môi trường phát triển và bảo vệ tốt thành quả kinh tế.
Kết hợp kinh tế biển với bảo vệ chủ quyền là hoạt động chủ động của một quốc
gia trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật của hai lĩnh vực kinh tế và quân sự,
nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước trong quá trình phát triển kinh tế,
đồng thời ngăn chặn, hạn chế các tác động tiêu cực của chiến tranh, của phát triển
quốc phòng đối với sự phát triển kinh tế.
Ở nước ta, kết hợp phát triển kinh tế gắn với bảo vệ chủ quyền còn là sự tiếp
nối truyền thống lịch sử dân tộc “dựng nước đi đôi với giữ nước”. Ðó cũng là một
chiến lược xuyên suốt của Ðảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Sự kết hợp đó
phải thể hiện trong xây dựng cơ cấu kinh tế biển hợp lý; có chiến lược kinh tế đối
ngoại đúng đắn; xây dựng và hoàn thiện không ngừng hệ thống quan hệ sản xuất.
Ngày nay, hoạt động kinh tế là trung tâm, hàng đầu nhằm huy động mọi nguồn lực từ
con người đến của cải vật chất, tài nguyên thiên nhiên, để giải quyết những vấn đề bức
xúc nhất về nâng cao đời sống nhân dân, tạo ra những điều kiện vật chất, kỹ thuật quan
trọng để củng cố quốc phòng, đó là xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng
13


lực lượng sẵn sàng đủ sức bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ thành
quả cách mạng, giữ vững và củng cố hòa bình, an ninh, ổn định trên cả nước, thúc đẩy

công cuộc xây dựng kinh tế, hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay, có 6 nước đều tuyên bố có chủ quyền trên khu vực 2 quần đảo Trường
Sa và Hoàng Sa gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và
Brunei. Và đặc biệt, mới đây nhất Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan
HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng
luật pháp quốc tế, đe dọa trực tiếp đến an ninh, an toàn hàng hải, làm ảnh đến hòa bình
trong khu vực. Với quan điểm hoà bình hữu nghị, Việt Nam chủ trương giải quyết các
tranh chấp thông qua thương lượng, đàm phán không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực
để giải quyết vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, đến nay Việt Nam đã ký Hiệp định về
phân định vịnh Bắc Bộ và vùng đánh cá chung với Trung Quốc, tích cực cùng các nước
ASIAN xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông COC.
Trong quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về Chiến lược phát triển kinh tế biển phải
gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia, vì thế kinh tế biển phát triển là điều kiện tạo ra cơ
sở vật chất, kỹ thuật cho khu vực ven biển, nâng cao đời sống nhân dân và góp phần
củng cố cơ sở chính trị và xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; bên cạnh đó, sự
hiện diện của ngư dân trên các vùng biển không chỉ là để khai thác đánh bắt hải sản mà
gắn liền với đó là trách nhiệm bảo vệ chủ quyền quốc gia, là thể hiện tinh thần dân tộc
nối bước đội quân hùng binh Hoàng Sa năm xưa để bảo vệ chủ quyền vùng biển thiêng
liêng của Tổ quốc và đó cũng chính là quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân
và thế trận chiến tranh nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
1.3. Nội dung thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9-2-2007 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 cho
thấy: Kinh tế biển Việt Nam hiện đã có bước chuyển biến đáng kể. Ngoài các ngành
nghề truyền thống, đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế biển gắn với công nghệ - kỹ thuật
hiện đại như khai thác dầu khí, đánh bắt xa bờ, vận tải biển, du lịch biển - đảo và tìm
kiếm cứu hộ, cứu nạn, …Tuy nhiên, điểm mấu chốt trong chiến lược phát triển kinh tế
biển Việt Nam là hội nhập quốc tế.
14



Theo đó, mục tiêu và nội dung thực hiện chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020 là phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển; làm giàu từ biển, phát
triển toàn diện các ngành, nghề biển gắn với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ
phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn. Phấn đấu đến năm
2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 - 55% GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu
của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân
vùng biển và ven biển.
Để xây dựng một nền khoa học kinh tế biển hiện đại, một quốc gia mạnh về
biển với tầm nhìn dài hạn, Việt Nam cần phải triển khai hàng loạt các giải pháp nghiên
cứu về biển, cả chiến lược, chính sách lẫn khoa học - công nghệ, bao gồm:
Thứ nhất, phát triển mạnh giao thông vận tải biển để đáp ứng nhu cầu xuất,
nhập khẩu hàng hoá. Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông
vận tải biển. Hệ thống cảng của nước ta gồm cảng biển và cảng sông với khoảng trên
90 cảng lớn nhỏ và được phân bố tương đối đều dọc theo bờ biển từ Bắc vào Nam. Hệ
thống cảng biển Việt Nam được chia thành 6 nhóm: 1) Nhóm cảng biển phía bắc; 2)
Nhóm cảng biển Bắc Trung Bộ; 3) Nhóm cảng biển Trung Trung Bộ; 4) Nhóm cảng
biển Nam Trung Bộ; 5) Nhóm cảng vùng Đông Nam Bộ; và 6) Nhóm cảng đồng bằng
sông Cửu Long. Cùng với hệ thống cảng, kho bãi, biển Việt Nam thông với hai đại
dương lớn là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Những điều kiện thuận lợi này là cơ
sở quan trọng để phát triển giao thông vận tải biển. Vận chuyển hàng hoá bằng đường
biển đã tăng hơn 6 lần trong giai đoạn (1995 - 2010).
Thứ hai, tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, huấn luyện thuyền viên. Việt
Nam ước tính thiếu hụt khoảng 5.000 thuyền viên vào năm 2020. Để giảm thiểu sự
thiếu hụt này, nhà nước cần xây dựng Trung tâm đào tạo huấn luyện thuyền viên dựa
trên nguồn kinh phí tài trợ của nhà nước và của tư nhân, đồng thời hợp tác với nước
ngoài để đào tạo nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, cần phát triển
dịch vụ hàng hải và hiện đại cơ sở vật chất kỹ thuật cho khâu quản lý điều hành nhằm
bảo đảm an toàn hàng hải và dịch vụ hàng hải. Phát triển thương mại biển, đảo và
vùng ven biển có trọng điểm để sớm hình thành một số trung tâm thương mại mạnh tại

một số khu vực biển. Duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hải sản cao, ổn định và bền
15


vững, cải thiện cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng mặt hàng chế tạo, sản
phẩm chế biến.
Thứ ba, tập trung phát triển du lịch đảo và du lịch ven biển. Du lịch và giải trí
biển là một lĩnh vực hoạt động kinh tế biển. Các hoạt động kinh tế biển đã đóng góp
giải quyết đáng kể về thu nhập cũng như giảm thất nghiệp, xoá đói nghèo, bảo đảm an
ninh quốc gia vùng biển. Du lịch biển có tiềm năng kinh doanh lớn. Vùng biển và ven
biển tập trung tới ¾ khu du lịch tổng hợp và hơn ½ khu du lịch chuyên đề nhưng
ngành du lịch biển vẫn chưa có những sản phẩm dịch vụ đặc sắc, có tính cạnh tranh
cao so với khu vực và quốc tế, chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt qui mô và trình độ
quốc tế. Những năm gần đây, du lịch, nghỉ dưỡng cũng như giải trí biển đã được mở
rộng đáng kể. Việt Nam có nhiều trung tâm du lịch biển quan trọng, có vị trí địa lý thuận
lợi, nằm trển tuyến du lịch quốc tế Đông Nam Á. Doanh thu du lịch biển tăng hơn 5 lần
giai đoạn (2000 – 2010), Mục tiêu năm 2020 thu hút hoảng 8-10 triệu lượt khách quốc
tế, 50 - 60 triệu lượt khách trong nước đến du lịch biển.
Thứ tư, tăng cường khai thác năng lượng, khoáng sản, thuỷ sản biển. Đẩy mạnh
sản xuất muối biển trên cơ sở thâm canh, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất các
đồng muối hiện có. Mặc dù ngành khai thác dầu thô và khí thiên nhiên trên biển Việt
Nam mới được bắt đầu từ năm 1986, nhưng hiện đang đứng ở vị trí thứ 4 ở Đông Nam
Á và thứ 44 trong Cộng đồng các quốc gia khai thác dầu mỏ trên thế giới. Ngành dầu
khí là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn có tiềm lực kỹ thuật, vật chất lớn và
hiện đại nhất trong nhũng ngành khai thác biển, đồng thời cũng là một trong những
ngành xuất khẩu thu được nhiều ngoại tệ nhất. Cần đẩy mạnh phát triển công nghiệp ven
biển, trước hết là dầu mỏ, khí đốt, than, quặng kim loại, chuẩn bị điều kiện khai thác
khoáng sản ở biển sâu sau năm 2010. Bên cạnh khai thác khoáng sản biển, thì thủy sản
cũng đóng vai trò quan trọng vì thuỷ sản là nguồn tài nguyên tài tạo, phát triển dựa trên
nền tảng của các hệ sinh thái. Kinh tế thuỷ sản bảo đảm và cải thiện kế sinh nhai cho dân

cư sống ở vùng nông thôn ven biển và hải đảo. Tiếp tục phát triển nuôi trồng và đánh bắt
thuỷ hải sản để đến năm 2015 đạt tổng sản lượng 4 -5 triệu tấn. Mở rộng thêm diện tích
những nơi thuận lợi nhất cho nghề muối, đưa diện tích các đồng muối lên 35- 40 nghìn
ha vào năm 2015.
16


Thứ năm, phát triển kết cấu hạ tầng biển trên cơ sở đầu tư nâng cấp các cụm
cảng, đáp ứng yêu cầu xuất nhập khẩu. Nâng công suất cụm cảng phía Bắc lên 60 - 70
triệu tấn, miền Trung 40 - 50 triệu tấn/năm, miền Nam 90 - 100 triệu tấn vào giai đoạn
2010 -2015. Nâng cấp và chuẩn bị điều kiện xây mới một số sân bay ven biển. Khẩn
trương xây dựng các cảng biển nước sâu, qui mô lớn có thể tiếp nhận các tàu biển
trọng tải lớn từ 50.000 – 100.000 DWT. Ngành hàng hải Việt Nam cần 4-5 tỉ USD từ
nay đến năm 2020 để đầu tư phát triển cảng biển. Năm 2008, cảng biển Nam Ninh
(cảng đầu tiên đạt tiêu chuẩn quốc tế ở phía bắc) chính thức được đưa vào khai thác đã
đánh dấu sự phát triển mới của ngành vận tải biển Việt Nam trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế.
Phát triển kinh tế biển Việt Nam hiện chưa được coi là bền vững. Vì vậy, để
phá triển một nền kinh tế biển hiệu quả, bền vững và có khả năng hội nhập quốc tế cần
có một phương pháp quản lý biển tổng hợp, đảm bảo được an ninh sinh thái và an ninh
xã hội ở vùng biển đảo và ven biển. Thêm nữa là phải thay đổi cách tư duy về quản lý
và khai thác tài nguyên biển, phải chinh phục biển và chế ngự biển khơi, có như vậy,
mục tiêu “trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển vào năm 2020” của
Chính phủ Việt Nam mới có khả năng thành hiện thực.
1.4. Qui trình (các bƣớc) thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
Thực hiện chính sách đóng vai trò vô cùng quan trọng trong qui trình chính sách
công. Nếu hoạch định chính sách công đã làm tốt thì việc tiếp theo là phải làm tốt
thực thi chính sách mới góp phần làm cho chính sách đạt kết quả. Vậy việc thực hiện
chính sách phát triển kinh tế biển gôm các bước sau đây:
1.4.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

Tất cả các chủ thể, cơ quan chủ trì và phối hợp xây dưng kế hoạch thực hiện
về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, những dự kiến về cơ chế trách nhiệm của
cán bộ quản lý và công chức; các nguồn lực; về thời gian thực hiện; kiểm tra đôn đốc
thực thi chính sách phát triển kinh tế biển.
Trên cơ sở Nghị quyết số 09-NQ/TW về “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm
2020”, trong đó xác định: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm
giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo,
17


góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước
giàu mạnh. Xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học –
công nghệ, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, làm cho đất nước giàu mạnh từ
biển, bảo vệ môi trường biển. Và tiếp tục thực hiện chủ trương phát triển kinh tế biển
được xác định trong các văn kiện trước đây của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội 10 năm (2011-2020), được Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011) thông qua,
nhấn mạnh: “Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của
nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ
quyền vùng biển. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu
tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, đóng tàu, xi-măng, chế biến thủy
sản chất lượng cao, ...
Tiềm năng, cơ hội cho phát triển kinh tế biển của Việt Nam:
Nước ta có bờ biển trải dài 3.260km dọc Bắc – Trung – Nam, chủ quyền bao
quát hơn một triệu ki-lô-mét vuông trên vùng Biển Đông (gấp ba lần diện tích đất
liền), trên biển có hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, với trữ lượng hải sản lớn và phong phú,
trữ lượng khoáng sản, nhất là dầu khí to lớn, tiềm năng du lịch gắn với biển và trên
biển dồi dào,…Điểm nổi bật là, trong số mười tuyến đường biển lớn nhất hành tinh, có
năm tuyến đi qua Biển Đông – một hướng chính chúng ta đang đi ra thế giới, đã và
tiếp tục tạo động lực mạnh mẽ mở rộng thông thương, thắt chặt và tăng cường các mối
bang giao quốc tế, nhằm phát triển theo phương châm “tăng trưởng xanh” một cách

chiến lược và đáng ghi nhận. Dọc bờ biển và trên biển Việt Nam có 28 tỉnh, thành phố,
với 12 thành phố lớn, 125 huyện, thị xã ven biển, 100 cảng biển, khoảng 238.000 cụm
công nghiệp và gần 1.000 bến cá… Năm 2007, kinh tế biển và vùng ven biển đóng
góp khoảng 49% GDP cả nước, trong đó riêng kinh tế trên biển chiếm khoảng 22%;
các ngành kinh tế biển quan trọng như dầu khí, hàng hải, thủy sản, du lịch biển đều
tăng trưởng với nhịp độ cao… Quốc phòng, an ninh trên biển, đảo được bảo đảm; các
lực lượng bảo vệ biển đã thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý và bảo vệ chủ quyền biển,
đảo, tạo điều kiện hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế trên biển, đảo; ý thức của nhân dân
bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển được nâng lên.
Tiềm năng và thực tế đó đã và đang tạo nền tảng và cơ hội cho Việt Nam từng
18


bước trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trên cơ sở phát triển và phát
huy toàn diện các ngành nghề biển một cách phù hợp, với cơ cấu phong phú, hiện đại,
tạo ra tốc độ phát triển theo hướng nhanh, bền vững và hiệu quả. Tuy nhiên, những nỗ
lực của chúng ta vừa qua chưa thật sự ngang tầm với các tiềm năng, thế mạnh và lợi
thế so sánh đó về biển, đảo và kinh tế biển, đảo; tình hình an ninh, quốc phòng ở một
số khu vực biển, đảo của chúng vẫn tiềm ẩn sự phức tạp, thậm chí có nơi, có lúc rất
phức tạp, khó lường, ở chừng mực nào đó, khiến cho lộ trình phát triển kinh tế biển,
đảo của nước ta chưa tương xứng với tiềm năng, chưa được như mong muốn.
Tiếp tục giải quyết những vấn đề đặt ra, không ngừng phát triển kinh tế biển,
đảo gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh:
Để phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh theo tình thần
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng, cần tập trung giải quyết thỏa đáng một số vấn đề cấp bách sau:
Thứ nhất, về tư duy và nhận thức:
Có tình trạng khiếm khuyết, hạn chế, thậm chí có phần lệch lạc trong tư duy,
trong nhận thức đối với kinh tế biển, đảo và việc phát triển kinh tế biển gắn liền với an
ninh, quốc phòng ở mức độ này hay ở mức khác không? Nếu không thì tại sao không ít

người vẫn đang suy nghĩ và cho rằng, phát triển kinh tế biển là nhiệm vụ chỉ của các
tỉnh, thành phố, huyện thị có biển hoặc của riêng các ngành như tài nguyên và môi
trường, thủy hải sản, công thương, du lịch, dầu khí…? Và, có không sự tách rời kinh tế
biển, đảo với kinh tế duyên hải, hoặc chỉ chú trọng mục tiêu phát triển kinh tế mà
buông lơi công tác an ninh, quốc phòng? Việc tiếp tục đổi mới tư duy về biển, đảo và
kinh tế biển, đảo, gắn kinh tế với quốc phòng bao gồm những vấn đề gì, chúng như thế
nào, để từ đó xác lập và thống nhất một tầm nhìn xa trông rộng, vững vàng tư tưởng
vươn ra biển lớn, gắn kết đất liền với đại dương, để xây dựng và phát triển văn hóa
biển, đảo – văn hóa hướng ra đại dương trong cả cộng đồng và mỗi con người nhằm
phát triển một cách bền vững và ổn định.
Thứ hai, về quy hoạch:
Muốn phát triển toàn diện, đồng thời có chiều sâu và hiệu quả, bền vững, nhất
thiết phải làm tốt công tác quy hoạch bảo đảm cho sự phát triển một cách chủ động.
19


Nhưng tại sao vẫn còn tình trạng phân tán, thậm chí khép kín, biệt lập giữa các ngành
trong tỉnh, các địa phương, dù hầu như tỉnh ven biển nào cũng định hướng, quy hoạch,
phác thảo chương trình, mô hình riêng của mình về xây dựng cảng nước sâu, về nhà
máy lọc dầu, về khu công nghiệp, về cầu cảng hàng không…, trong khi rất cần một
“nhạc trưởng” hay một trung tâm điều phối chung một cách tổng thể về năng lượng, về
đất đai, về dân số, về môi trường, về đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng…
Và, để điều này không cản trở sức sáng tạo, phát huy năng lực, lợi thế của mỗi ngành,
mỗi địa phương… thì cần phải làm gì và làm như thế nào? Phát triển toàn diện, thống
nhất nhưng có trọng tâm, trọng điểm là như thế nào? Những câu hỏi này rất cần có lời
giải một cách khoa học, cụ thể.
Thứ ba, về cơ chế phối hợp:
Theo lẽ tự nhiên, sự liên kết hợp tác giữa các tỉnh, thành phố có biển, đảo trong
cả nước bằng những chương trình hành động cụ thể dựa trên từng lợi thế so sánh,
trong tất cả các hướng chiến lược và kế hoạch của từng bước đi là việc tất yếu, là sự

sống còn. Nhưng, vì sao lúc này, lúc khác các địa phương, các ngành vẫn hành động
cục bộ, khép kín, mạnh ai nấy làm, thậm chí chưa thật sự bắt tay nhau để cùng tiến ra
biển lớn? Vì sao như vậy và cần tiếp tục làm gì để dỡ bỏ những rào cản tâm lý địa
phương và địa giới hành chính nhằm tăng cường sự phối hợp thống nhất giữa các
ngành, lĩnh vực từ Trung ương tới địa phương và sự ủng hộ của mỗi cộng đồng, của
từng người dân? Ở tầm vĩ mô, đã tới lúc cần ban hành Luật Biển Việt Nam, Luật Tài
nguyên và Môi trường biển, hải đảo chưa.
Thứ tư, về cơ cấu, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực:
Đây là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của việc phát triển
các ngành kinh tế biển, đảo. Thực tế triển khai Chiến lược Biển Việt Nam đến năm
2020 cho thấy, chúng ta đang thiếu hụt trầm trọng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực có trình độ chuyên môn trong những ngành mũi nhọn: công nghiệp, tàu thủy, khai
thác dầu khí trên biển, công nghệ lọc hóa dầu, kinh tế hải đảo, thông tin liên lạc biển,
bảo vệ môi trường sinh thái biển, …trong khi quy mô đào tạo, các ngành nghề liên
quan tới kinh tế biển còn rất hạn chế. Việc làm thu hút mạnh lao động. Nhưng, lộ
trình, bước đi, phương thức cụ thể ra sao?
20


Thứ năm, giải quyết hiệu quả vấn đề an sinh xã hội:
An sinh xã hội cần được đặt ở vị trí ngang tầm vừa là nền tảng, vừa là mục tiêu
và động lực đối với lộ trình hướng ra biển lớn hiệu quả và gìn giữ sự bình yên của đại
dương theo hướng kết hợp hữu cơ kinh tế biển, đảo với kinh tế duyên hải; phát triển
kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng, an ninh.
Việc có thể làm ngay là, phát triển mạnh khai thác thủy hải sản với hướng ưu
tiên tập trung khai thác vùng biển khơi vừa phát triển kinh tế biển, đảo vừa tham gia
bảo vệ chủ quyền an ninh trên vùng biển, trong đó chú trọng mở rộng năng lực đánh
bắt xa bờ, hoàn thiện và mở rộng hệ thống kết cấu hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá,
tạo điều kiện cho ngư dân bám biển dài ngày bằng các chính sách hỗ trợ tín dụng, hỗ
trợ năng lực sản xuất thiết thực.

Đổi mới chính sách đầu tư, trước hết là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, chính
sách tín dụng, hỗ trợ giá cả một cách cụ thể, hiệu quả, để đồng bào diêm dân khắc
phục khó khăn, nỗ lực sản xuất. Tiếp tục xây dựng chương trình phát triển du lịch –
dịch vụ, nhất là du lịch ven biển, hải đảo, tăng cường hợp tác liên doanh ở mọi cấp độ,
mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, thu hút nhiều lao động, tạo thêm
nhiều việc làm. Chú trọng phát triển công tác giáo dục – đào tạo, y tế cơ sở ở các vùng
sâu, vùng xa, vùng hải đảo.
Tăng cường sự gắn bó giữa ngư dân, diêm dân, các tầng lớp cư dân vùng biển
với các lực lượng vũ trang, trực tiếp là Bộ đội Biên phòng để giúp nhau sản xuất, nâng
cao đời sống văn hóa, tạo dựng thế trận lòng dân vững chắc bảo vệ vùng biển, đảo của
Tổ quốc.
1.4.2. Về thông tin, tuyên truyền chính sách
Các cơ quan truyền thông tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông về các chủ
trương của Đảng, chính sách của nhà nước đối với việc thực hiện chính sách phát triển
kinh tế biển nâng cao nhận thức, xây dựng năng lực truyền thông cho đội ngũ phóng
viên, báo chí, trong đó tập trung đi sâu vào năng lực truyền thông về các cơ chế chính
sách việc thực hiện chính sách cho ngư dân và nhân dân. Bên cạnh đó, cần chú ý đến
những chương trình, chiến dịch truyền thông mang tính dài hạn, đồng thời chú trọng
nêu gương tốt, xây dựng các gương điển hình trong công việc, là người lãnh đạo giỏi
21


có đóng góp cho sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương và quốc gia. Qua đó giúp
cán bộ, lãnh đạo quản lý nhận thức được vai trò, vị trí quan trọng của chiến lược phát
triển kinh tế biển hiểu rõ hơn về chính sách của Đảng và Nhà nước hiện nay.
Phát triển kinh tế biển, đảo gắn chặt với bảo đảm quốc phòng, an ninh nhằm
hướng tới khai thác, quản lý, giữ gìn và bảo vệ biển, đảo một cách bền vững nhằm góp
phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị từ Trung ương đến địa phương.
1.4.3. Phân công phối hợp thực hiện chính sách công

Phân công phối hợp các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện chính sách công theo
kế hoạch được phê duyệt. Số lượng tham gia bao gồm các đối tượng tác động của
chính sách, nhân dân thực hiện và bộ máy tổ chức thực thi của nhà nước. Không chỉ có
vậy, các hoạt động thực hiện mục tiêu chính sách công diễn ra cũng hết sức phong
phú, phức tạp theo không gian và thời gian, chúng đan xen nhau, thúc đẩy hay kìm
hãm nhau theo quy luật... Bởi vậy, muốn tổ chức thực thi chính sách có hiệu quả cần
phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính
quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực thi chính sách và các quá trình ảnh hưởng
đến thực hiện mục tiêu chính sách. Trong thực tế người ta thường hay phân công cơ
quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện một chính sách cụ thể nào đó. Chính
sách có thể tác động đến lợi ích của một bộ phận dân cư, nhưng kết quả tác động lại
liên quan đến nhiều yếu tố, quá trình thuộc các bộ phận khác nhau, nên cần phải phối
hợp chúng lại để đạt yêu cầu quản lý.
Hoạt động phân công, phổi hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách
công một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách.
1.4.4. Đôn đốc thực hiện chính sách công
Đôn đốc thực hiện chính sách công là hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức
có thẩm quyền thực hiện thông qua các công cụ hữu ích nhằm làm cho các chủ thể
thực thi nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện các biện pháp theo định hướng
chính sách. Trên thực tế, khi triển khai thực hiện chính sách, không phải bộ phận nào
cũng làm tốt, làm nhanh như nhau, vì thế cần có hoạt động đôn đốc để vừa thúc đẩy
22


các chủ thể nỗ lực nhiều hơn để hoàn thành nhiệm vụ, vừa phòng, chống những hành
vi vi phạm quy định trong thực hiện chính sách công.
1.4.5. Tổng kết thực thi chính sách công
Tổ chức thực thi chính sách công được tiến hành liên tục trong thời gian duy trì
chính sách. Trong quá trình đó người ta có thể đánh giá từng phần hay toàn bộ kết quả

thực thi chính sách, trong đó đánh giá toàn bộ được thực hiện sau khi kết thúc chính
sách. Đánh giá tổng kết trong bước tổ chức thực thi chính sách được hiểu là quá trình
xem xét, kết luận về chỉ đạo - điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng
thực thi chính sách.
Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành thực thi chính
sách là các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Ngoài ra, còn xem xét cả vai
trò, chức năng của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và xã hội trong việc tham gia
thực thi chính sách công. Cơ sở để đánh giá, tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành thực
thi chính sách công trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và những nội
quy, quy chế được xây dựng ở bước 1 của phần này. Đồng thời còn kết hợp sử dụng
các văn bản liên tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản quy
phạm khác để xem xét tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách công
của các tổ chức chính trị và xã hội với Nhà nước.
Bên cạnh việc tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo, điều hành của các cơ quan
nhà nước, còn xem xét, đánh giá việc thực thi của các đối tượng tham gia thực hiện
chính sách công bao gồm các đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ
chính sách, nghĩa là tất cả các thành viên xã hội với tư cách là công dân. Thước đo
đánh giá kết quả thực thi của các đối tượng này là tinh thần hưởng ứng với mục tiêu
chính sách và ý thức chấp hành những quy định về cơ chế, biện pháp do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục tiêu chính sách trong từng điều kiện
về không gian và thời gian.
1.5. Những yếu tố ảnh hƣởng đến thực hiện chính sách phát triển kinh tế
biển Việt Nam

1.5.1. Điều kiện địa lý
Việt Nam, là quốc gia có biển nằm án ngữ trên con đường hàng hải và hàng
23


không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Châu

Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Điều kiện
tự nhiên của bờ biển Việt Nam là tiềm năng to lớn cho ngành giao thông hàng hải Việt
Nam. Dọc bờ biển Việt Nam xác định nhiều khu vực xây dựng cảng, trong đó có một
số nơi có thể xây dựng cảng biển nước sâu như: Cái Lân và một số điểm ở khu vực
Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, Lạch Huyện, Đình Vũ, Cát Hải, Đồ Sơn, Nghi Sơn,
Cửa Lò, Hòn La, Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Vân Phong, Cam
Ranh, Vũng Tàu, Thị Vải, …Phía Nam, cảng quy mô vừa như Hòn Chông, Phú Quốc,
… Ngoài sự hình thành mạng lưới cảng biển, các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven
biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đường xuyên Á) sẽ
cho phép vùng biển và ven biển nước ta có khả năng chuyển tải hàng hóa nhập khẩu
tới mọi miền của Tổ quốc một cách nhanh chóng và thuận lợi.
Biển Việt Nam có tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu mỏ khí đốt.
Trữ lượng dự báo tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn dầu quy
đổi, trong đó trữ lượng khai thác khoảng 2 tỷ tấn. Trữ lượng khí dự báo khoảng 1.000
tỷ m3.
Nguồn lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực.
Theo các điều tra về nguồn lợi hải sản, tính đa dạng sinh học trong vùng biển nước ta
đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú, trong đó có 6.000 loài động vật
đáy, 2.400 loài cá (trong đó có 130 loài cá có giá trị kinh tế), 653 loài rong biển, 657
loài động vật phù sa, 537 loài thực vật phù du, 225 loài tôm biển… Trữ lượng cá biển
ước tính trong khoảng từ 3,1 đến 4,1 triệu tấn, khả năng khai thác từ 1,4 đến 1,6 triệu
tấn. Nguồn lợi hải sản phong phú đã góp phần đưa ngành thủy sản trở thành một trong
những ngành kinh tế mũi nhọn, mang lại giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 trong các ngành
kinh tế của đất nước.
Biển Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển du lịch - ngành công nghiệp
không khói, hiện đang đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế của đất nước, nhiều vịnh,
bãi cát trắng, hang động, các bán đảo và các đảo lớn nhỏ liên kết với nhau thành một
quần thể du lịch hiếm có trên thế giới như di sản thiên nhiên Hạ Long được UNESCO
xếp hạng. Các thắng cảnh trên đất liền nổi tiếng như Phong Nha, Bích Động, Non
24



nước…, các di tích lịch sử và văn hóa như: Cố đô Huế, phố cổ Hội An, Tháp Chàm,
Nhà thờ đá Phát Diệm… phân bố tại vùng ven biển. Tiềm năng du lịch kể trên rất phù
hợp để Việt Nam phát triển và đa dạng các loại hình du lịch hiện đại như nghỉ ngơi,
dưỡng bệnh, tắm biển, du lịch sinh thái nghiên cứu khoa học vùng ven bờ, hải đảo,
ngầm dưới nước; du lịch thể thao: bơi, lặn sâu, lướt ván, nhảy sóng, đua thuyền…Với
điều kiện địa lý thuận lợi và tài nguyên thiên nhiên phong phú từ biển là môi trường
thuận lợi để nước ta hoàn thành các mục tiêu của Chiến lược biển đến năm 2020.
1.5.2. Vốn và công nghệ
Trong điều kiện đất nước ta còn nghèo nên việc huy động nguồn vốn cho phát
triển kinh tế biển cực kỳ quan trọng. Cần phải huy động tổng hợp các nguồn vốn từ
ngân sách nhà nước, ODA, FDI, vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và đặc biệt
là nguồn vốn từ trong nhân dân. Dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc huy
động đầu tư phát triển ngành kinh tế biển, song nguồn vốn cho đầu tư phát triển vẫn
còn nhiều hạn chế. Theo số liệu cho thấy giai đoạn 2009-2012 vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội cho ngành nông, lâm, thủy sản đạt 228.110 tỷ đồng, tuy nhiên mức đầu tư
cho ngành thủy sản chiếm gần 3%, như vậy tỷ lệ đầu tư là rất thấp nên dẫn đến những
bất cập và hạn chế cho phát triển thủy sản. Cơ sở hạ tầng nghề cá gồm hạ tầng thủy lợi
phục vụ nuôi trồng thủy sản, hệ thống cảng cá, chợ cá, chợ thủy sản đầu mối, khu neo
đậu tránh bão cho tàu thuyền... đều chưa được đầu tư đúng mức, làm ảnh hưởng không
nhỏ đến tốc độ tăng trưởng của ngành và thu nhập của ngư dân. Cộng thêm những khó
khăn từ nhiều phía khiến ngành thủy sản đang phải đối mặt với quá nhiều thách thức
như: xuất khẩu ngày càng bị áp lực cạnh tranh, rào cản kỹ thuật các nước gia tăng,
trong khi chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm chưa đồng bộ. Vấn đề nuôi trồng, đánh
bắt xa bờ vẫn còn quy mô nhỏ, lạc hậu. Ứng dụng khoa học - kỹ thuật hạn chế, phát
triển mô hình công nghiệp còn ít. Ảnh hưởng biến đổi khí hậu đẩy nước mặn xâm
nhập sâu vào đất liền đe dọa nghề nuôi thủy sản.
Bên cạnh các yếu tố trên, chúng ta không chỉ tập trung khai thác nguồn lợi sẵn
có, tận dụng những lợi thế của một đất nước có bờ biển dài và nguồn lợi thủy sản

phong phú, đầu tư vào sự phát triển của ngành theo chiến lược dài hạn. Ðiều đó không
chỉ quan trọng đối với sự phát triển bền vững của ngành mà còn là bảo đảm cho mục
25


×