Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý THIẾT bị dạy học ở các TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG THỊ xã sơn tây, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.59 KB, 106 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THIẾT BỊ DẠY
HỌC Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2. Những vấn đề cơ bản trong quản lý thiết bị dạy học
ở trường trung học cơ sở
1.3. Yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý thiết bị dạy học
trong trường trung học cơ sở
Chương 2

13
13
18
29

THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ THIẾT BỊ DẠY
HỌC Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ THỊ
XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

32

2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội, giáo dục của
thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội


2.2. Thực trạng quản lý thiết bị dạy học ở các trường
trung học cơ sở thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
Chương 3

32
36

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ THIẾT BỊ DẠY HỌC Ở
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ THỊ XÃ
SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Dự báo tình hình
3.2. Biện pháp quản lý thiết bị dạy học ở các trường
Trung học cơ sở thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
3.3. Khảo sát về tính khả thi, tính cần thiết của các biện

59
59
62

pháp quản lý thiết bị dạy học ở trường trung học cơ
sở thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

75
81
85
88



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng nguồn lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là vấn đề có tính cấp thiết không chỉ trước
mắt mà còn là chiến lược lâu dài. Trong đó chú trọng nâng cao chất lượng
giáo dục - đào tạo và bồi dưỡng tri thức hiện đại có ý nghĩa rất quan trọng, có
tính quyết định đến nguồn lực và hiệu quả tiến trình phát triển kinh tế - xã hội
trong xu thế hội nhập hiện nay. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ VIII đã nhấn mạnh: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn
lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Đối với các bậc học nói chung, bậc Trung học cơ sở là quá trình trang bị
tri thức cho một lớp người chuẩn bị cho tương lai nhận thức những tri thức
của bậc học, đồng thời tiếp cận với những tri thức mới, hiện đại của nhân loại
trên thế giới. Do đó, cùng với việc nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học
để tiếp thu lượng tri thức lớn một cách hiệu quả nhất, cần chú trọng đến việc
trang bị và sử dụng các trang thiết bị dạy học. Bởi nó không chỉ là vật có tính
trực quan sinh động mà nó còn là vật mang thông tin giúp người học tiếp thu
bài học nhanh, sâu sắc và tạo được tâm lý thỏa mái, thu hút người học…
Mặt khác, đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả cao hay thấp một
phần phụ thuộc vào cơ sở vật chất và thiết bị dạy học. Cùng với chương trình
kiên cố hóa trường lớp theo quyết định 159/QĐ-CP của chính phủ, Ủy Ban
nhân dân và Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hà Nội nói chung, Ủy Ban
nhân dân và Phòng Giáo dục và Đào tạo thị xã Sơn Tây nói riêng đã ưu tiên
kinh phí xây dựng trường, lớp học, trang bị cơ sở vật chất; mua sắm trang
thiết bị dạy học, sách giáo khoa, bồi dưỡng giáo viên, dành những điều kiện
tốt nhất để các trường thực hiện nhiệm vụ đổi mới giáo dục trong những năm


3


học vừa qua. Phòng Giáo dục đã động nhiều nguồn kinh phí từ các chương
trình, dự án, xã hội hóa giáo dục… để mua sắm phương tiện, thiết bị thực
hành cho học sinh và đồ dùng dạy học cho giáo viên.
Thiết bị dạy học là một trong những thành tố của quá trình dạy học, hỗ
trợ đắc lực cho việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông và là
một trong những điều kiện cơ bản không thể thiếu của giáo viên, học sinh
nhằm thực hiện mục tiêu dạy học. Hơn nữa, TBDH còn tạo điều kiện trực tiếp
cho học sinh huy động mọi năng lực nhận thức, nâng cao khả năng tự học, rèn
luyện kỹ năng học tập và thực hành. Dưới sự điều khiển của giáo viên, TBDH
thể hiện khả năng sư phạm của nó, như làm tăng tốc độ truyền thông tin, tạo
ra sự lôi cuốn, hấp dẫn, làm cho giờ học sinh động, hiệu quả hơn. Tuy nhiên,
điều đó chỉ xảy ra nếu TBDH được quản lý và sử dụng tốt
Từ năm học 2001 - 2002 các trường Trung học phổ thông, THCS đã
được trang bị TBDH theo danh mục thiết bị dạy học tối thiểu do Bộ Giáo dục
và Đào tạo quy định. Qua theo dõi hoạt động của công tác thiết bị nhiều năm
chúng tôi thấy việc quản lý và sử dụng TBDH còn nhiều mặt hạn chế, chưa
phát huy được hiệu quả của nó, đặc biệt là ở cấp THCS. Cụ thể: Chất lượng
TBDH được cung ứng chưa tốt; hầu hết các trường THCS đều chưa có cán bộ
thiết bị chuyên trách nên việc quản lý thiết bị còn gặp nhiều khó khăn; thiếu
CSVC cần thiết để bảo quản TBDH; công tác quản lý và sử dụng thiết bị chưa
được chú trọng; năng lực sử dụng TBDH của cán bộ, giáo viên còn thấp, chưa
đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng dạy học…
Vì thế, trước yêu cầu phát triển của khoa học công nghệ, kỹ thuật tiên
tiến của xã hội và đòi hỏi việc sử dụng TBDH nhằm nâng cao chất lượng dạy
và hoc. Quản lý thiết bị dạy học nói chung đã có một số công trình nghiên
cứu, tuy nhiên chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn diện về quản lý
TBDH trong các trường THCS trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà

Nội. Do đó, chúng tôi chọn đề tài “Quản lý thiết bị dạy học ở các trường
4


THCS thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp, vừa có ý
nghĩa lý luận, vừa mang tính thực tiễn sâu sắc, góp phần nâng cao chất lượng
dạy học ở các trường THCS hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Trên thế giới
Hội nghị Quốc tế về giáo dục lần thứ 39 họp tại Giơ-ne-vơ năm 1984 cũng
như nhiều hội nghị về TBDH ở các nước xã hội chủ nghĩa đã khẳng định ngành
giáo dục cần phải được đổi mới thường xuyên về mục đích, cấu trúc, nội dung,
TBDH và phương pháp để tạo cho tất cả các học sinh có những cơ hội học tập.
Tuỳ theo hoàn cảnh kinh tế, kỹ thuật và xã hội tất cả các nước trên thế giới đều
có khuynh hướng hoàn thiện CSVC và TBDH nhằm phù hợp với sự hiện đại hoá
nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Các nước có nền kinh tế
phát triển đều quan tâm đến việc nghiên cứu, thiết kế, sản xuất các TBDH hiện
đại, đạt chất lượng cao, cần thiết. Từ sau đại chiến thế giới thứ hai (1939-1945)
ở Liên Xô (cũ) đã thực hiện khẩu hiệu: “Điện ảnh hoá quá trình học tập”. Ở Nhật
Bản từ năm 1960 đã tổ chức nghiên cứu mẫu và sản xuất phim giáo khoa dùng
trong nhà trường, năm 1984 nước Nhật có 29 trung tâm nghe nhìn. Năm 1992
kết quả điều tra về trang bị máy tính ở Nhật Bản cho thấy bậc tiểu học được
50%, bậc THCS được 86,1%, bậc THPT được 99,4%. Ở Mỹ và các nước Châu
Âu cũng như một số nước trong khu vực Châu Á như: Inđônêxia, Thái Lan,
Philippin, Xingapo, người ta thay thế dần tranh trong sách giáo khoa in trên giấy
bằng các hình ảnh trên màn ti vi. Như vậy lượng thông tin cung cấp phong phú
và hấp dẫn hơn, việc bảo quản, vận chuyển và sử dụng có mặt thuận lợi
hơn. Hiện nay nhiều nước trên thế giới nghiên cứu, sử dụng rộng rãi đĩa hình và
internet.
Trong khoảng 15-20 năm trở lại đây, các thiết bị điện tử, máy vi

tính, rôbốt, các đồng hồ điện tử số đo chính xác cao, ti vi, video, đã được
nghiên cứu, thiết kế và tăng cường cho các trường phổ thông.
5


Tài liệu nghiên cứu về TBDH, quản lý và sử dụng TBDH như “Phương
tiện kỹ thuật dạy học và ứng dụng” - Nhà xuất bản Đại học Minxcơ - 1985.
Trong tài liệu này, các tác giả đã đề cập nhiều đến vị trí, vai trò, chức năng và
các loại phương tiện kỹ thuật dạy học. Tài liệu cũng nêu ra được những ứng
dụng cụ thể, chi tiết của phương tiện kỹ thuật dạy học trong quá trình dạy học.
Tài liệu là cơ sở nghiên cứu cho lĩnh vực TBDH và quản lý, sử dụng thiết bị dạy
học ở nước ta. Tuy nhiên, tài liệu này mang tính tổng quát, khó vận dụng vào
điều kiện kinh tế của Việt Nam.
* Ở Việt Nam
Đối với Việt Nam, từ những năm 60 của thế kỷ XX, Bộ giáo dục đã
chính thức ban hành các tiêu chuẩn TBDH từ mẫu giáo đến phổ thông. Tiếp
theo là những tiêu chuẩn đã được xây dựng và ban hành vào các năm 1975,
1985. Từ năm 1986 trở lại đây, dưới dạng các đề tài nghiên cứu cấp bộ và đề
tài tiêu chuẩn đo lường cấp ngành, Viện khoa học giáo dục đã tiếp tục triển
khai xây dựng hệ thống tiêu chuẩn danh mục TBDH trường tiểu học, THCS,
THPT phục vụ chương trình cải cách giáo dục và chương trình thí điểm
chuyên ban. Bản danh mục là cơ sở pháp lý cho việc xác định mục tiêu, nội
dung các mặt công tác TBDH (nghiên cứu, thiết kế mẫu, tổ chức sản xuất,
trang bị và tự làm) từ Trung ương đến địa phương. Bản danh mục cũng đồng
thời làm cơ sở pháp lý để các trường học, các cấp giáo dục thuyết phục các
ngành, chính quyền địa phương và cha mẹ học sinh quan tâm đầu từ kinh phí
và vật tư cho việc trang bị và sử dụng TBDH. Kế thừa và phát huy những lý
thuyết về giáo dục của nền giáo dục học thế giới, Việt Nam cũng có nhiều
nghiên cứu về TBDH và quản lý việc sử dụng TBDH. Về vấn đề này, có thể kể
đến các nhà khoa học tiêu biểu đã phát triển và truyền bá lý luận về nguyên tắc

dạy học trực quan như Tô Xuân Giáp, Trần Đức Vượng ... đặt cơ sở vững chắc
cho sử dụng TBDH, trong việc đổi mới PPDH ở nước ta.
6


Hiện nay giáo dục nước ta đang đổi mới một cách toàn diện từ mục tiêu,
nội dung đến phương pháp dạy học... Định hướng cơ bản của công cuộc đổi
mới giáo dục, Nghị quyết kỳ häp thø 4 (khãa X), đã chỉ rõ: “Phương pháp
giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của
người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn
lên”; “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng
bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá
trình dạy học”.
Thiết bị dạy học là một thành tố không thể thiếu được trong quá
trình dạy học. Để nâng cao chất lượng dạy học thì vai trò, vị trí của TBDH là
rất quan trọng. TBDH đóng vai “người minh chứng khách quan” những vấn
đề lý luận, liên kết lý luận và thực tiễn. Mặt khác TBDH là phương tiện thực
nghiệm, trực quan, thực hành, từ đó giúp cho nhận thức của học sinh trở nên
hiệu quả hơn, đồng thời phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của
người học. Hơn nữa TBDH còn góp phần to lớn vào việc cải tiến và đổi mới
phương pháp giảng dạy của giáo viên. Để TBDH phát huy được vai trò, vị trí
của nó thì việc quản lý TBDH là vô cùng quan trọng.
Năm 2001, Nhà xuất bản Hà Nội cũng xuất bản “Tài liệu khoá tập huấn
của Dự án Việt - Úc”.
Năm 2005, Chủ nhiệm đề tài Ngô Quang Sơn đã bảo vệ thành công
đề tài cấp Bộ về: Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
thiết bị giáo dục, ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông tại các trung
tâm Giáo dục thường xuyên và trung tâm học tập cộng đồng.
Năm 2006, sau khi tổ chức Hội thảo về quản lý và sử dụng TBDH, Nhà

xuất bản Hà Nội đã cho ra mắt cuốn “Quản lý và sử dụng nhằm tăng cường
hiệu quả TBDH”. Tài liệu này đã đưa ra được một số phương pháp quản lý
cũng như sử dụng TBDH vào giảng dạy để đạt hiệu quả cao.
7


Tác giả Hoàng Đức Nhuận đã có công trình đăng trên Tạp chí thông tin
khoa học giáo dục số 53: “Cải tiến TBDH nhằm đổi mới phương pháp dạy
học ở trường phổ thông”.
Trong cuốn: “Quản lý giáo dục” do Bùi Minh Hiền chủ biên, ở chương
10 đã đề cập đến các vấn đề lí luận về vai trò của TBDH trong sự phát triển
hệ thống giáo dục quốc dân, phân loại các nhóm TBDH mà người quản lý cần
bao quát và đưa ra một số nguyên tắc và giải pháp quản lý TBDH ở nhà
trường THPT trong giai đoạn hiện nay.
Trong bài viết: “Nâng cao hiệu quả sử dụng TBDH trường THCS”, tác
giả Trần Đức Vượng thuộc Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục, qua
khảo sát việc sử dụng TBDH ở nhiều địa phương tác giả đã rút ra một số
nguyên nhân dẫn đến sử dụng không hiệu quả TBDH như: “ Trình độ sử dụng
TBDH của giáo viên còn thấp, đội ngũ quản lý giáo dục ở một vài địa phương
chưa thật sự chú trọng chỉ đạo việc sử dụng có hiệu quả TBDH ” Đồng thời
tác giả cũng đã đề ra một số các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TBDH.
Trong giáo trình: “Lý luận dạy học ở trường THCS” do Nguyễn Ngọc
Bảo và Trần Kiểm viết đã dành một chương (chương 5) để viết về phương
tiện dạy học. Theo các tác giả, phương tiện dạy học có ý nghĩa quan trọng
trong việc vận dụng phương pháp dạy học. Bên cạnh việc đổi mới nội dung,
phương pháp dạy học, hiện nay các trường THCS đã được trang bị nhiều
phương tiện dạy học. Vì vậy, giáo viên cần phải nắm được khái niệm phương
tiện dạy học, các loại phương tiện dạy học, cách sử dụng, bảo quản từng loại
phương tiện dạy học, đặc biệt là phương tiện dạy học kỹ thuật.
Trong cuốn: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng, sử

dụng cơ sở vật chất và thiết bị dạy - học ở trường phổ thông Việt Nam” do
Trần Quốc Đắc chủ biên, tác giả đã đưa ra các quan điểm làm cơ sở cho việc
sử dụng TBDH, xác định vị trí, vai trò của CSVC và TBDH ở trường phổ
thông. Các tác giả nhận định: Thiết bị dạy học phải được sử dụng hiệu quả,
8


sử dụng là mục tiêu cơ bản nhất và là mục tiêu duy nhất của toàn bộ công tác
thiết bị trường học. Sử dụng có hiệu quả TBDH là một nhiệm vụ nặng nề, khó
khăn của người thầy giáo. Điều này đòi hỏi người thầy giáo phải có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao với yêu cầu sử dụng TBDH. Người giáo viên
không những cần hiểu biết về TBDH, về kỹ thuật sử dụng chúng mà còn hiểu
sâu về phương pháp dạy học với yêu cầu sử dụng TBDH: sử dụng TBDH với
mục đích gì, lúc nào, liều lượng bao nhiêu, đặc điểm tâm lý học sinh ra sao;
học sinh cần tham gia hoạt động như thế nào khi dạy học có sử dụng TBDH,
sử dụng TBDH như thế nào để khơi dậy lòng say mê học tập, phát huy tính
tích cực, năng lực sáng tạo và bồi dưỡng nhân cách cho học sinh”.
Trong cuốn: “Quản lý giáo dục” do Bùi Minh Hiền chủ biên, ở chương
10 tác giả đã đề cập đến vai trò của TBDH trong sự phát triển hệ thống giáo
dục quốc dân, phân loại các nhóm TBDH mà người quản lý cần bao quát và
đưa ra một số nguyên tắc cùng giải pháp quản lý TBDH ở trường học trong
giai đoạn hiện nay.
Giáo trình: “Bồi dưỡng Hiệu trưởng trường trung học cơ sở”, tập 3 do
Chu Mạnh Nguyên chủ biên, ở bài 22 tác giả đã nêu những vấn đề chung về
CSVC-TBDH và công tác quản lý về CSVC-TBDH. Đây là những nội dung
giúp người Hiệu trưởng có thể áp dụng trong công tác quản lý CSVC và
TBDH ở trường của mình.
Các công trình nghiên cứu và các bài viết trên đã nêu được vai trò, vị trí,
chức năng của TBDH, cách thức sử dụng thiết bị dạy học đạt hiệu quả và góp
phần đổi mới phương pháp giảng dạy ở các cấp học khác nhau từ phổ thông

đến đại học. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào trong và ngoài
nước viết về quản lý TBDH riêng cho bậc THCS, đặc biệt là chưa có công
trình nào viết về quản lý TBDH ở các trường THCS thị xã Sơn Tây, thành
phố Hà Nội.
9


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Khắc phục những hạn chế yếu kém, hạn chế trong công tác quản lý và sử
dụng TBDH.
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp nâng cao
hiệu quả quản lý TBDH ở các trường THCS thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Đánh giá đúng thực trạng quản lý thiết bị dạy học ở các trường THCS thị
xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý TBDH ở các
trường THCS thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý trang thiết bị dạy học, bảo quản
và sử dụng TBDH của các trường THCS thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng tác và các biện pháp quản lý
TBDH ở các trường THCS.
* Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động quản lý TBDH ở các trường THCS
thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, số liệu khảo sát từ năm 2013- 2015.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý thiết bị dạy học của các trường THCS thị xã Sơn Tây, thành phố
Hà Nội trong những năm qua đã được quan tâm và đạt được một số thành quả
nhất định. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới giáo dục toàn diện hiện nay thì
quản lý TBDH còn bộc lộ một số yếu kém và bất cập. Nếu thực hiện đồng bộ

và hợp lý các biện pháp quản lý TBDH như: giáo dục nâng cao nhận thức cho
giáo viên, học sinh về vai trò, tầm quan trọng của TBDH; trang bị, khai thác,
sử dụng và bảo quản TBDH; quản lý, hỗ trợ TBDH đúng quy trình thì sẽ góp
phần đổi mới TBDH, nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học ở các trường
THCS thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
10


6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng CSVN về giáo dục và đào tạo (nghiên
cứu các văn bản, nghị quyết của Đảng, các văn bản Nhà nước, của ngành giáo
dục và đào tạo về quản lý TBDH ).
* Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
Đề tài sử dụng phương pháp quan sát để thu thập những số liệu thực tế
trong môi trường tự nhiên, cụ thể là quan sát một số giờ học có sử dụng
TBDH theo hướng phát huy tính tích cực của người học và một số giờ học sử
dụng TBDH theo phương pháp dạy học truyền thống từ đó so sánh để rút ra
những kết luận khoa học.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Để điều tra thực trạng việc quản lý sử dụng TBDH trong nhà trường
THCS, đề tài có một số mẫu phiếu hỏi dành cho các CBQL, giáo viên và học
sinh thuộc các trường THCS của thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
Phiếu hỏi cũng được sử dụng để khảo nghiệm tính khả thi của các biện
pháp quản lý mà đề tài đưa ra sau khi nghiên cứu lý luận và thực trạng.
- Phương pháp chuyên gia
Bằng việc đưa ra phiếu hỏi hoặc trao đổi trực tiếp với một số cán bộ
quản lý tham gia quản lý TBDH có kiến thức và kinh nghiệm quản lý CSVC
nói chung và TBDH nói riêng.

- Phương pháp phỏng vấn
Để hiểu sâu thêm những thông tin thu thập được từ các phiếu điều tra,
tác giả tiến hành phỏng vấn CBQL một số trường THCS của thị xã và một số
giáo viên dạy giỏi, có kinh nghiệm trong sử dụng, bảo quản TBDH.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp

11


Tra cứu các quyết định, các thông tư, các văn bản hướng dẫn về thiết bị
dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội.
- Phương pháp đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm
Bằng việc đưa ra kết quả nghiên cứu lý luận thực tiễn và lấy thực tiễn để
kiểm nghiệm lại kết quả nghiên cứu lý luận, phương pháp này được sử dụng
nhằm đánh giá tính hợp lý và khả thi của các biện pháp quản lý mà tác giả
luận văn đề xuất.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa những vấn đề lý luận từ sách, báo, tài
liệu văn kiện, văn bản có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề
nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng toán thống kê để việc xác định các thông số cần thiết mang tính
chính xác, khoa học.
7. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Đề tài nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ thêm khái niệm
quản lý giáo dục và quản lý TBDH ở các trường THCS. Nhấn mạnh vai trò
của TBDH trong việc nâng cao chất lượng đào tạo .
Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài làm rõ một số bất cập trong quản lý TBDH và
đề xuất ra một số biện pháp quản lý TBDH ở các trường THCS thị xã Sơn
Tây, thành phố Hà Nội đang là vấn đề cấp thiết..

8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, cấu
trúc luận văn gồm 3 chương.

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THIẾT BỊ DẠY HỌC
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Thiết bị dạy học
Hiện nay có nhiều tên gọi khác nhau về TBDH. Các tên gọi sau đây
thường được sử dụng trong ngôn ngữ nói và viết hiện nay:
- Thiết bị giáo dục - educational equipments
- Thiết bị trường học - school equipments
- Đồ dùng dạy học - teaching equipments (aids/implements)
- Thiết bị dạy học - teaching equipments
- Phương tiện dạy học - means (facilities) of teaching
- Học cụ - learning equipments
- Học liệu - learning (school) materials Về bản chất, các tên gọi trên đều
phản ánh các dấu hiệu chung như sau:
- Đó là tất cả những phương tiện rất cần thiết cho giáo viên và học sinh
tổ chức và tiến hành hợp lí, có hiệu quả quá trình giáo dục và dạy học ở các
môn học, cấp học.
- Đó là một vật thể hoặc một tập hợp đối tượng vật chất mà người giáo
viên sử dụng với tư cách là phương tiện điều khiển hoạt động nhận thức; là
phương tiện giúp học sinh lĩnh hội khái niệm, định luật, thuyết khoa học…
nhằm hình thành ở họ các kĩ năng, kĩ xảo, đảm bảo việc giáo dục, phục vụ

mục đích dạy học và giáo dục.
- TBDH là điều kiện đảm bảo cho hoạt động dạy học, là thành tố chủ
yếu và quan trọng nhất trong cấu trúc hệ thống cơ sở vật chất trường học.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Bảo định nghĩa: “Phương tiện dạy học là tập
hợp những đối tượng vật chất được giáo viên sử dụng với tư cách là những
phương tiện tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh, và đối với
13


học sinh, đó là phương tiện để tiến hành hoạt động nhận thức của mình, thông
qua đó mà thực hiện những nhiệm vụ dạy học.” [3, tr.115].
Kế hoạch thông tin chỉ đạo kiểm tra tổ chức trong cuốn “Quản lý giáo
dục” do PGS.TS Bùi Minh Hiền chủ biên ở chương 10 có ghi “Quản lý thiết
bị dạy học trong nhà trường”, tác giả nêu khái niệm về TBDH như sau:
“Trong công tác dạy học, thầy và trò ngoài chương trình sách giáo khoa, trường
lớp… thường phải sử dụng đến phương tiện được gọi là học cụ, đồ dùng dạy
học, thiết bị giáo dục, thiết bị dạy học. Thiết bị dạy học có thể được coi thuật
ngữ đại diện cho các cách gọi khác nhau nêu ra trên đây. Nó là một bộ phận cơ
sở vật chất trường học trực tiếp có mặt trong các giờ học được thầy và trò cùng
sử dụng. Thuật ngữ này có tên tiếng Anh tương ứng: Equypment for Teaching.”
[30, tr .285].
Theo tác giả Vũ Trọng Rỹ đã viết: “TBDH là thuật ngữ chỉ một vật thể
hoặc một tập hợp đối tượng vật chất mà người giáo viên sử dụng với tư cách
là phương tiện điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh. Còn đối với học
sinh thì đó là nguồn tri thức, là phương tiện giúp học sinh lĩnh hội các khái
niệm, định luật… hình thành ở họ các kĩ năng, kĩ xảo, đảm bảo việc giáo dục,
phục vụ mục đích dạy học và giáo dục”[44]. Tài liệu: Đề tài nghiên cứu
“Phân loại, sử dụng và bảo quản thiết bị dạy học hóa học ở trường THPT”
cứu, trang 8.
Trong cuốn “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng sử

dụng CSVC và TBDH ở trường phổ thông Việt Nam”, các tác giả đã phân
tích: “TBDH là tất cả những phương tiện vật chất cần thiết giúp cho giáo viên
và học sinh tổ chức và tiến hành hợp lý có hiệu quả quá trình giáo dưỡng và
giáo dục ở các môn học, cấp học”[21]. Do Trần Quốc Đăng chủ biên.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể thống nhất: TBDH là một bộ
phận của cơ sở vật chất trường học, bao gồm những đối tượng vật chất được
thiết kế sư phạm mà giáo viên sử dụng để điều khiển hoạt động nhận thức của
14


học sinh; đồng thời là nguồn tri thức, là phương tiện giúp học sinh lĩnh hội
tri thức, hình thành kĩ năng đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu dạy học.
1.1.2. Quản lý thiết bị dạy học
Trong quá trình lao động, cải tạo thiên nhiên để sinh tồn và phát triển, con
người phải kết hợp lại với nhau thành những nhóm (tổ chức) để cùng thực hiện
mục tiêu của nhóm hay tổ chức. Vì thế phải có người đứng đầu, đứng ra phối
hợp hoạt động của các cá nhân, điều hành, phân công lao động cho từng thành
viên. Cổ nhân xưa có câu: “Tam nhân đồng hành tắc vi sư”. Tức là cứ 3 người
cùng đi, tất sẽ có một người thầy biết cách tổ chức, phối hợp sức mạnh của mọi
người trong nhóm và mọi người trong nhóm phải phục tùng và tuân theo mệnh
lệnh người đứng đầu, từ đó quản lý ra đời cùng sự xuất hiện của nhà nước.
Quản lý là một dạng lao động xã hội, gắn liền và phát triển cùng với sự
phát triển của con người. Quản lý là lao động đặc biệt, điều khiển các hoạt
động lao động, nó có tính khoa học và nghệ thuật cao nhưng đồng thời cũng
là sản phẩm mang tính lịch sử, tính đặc thù. Khi đề cập cơ sở khoa học của
quản lý C.Mác viết: “Bất cứ lao động nào có tính xã hội, cộng đồng được
thực hiện ở quy mô nhất định đều cần ở một chừng mực nhất định. Sự quản lý
giống như người chơi vĩ cầm một mình thì tự điều khiển lấy mình, còn một
dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng” [10, tr.157].
Có thể nêu lên một số khái niệm quản lý như sau:

- Các nhà lý luận quản lý quốc tế: Fredevinh Wiliam Duylor (18861915) của Mỹ; Henri Fayol (1841-1925) của Pháp; Max Weber (1864-1920)
của Đức đều đã khẳng định: Quản lý là một khoa học và đồng thời là một
nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
- F. Tay lo: Quản lý là biết được một cách chính xác điều mình muốn
người khác làm và sau đó biết họ làm (hoàn thành) có tốt không, có rẻ không.
- Theo Kozlova O.V và Kuznetsov I.N: Quản lý là sự tác động có mục
đích đến những tập thể con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ
trong quá trình sản xuất [18, tr.30].
15


- Theo từ điển tiếng Việt: Quản lý là tổ chức, điều khiển các hoạt động
theo những yêu cầu nhất định [34, tr.801].
- Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Giáo sư Hà Thế Ngữ: Quản lý là một
quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt
được những mục tiêu nhất định [23, tr.37]
- Theo Giáo sư Trần Kiểm: Quản lý nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều
người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã
hội [19, tr.45]
- Theo PGS.TS Thái Văn Thành: Quản lý là sự tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu
đề ra [30, tr.5]
Từ các khái niệm trên, ta có thể hiểu:
+ Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả hoạt động của những người
cộng sự khác nhau cùng chung một tổ chức.
+ Quản lý là những tác động có mục đích lên những tập thể người, thành
tố cơ bản của hệ thống xã hội.
+ Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.
Quản lý ngày nay được coi là một trong năm nhân tố phát triển kinh tế xã hội, bao gồm vốn, nguồn nhân lực, khoa học kỹ thuật, tài nguyên và quản
lý. Trong đó quản lý có vai trò mang tính quyết định sự thành công.

Tóm lại: Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý để chỉ huy,
điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của con
người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với quy
luật khách quan.
Do đó, có thể quan niệm: Quản lý TBDH là tác động có mục đích của
người quản lý nhằm xây dựng, phát triển, bảo quản và sử dụng có hiệu quả
hệ thống TBDH, phục vụ đắc lực cho hoạt động dạy học trong nhà trường.
16


Từ quan niệm trên, có thể hiểu quản lý TBDH theo nhiều cách khác nhau:
- Quản lý TBDH là quản lý hệ thống đối tượng vật chất và tất cả
những phương tiện kỹ thuật được giáo viên và học sinh sử dụng trong
quá trình dạy học.
- Quản lý TBDH là việc thực hiện 4 chức năng cơ bản, đó là lập kế
hoạch quản lý thiết bị dạy học; tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý TBDH.
- Quản lý TBDH là việc thực hiện 4 chức năng cơ bản, đó là lập kế
hoạch quản lý thiết bị dạy học; tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý TBDH; chỉ
đạo và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch quản lý TBDH.
- Quản lý TBDH là việc thực hiện các nội dung quản lý công tác thiết bị
từ khâu cung ứng, bảo quản và sử dụng để đảm bảo TBDH phát huy được vai
trò, tác dụng của nó trong dạy học.
Quản lý TBDH ở các trường Trung học cơ sở
Quản lý TBDH ở các trường THCS là tác động có mục đích của người
quản lý nhằm xây dựng, phát triển, bảo quản và sử dụng có hiệu quả hệ thống
TBDH phục vụ đắc lực cho công tác giáo dục và đào tạo. Kinh nghiệm thực
tiễn đã chỉ rõ: TBDH chỉ phát huy tác dụng tốt trong giáo dục và đào tạo khi
được quản lý tốt. Chính vì vậy, đi đôi với việc đầu tư trang bị, phải đặc biệt
chú trọng đến việc bảo quản và sử dụng TBDH một cách hợp lý.
Thiết bị dạy học ở trường học là một lĩnh vực vừa mang tính kinh tế giáo dục vừa mang tính khoa học giáo dục. Cho nên trong quản lý, một mặt

phải tuân thủ theo các yêu cầu chung về quản lý kinh tế và quản lý khoa học,
mặt khác, cần phải tuân thủ theo các yêu cầu quản lý chuyên ngành giáo dục.
Quản lý TBDH ở trường học là một trong những nhiệm vụ của nhà quản
lý giáo dục. Quản lý tốt TBDH sẽ góp phần nâng cao từng bước chất lượng
dạy học, làm cho mỗi học sinh có ý thức trong việc bảo TBDH, từng bước
tiến tới việc xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực

17


1.2. Nội dung cơ bản của quản lý Thiết bị dạy học ở trường Trung
học cơ sở
1.2.1. Thiết bị dạy học ở nhà trường
1.2.1.1. Vị trí
Theo quan điểm của lí luận dạy học hiện đại thì phương tiện dạy học
(gồm TBDH) là một trong các thành tố chủ yếu của quá trình dạy học: mục
tiêu dạy học; nội dung dạy học; phương pháp dạy học; hình thức tổ chức dạy
học; phương tiện dạy học; người dạy; người học; kiểm tra, đánh giá kết quả
dạy học.
TBDH chịu sự chi phối của nội dung và phương pháp dạy học. Nội dung
dạy học quy định những đặc điểm cơ bản của TBDH bởi lẽ việc lựa chọn và sử
dụng TBDH phải được cân nhắc lựa chọn để sử dụng hợp lý nhằm đáp ứng được
yêu cầu nội dung chương trình, đồng thời cũng phải thoả mãn các yêu cầu về khoa
học sư phạm, kinh tế, thẩm mỹ và an toàn cho giáo viên và học sinh khi sử dụng.
Trong thời đại bùng nổ thông tin, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ
bão, nhiều tri thức đi dạy ở các cơ sở đào tạo nhanh chóng bị lạc hậu. Vấn đề
đặt ra là phải lựa chọn nội dung dạy như thế nào để học sinh không những
chiếm lĩnh được tri thức mới, đồng thời phải hình thành năng lực tự học, tự
phát triển. Vì vậy, phương pháp dạy học mới phải theo xu hướng tích cực hoá
quá trình nhận thức của học sinh, tăng cường năng lực thực hành, năng lực tự

nghiên cứu. Muốn đạt được điều đó thì không có cách nào khác là phải tăng
cường trang bị và đặc biệt là nâng cao hiệu quả sử dụng TBDH, trong đó chú
trọng các phương tiện nghe nhìn, ứng dụng CNTT&TT vào dạy học.
Ngược lại, những thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông
tin đã làm xuất hiện nhiều loại hình TBDH mới giúp cho việc đổi mới phương
pháp dạy học có hiệu quả hơn. Người ta thừa nhận rằng việc hoàn thiện các
phương pháp dạy học sẽ không thể thực hiện được nếu không sử dụng rộng
rãi các PTNN (máy tính, máy chiếu đa năng, bảng chiếu…) hiện đại.
18


1.2.1.2. Vai trò
Theo lí luận dạy học thì vai trò cơ bản của TBDH trong quá trình dạy
học thể hiện ở những điểm sau:
- Sử dụng TBDH đảm bảo đầy đủ và chính xác thông tin về các hiện
tượng, đối tượng nghiên cứu, do đó làm cho chất lượng dạy học cao hơn.
- Sử dụng TBDH nâng cao được tính trực quan - cơ sở của tư duy trừu
tượng, mở rộng khả năng tiếp cận với các đối tượng và hiện tượng.
- Sử dụng TBDH giúp tăng tính hấp dẫn, kích thích ham muốn học tập,
phát triển hứng thú nhận thức của học sinh.
- Sử dụng TBDH giúp gia tăng cường độ lao động học tập của học sinh,
sinh viên và do đó cho phép nâng cao nhịp độ nghiên cứu tài liệu giáo khoa.
- Sử dụng TBDH cho phép học sinh, sinh viên có điều kiện tự lực
chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng kỹ xảo ( tự nghiên cứu tài
liệu, tự lắp ráp thí nghiệm, làm thí nghiệm, tìm thông tin, lựa chọn câu
trả lời, vận dụng...).
- Sử dụng TBDH hợp lý hoá quá trình dạy học, tiết kiệm được thời gian
để mô tả. ( Ví dụ mô hình động cơ đốt trong, mô hình nguyên tử v.v...)
- Sử dụng TBDH gắn bài học với đời sống thực tế, học gắn với hành, nhà
trường gắn với thực tiễn xã hội.

- Sử dụng TBDH giúp hình thành nhân cách, thế giới quan, nhân sinh
quan, rèn luyện tác phong làm việc có khoa học.
Để thực hiện được những vai trò trên thì việc sử dụng TBDH cần phải
được giáo viên nghiên cứu, cân nhắc kỹ nội dung giáo trình, môn học. Từ đó
căn cứ vào nội dung môn học và số TBDH được trang bị và tự làm mà định ra
kế hoạch sử dụng cụ thể các loại hình TBDH đã có, sao cho mỗi chủng loại
đều phát huy tốt tác dụng của nó và nâng cao được hiệu quả sử dụng trong
quá trình dạy học.
19


1.2.1.3. Mục đích quản lý thiết bị dạy học ở trường Trung học cơ sở
Thiết bị dạy học không chỉ được sử dụng trong khuôn khổ hẹp như trước
đây (chủ yếu là minh họa) mà ngày nay TBDH là công cụ quan trọng trong
hoạt động nhận thức của học sinh, nhất là các TBDH có ứng dụng những
thành tựu của CNTT&TT.
Mục đích quản lý TBDH: Làm cho TBDH trở thành người bạn đồng
minh trung thành của thầy giáo trong việc cải tiến chất lượng giảng dạy, cũng
chính là làm cho TBDH trở thành công cụ chính đáng cho học sinh rèn luyện
kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, nâng cao nhận thức, tu dưỡng đạo đức và để
thực hiện mục tiêu bao trùm là nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhà trường.
Việc quản lý TBDH tốt sẽ giúp phát huy tối đa vai trò và tác dụng của
TBDH trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo học sinh ở
trường THCS.
1.2.1.4. Phân loại và sử dụng thiết bị dạy học ở trường Trung học cơ sở
- Thiết bị dạy học bao gồm:
Thiết bị phục vụ giảng dạy học tập ở tại lớp, thiết bị phòng thí nghiệm,
thiết bị thể dục thể thao, thiết bị nhạc, họa và các thiết bị khác trong xưởng
trường, vườn trường, phòng truyền thống, nhằm đảm bảo cho việc nâng cao
chất lượng dạy và học, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện (điều

1, Quy chế thiết bị giáo dục trong trường mầm non, trường phổ thông).
- Danh mục thiết bị dạy học:
Là bảng tên gọi các TBDH được sử dụng trong quá trình giảng dạy, học
tập trong nhà trường; được quy định theo từng lớp học, môn học, từng hoạt
động trong nhà trường và được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định
ban hành căn cứ vào chương trình giáo dục của từng bậc học, cấp học và nhu
cầu sử dụng trong nhà trường.
- Chất lượng thiết bị dạy học:
20


Được quy định bằng tiêu chuẩn kỹ thuật cụ thể đối với mỗi sản phẩm:
Tiêu chuẩn của cơ sở sản xuất; tiêu chuẩn của ngành; tiêu chuẩn quốc gia.
- Có thể phân loại các thiết bị dạy học thành 4 nhóm sau:
+ Thiết bị kỹ thuật.
+ Thiết bị trực quan (đồ dùng dạy học trực quan).
+ Thiết bị thí nghiệm.
+ Sách giáo khoa và tài liệu dạy học khác.
Thiết bị kỹ thuật.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ, sự trưởng thành của giáo dục
học đã ảnh hưởng đến sự phát triển các phương tiện thiết bị dạy học. Từ
những năm 1950 trở lại đây đã xuất hiện và phát triển nhanh chóng nhiều
phương tiện thiết bị kỹ thuật dạy học.
Các thiết bị kỹ thuật dạy học bao gồm các phương tiện nghe nhìn và các máy
móc dạy học. Trong đó các phương tiện nghe nhìn chiếm vị trí quan trọng nhất.
Các phương tiện nghe nhìn gồm:
Các giá mang thông tin (bản trong, phim, băng từ âm và hình, đĩa ghi
âm, ghi hình...).
Các máy móc chuyển tải thông tin ghi ở các giá mang thông tin như đèn
chiếu, máy chiếu phim, Radio, Cassette, Ti vi, Camera, máy vi tính...

Hệ thống đồ dùng trực quan
Mẫu vật: vật thật, tiêu bản, vật nhồi, các sản phẩm nhân tạo và các bộ sưu tập.
Mô hình ma két.
Hình vẽ, sơ đồ, bản đồ, tranh vẽ, ảnh.
Thiết bị và đồ dùng thí nghiệm nhà trường:
Là hệ thống trang bị nhằm thể hiện những giờ lên lớp có thí nghiệm hoặc
giờ thực hành của học sinh, giúp học sinh nắm kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo bằng
con đường thực nghiệm. Gồm các loại thí nghiệm:
21


Thí nghiệm chứng minh (thí nghiệm biểu diễn): Là thí nghiệm thầy giáo
tiến hành trước toàn lớp nhằm tìm ra những hiện tượng, những định luật mới v.v
Thí nghiệm thực hành: Là học sinh tự tiến hành thí nghiệm theo từng cá
nhân hay từng nhóm nhằm kiểm tra hay khẳng định một vấn đề đã học; đồng
thời giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng thực nghiệm.
Thí nghiệm thực tập: Là những đề tài, những thí nghiệm tổng hợp nhằm
củng cố, ôn tập một chương hay một chương trình đã học. Các loại thí nghiệm
trên có thể được tiến hành trên lớp học, trong phòng học bộ môn, phòng thí
nghiệm, xưởng trường, vườn trường.
1.2.1.4. Yêu cầu
- Đảm bảo chất lượng TBDH
Theo TS Bùi Ngọc Sơn - Phó Chủ tịch Hiệp hội Thiết bị giáo dục thì
TBDH hiện nay rất đa dạng, chất lượng đã được nâng lên nhưng không thể
tránh được những sai sót.
Chất lượng của TBDH được đánh giá theo các tiêu chí sau đây:
Chất lượng, chủng loại của TBDH.
Phục vụ thiết thực cho yêu cầu của hoạt động dạy - học theo từng bộ môn.
Có tính giáo dục cao.
Độ bền vững cơ học, độ chính xác của thiết bị.

Đảm bảo tính thẩm mỹ.
Đảm bảo tính an toàn cho người sử dụng.
- Tính hiệu quả của TBDH
TBDH giúp giáo viên và học sinh đạt được mục đích qua các bài học.
Để có thể đảm bảo được tính hiệu quả mà các TBDH mang lại thì các
TBDH cần phải dễ sử dụng và mang tính thực tiễn cao, điều này sẽ tránh làm
lãng phí các TBDH, tránh làm tổn thất cho nhà nước.
- Phù hợp với phương pháp dạy học
22


Các TBDH có chức năng chính đó là bổ trợ mang tính thực tế cho giáo
viên trên lớp, vì thế việc phù hợp với phương pháp dạy học là yêu cầu chủ
yếu để đánh giá chất lượng của các TBDH đó.
- Đáp ứng nhu cầu về giá thành
Với kinh phí eo hẹp tại các cơ sở đào tạo hiện nay thì việc chi phí mua
các TBDH phục vụ cho việc giảng dạy là không nhiều, vì thế giá thành của
các TBDH cần phải được giảm thiểu. Điều này sẽ làm cho việc đưa các
TBDH tới các cơ sở đào tạo được rộng rãi hơn và tránh tình trạng thiếu các
TBDH như hiện nay tại các cơ sở đào tạo.
- Bảo dưỡng và sửa chữa thay thế
Việc hao mòn các TBDH là tất yếu trong quá trình sử dụng. Một TBDH
được đánh giá tốt hay không phụ thuộc vào việc bảo dưỡng và sửa chữa thiết
bị đó. Với nguồn kinh phí eo hẹp như hiện nay thì không thể có chuyện thay
mới thiết bị sau một thời gian sử dụng nhất định. Vì vậy các TBDH cần phải
đảm bảo được yêu cầu có thể bảo dưỡng và sửa chữa một cách dễ dàng.
1.2.2. Nội dung cơ bản của quản lý thiết bị dạy học ở các trường
Trung học cơ sở
Từ khái niệm và các chức năng quản lý giáo dục có thể hiểu quản lý
TBDH là tác động có mục đích của chủ thể quản lý để xây dựng, trang bị, bảo

quản và tổ chức sử dụng có hiệu quả các TBDH nhằm nâng cao chất lượng
dạy học trong nhà trường. Nội dung TBDH mở rộng đến đâu thì tầm quản lý
cũng phải rộng và sâu đến đấy. Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ rõ: TBDH chỉ
phát huy được tác dụng tốt trong công tác giảng dạy khi được quản lý tốt.
Chính vì vậy cho nên đi đôi với việc đầu tư trang bị, điều quan trọng hơn hết
là phải chú trọng đến việc quản lý TBDH trong nhà trường. Vì TBDH là một
lĩnh vực vừa mang tính kinh tế - giáo dục lại vừa mang tính khoa học - giáo
dục, cho nên việc quản lý một mặt phải tuân thủ theo các yêu cầu chung về
quản lý kinh tế và quản lý khoa học. Mặt khác, cần phải tuân thủ theo các yêu
23


cầu quản lý chuyên ngành giáo dục. Có thể nói, quản lý TBDH là một trong
những công việc của người cán bộ quản lý, chính là đối tượng quản lý trong
nhà trường. Sự khẳng định vai trò quan trọng của công tác quản lý hiện nay,
trong việc chỉ đạo hoạt động giáo dục và đào tạo, Đảng, Nhà nước và Bộ
GD&ĐT đã coi việc đổi mới quản lý trường học là một trong những biện
pháp cơ bản để nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Quản lý thiết
bị dạy học là hoạt động có mục đích, có kế hoạch bao gồm trang bị, sử dụng
và bảo quản có hiệu quả hệ thống thiết bị dạy học nhằm góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện ở nhà trường bằng cách thực hiện các chức
năng quản lý (kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra). Các nội dung này có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong việc tổ chức sử dụng có hiệu quả các TBDH
để nâng cao chất lượng dạy học là nội dung cơ bản và cũng là mục đích cuối
cùng của công tác quản lý TBDH trong nhà trường. Vì vậy, quản lý TBDH
cần tập trung vào các nội dung chính sau:
- Quản lý đầu tư mua thiết bị dạy học
Trong thời gian qua, nhiều cơ sở giáo dục đào tạo tích cực, chủ động
tham mưu cho các cấp lãnh đạo trong đầu tư mua sắm thiết bị dạy học, học
liệu và chủ trương khai thác sử dụng thiết bị dạy học.

Tuy nhiên, qua theo dõi của các cơ quan chức năng và phản ánh các
phương tiện thông tin đại chúng, việc mua sắm thiết bị dạy học ở một số cơ sở
giáo dục đào tạo và địa phương còn nhiều mặt hạn chế cần phải chấn chỉnh và
khắc phục.
Kiểm tra, rà soát thực trạng thiết bị, học liệu hiện có để lập kế họach
mua sắm bổ sung những thiết bị, học liệu cần thiết và đồng bộ.
Trong giai đoạn hiện nay, các địa phương, đơn vị cần tập trung ưu tiên
việc đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên về năng lực và
phuơng pháp dạy học.
Nghiêm ngặt quy trinh lập và phê duyệt dự án, tổ chức đấu thầu mua
sắm thiết bị dạy học.
24


- Quản lý sử dụng thiết bị dạy học
Xây dựng và ban hành các quy định về sử dụng TBDH: Ở các trường
THCS, TBDH được trang bị theo chương trình SGK mới nên tương đối đầy
đủ. Với quy định tất cả các tiết học có TBDH thì giáo viên phải sử dụng
TBDH vào giờ dạy. Trên cơ sở đó các trường có thể xây dựng các quy định
riêng, cụ thể hơn và phù hợp cho từng trường để yêu cầu giáo viên sử dụng
TBDH thường xuyên và có hiệu quả, tránh dạy "chay", dạy "suông"
Trong các tiêu chí đánh giá thi đua hoặc kiểm tra đánh giá các mặt hoạt
động công tác chuyên môn đối với tập thể, cá nhân đều có nội dung quy định
về việc sử dụng TBDH.
Công tác bồi dưỡng nhận thức, nâng cao trình độ và năng lực sử dụng
hiệu quả TBDH cho đội ngũ giáo viên: Hàng năm các tổ chuyên môn của các
trường THCS thường tổ chức nhiều chuyên đề, hội thảo, hội giảng trong năm
học. Việc kết hợp giữa cán bộ (giáo viên) phụ trách TBDH với các tổ chuyên
môn, với nhà trường thực hiện các chuyên đề sử dụng TBDH của từng bộ
môn sẽ giúp bồi dưỡng nhận thức, nâng cao trình độ và năng lực sử dụng

TBDH cho giáo viên. Bên cạnh đó thông qua việc dự giờ thăm lớp, sinh hoạt
tổ, nhóm chuyên môn trong trường, cụm trường, cấp huyện cũng thực hiện
được việc bồi dưỡng nhận thức, nâng cao trình độ và năng lực sử dụng TBDH
cho giáo viên.
Xây dựng kế hoạch sử dụng TBDH hợp lý: Xây dựng danh mục TBDH
theo môn học, tiết học là vấn đề rất cần thiết, nó giúp cho cán bộ phụ trách
TBDH cũng như giáo viên bộ môn chủ động hơn trong việc đăng ký, cho
mượn, sử dụng cũng như bảo quản TBDH. Qua đó cán bộ phụ trách TBDH có
thể nắm vững tiết nào thiếu TBDH loại gì, số lượng bao nhiêu để có kế hoạch
bổ sung kịp thời.Giáo viên bộ môn xây dựng kế hoạch bộ môn và kế hoạch
giảng dạy trong đó có đăng ký sử dụng TBDH theo yêu cầu bài soạn. Việc

25


đăng ký và sử dụng TBDH của giáo viên bộ môn được thể hiện thông qua
giáo án, đăng ký giảng dạy, đăng ký mượn TBDH, sổ sử dụng TBDH.
Giám sát và theo dõi việc sử dụng TBDH được thực hiện thông qua lãnh
đạo nhà trường, tổ trưởng, tổ phó chuyên môn và cán bộ (giáo viên) phụ trách
công tác TBDH. Hàng tuần, hàng tháng, trong các cuộc họp tổ chuyên môn,
họp hội đồng sư phạm, cán bộ phụ trách TBDH sẽ báo cáo việc sử dụng
TBDH của giáo viên thông qua việc so sánh danh mục TBDH theo tiết học
với số lượng, chủng loại TBDH mà giáo viên bộ môn chính thức mượn để sử
dụng, từ đó đánh giá mức độ sử dụng TBDH của từng giáo viên. Lãnh đạo
nhà trường cũng đánh giá việc sử dụng TBDH của giáo viên qua kiểm tra, dự
giờ và các báo cáo của các bộ phận. Từ việc đánh giá đó để xếp loại thi đua từng
đợt cho giáo viên cũng như đôn đốc việc sử dụng TBDH đối với những giáo viên
còn ít sử dụng, dạy chay.
Thi đua, khen thưởng những cá nhân, tập thể sử dụng hiệu quả TBDH:
Để động viên đối với các tập thể (tổ, nhóm chuyên môn) hoặc cá nhân từng

giáo viên trong việc sử dụng thường xuyên và có hiệu quả TBDH, nâng cao
được hiệu quả giờ lên lớp và chất lượng dạy - học các trường thường xây
dựng quy chế thi đua khen thưởng riêng và có những hình thức khen thưởng
nhằm khích lệ sự hăng say trong công việc.
- Tự làm đồ dùng dạy học
Tự làm đồ dùng dạy học có ý nghĩa to lớn. Ngay cả các nước phát triển
cũng khuyến khích giáo viên và học sinh tự làm đồ dùng dạy học. Thực tế
giáo dục nhiều năm qua ở Việt Nam cho thấy đồ dùng dạy học tự làm của
giáo viên và học sinh đã góp phần không nhỏ vào quá trình nâng cao chất
lượng dạy học. Do đó, Nhà trường cần kết hợp tốt việc trang bị, mua sắm với
tự làm đồ dùng dạy học, bằng các biện pháp sau:
+ Có kế hoạch làm đồ dùng dạy học hàng năm được tổ chức làm rộng rãi,
động viên bằng tinh thần và vật chất, phổ biến nhân rộng những điển hình,
những kết quả tốt. Đánh giá khách quan chính xác kết quả làm đồ dùng dạy học.
26


×