Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý QUÁ TRÌNH đào tạo NGHỀ ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ kỹ THUẬT mỹ NGHỆ VIỆT NAM THỜI kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.97 KB, 148 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang
từng bước đổi mới toàn diện các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực Giáo dục và
đào tạo. Trong tình hình phát triển kinh tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc
hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp và khu chế xuất
dẫn đến sự thay đổi cơ cấu nguồn nhân lực. Cùng với việc ứng dụng các thành
tựu khoa học - công nghệ tiên tiến của nhân loại vào sản xuất, kinh doanh đòi
hỏi đội ngũ nhân lực phải được đào tạo một cách chuyên nghiệp và năng
động. Đào tạo nghề đang đứng trước một yêu cầu cấp bách phải đổi mới toàn
diện để vươn lên một tầm cao mới để nguồn nhân lực sau khi được đào tạo
phải đáp ứng được tình hình trong nước, trong khu vực và hội nhập quốc tế.
Trong những năm gần đây Dạy nghề ở Việt Nam đã từng bước phát
triển cả về quy mô và cơ cấu đào tạo, tuy nhiên, chất lượng đào tạo còn nhiều
hạn chế. “Mạng lưới cơ sở dạy nghề, quy mô và chất lượng đào tạo chưa đáp
ứng yêu cầu của thị trường lao động, yêu cầu đa dạng của xã hội. Một bộ
phận học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường vẫn khó khăn trong tìm việc làm
vì trình độ, kỹ năng nghề yếu, không sát hợp với yêu cầu doanh nghiệp” (Tạp
chí Cộng sản số 9, năm 2008)
Trước tình hình hội nhập sâu rộng trong đó có lĩnh vực giáo dục nghề
nghiệp, ngày 29 tháng 5 năm 2012 Thủ tướng chính phủ ký Quyết định số
630/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển Dạy nghề thời kỳ 2011 -

2020” đã đề ra mục tiêu: “Đến năm 2020, dạy nghề đáp ứng được nhu cầu
của thị trường lao động cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu nghề và trình độ
đào tạo; chất lượng đào tạo của một số nghề đạt trình độ các nước phát triển
trong khu vực ASEAN và trên thế giới; hình thành đội ngũ lao động lành
nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; phổ cập nghề cho
người lao động, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao
3




thu nhập, giảm nghèo vững chắc, đảm bảo an sinh xã hội”. Mục tiêu phát
triển dạy nghề đã được cụ thể hoá là: “Thực hiện đào tạo nghề để nâng tỷ lệ
lao động qua đào tạo nghề đạt 40%, tương đương 23,5 triệu vào năm 2015
(trong đó trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề chiếm tỷ lệ là 20%) và 55%
vào năm 2020, tương đương 34,4 triệu người (trong đó trình độ trung cấp
nghề, cao đẳng nghề chiếm tỷ lệ là 23%)”.
Để đạt được mục tiêu đó, trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật - Mỹ nghệ
Việt Nam cần đổi mới công tác quản lý quá trình đào tạo nghề để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu của xã hội hiện nay.
Trong những năm qua, nhà trường đã sử dụng nhiều biện pháp đổi mới
để nâng cao chất lượng đào tạo, nhưng chất lượng đào tạo chưa được cải thiện
đáng kể, chưa đáp ứng được yêu cầu nguồn nhân lực trong hội nhập quốc tế
do nhiều nguyên nhân, trong khi chưa có bất kỳ công trình nghiên cứu nào
xây dựng và thực hiện các biện pháp quản lý quá trình đào tạo nghề trong xu
thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Là cán bộ của trường với mong muốn đề xuất và thực hiện các giải
pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề tác giả chọn vấn đề “Quản lý quá
trình đào tạo nghề ở Trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật - Mỹ nghệ Việt
Nam thời kỳ hội nhập” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan tới đề tài
* Các nghiên cứu trên thế giới
Giáo dục nghề nghiệp có vị trí quan trọng trong việc cung cấp và phát
triển nguồn nhân lực của mọi quốc gia. Song song với quá trình phát triển đào
tạo nghề, việc nghiên cứu về quản lý đào tạo nghề cũng được nhiều nhà khoa
học quan tâm.
W.Moelleman, 1993, trong cuốn “Thông tin chuyên đề hệ thống đào tạo
kép ở CHLB Đức” đã giới thiệu về cơ cấu tổ chức của hệ thống đào tạo nghề kép,
quy chế đào tạo và chương trình giảng dạy của các trường nghề ở Đức. Tác giả

4


đánh giá một số đặc điểm của mô hình đào tạo nghề đã mang lại thành công cho
CHLB Đức trong đó nhấn mạnh yếu tố đào tạo theo nhu cầu, gắn đào tạo với thực
tiễn, vai trò các tổ chức sản xuất trong việc đào tạo nghề.
Các tác giả Roger Harris-Hugh, Guthrie-sarry, HoBart-David Lundbering,
1997 (Competency-based education and traning) đề xuất quan điểm đào tạo theo
năng lực thực hiện. Dạy nghề dựa trên năng lực thực hiện, nội dung đào tạo được
cấu trúc theo mô đun và phương pháp đào tạo được xây dựng dựa trên mục tiêu
thực hiện công việc của nghề để đạt đến trình độ thành thạo. Chương trình dạy
nghề theo mô đun dựa trên năng lực tạo điều kiện cho người học lựa chọn các
khóa học phù hợp với khả năng điều kiện kinh tế, thời gian, hoàn cảnh sống, học
tập và hành nghề mà không phụ thuộc vào việc phải học tất cả các kỹ năng nghề.
Trong tài liệu còn giới thiệu về tiêu chuẩn, thiết kế chương trình, phát triển các
quy trình quản lý và đánh giá năng lực người học.
Robert E. Norton, (1997) viết tài liệu Dacum Handbook (“Sổ tay xây
dựng chương trình theo phương pháp Dacum và tổ chức phân tích nghề”).
Dacum là chữ viết tắt của Develop A Curriculum được sử dụng như một
phương pháp hiệu quả trong phân tích nghề. Phân tích nghề Dacum nhằm xây
dựng một biểu đồ Dacum, trình bày ở dạng ma trận các nhiệm vụ và công
việc của một nghề. Những công việc trong biểu đồ Dacum làm cơ sở quan
trọng để xây dựng các Modul cho chương trình đào tạo.
Vargas Zuniga, F (2004) trong cuốn “Quality managemet in vocational
training” đã viết về quản lý đào tạo nghề. Tác giả nghiên cứu những đặc điểm
và khuynh hướng quản lý chất lượng đang thể hiện trong đào tạo nghề, đề cập
đến những quan niệm về quản lý chất lượng đào tạo nghề, những tiêu chuẩn
đánh giá và vấn đề đánh giá chất lượng. Ông cũng đưa ra các ứng dụng của
các tiêu chuẩn chất lượng, phản ánh những kinh nghiệm trong đào tạo nghề,
động cơ của người trong và ngoài cơ sở đào tạo nghề đang tiếp xúc với quá

trình này và vai trò của việc quản lý trong quá trình đào tạo nghề. Tác giả chỉ
5


ra rằng, để đào tạo nghề có chất lượng thì cần có hệ thống quản lý tốt, thực
hiện tốt các qui trình, tiêu chuẩn và các chức năng quản lý.
Một nghiên cứu khác gần đây đề cập đến việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy nghề và quản lý đào tạo nghề như ứng dụng các phần
mềm ghi danh, theo dõi việc học tập của học sinh sinh viên, chỉ dẫn giáo viên
và học sinh sinh viên trong quá trình dạy và học.
Nhìn chung có rất nhiều công trình nghiên cứu về công tác quản lý đào
tạo nghề. Những nghiên cứu đó đã làm nổi rõ tầm quan trọng của một quy
trình quản lý đào tạo nghề tốt với chất lượng đào tạo nghề. Các công trình đã
phân tích chức năng quản lý ứng dụng vào công tác quản lý đào tạo nghề, chỉ
rõ người quản lý cần biết cách lập kế hoạch đào tạo nghề dựa trên nhu cầu của
xã hội như thế nào, làm thế nào để quản lý việc thực hiện chương trình đào
tạo, kiểm tra đánh giá giảng viên và người học như thế nào để khuyến khích
sự sáng tạo và đam mê của người dạy và người học. Kinh nghiệm các nước
cho thấy chất lượng đào tạo phụ thuộc rất nhiều vào quy trình quản lý, từ việc
hoạch định chính sách cho đến cơ chế, quy trình quản lý đến việc giám sát,
kiểm tra trong quá trình quản lý.
* Nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về quản lý quá
trình đào tạo nghề:
Tác giả Trần Khánh Đức xuất bản cuốn “Sư phạm kỹ thuật” năm 2002.
Tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn đào tạo nghề nghiệp,
phân tích các nhân tố có ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của các hoạt
động quản lý, nghiên cứu và giảng dạy trong các trường sư phạm kỹ thuật, cơ
sở đào tạo nghề như phương thức quản lý của nhà trường, phát triển chương
trình, phương pháp đào tạo mới, phương pháp nghiên cứu khoa học sư phạm

kỹ thuật.

6


Tài liệu bồi dưỡng “nghiệp vụ quản lý dạy nghề” do Tác giả Nguyễn Đức
Trí chủ biên, xuất bản năm 2008 đã đề cập tới vấn đề về quản lý và quản lý giáo
dục; quản lý chất lượng dạy nghề, những năng lực cốt yếu của người cán bộ quản
lý dạy nghề, lập kế hoạch và triển khai hoạt động dạy nghề; quản lý quá trình đào
tạo tại trường dạy nghề; quản lý tài chính trong cơ sở dạy nghề.
Trong cuốn “Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực” tác giả Trần
Khánh Đức, NXB Giáo dục Việt Nam 2010, trình bày những kết quả nghiên
cứu lý luận và thực tiễn giáo dục, quản lý giáo dục và đào tạo phát triển
nguồn nhân lực. Trong đó có nhiều nội dung nghiên cứu liên quan đến đào tạo
nghề như: Sư phạm kỹ thuật và công nghệ dạy học; phát triển chương trình
giáo dục hiện đại; đo lường và đánh giá kết quả học tập; quản lý và quản lý
giáo dục; chất lượng giáo dục và quản lý chất lượng đào tạo…
Bên cạnh những công trình nghiên cứu mang tính phổ quát đó, trong
những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến công tác quản
lý đào tạo nghề ở các nhà trường như: Công trình nghiên cứu ‘‘Biện pháp
nâng cao chất lượng đào tạo nghề cơ khí đóng tàu ở trường Cao đẳng nghề
Giao thông vận tải Trung Ương II’’ của tác giả Đào Văn Đán; Công trình
nghiên cứu ‘‘Quản lý đào tạo nghề theo hướng liên kết giữa trường Cao đẳng
nghề với doanh nghiệp’’ của tác giả Hoàn Trọng Nghĩa; Công trình nghiên
cứu ‘‘Quản lý quá trình đào tạo nghề theo hướng tiếp cận lý thuyết quản lý
đảm bảo chất lượng ở trường Cao đẳng nghề Hải Dương” của tác giả Đào Thị
Thiệm; Công trình nghiên cứu “Các biện pháp tăng cường quản lý quá trình
đào tạo tại khoa mỹ thuật công nghiệp trường ĐH Hồng Bàng TPHCM” của
tác giả Lê Lâm; Công trình nghiên cứu “Quản lý hoạt động đào tạo nghề tại
trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Thái Nguyên” của tác giả Đoàn Thị Anh

Tú; Công trình nghiên cứu “Biện pháp quản lý đào tạo tại trường CĐ Kinh tế
kĩ thuật Lâm đồng đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của Tỉnh” của tác giả
Trương Thị Bích Phượng...
7


Các đề tài trên đã đề cập vấn đề biện pháp nâng cao chất lượng
giáo dục cụ thể là nâng cao chất lượng đào tạo nghề, nghiên cứu nhiều
khía cạnh khác nhau của quá trình quản lý đào tạo và đánh giá cụ thể về
thực trạng công tác quản lý đào tạo của từng trường, từng địa phương và
đề ra các biện pháp quản lý phù hợp nhằm giải quyết những vướng mắc
ở từng cơ sở giáo dục đào tạo cụ thể. Tuy nhiên chưa có công trình
nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề quản lý quá trình đào tạo nghề trong
thời kỳ hội nhập.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý đào tạo nghề ở
Trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật - Mỹ nghệ Việt Nam, đề tài đề xuất các Biện
pháp quản lý quá trình đào tạo nghề ở trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật – Mỹ
nghệ Việt Nam thời kỳ hội nhập.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý quá trình đào tạo nghề đào tạo nghề.
Khảo sát thực trạng quản lý quá trình đào tạo nghề ở Trường Cao đẳng
nghề Kỹ thuật - Mỹ nghệ Việt Nam.
Đề xuất các biện pháp quản lý quá trình đào tạo nghề của Trường Cao đẳng
nghề Kỹ thuật - Mỹ nghệ Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Khách thể nghiên cứu
Quá trình đào tạo nghề ở trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật - Mỹ nghệ
Việt Nam thời kỳ hội nhập.

* Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý quá trình đào tạo nghề ở trường Cao đẳng nghề Kỹ
thuật - Mỹ nghệ Việt Nam thời kỳ hội nhập.
8


* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ đánh giá thực trạng quản lý quá trình đào tạo nghề và thử
nghiệm những biện pháp quản lý quá trình đào tạo nghề ở Trường Cao đẳng nghề
Kỹ thuật - Mỹ nghệ Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2014.
5. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, quá trình đào tạo nghề ở Trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật Mỹ nghệ Việt Nam được thực hiện theo các điều kiện, quy định hiện có và chỉ
tiêu tuyển sinh hàng năm nên chất lượng nguồn nhân lực đầu ra chưa đáp ứng
được nhu cầu xã hội trong thời kỳ hội nhập.
Nếu đề xuất được các biện pháp phù hợp nhằm quản lý tốt quá trình
đào tạo nghề từ bước xác định nhu cầu đào tạo, lập kế hoạch và thiết kế đào
tạo, triển khai và đánh giá kết quả đào tạo nghề và sau khi ra trường thì chất
lượng nguồn nhân lực sẽ đáp ứng được nhu cầu của xã hội thời kỳ hội nhập.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Tác giả sử dụng các phương pháp: Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa
các tài liệu lý luận về quản lý quá trình đào tạo nghề.
* Các phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp quan sát nhằm quan sát quá trình đào tạo nghề
Tác giả sử dụng phương pháp điều tra thực trạng bằng phiếu điều tra.
Tác giả sử dụng phương pháp tổng kết kinh nghiệm bằng bảng tổng hợp.
Tác giả sử dụng phương pháp chuyên gia bằng các phiếu hỏi .
Tác giả sử dụng phương pháp thống kê bằng bẳng biểu.
7. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực

tiễn quản lý quá trình đào tạo nghề ở trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật – Mỹ
nghệ Việt Nam; Cung cấp những luận cứ khoa học, giúp cho Hiệu trưởng

9


trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật – Mỹ nghệ Việt Nam chỉ đạo, quản lý quá
trình đào tạo nghề góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các trường Cao đẳng nghề
trong cả nước.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần hệ thống hóa lý thuyết về dạy
nghề.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý quá trình đào tạo nghề ở trường
Cao đẳng nghề
Chương 2: Cơ sở thực tiễn về quản lý quá trình đào tạo nghề ở trường
Cao đẳng nghề Kỹ thuật – Mỹ nghệ Việt Nam.
Chương 3: Biện pháp quản lý quá trình đào tạo nghề ở trường Cao đẳng
nghề Kỹ thuật – Mỹ nghệ Việt Nam thời kỳ hội nhập

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO NGHỀ
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ

1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Nghề nghiệp
Nghề là khái niệm nói về các dạng (kiểu, loại) lao động, bằng kiến thức
và các kỹ năng đặc trưng, người lao động có thể làm ra các loại sản phẩm
tương ứng. Nghề là cơ sở giúp con người có “nghiệp” (sự nghiệp), vì vậy
nghề luôn gắn với nghiệp, nên còn được gọi là nghề nghiệp. Người lao động
có nghề nghiệp là người được đào tạo chu đáo về chuyên môn, nghiệp vụ để
làm tốt công việc, có cuộc sống vững vàng.
Nghề xuất hiện từ khi xã hội loài người có sự phân công lao động, do
nhu cầu cuộc sống, do sự phát triển của kinh tế xã hội, nghề cũng luôn ở trong
trạng thái biến động. Xã hội càng phát triển có nhiều nghề cũ mất đi, nhiều
nghề mới xuất hiện. Trong xã hội hiện đại nghề rất đa dạng, có mức độ
chuyên sâu và tính kỹ thuật cao, người lao động cần được đào tạo một cách
bài bản.
Nghề là một dạng lao động vừa mang tính xã hội (do phân công lao động
xã hội), vừa mang tính cá nhân (phù hợp với khả năng và nhu cầu cá nhân).
Mỗi nghề có giới hạn về phạm vi hoạt động, về phương pháp và công cụ sản
xuất, từ đó tạo ra loại sản phẩm đặc thù.
Bất cứ nghề nào cũng hàm chứa trong đó một hệ thống giá trị đặc trưng
đó là: kiến thức nghề, kỹ năng nghề, truyền thống nghề và hiệu quả do nghề
mang lại.
Như vậy, nghề là một dạng lao động xã hội, nhờ được đào tạo người lao
động có kiến thức và kỹ năng nghề, có thể tạo ra (sản xuất) các loại sản
phẩm vật chất hay tinh thần đáp ứng nhu cầu xã hội.

11


Trên thế giới hiện nay có khoảng 2000 nghề, với hàng chục nghìn
chuyên môn khác nhau. Nhiều nghề chỉ thấy ở nước này, nhưng không thấy ở
nước kia, trong một nước có loại nghề thấy ở thời điểm này, lại không thấy ở

thời điểm khác. Theo thống kê, trên thế giới mỗi năm có tới hàng trăm nghề
bị mất đi và khoảng cũng khoảng ấy nghề mới xuất hiện.
Ở nước ta, các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp đang đào tạo
khoảng 300 nghề, bao gồm hàng nghìn lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
Khi phân tích hoạt động nghề ta thấy mỗi nghề có những đặc điểm riêng
chúng được thể hiện ở các yếu tố:
- Đối tượng lao động của nghề.
- Công cụ và phương tiện lao động của nghề.
- Quy trình công nghệ.
- Tổ chức, quản lý quá trình lao động của nghề.
- Các yêu cầu đặc trưng về tâm, sinh lý của người hành nghề.
- Những yêu cầu về đào tạo nghề.
Những yếu tố này tạo nên đặc trưng chuyên môn của từng nghề.
Nghề có quan hệ mật thiết với các ngành sản xuất, do vậy ta thường nói
đến các ngành nghề trong xã hội.
Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng và năng động nhất ảnh hưởng tới
quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Trong xã hội hiện đại
nguồn nhân lực phải được đào tạo có chất lượng cao.
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện ở các mặt sau đây của người
lao động:
+ Sức khoẻ.
+ Trình độ văn hoá.
+ Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo.
+ Năng lực thực tế, kỹ năng tay nghề.
+ Tính năng động xã hội.
12


+ Thái độ, tác phong lao động.
+ Hiệu quả lao động.

+ Thu nhập, mức sống, mức độ thoả mãn nhu cầu.
1.1.2. Đào tạo nghề
Đào tạo là việc huấn luyện, giảng dạy, tập huấn cho một nhóm người, một
tổ chức, một xã hội về một vấn đề, và nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định.
Đào tạo nghề là quá trình chuẩn bị nguồn nhân lực xã hội nhằm đáp
ứng yêu cầu công việc để phát triển các nền kinh tế, văn hoá, khoa học, công
nghệ quốc gia.
Đào tạo luôn gắn với nhu cầu nhân lực xã hội và trước khi đào tạo phải
khảo sát nhu cầu và phải xây dựng mục tiêu chất lượng.
Mục tiêu đào tạo nhân lực là trang bị cho người học hệ thống kiến thức
chuyên môn, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp, để sau khi tốt nghiệp có khả
năng làm việc độc lập và có khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ
thuật tiên tiến, sử dụng công nghệ mới vào công việc.
Theo UNESCO (Tổ chức Văn hóa khoa học giáo dục Liên Hiệp Quốc)
giáo dục nghề nghiệp (Vocational and Technical Education VOTECH) quan
niệm đào tạo nghề là đào tạo người lao động “toàn diện” có kiến thức vững
chắc, có kỹ năng cơ bản diện rộng, trên cơ sở đó sẽ tạo khả năng thích ứng
cao với những biến đổi kỹ thuật và công nghệ.
Theo ILO (Tổ chức lao động quốc tế) quan niệm GDNN (Vocational
training) chủ yếu là hình thành kỹ năng thiết thực đáp ứng từng vị trí lao động
cụ thể để cung cấp lao động kỹ thuật theo yêu cầu của thị trường lao động mà
không đặt nặng tính toàn diện.
Thụy Điển, Thụy Sĩ và một số nước khác coi GDNN là Votech
Education (VTE) hoặc Technical Education and Vocational Traning (TEVT)
đào tạo nghề bao gồm cả dạng kỹ năng nghề và dạy kỹ thuật.
Đào tạo nghề theo nghĩa rộng là đào tạo nguồn nhân lực cho tất cả các
ngành nghề ở mọi bậc đào tạo, theo nghĩa hẹp đào tạo nghề là đào tạo nhân
lực kỹ thuật sản xuất. Thuật ngữ “Đào tạo nghề” thuộc hệ thống đào tạo công

13



nhân lành nghề, nội dung quan trọng nhất là dạy thực hành (dạy sản xuất) có
ba trình độ: sơ cấp, trung cấp và cao đẳng.
Từ đây có thể đưa ra định nghĩa: Đào tạo nghề là triển khai chương
trình đào tạo với mục đích hình thành và phát triển hệ thống kiến thức, kỹ
năng, thái độ nghề nghiệp giúp người học có năng lực thực hành nghề và
thích ứng với sự biến đổi của thị trường lao động.
Theo tài liệu của bộ lao động thương binh và xã hội xuất bản năm 2002
thì khái niệm đào tạo nghề được hiểu :” Đào tạo nghề là hoạt động nhằm
trang bị cho người lao động nhừng kiến thức, kĩ năng và thái độ lao động cần
thiết để người lao động sau khi hoàn thành khoá học hành được một nghề
trong xã hội”
Như vậy, khái niệm này đã không chỉ dừng lại ở trang bị những kiến
thức kĩ năng cơ bản mà còn đề cập đến thái độ lao động cơ bản. Điều này
thể hiện tính nhân văn, tinh thần xã hội chủ nghĩa,đề cao người lao động
ngay trong quan niệm về lao động chứ không chỉ coi lao động là một nguồn
“Vốn nhân
1.1.3. Quản lý quá trình đào tạo nghề
Quản lý quá trình đào tạo nghề là cách thức tác động của nhà quản lý
lên quá trình đào tạo nghề (đối tượng và khách thể đào tạo nghề) trong suốt
quá trình đào tạo thông qua việc thực hiện các chức năng và phương pháp
quản lý để đạt mục tiêu đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở các
cơ sở đào tạo nghề.
Theo Sloman M. và Taylor H, mô hình đào tạo theo quá trình được ra
đời từ những năm 60 của thế kỷ trước ở Hoa Kỳ và ngày nay đang được áp
dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Theo mô hình này, mỗi khoá đào tạo
đều được thực hiện theo một chu trình gồm 4 bước: Xác định nhu cầu đào tạo;
Lập kế hoạch và thiết kế đào tạo; Triển khai đào tạo và Đánh giá kết quả đào
tạo và sau đào tạo. Trong đó, xác định nhu cầu đào tạo được coi là xuất phát

điểm của quá trình đào tạo trong cơ chế thị trường.
14


1.2. Đặc điểm và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý đào tạo nghề
1.2.1. Đặc điểm của quá trình đào tạo nghề
1.2.1.1. Đặc điểm đối tượng đào tạo nghề nghiệp
Đối tượng tuyển sinh của các trường cao đẳng nghề: Học sinh tốt nghiệp
trung học cơ sở trở lên, đào tạo 3 năm với hệ cao đẳng, 3 năm trung cấp. Vì
vậy học sinh sinh viên các trường cao đẳng, trung cấp nghề có tuổi đời từ 15
tuổi trở lên, đã qua nhiều năm học tập trong các nhà trường hoặc đã trải qua lao
động… Bước đầu đã hình thành nhân cách, định hướng về nghề nghiệp tương
đối rõ nét, có những suy nghĩ nghiêm túc về tương lai, về trách nhiệm đối với
gia đình, với xã hội vì vậy đa số có động cơ học tập đúng đắn. Tuy nhiên do độ
tuổi trong cùng một lớp học có thể có sự chênh lệch khá lớn dẫn tới có sự khác
biệt lớn trong kinh nghiệm cũng như khả năng nhận thức của người học. Ngoài
ra còn có một số học sinh sinh viên do có điểm xuất phát về văn hóa thấp
(trung học cơ sở) vì vậy việc tiếp thu kiến thức kỹ thuật cơ sở và chuyên môn
(đặc biệt là đối với các kỹ thuật cao) có nhiều khó khăn hoặc bị ảnh hưởng xấu
trong xã hội tác động nên thiếu trách nhiệm trong học tập cũng như trong cuộc
sống và cộng đồng. Đặc điểm này đòi hỏi công tác giáo dục trong trường cao
đẳng, trung cấp nghề cần có những biện pháp phù hợp.
1.2.1.2. Đặc điểm về hoạt động học nghề
Học tập là một quá trình nhận thức và hành động của người học nhằm
thu nhận kiến thức mới, hình thành và phát triển các kỹ năng trí tuệ và hành
động trong một lĩnh vực cụ thể (khoa học - công nghệ - xã hội hoặc nghề
nghiệp) góp phần hình thành và phát triển nhân cách, tạo ra thái độ và giá trị
đứng đắn trong cuộc sống lao động nghề nghiệp của mỗi cá nhân trong xã hội.
1.2.2. Yêu cầu đối với công tác tổ chức quá trình đào tạo nghề
Xuất phát từ mục tiêu đào tạo và đặc điểm tâm lý - xã hội của người

học, việc chuẩn bị thiết kế và tổ chức thực hiện một chương trình đào tạo cần
lưu ý các yêu cầu sau:
- Xác định rõ mục tiêu của toàn khóa học, từng phần từng giai đoạn
trong khóa học và từng bài giảng qua đó thể hiện rõ sự cần thiết và lợi ích của

15


khóa học. Người học cần biết được sự cần thiết và xác đáng của việc học tập
trước khi bước vào quá trình học tập.
- Nội dung chương trình đào tạo, bài giảng cần ngắn gọn, rõ ràng, dể
hiểu (cả về hệ thống tri thức lý thuyết cũng như kỹ năng thực hành), bảo đảm
mối liên hệ và tính lôgíc của các nội dung đào tạo (trực quan thông minh qua
tranh ảnh, mô hình; sách giáo khoa, tài liệu tham khảo; các phương tiện thông
tin đại chúng như báo, đài, tivi, sách, các hiện tượng, vấn đề thực tế).
- Lựa chọn và sử dụng phối hợp nhiều phương pháp dạy học thích hợp
với tư tưởng lấy người làm trung tâm, tích cực hóa hoạt động của người học,
hình thành ở người học các phương pháp học tập hợp lý và hiệu quả, đặc biệt
tạo điều kiện cho người học làm việc, học tập độc lập và sáng tạo.
- Tôn trọng người học, phát huy ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng của
các người học. Vận dụng lối sống, vốn kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn
phong phú của người học trong quá trình đào tạo, chuyển quá trình đào tạo
bồi dưỡng thành quá trình tự đào tạo, bồi dưỡng của từng học viên. Chú ý đến
đặc điểm cá nhân của từng học viên hoặc nhóm người học (theo độ tuổi, theo
lĩnh vực nghề nghiệp, theo sở thích…).
- Tạo lập môi trường thuận lợi (phòng học, trang thiết bị, bầu không khí
tâm lý, quan hệ giao tiếp, chế độ lên lớp hoặc nghỉ ngơi…)
- Tạo điều kiện thuận lợi cho người học tự học theo khả năng và tốc độ
học tập của mình trong một quy trình thống nhất.
1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý đào tạo ở trường nghề

1.2.3.1. Năng lực của người lãnh đạo và cán bộ quản lý công tác đào tạo
Năng lực quản lý là sự tương ứng giữa khả năng tâm lý và yêu cầu
nhiệm vụ quản lý. Tùy theo mức độ đáp ứng giữa khả năng và yêu cầu, chúng
ta có thể phân định rõ các mức độ năng lực khác nhau. Theo tác giả Nguyễn
Đức Trí: Năng lực quản lý là khả năng thực hiện những nhiệm vụ, công việc
và những tình huống nảy sinh trong quản lý bảo đảm hoạt động của một tổ
chức đạt mục tiêu đề ra.
16


Như vậy, năng lực quản lý là một tổ hợp thuộc tính tâm lý phức tạp bao
gồm kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và nghệ thuật quản lý cũng như thái độ
của chủ thể đối với đối tượng trong quá trình quản lý.
Một người thợ vụng, một thầy thuốc kém, một thầy giáo non nớt thì sản
phẩm của họ đều gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, song, phạm vi hậu
quả còn nhỏ. Nhưng một cán bộ tổ chức, hay cán bộ quản lý tồi, làm hỏng đối
tượng quản lý của mình thì hậu quả nghiêm trọng khôn lường. Sự hư hỏng
này sẽ không chỉ làm hỏng theo một vài người mà làm hư hỏng nhiều người,
có ảnh hưởng xấu đến nhiều thế hệ, nhiều vùng.
Năng lực lãnh đạo của Hiệu trưởng có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển của nhà trường. Để đảm bảo đổi mới dạy nghề thành công đòi hỏi tất cả
những người tham gia trong hệ thống dạy nghề, hiệu trưởng là người tổ chức
điều hành để đưa những đổi mới về nghề vào trường một cách bài bản theo kế
hoạch. Hiệu trưởng trường dạy nghề phải là người tạo ra hành lang thích ứng
tối ưu cho sự đổi mới. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi người hiệu trưởng
phải nắm chắc được các nội dung về đổi mới dạy nghề được quy định trong
các văn bản quy phạm pháp luật về dạy nghê (Luật giáo dục, Luật giáo dục
nghề nghiệp, các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính
Phủ, các Quyết định, thông tư của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và
các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan). Trên cơ sở đó người Hiệu

trưởng xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đổi mới của trường cho sát
với điều kiện thực tế của trường. Sự năng động của Hiệu trưởng trường dạy
nghề trong việc điều hành hoạt động của nhà trường không những đảm bảo
cho nhà trường hoạt động theo đúng yêu cầu của cơ quan quản lý dạy nghề
mà còn giúp các cơ quan quản lý dạy nghề đưa ra các quyết định đổi mới về
cơ chế, chính sách phù hợp hơn.
1.2.3.2. Thể chế và các quy định pháp luật

17


Hệ thống quản lý nhà trường của các cơ quan cấp trên hiện nay vẫn còn
mang nhiều dấu ấn của cơ chế, kế hoạch hóa tập trung. Sự can thiệp quá sâu
của các cơ quan quản lý cấp trên còn để lại dấu ấn trong nhiều qui định các
yếu tố liên quan đến chất lượng của công tác đào tạo. Việc tạo ra một hành
lang pháp lý đủ thông thoáng và đồng bộ sẽ giúp nhà trường có cơ sở để hoàn
thiện hệ thống đảm bảo chất lượng của mình.
Hiện nay, tính tự chủ của các cơ sở đào tạo còn nhiều hạn chế. Tuy
nhiên khi mở rộng quyền tự chủ cho nhà trường lại thiếu những cơ chế đủ
hiệu lực ràng buộc trách nhiệm của nhà trường. Việc phân định rõ quyền tự
chủ và tính trách nhiệm của nhà trường trước xã hội là rất cần thiết và là điều
kiện tiên quyết đảm bảo cho tính hiệu quả của hệ thống bảo đảm chất lượng.
1.2.3.3. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế có nhiều ảnh hưởng đến đào tạo nghề
mà thực chất là đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, bởi những nhân tố này
đã tạo điều kiện cho các quốc gia, địa phương kết hợp tốt nhất sức mạnh dân
tộc với sức mạnh quốc tế, phát huy được nội lực và mọi tiềm năng sáng tạo;
đồng thời, tranh thủ được tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho phát
triển. Xu thế hội nhập quốc tế có tác động nhiều mặt và đặt ra những yêu cầu
mới đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở mỗi quốc gia, dẫn đến một cuộc

cách mạng về đào tạo ngành nghề trong xã hội. Do đó, các quốc gia, các cơ sở
đào tạo nghề phải đổi mới quản lý quá trình đào tạo nghề nhằm chuẩn bị
những tiềm lực lao động cho xã hội đáp ứng yêu cầu của một hệ thống ngành
nghề mới đang phát triển phù hợp với xu thế thời đại. Trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế, các cơ sở đào tạo nghề ở mỗi quốc gia còn phải
hướng đến việc phát triển những con người thích ứng với thời đại cạnh tranh
ồ ạt và khốc liệt để phát triển. Có thể nhận ra rằng, tác động của xu thế toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế đối với việc điều chỉnh, lựa chọn chiến lược phát
triển dạy nghề của các quốc gia, các cơ sỏ dạy nghề mà trong đó có cả phát
18


triển nguồn nhân lực là rất mạnh mẽ và sâu sắc. Đào tạo và phát triển một thế
hệ mới những người lao động có trình độ chuyên môn cao, có tay nghề vững
vàng, có năng lực quản lý, sản xuất, kinh doanh để có thể giành phần thắng
trong cuộc cạnh tranh trước bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Trong đó kinh tế
tri thức hiện nay cũng được xem là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến phát triển
nguồn nhân lực, bởi sức lan tỏa mạnh mẽ và được xem như là xu hướng tất
yếu của quá trình phát triển kinh tế-xã hội nói chung, quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa nói riêng, nó thúc đẩy sự tăng nhanh năng suất lao động, sở
hữu cá nhân và sở hữu xã hội, tạo ra bước đột phá về chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế
sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế và xã hội, bao gồm cả việc
khai thác kho tri thức toàn cầu, cũng như làm chủ và sáng tạo tri thức cho
những nhu cầu của riêng mình. Có thể thấy, trong nền kinh tế tri thức, tri thức
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn quý nhất, là nguồn lực quan
trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tiềm năng,
ưu việt của kinh tế tri thức thể hiện ở xu hướng mới của phát triển khoa học
có tính chất liên ngành, đặc biệt xu hướng thâm nhập vào nhau của khoa học
tự nhiên và khoa học xã hội (về tri thức, phương pháp, cách sử dụng thành tựu

khoa học) hướng vào hình thành mối quan hệ hài hòa giữa con người với con
người và giữa con người với tự nhiên. Sự phát triển kinh tế tri thức đến trình
độ nào đó sẽ làm thay đổi phương thức lao động và sản xuất, phương thức
tiêu dùng và lối sống của xã hội trong nền văn minh mới. Đào tạo nghề cần có
những phương pháp quản lý và tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu về phát
triển nguồn nhân lực, đặt đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong mối
tương quan với các nhân tố tác động đến nó nhằm phát huy mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực, tìm ra những giải pháp hữu hiệu để phát triển nguồn
nhân lực cho đất nước trong bối cảnh mới.
1.2.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng khác
19


- Đội ngũ giáo viên
Nếu như một nhà trường được xây dựng theo hướng chuẩn hóa, có đội
ngũ cán bộ chuẩn sẽ đảm bảo cho nhà trường đó thực hiện được mục tiêu,
nhiệm vụ đào tạo, xây dựng được nội dung, chương trình đào tạo phù hợp với
sự phát triển kinh tế-xã hội, biên soạn được giáo trình, sách tham khảo với
chất lượng cao và tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy.
Đội ngũ cán bộ tốt cũng sẽ góp phần sử dụng có hiệu quả cơ sở vật
chất, trang thiết bị và tài liệu dạy học. Vì vậy, có thể khẳng định yếu tố chủ
yếu quyết định đến chất lượng đào tạo, đó là con người (cán bộ giáo viên và
HSSV). Như vậy, muốn nâng cao chất lượng đào tạo, giải pháp ưu tiên giải
pháp mang tính đột phá là chú tâm đến đội ngũ làm công tác đào tạo, quan tâm
đến học sinh sinh viên. Phải có sự đổi mới chất lượng về đội ngũ giáo viên cả về
chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học và kỹ năng sư phạm, đồng
thời phải thường xuyên giáo dục tư tưởng, ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng và
sự tâm huyết nghề nghiệp của mỗi cán bộ giáo viên. Song song với việc nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên, chúng ta cần quan tâm đến sự đồng bộ của các
chuyên ngành, định mức giảng dạy của giáo viên, bởi vì trong một số ngành

nghề do thiếu giáo viên dẫn đến một số giáo viên phải dạy quá nhiều, vượt gấp
rưỡi định mức, giảng trong tình trạng ghép lớp, tăng ca thì người thầy sẽ không
còn thời gian để cập nhật kiến thức, áp dụng phương pháp dạy học tích cực và
nghiên cứu khoa học có chất lượng và đương nhiên chất lượng sẽ giảm. Ngược
lại, có nhiều giáo viên vì lí do khách quan thiếu giờ định mức, trong khi đó thụ
động, không chịu học tập nâng cao trình độ, nghiên cứu khoa học… để quy đổi
thành giờ tiêu chuẩn, dẫn đến thiếu giờ, không hoàn thành nhiệm vụ mà khả
năng mình có thể làm tốt hơn thế.
- Người học
Ở một nhà trường, việc nâng cao chất lượng đào tạo bao giờ cũng phải
lấy người học làm trung tâm. Do vậy, phải tăng cường công tác quản lý học
20


sinh sinh viên, động viên, khuyến khích học sinh sinh viên tự học, tự rèn
luyện, tạo mọi điều kiện tốt nhất để học sinh sinh viên học tập, rèn nghề…
Theo đó, các phòng chức năng, các khoa nghề, các tổ chức Đoàn - Hội phải
có sự phối kết hợp chặt chẽ trong việc tổ chức các hoạt động cho học sinh
sinh viên tham gia, khách quan trong đánh giá, khen thưởng kịp thời những
nhân tố điển hình tiên tiến trong học tập và rèn luyện, cử đi học lớp đối tượng
đảng và kết nạp đảng khi đảm bảo các tiêu chí đề ra.
- Cơ sở vật chất
Coi trọng đầu tư về cơ sở vật chất trang thiết bị đào tạo nghề đúng và

trúng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động, đảm bảo sau
các khóa học người học có thể thích ứng ngay với công việc và sống được
bằng nghề. Vì vậy, cần xây dựng các phòng chuyên môn hóa, các xưởng tích
hợp hiện đại, nhưng phải chú trọng đào tạo cán bộ để sử dụng, bảo quản phát
huy hết công năng của các xưởng và trang thiết bị một cách có hiệu quả, tránh
lãng phí, hình thức.

1.3. Nội dung quản lý quá trình đào tạo nghề
1.3.1. Quản lý các hoạt động đào tạo
Quản lý các hoạt động đào nghề chính là quản lý toàn diện các nhân tố
trong quá trình đào tạo nhằm đạt được mục tiêu đào tạo. Trong phạm vi đề tài,
tác giả đề cập đến một số thành tố cơ bản của quá trình dạy học thông qua
thực hiện các chức năng và phương pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng
dạy nghề:
1.3.1.1. Quản lý hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giáo
viên
Quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên thực chất là quản lý thực
hiện các nhiệm vụ của đội ngũ giáo viên và của từng giáo viên.
GV có nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục HSSV đồng thời phải học tập, rèn
luyện, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ về mọi mặt từ đó nâng
21


cao được chất lượng, hiệu quả hoạt động giảng dạy, giáo dục của mình. GV
vừa là khách thể quản lý vừa là chủ thể quản lý.
Hoạt động giảng dạy là một trong hai hoạt động trọng tâm của nhà
trường, đồng thời là hoạt động chuyên môn quan trọng nhất do đội ngũ GV
thực hiện. Hoạt động giảng dạy đòi hỏi người GV phải đầu tư phần lớn thời
gian, sức lực của mình trong quỹ thời gian làm việc hàng ngày tại trường. QL
hoạt động giảng dạy nhằm đảm bảo cho GV thực hiện đúng quy chế, quy
định, đúng kế hoạch và nội dung chương trình tức là đảm bảo được chất
lượng giảng dạy của GV. Công tác giảng dạy chính là tổ chức quy trình nhận
thức của HSSV vì vậy chất lượng giảng dạy chính là yếu tố quyết định chất
lượng nhận thức của HSSV, quyết định chất lượng ĐT.
Qúa trình giảng dạy của GV gồm các khâu:
- Chuẩn bị giảng (Đề cương bài giảng, giáo án, đồ dùng, phương tiện
dạy học)

- Thực hiện giảng dạy
- Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HSSV
- Quản lý hoạt động của GV có các nhiệm vụ, nội dung chủ yếu sau:
- Theo dõi đôn đốc thực hiện, đánh giá được kết quả thực hiện các
nhiệm vụ giảng dạy - giáo dục của toàn thể đội ngũ GV và của từng GV.
- Theo dõi chỉ đạo thực hiện và đánh giá được kết quả thực hiện việc
học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm của
đội ngũ GV và của từng GV.
- Nắm được các ưu, nhược điểm, đánh giá được sự tiến bộ về các mặt
chính trị, tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, năng lực chuyên môn của từng GV.
Quản lý chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học của giáo viên
Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ không thể
thiếu trong công tác quản lý giáo dục nói chung và quản lý trường dạy
nghề nói riêng. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động nghiên
cứu khoa học, chuyển giao công nghệ để vừa phục vụ trực tiếp cho công
tác đào tạo, nâng cao trình độ của thầy và trò vừa tạo thêm hiệu quả
trong lao động sản xuất.

22


Nội dung của việc quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học bao gồm:
- Quản lý đội ngũ làm nghiên cứu khoa học
- Quản lý các nguồn lực phục vụ công tác nghiên cứu khoa học
- Quản lý quá trình tổ chức nghiên cứu khoa học
- Quản lý việc công bố và giới thiệu nguồn ứng dụng các công trình
nghiên cứu khoa học.
1.3.1.2. Quản lý hoạt động học tập của học sinh sinh viên
Quản lý hoạt động học của HSSV (HSSV) là quản lý việc thực hiện các
nhiệm vụ học tập, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, tu dưỡng đạo đức, nhân

cách của HSSV trong quá trình ĐT.
Hoạt động học là một trong hai hoạt động trung tâm của nhà trường.
Hoạt động học của HSSV có vị trí rất quan trọng để người học có thể lĩnh hội
được các tri thức, kỹ năng nghề nghiệp. Vì vậy hoạt động học của HSSV phải
chiếm phần lớn trong tổng quỹ thời gian học tập, sinh hoạt của HSSV trong
nhà trường. Công tác tổ chức, quản lý hoạt động học của HSSV có vai trò
quan trọng và cần phải được tổ chức, QL một cách chặt chẽ, khoa học.
QL hoạt động của HSSV có các nội dung, nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Theo dõi tìm hiểu để nắm được những biểu hiện tiêu cực như trong
việc thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện cũng như những biến đổi nhân
cách của tập thể HSSV nói chung cũng như của từng HSSV nói riêng.
- Theo dõi thúc đẩy, khuyến khích HSSV phát huy các yếu tố tích cực,
khắc phục các yếu tố tiêu cực, phấn đấu vươn lên đạt kết quả học tập, rèn
luyện ngày càng cao.
Quản lý hoạt động học tập của học sinh sinh viên được tiến hành đồng
bộ cả trong và ngoài giờ lên lớp, trong nhà trường và ngoài nhà trường.
1.3.1.3. Quản lý các dịch vụ phục vụ đào tạo nghề
Các hoạt động dịch vụ phục vụ tuy không trực tiếp tham gia vào quá
trình giảng dạy song lại có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục

23


trong nhà trường. Việc quản lý tốt các dịch vụ sẽ tạo nên sự thuận lợi cho
HSSV trong quá trình tham gia học tập tại trường.
Nội dung của việc quản lý hoạt động dịch vụ phục vụ hoạt động đào tạo
nghề bao gồm:
- Quản lý các dịch vụ về chỗ ở dành cho các HSSV ( ký túc xá ở bên
trong hoặc bên ngoài cơ sở, các dịch vụ giải quyết chỗ ở).
- Quản lý phòng y tế và khu thể thao, giải trí tạo cho HSSV gặp gỡ

trong môi trường vui vẻ, thân mật và an toàn.
- Quản lý thư viện và cung cấp dịch vụ truy cập Internet để HSSV tìm
kiếm thông tin, tài liệu học tập.
1.3.1.4. Quản lý phương tiện, cơ sở vật chất
Chất lượng đào tạo nghề, đặc biệt là chất lượng đào tạo kỹ năng nghề
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy có
vai trò hết sức quan trọng. Trang thiết bị giảng dạy là một trong những yếu tố
quyết định hình thành kỹ năng thực hành nghề, có ảnh hưởng trực tiếp tới quá
trình hình thành và phát triển kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp của người học.
Công tác quản lý cơ sở vật chất (CSVC) là một trong những nhiệm vụ
quan trọng trong các trường dạy nghề. Công tác quản lý CSVC của nhà
trường được thực hiện thường xuyên và có các nội dung sau:
- Đầu tư mua sắm: Hàng năm nhà trường tổ chức đầu tư xây dựng
CSVC mua sắm trang thiết bị theo kế hoạch của các dự án đầu tư xây dựng cơ
bản, dự án đầu tư trang thiết bị dạy nghề hoặc theo báo cáo kinh tế - kỹ thuật
sửa chữa lớn, xây dựng nhỏ được cơ quan quản lý phê duyệt và phải được
thực hiện theo các quy định hiện hành của Nhà nước về quản lý đầu tư xây
dựng cơ bản và mua sắm trang thiết bị.
- Quản lý: Hàng năm nhà trường tổ chức kiểm kê, đánh giá lại tài sản
vào ngày 01/01 hàng năm, trên cơ sở đó sẽ tổ chức quản lý, đưa vào sử dụng
CSVC, trang thiết bị đang sử dụng và CSVC, trang thiết bị đầu tư, mua sắm
mới trong năm trước, xem xét, điều động, giao lại tài sản cho các đơn vị. Việc

24


đánh giá, phân loại, tổ chức theo dõi, giao nhận tài sản được thực hiện theo
quy định về quản lý tài sản cố định hiện hành của Nhà nước.
- Khai thác: Trưởng các đơn vị trong nhà trường sẽ lập kế hoạch và tổ
chức, đề nghị Hiệu trưởng giao tài sản cố định cho từng tổ chức, cá nhân quản

lý, sử dụng phục vụ đáp ứng công tác giáo dục, đào tạo và các công tác khác
trong nhà trường. Các tổ chức, cá nhân được giao tài sản có trách nhiệm quản
lý, sử dụng tài sản được giao nếu vi phạm sẽ bị xử lý, bồi hoàn theo quy định
của Nhà nước và của nhà trường. Nhiệm vụ khai thác sử dụng có hiệu quả
CSVC, trang thiết bị được giao cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên thực
hiện dưới sự quản lý, giám sát của thủ trưởng các đơn vị và các phòng nghiệp
vụ theo dõi nội dung công việc được giao.
- Bảo dưỡng, sửa chữa: Trong quá trình sử dụng CSVC, trang thiết bị
sẽ bị hao mòn, xuống cấp, vì vậy cần có kế hoạch và tổ chức bảo dưỡng, sửa
chữa thường xuyên, sửa chữa lớn để duy trì hoạt động của CSVC, trang thiết
bị được liên tục, bến vững và có hiệu quả. Kinh phí cho công tác này thường
được cân đối, bố trí trong chỉ tiêu giao kế hoạch năm học cho các đơn vị trong
nhà trường. Nhiệm vụ này thường được giao trực tiếp cho Trưởng các đơn vị
và người sử dụng CSVC, trang thiết bị được giao.
1.3.1.5. Quản lý chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo được cấu thành bởi các yếu tố tĩnh và động như:
Văn bản chương trình trong đó chỉ ra các mục tiêu đào tạo: phạm vi, mức độ
và cấu trúc nội dung đào tạo, các phương pháp hình thức tổ chức đào tạo và
phương thức đánh giá kết quả học tập. Các mục tiêu nội dung của chương
trình đào tạo được thực hiện thông qua các hoạt động dạy và học, do các nhà
khoa học có chuyên môn tiến hành và diễn ra trong một tổ chức nhà trường
nhằm đào tạo người học có được các phẩm chất năng lực đáp ứng yêu cầu của
các ngành nghề đào tạo giúp họ sống, làm việc và cống hiến cho xã hội.
Công cụ chủ yếu của công tác quản lý việc thực hiện nội dung chương
trình đào tạo chính là chương trình khung, chương trình chi tiết môn học, mô

25


đun, giáo trình, tài liệu học tập…, và hệ thống các văn bản pháp quy hiện

hành khác.
Quản lý chương trình đào tạo bao gồm các hoạt động sau đây:
- Quản lý việc xác định nhu cầu đào tạo: khảo sát thực tế nhu cầu sử
dụng của thị trường lao động về lĩnh vực nghề đào tạo; theo dõi sự trưởng
thành của người tốt nghiệp.
- Quản lý việc phát triển chương trình đào tạo từ giai đoạn nghiên cứu
đến giai đoạn triển khai chương trình đào tạo
- Quản lý việc thực hiện mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo trong
quá trình đào tạo của nhà trường.
- Quản lý việc ra soát, bổ sung, chỉnh sửa nội dung chương trình đào
tạo định kỳ và thường xuyên
1.3.1.6. Quản lý nguồn tài chính phục vụ cho đào tạo
Các cơ sở dạy nghề (Trường Cao đẳng nghề, Trung cấp nghề, Trung
tâm dạy nghề, các Trường Đại học, Cao đẳng có Dạy nghề) phần lớn là đơn vị
sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một
phần chi phí hoạt động.
Quản lý nguồn tài chính trong cơ sở dạy nghề gồm các nội dung sau:
- Quản lý kinh phí do ngân sách nhà nước cấp.
- Quản lý các nguồn thu sự nghiệp
- Xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ
Để chủ động sử dụng kinh phí hoạt động thường xuyên được giao đúng
mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, cơ sở dạy nghề thực hiện tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về tài chính có trách nhiệm xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ làm
căn cứ để cán bộ, viên chức thực hiện và Kho bạc nhà nước thực hiện kiểm
soát chi tiêu.
Quy chế chi tiêu nội bộ của cơ sở dạy nghề được xây dựng thông qua
Hội nghị cán bộ, viên chức (thường vào cuối năm) để ban hành thực hiện
trong năm kế tiếp. Quy chế chi tiêu nội bộ cũng được sửa đổi, bổ sung hàng
năm để phù hợp với sự phát triển của cơ sở dạy nghề.


26


1.3.1.7.Quán lý chất lượng đào tạo
Trong hệ thống dạy nghề chất lượng là vấn đề phức tạp. Đối với các cơ
sở dạy nghề thì chất lượng chính là thương hiệu, là lí do để tồn tại, để cạnh
tranh và để phát triển trong môi trường đào tạo đầy biến động. Vì vậy chất
lượng đào tạo phải được đánh giá và kiểm định.
Chất lượng cơ sở dạy nghề được xác định qua nhiều năm, khi những
người tốt nghiệp ra trường và có việc làm và làm được việc.
Theo từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên): “Chất lượng là cải tạo
nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật, sự việc”.
- Theo tiêu chuẩn Việt Nam ISO 8402: “Chất lượng là tập hợp các đặc
tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể đó có khả năng thỏa mãn
những nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn”.
- Chất lượng đào tạo là kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh ở
các đặc trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng
lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương trình đào
tạo theo các chương trình nghề nghiệp cụ thể (Trần Khánh Đức, năm 2010).
- Chất lượng đào tạo nghề được hợp thành bởi chất lượng của ba thành
tố cơ bản (I-P-O) của cơ sở dạy nghề, đó là: Đầu vào (Input); Qúa trình
(Process); Đầu ra (Outcome) trong sự tương tác với môi trường bên ngoài và
bên trong của cơ sở dạy nghề. Có thể tóm tắt chất lượng đào tạo nghề bằng sơ
đồ sau:

27


×