Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

BÀI tập NHÓM môn kỹ NĂNG GQTCDS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.4 KB, 33 trang )

BÀI THẢO LUẬN NHÓM 8
ĐỀ TÀI: KỸ NĂNG THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA THẨM PHÁN

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN VĨNH HƯNG

Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2017

1


BẢNG ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT
STT

Họ và Tên

Lớp

MSSV

Nhiệm vụ

1

Mùa A Chu

K58C

13062006

Làm slide


2

Dương Quốc Đạt

Bằng kép

12041214

Chương 2

Nguyễn Thị Hạnh

K5
K58B

13061017

Phần mở đầu,

13061026

kết luận
Chương 3,

3
4

Đinh Thị Hương

K58B


5

Bùi Thị Loan

K58

13061038

Tổng hợp bài
Chương 2

6

Lê Thị Thảo

K58B

13061062

Chương 1

7

Hoàng Thị Thanh Xuân

K58B

13061565


Chương 1

Đánh giá

DANH MỤC VIẾT TẮT
BLLTTDS
TTDS
TAND
TAND
TANDTC

Bộ luật Tố tụng dân sự
Tố tụng dân sự
Vụ án dân sự
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tối cao

MỤC LỤC
MỤC LỤC..............................................................................................................................................................2
2


PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................................................................4
1.Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................................................................4
2.Tình hình nghiên cứu............................................................................................................................................5
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................................................................5
4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................................................6
5.Kết cấu .................................................................................................................................................................6
PHẦN NỘI DUNG.................................................................................................................................................7
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về kỹ năng thu thập chứng cứ của Thẩm phán...................................................7


1.1

Khái niệm, ý nghĩa......................................................................................................................7

1.2.1. Thông báo về việc thụ lý vụ án ..................................................................................................8
1.2.2. Yêu cầu đương sự giao nộp chứng cứ .......................................................................................8
1.2.3. Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án ............................................................................9
1.2.4. Thu thập chứng cứ của Thẩm phán tại phiên tòa ......................................................................9
1.3. Kỹ năng chung về thu thập chứng cứ của Thẩm phán....................................................................................10

1.3.1. Xác định điều kiện để Tòa án thu thập chứng cứ.....................................................................10
1.3.2. Xác định hồ sơ còn thiếu chứng cứ..........................................................................................10
1.3.3. Yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ........................................................................12
1.3.4. Đương sự chứng minh không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu Tòa án thu
thập chứng cứ......................................................................................................................................12
1.3.5. Những trường hợp Tòa án tự mình thu thập chứng cứ............................................................14
1.3.6. Kỹ năng tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ...............................................................14
Chương 2. Thực trạng về kỹ năng thu thập chứng cứ của thẩm phán...........................................................27
2.1 Những tồn tại, bất cập....................................................................................................................................27
2.2 Nguyên nhân ..................................................................................................................................................28
Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện kỹ năng thu thập chứng cứ của thẩm phán...................................30
3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự của Thẩm
phán........................................................................................................................................................................30
3.2. Kiến nghị về thực hiện pháp luật thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự của
Thẩm phán...........................................................................................................................................................31
KẾT LUẬN...........................................................................................................................................................31

3



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy định tại Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì chứng cứ là những gì có thật
được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố
tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự , thủ tục của Bộ luật này quy định và được Tòa án sử
dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay phản
đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp. Về nguyên tắc , các đương sự phải có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, Tòa án có trách nhiệm xem
xét các tình tiết của vụ án, căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết yêu cầu của đương sự. Tuy
nhiên khi xét thấy các tài liệu chứng cứ do các đương sự cung cấp không đầy đủ cơ sở để giải quyết
hoặc các đương sự không thể cung cấp được các chứng cứ cần thiết thì trong các trường hợp quy định
Thẩm phán sẽ tiến hành một số biện pháp để thu thập chứng cứ.
Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự đồng thời
được hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2012 NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “chứng minh và chứng cứ”
của BLTTDS đã được bổ sung và sửa đổi một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự. So với các quy định
về thu thập chứng cứ của các văn bản quy phạm pháp luật trước đây thì các văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành đã quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục và cách thức Tòa án tiến hành thu thập chứng
cứ khá rõ ràng và đầy đủ đã tạo thuận lợi cho các Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
Tuy nhiên qua nghiên cứu thì hoạt động thu thập chứng cứ của Thẩm phán cũng đang còn tồn tại
một số bất cập như chưa quy định hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án giới hạn ở giai đoạn nào,
trường hợp thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi thì những chứng cứ do thẩm
phán đó có được sử dụng tiếp để giải quyết vụ án không…Trong rất nhiều vụ án, mặc dù đương sự đã
mất nhiều công sức, thời gian đi lại yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp các chứng cứ liên quan đến việc
giải quyết VADS để họ giao nộp cho Tòa án, nhưng đều bị từ chối với đủ mọi lý do; hoặc các cơ quan,
tổ chức cung cấp không đầy đủ, không chính xác, không đúng thời hạn. Điều này đòi hỏi phải có sự
can thiệp của Nhà nước, cụ thể là Tòa án, với tính chất là cơ quan có chức năng giải quyết tranh chấp,
hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ đang lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức mà đương sự không thể thu
thập được.


4


Từ thực tế đó, việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề thu thập chứng cứ của Thẩm phán hiện nay là rất
cần thiế. Vì vậy nhóm đã chọn đề tài “Kỹ năng thu thập chứng cứ của Thẩm phán” để nghiên cứu
qua đó sẽ làm rõ được những vấn đề cũng như các hoạt động liên quan đến hoạt động thu thấp chứng
cứ của Thẩm phán nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, vấn đề hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nói chung và của Thẩm
phán nói riêng đã được nhiều chuyên gia pháp luật và những người làm thực tiễn quan tâm nghiên cứu.
Nhiều công trình nghiên cứu có đề cập đến vấn đề này như:
-

Luận văn thạc sĩ Luật học “ Chứng cứ và hoạt động chứng minh trong Tố tụng dân sự

Việt Nam” của tác giả Vũ Trọng Hiếu bảo vệ tại trường Đại học Luật Hà Nội năm 1998;
-

Luận văn thạc sĩ luật học” Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ trong Tố tụng dân sự

Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Hằng bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2002;
-

Nguyễn Minh Hằng, Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam,

NXB Chính trị- Hành chính, 2009.
-

Sổ tay thẩm phán, Trường đào tạo các chức danh tư pháp, Nxb CAND, Hà Nội năm


-

Nguyễn Công Bình, “Các quy định về chứng minh trong TTDS”, Tạp chí luật học năm

2001.
2005. Đặc san về BLTTDS.
-

Trần Văn Trung, “Vấn đề chứng cứ và chứng minh trong BLTTDS”, Tạp chí Kiểm sát số

12/2004, tr.16.
-

Hoàng Ngọc Thỉnh, “Chứng cứ và chứng minh trong TTDS”, Tạp chí luật học năm 2004.

Đặc san góp ý Dự thảo BLTTDS.
-

Bài “Một số bất cập và vướng mắc của Bộ luật tố tụng dân sự chưa được hướng dẫn thi

hành” của tác giả Trần Văn Trung trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2011.
Những công trình nghiên cứu này đã một phần góp phần làm sáng tỏ được nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn liên quan đến việc thu thập chứng cứ của Thẩm phán.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật về thu thập
chứng cứ và các kỹ năng của Thẩm phán trong việc thu thập chứng cứ.
5



Hoạt động thu thập chứng cứ của Thẩm phán là hoạt động tố tụng dân sự cơ bản và có ý nghĩa rất
lớn. Do vậy, đề tài “Kỹ năng thu thập chứng cứ của Thẩm phán” có rất nhiều nội dung khác nhau.
Trong khuôn khổ và điều kiện thời gian thì đề tài chủ yếu nghiên cứu về một số vấn đề lý luận cơ bản
về kỹ năng thu thập chứng cứ của Thẩm phán cũng như các hoạt động chính của Thẩm phán trong quá
trình thu thập chứng cứ.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài với mục đích là làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về kỹ năng thu thập
chứng cứ của thẩm phán, nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
thu thập chứng cứ đồng thời nhận diện những tồn tại, bất cập trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật vè thu thập chứng cứ của Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng trên cơ sở đó tìm ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thu thập chứng cứ của Thẩm phán.
Xuất phát từ mục đích của việc nghiên cứu đề tài nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ
nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thu thập chứng cứ, phân tích làm rõ các quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành về thu thập chứng cứ, đánh giá thực tiễn qua đó đưa ra các kiến nghị
giải pháp phù hợp.
5. Kết cấu
Đề tài bao gồm 3 phần chính: Mở đầu, nội dung và kết luận. Phần nội dung sẽ gồm 3 chương
chính:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kỹ năng thu thập chứng cứ của thẩm phán
Chương 2: Nội dung các quy định của Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thu thập
chứng cứ của Thẩm phán.
Chương 3: Kiến nghị và giải pháp

6


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về kỹ năng thu thập chứng cứ của Thẩm phán
1.1


Khái niệm, ý nghĩa

1.1.1 Khái niệm
Trong nghiên cứu khoa học pháp lý nhiều tác giả đã đưa ra những khái niệm khác nhau về thu
thập chứng cứ nói chung và của Tòa án nói riêng. Qua nghiên cứu tổng hợp về những vấn đề về thu
thập chứng cứ có thể kết luận về khái niệm thu thập chứng cứ như sau: Kỹ năng thu thập chứng cứ của
Thẩm phán là hoạt động của thẩm phán trong việc tiến hành các biện pháp pháp lý theo quy định của
pháp luật nhằm tập hợp các chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự đã được Tòa án thụ lý để xây dựng,
hoàn thiện hồ sơ, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan
của vụ việc dân sự.
1.1.2 Ý nghĩa
Việc thu thập chứng cứ của Thẩm phán trong tố tụng dân sự có ý nghĩa quan trọng, quyết định
việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự,
góp phần làm ổn định xã hội.
1.2

Các hoạt động thu thập chứng cứ của thẩm phán
Hoạt động thu thập chứng cứ của Thẩm phán chỉ đặt ra khi VADS đã được thụ lý, xuyên suốt quá

trình giải quyết VADS và bị giới hạn bởi yêu cầu của đương sự. Khi thực hiện các hoạt động tố tụng để
thu thập chứng cứ, Thẩm phán phải nắm vững các thuộc tính của chứng cứ, đồng thời xác định chính
xác yêu cầu của đương sự (yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), quan hệ pháp luật phát sinh tranh chấp trong vụ
án, những vấn đề cần phải chứng minh, các chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án và các chứng
cứ đang được lưu giữ ở đâu, nghĩa vụ chứng minh của đương sự, quy phạm pháp luật nội dung, từ đó
áp dụng các biện pháp phù hợp để thu thập chứng cứ. Xây dựng hồ sơ VADS là nhiệm vụ hết sức quan
trọng của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án. Điều 198 BLTTDS 2015 quy định, khi lập hồ sơ
vụ án, Thẩm phán có nhiệm vụ: yêu cầu đương sự nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; tiến hành xác
minh, thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 97 BLTTDS. Theo đó, Thẩm phán
được tiến hành các hoạt động tố tụng sau đây để thu thập chứng cứ:


7


1.2.1. Thông báo về việc thụ lý vụ án
Sau khi được phân công giải quyết vụ án, Thẩm phán tiến hành nghiên cứu hồ sơ khởi kiện và
tiến hành hoạt động tố tụng đầu tiên là thông báo về việc thụ lý vụ án theo quy định tại Điều 196
BLTTDS: “Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán phải thông báo bằng
văn bản cho nguyên đon, bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
giải quyết vụ án, Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án.”
BLTTDS không có quy định thông báo yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Song, để bảo đảm nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh, bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS cũng như tính công khai, minh bạch trong việc giải quyết
VADS và để tiến hành thu thập chứng cứ thì Thẩm phán, sau khi đã chấp nhận xem xét yêu cầu phản tố
của bị đơn; yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (thụ lý yêu cầu phản tố, yêu cầu
độc lập), phải thực hiện việc thông báo các yêu cầu đó cho nguyên đơn, bị đơn biết để các đương sự
này thực hiện việc cung cấp chứng cứ cho Tòa án (có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu phản tố của
bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan và nộp cho Tòa án tài liệu, chứng
cứ kèm theo). Thời hạn, mẫu thông báo yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập có thể áp dụng tương tự thời
hạn, mẫu thông báo thụ lý vụ án (Mẫu số 05 ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP
ngày 3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định
trong phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm”). Như vậy, thông qua việc thực
hiện hành vi thông báo thụ lý vụ án, thông báo yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập với việc yêu cầu các
đương sự cung cấp chứng cứ, Thẩm phán đã bước đầu thực hiện việc thu thập chứng cứ.
1.2.2. Yêu cầu đương sự giao nộp chứng cứ
Trong trường hợp xét thấy chứng cứ chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì Thẩm phán yêu cầu
đương sự giao nộp bổ sung. Việc yêu cầu giao nộp bổ sung chứng cứ được thực hiện trong suốt quá
trình giải quyết vụ án và phải bằng văn bản (thông báo giao nộp chứng cứ). Trong thông báo giao nộp
chứng cứ, Thẩm phán phải nêu cụ thể các chứng cứ đương sự cần giao nộp. Giao nộp chứng cứ là
quyền và nghĩa vụ của đương sự, nhưng đương sự chỉ có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ thuộc về nghĩa vụ

chứng minh của họ. Để yêu cầu đương sự giao nộp được các chứng cứ theo đúng yêu cầu và mục đích,
Thẩm phán phải giải thích cho đương sự biết quy định tại Điều 7 BLTTDS về trách nhiệm cung cấp
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Căn cứ vào điều luật này, đương sự có quyền
yêu cầu các chủ thể đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp để giao nộp cho Tòa án. Hoạt động thu
8


thập chứng cứ này phải thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Nghị quyết số
04/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số
quy định của BLTTDS về “Chứng minh và chứng cứ” đã nêu rõ thủ tục giao nộp chứng cứ trong từng
giai đoạn tố tụng, khi đương sự khởi kiện cũng như trong quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa.
1.2.3. Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án
Khi thu thập chứng cứ, ngoài việc phải xác định các chứng cứ cần thu thập của vụ án thì Thẩm
phán cần xác định các chứng cứ đương sự đã cung cấp cho Tòa án, chứng cứ đương sự đã tự mình thu
thập nhưng không được và có yêu cầu Tòa án thu thập.
Việc tiến hành các biện pháp để thu thập chứng cứ phải dựa vào các căn cứ như: theo yêu cầu
bằng văn bản của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (trừ những biện pháp Tòa
án được tự mình tiến hành thu thập); quy định của pháp luật nội dung và pháp luật TTDS. Tùy từng
loại tranh chấp cụ thể, tùy thuộc vào các chứng cứ cần phải thu thập mà Thẩm phán áp dụng các biện
pháp phù hợp để thu thập chứng cứ.
Theo quy định của BLTTDS, Thẩm phán được tự mình tiến hành một hoặc một số biện pháp sau
để thu thập chứng cứ: lấy lời khai của đương sự (Điều 98 BLTTDS, Điều 6 Nghị quyết số
04/2012/NQ-HĐTP); lấy lời khai người làm chứng (khoản 1 Điều 99 BLTTDS); đối chất khi xét thấy
có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng (khoản 1 Điều 100 BLTTDS); xem
xét thẩm định tại chỗ (Điều 101 BLTTDS); định giá tài sản (khoản 3 Điều 104 BTTS); ủy thác thu thập
chứng cứ (Điều 105 BLTTDS). BLTTDS quy định điều kiện để Thẩm phán được tiến hành một hoặc
một số biện pháp thu thập chứng cứ khi đương sự không thể tự mình thu thập được và có yêu cầu như:
lấy lời khai người làm chứng (Điều 99 BLTTDS, Điều 7 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP); đối chất
(Điều 100 BLTTDS, Điều 8 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP); trưng cầu giám định (Điều 102, 103
BLTTDS, Luật Giám định tư pháp, Nghị định số 85 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi

hành Luật Giám định tư pháp, Điều 10 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP); định giá tài sản (Điều 104
BLTTDS); yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ (Điều 106, Điều 12 Nghị quyết số
04/2012/NQ-HĐTP).
1.2.4. Thu thập chứng cứ của Thẩm phán tại phiên tòa
Trong quá trình xây dựng hồ sơ vụ án, Thẩm phán không chỉ thu thập chứng cứ trước khi xét xử
mà còn tiếp tục thu thập chứng cứ, xem xét và kiểm tra công khai các chứng cứ tại phiên tòa. BLTTDS
9


cho phép các đương sự xuất trình chứng cứ mới ở bất kỳ thời điểm nào, kể cả ở phiên tòa sơ thẩm,
phúc thẩm. Khoản 5 Điều 95 BLTTDS quy định lời khai của đương sự, người làm chứng được coi là
chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, bằng băng ghi âm, băng ghi hình theo quy định tại khoản 2 Điều
95 BLTTDS hoặc khai bằng lời tại phiên tòa. Tại phiên tòa, Thẩm phán nghe lời trình bày của các
đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình Hội đồng xét xử hỏi, quá trình phát
biểu quan điểm tranh luận, đối đáp của đương sự. Đó cũng là quá trình Hội đồng xét xử kiểm tra chứng
cứ và tiếp tục thu thập chứng cứ. Trong quá trình đó, có thể xuất hiện lời khai mới của đương sự và
những người tham gia tố tụng khác.
Thu thập chứng cứ từ việc nghe và hỏi các đương sự, những người tham gia tố tụng khác của
Thẩm phán là sự tương tác giữa Thẩm phán và đương sự, những người tham gia tố tụng và được thực
hiện bằng sự biểu hiện các hành vi: lắng nghe; đặt câu hỏi. Như vậy, tại phiên tòa, nếu xuất hiện chứng
cứ mới thì Thẩm phán có thể phải hoãn phiên tòa để trong thời gian hoãn phiên tòa, Thẩm phán tiếp tục
thu thập chứng cứ xây dựng hồ sơ vụ án, đảm bảo đủ chứng cứ giải quyết vụ án.
1.3. Kỹ năng chung về thu thập chứng cứ của Thẩm phán
1.3.1. Xác định điều kiện để Tòa án thu thập chứng cứ
Về nguyên tắc, đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình. Tòa án
có trách nhiệm xem xét mọi tình tiết của vụ án, căn cứ vào pháp luật để giải quyết yêu cầu của đương
sự. Điều 96 BLTTDS quy định: Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ
sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ. Trong trường
hợp đương sự không tự mình thu thập được chứng cứ có thể yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ.
(điểm e, khoản 1, điều 97 BLTTDS)

Từ quy định này, Thẩm phán chỉ có thể tiến hành thu thập chứng cứ khi có đủ các điều kiện sau
đây:
(1) Hồ sơ vụ án còn thiếu những chứng cứ cần thiết làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án
(2) Đã yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ
(3) Đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ
1.3.2. Xác định hồ sơ còn thiếu chứng cứ
Để có thể kết luận là hồ sơ còn thiếu chứng cứ làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án, Thẩm phán
phải căn cứ vào những chứng cứ tài liệu mà đương sự, bao gồm cả chứng cứ của nguyên đơn, bị đơn,
10


người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã giao nộp. Khi xem xét chứng cứ, để xác định còn thiếu chứng
cứ phải tùy thuộc vào từng loại chứng cứ mà Thẩm phán đang xem xét.
Đối với các tài liệu đọc được nội dung thì phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng
thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản
gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. Ví dụ khi xem xét hợp đồng mua bán nhà, đương
sự chỉ nộp bản photo không được công chứng hoặc chứng thực thì Thẩm phán không đủ cơ sở để xem
xét hợp đồng. Đây là một trường hợp thiếu chứng cứ làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án.
Đối với các tài liệu nghe được, nhìn được phải có văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc
văn bản về việc liên quan đến việc thu âm, thu hình... Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi
âm, băng ghi hình, đĩa ghi hành, phim, ảnh... Ví dụ trong vụ án tai nạn giao thông, người bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp của người bị hại được một người cung cấp băng ghi hình về hiện trường vụ tai
nạn giao thông. Trong trường hợp này cùng với việc giao nộp băng ghi hình, người bị hại hoặc người
đại diện hợp pháp của người bị hại phải xuất trình cho Tòa án bản xác nhận của người đã cung cấp cho
mình về xuất xứ của băng ghi hình đó. Hoặc một trường hợp khác: ông A cho ông B vay 5 triệu đồng,
thời hạn vay là 12 tháng. Việc vay tài sản không lập thành văn bản, nhưng ông A đã ghi âm lại toàn bộ
nội dung thỏa thuận về việc vay tài sản, việc giao nhận tiền và thời điểm thanh toán nợ giữa ông A và
ông B để làm bằng chứng cho việc vay tài sản của ông B. Đến hạn trả nợ ông B không trả số tiền đó
cho ông A. Ông A khởi kiện ông B ra Tòa. Cùng với việc giao nộp băng ghi âm, ông A phải gửi bản
trình bày về sự việc liên quan đến việc thu âm đó.

Theo Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về chứng minh và chứng cứ thì nếu
đương sự không xuất trình các văn bản nêu trên, thì tài liệu nghe được, nhìn được mà đương sự giao
nộp không được coi là chứng cứ.
Đối với vật chứng thì phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ án dân sự, nếu không phải hiện vật
gốc hoặc không liên quan đến vụ việc thì không phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó.
Đối với lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng nếu ghi bằng văn bản, băng ghi âm,
đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình và được xuất trình theo đúng thủ tục hoặc được khai bằng lời tại
Tòa án.
Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định được tiến hành theo đúng thủ tục do
pháp luật quy định. Hiện nay thủ tục giám định được quy định tại Luật giám định tư pháp năm 2012 và
11


Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành
Luật giám định tư pháp. Như vậy, kết luận giám định trong trường hợp đương sự tự mình giám định, ví
dụ tự đi xét nghiệm ADN không có giá trị chứng minh.
Biên bản thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo thủ tục
do pháp luật quy định và có chữ ký của các thành viên hội đồng thẩm định. Trường hợp đương sự tự đi
yêu cầu thẩm định, không theo thủ tục do BLTTDS quy định cũng không được thừa nhận.
Kết quả định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá được tiến hành theo thủ tục do
pháp luật quy định hoặc văn bản pháp luật quy định hoặc văn bản do chuyên gia về giá cả cung cấp.
Thiếu những thủ tục hoặc tài liệu này thì Tòa án không có cơ sở chấp nhận kết quả định giá tài sản.
1.3.3. Yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ
Nếu chứng cứ mà đương sự giao nộp còn thiếu, Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp chứng cứ
bổ sung. Hình thức yêu cầu là văn bản thông báo. Trong trường hợp này, có thể sử dụng mẫu thông báo
Tòa án đã dùng khi thụ lý vụ án. Về nội dung, thông báo phải ghi rõ chứng cứ mà đương sự cần giao
nộp bổ sung là chứng cứ gì, hậu quả pháp lý nếu đương sự không giao nộp được chứng cứ đó.
Ví dụ trong vụ án ly hôn, Tòa án phải giải quyết yêu cầu nuôi con chưa thành niên. Nếu đương sự
chưa nộp cho Tòa án giấy khai sinh (bảo sao) của con chưa thành niên, thì Thẩm phán yêu cầu đương

sự giao nộp bổ sung giấy khai sinh để làm căn cứ giải quyết yêu cầu giao con chưa thành niên cho
người cha hoặc người mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và quyết định mức cấp dưỡng.
Hoặc trong vụ án tranh chấp về hợp đồng vận chuyển hàng hóa mà theo đơn khởi kiện thì ngoài hợp
đồng còn có phụ lục hợp đồng, nhưng nguyên đơn mới nộp cho Tòa án án bản hợp đồng, thì Thẩm
phán yêu cầu nguyên đơn nộp bổ sung bản phụ lục hợp đồng để có cơ sở giải quyết tranh chấp.
Cũng có thể kết hợp khi ghi biên bản lấy lời khai của đương sự, Thẩm phán yêu cầu đương sự
phải bổ sung chứng cứ còn thiếu. Dù với cách thức nào thì yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng
cứ cũng phải được thể hiện bằng văn bản để lưu trong hồ sơ vụ án. Các văn bản này là một trong những
căn cứ pháp lý để Thẩm phán tiến hành thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng.
1.3.4. Đương sự chứng minh không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu Tòa án thu
thập chứng cứ
Sau khi nhận được yêu cầu của Thẩm phán về việc bổ sung chứng cứ, nếu đương sự có yêu cầu
Tòa án thu thập chứng cứ thì Thẩm phán cũng chưa thể tiến hành thu thập chứng cứ. Khoản 2 Điều 97
BLTTDS quy định: trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì
12


Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ. Trước hết Thẩm phán phải
yêu cầu đương sự chứng minh người đó không thể tự mình thu thập được chứng cứ. Ví dụ trong vụ án
tranh chấp về nhà ở, do thất lạc giấy tờ sở hữu, đương sự đã có văn bản đề nghị Sở Địa chính nhà đất,
một số địa phương là Sở Tài nguyên và Môi trường xác nhận tình trạng sở hữu về nhà ở. Sở địa chính
nhà đất hoặc Sở Tài nguyên và Môi trường có văn bản trả lời đương sự là Sở chỉ xác nhận khi có công
văn của Tòa án, không xác nhận theo yêu cầu của cá nhân. Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày
3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTDS về chứng minh và chứng cứ thì nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp được chứng cứ
cho đương sự, thì phải thông báo bằng văn bản có ghi rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ
cho đương sự biết để họ chứng minh với Tòa án là họ đã thu thập chứng cứ nhưng không có kết quả và
yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Tất cả các giấy tờ trong trường hợp này phải được đương sự gửi
kèm với yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Cần thiết, Thẩm phán phải hướng dẫn cho đương sự thực
hiện đúng. Nếu đương sự chưa tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ mà đã yêu cầu Tòa án thu

thập thì Thẩm phán cần giải thích cho đương sự biết nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự.
Khi đương sự có yêu cầu Tòa án tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ, đương
sự phải thể hiện thành văn bản. Theo Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012, tùy từng
trường hợp, Thẩm phán yêu cầu đương sự phải viết thành một đơn yêu cầu riêng, nhưng cũng có thể
kết hợp ghi yêu cầu của đương sự trong bản khai, bản ghi lời khai, biên bản đối chất. Nếu đương sự
trực tiếp đến Tòa án yêu cầu thì Thẩm phản phải lập biên bản ghi rõ yêu cầu của đương sự. Riêng đối
với trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ bằng biện pháp yêu cầu cá nhân,
cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ theo Điều 106 BLTTDS thì nhất thiết Thẩm phán phải yêu cầu
đương sự làm đơn yêu cầu.
Yêu cầu của đương sự về việc đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ cũng cần phải
nói rõ biện pháp mà đương sự đề nghị Tòa án áp dụng là biện pháp thu thập nào, biện pháp đó có được
quy định trong BLTTDS hay không. Nếu yêu cầu của đương sự chưa thể hiện nội dung này thì Thẩm
phán cần yêu cầu đương sự thể hiện rõ.
Khi đã nhận thấy đủ những điều kiện để tiến hành thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự,
Thẩm phán cần giải thích cho đương sự biết nghĩa vụ nộp tạm ứng chi phí tương ứng với biện pháp thu
thập mà đương sự yêu cầu (ví dụ chi phí giám định, tiền tạm ứng chi phí giám định...). Thẩm phán chỉ

13


tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự đã nộp tiền tạm ứng chi phí tương ứng, nếu thuộc trường hợp
họ phải nộp tiền tạm ứng chi phí tương ứng.
1.3.5. Những trường hợp Tòa án tự mình thu thập chứng cứ
Ngoài việc thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự, trong một số trường hợp, Thẩm phán
cũng có thể tự mình thu thập chứng cứ. Theo BLTTDS và Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày
17/9/2005 thì đó là các trường hợp: (1) lấy lời khai của người làm chứng khi xét thấy cần thiết theo quy
định tại khoản 1 Điều 99 BLTTDS, (2) đối chất khi xét thấy có mâu thuẫn trong lời khai của các đương
sự, người làm chứng theo khoản 1 Điều 100 BLTTDS, (3) định giá tài sản theo khoản 3 Điều 104
BLTTDS.
Khi quyết định tự mình thu thập chứng cứ mà không có yêu cầu của đương sự, Thẩm phán phải

hết sức thận trọng, xác định đủ những tài liệu làm cơ sở để tự mình thu thập chứng cứ. Ví dụ, Thẩm
phán phải xác định được những văn bản chứa đựng mâu thuẫn giữa lời khai của đương sự làm căn cứ
cho việc cần thiết phải đối chất. Đồng thời khi đã có đủ cơ sở pháp lý, Thẩm phán phải tiến hành đúng
biện pháp trong phạm vi thẩm quyền của mình. Ví dụ khi đối chất thì Thẩm phán phải triệu tập những
người cần đối chất, có lời khai mâu thuẫn nhau yêu cầu họ giải thích và nêu quan điểm về những điểm
mâu thuẫn, Thẩm phán không được lấy lời khai riêng của từng người hoặc yêu cầu mọi người viết tờ
khai riêng...
1.3.6. Kỹ năng tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ
Dù áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự hoặc tự mình thấy cần thiết
áp dụng thì Thẩm phán cũng đều phải tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật.
Đối với trường hợp thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự, Thẩm phán chỉ chấp nhận yêu
cầu của đương sự về việc thu thập chứng cứ khi đã xác định đầy đủ các điều kiện pháp lý để áp dụng.
Đồng thời Thẩm phán phải áp dụng đúng biện pháp thu thập mà đương sự yêu cầu.
Đối với trường hợp thu thập chứng cứ do tự mình tiến hành, Thẩm phán chỉ áp dụng những biện
pháp mà pháp luật quy định, không tự mình áp dụng những biện pháp mà pháp luật không quy định.
Theo khoản 2 Điều 97 BLTTDS, khi xác định đủ các điều kiện để thu thập chứng cứ theo yêu cầu
của đương sự, Thẩm phán có quyền áp dụng một hoặc một số biện pháp thu thập sau đây: (1) Lấy lời
khai của đương sự, người làm chứng; (2) Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với
người làm chứng; (3) Trưng cầu giám định; (4) Quyết định định giá tài sản; (5) Xem xét, thẩm định tại
14


chỗ; (6) Ủy thác thu thập chứng cư; (7) Yêu cầu cá nhân cơ quan tổ chức cung cấp tài liệu đọc được,
nghe được, nhìn được hoặc hiện vật liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự; (8) Xác minh sự có
mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú.
Khi áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ, cần thực hiện các kỹ năng sau:
1.3.6.1. Lấy lời khai của đương sự
a/ Xác định điều kiện lấy lời khai của đương sự
Các đương sự là những người có quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với vụ án. Họ là người trực tiếp
liên quan đến các tình tiết trong vụ án. Vì vậy, việc lấy lời khai của các đương sự có một ý nghĩa hết

sức quan trọng trong việc làm sáng tỏ nội dung vụ án, yêu cầu của các đương sự và là cơ sở để xác định
được đường lối giải quyết vụ án. Về nguyên tắc, lời khai của đương sự do đương sự tự cung cấp, tự viết
và ký tên. Điều 98 BLTTDS quy định “Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương
sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký
tên của mình. Trong trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương
sự”.
Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS, thì khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội
dung của bản khai chưa đầy đủ, Thẩm phán yêu cầu đương sự phải tự viết bản khai hoặc bản khai bổ
sung và ký tên của mình. Chỉ trong trường hợp đương sự không thể tự viết được, thì Thẩm phán tự
mình hoặc thư ký Tòa án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản.
b/ Phương pháp lấy lời khai của đương sự
Việc lấy lời khai của đương sự do Thẩm phán tiến hành. Thư ký Tòa án chỉ có thể giúp Thẩm
phán ghi lời khai của đương sự vào biên bản.
Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa đầy đủ,
rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc thư ký Tòa án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản. Để việc lấy
lời khai của các đương sự phục vụ tốt cho quá trình giải quyết các vụ án, Thẩm phán phải nắm chắc các
tình tiết có ý nghĩa quan trọng của vụ án, các quy định của pháp luật nội dung cần áp dụng giải quyết
vụ án. Lời khai của đương sự phải tập trung làm rõ nội dung cơ bản của vụ án, yêu cầu của các bên
đương sự, các căn cứ pháp lý và chứng cứ thực tế để bảo vệ yêu cầu của các đương sự.
Về địa điểm lấy lời khai, Thẩm phán phải tiến hành lấy khai của đương sự tại trụ sở Tòa án.
Trong những trường hợp vì lý do khách quan, chính đáng như đương sự đang bị tạm giam, chấp hành
15


hình phạt tù, ốm đau, bệnh tật v.v…Tòa án không thể lấy lời khai của đương sự tại trụ sở thì Thẩm
phán có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở.
Việc lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Tòa án phải đảm bảo đúng quy định của pháp luật,
quy định đối với cán bộ công chức của ngành Tòa án nhân dân và bảo đảm khách quan. Ví dụ, lấy lời
khai của đương sự đang bị tạm giam phải được thực hiện tại trại giam theo bố trí của Ban giám thị trại

tạm giam; lấy lời khai của đương sự bị ốm đau nhưng không đi điều trị tại cơ sở y tế phải được thực
hiện tại nơi họ đang điều trị và nếu xét thấy cần thiết thì mời người chứng kiến
Đối với đương sự quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 69 BLTTDS, tức là đương sự chưa đủ 6
tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự, đương sự từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi thì việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực
hiện. Trong trường hợp lấy lời khai của họ thì phải có mặt người đại diện hợp pháp của họ và người đại
diện hợp pháp của họ phải ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào biên bản lấy lời khai.
Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tiến hành lấy lời khai
của người làm chứng. Phương pháp, địa điểm lấy lời khai người làm chứng được thực hiện như việc
lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai của người làm chứng chưa đủ 18 tuổi, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được tiến hành
với sự có mặt của người đại diện theo pháp luật hoặc người đang thực hiện việc quản lý, trông nom
người đó (Khoản 3 Điều 99 BLTTDS).
c/ Cách ghi biên bản lấy lời khai:
Khi ghi biên bản lấy lời khai của đương sự, Thẩm phán tự mình hoặc thư ký ghi biên bản phải thể
hiện rõ ngày, giờ, tháng, năm ghi biên bản, địa điểm lấy lời khai, người tiến hành lấy lời khai, họ tên,
tuổi, địa chỉ nghề nghiệp của người được lấy lời khai khai, nội dung khai. Biên bản phải phải ghi đầy
đủ chính xác nội dung khai báo. Nếu là những lời khai quan trọng phải ghi đúng cả lời văn của người
khai.
Khi người khai có thái độ đáng chú ý trong quá trình lấy lời khai cũng cần phản ánh vào biên bản
(ví dụ thái độ ngập ngừng, luống cuống, khóc.v.v…).
Mỗi chữ mỗi câu thêm vào hoặc bỏ đi trong biên bản phải được cả người lấy lời khai và người
khai xác nhận. Những dòng trống phải gạch đi.

16


Các biên bản lấy lời khai được người khai tự đọc hoặc đọc lại cho họ nghe. Đương sự có quyền
yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai. Chữ viết trong biên bản phải rõ ràng, dễ
đọc, không được viết tắt.

Người khai ký vào biên bản xác nhận. Nếu người khai không biết chữ thì cho điểm chỉ xác nhận.
Nếu người khai không ký thì yêu cầu họ phải ghi rõ lý do vì sao không ký. Nếu đã giải thích họ vẫn
không ký, không ghi lý do vì sao không ký thì Thẩm phán yêu cầu mời người làm chứng đến xác nhận
sự việc và ký tên vào biên bản.
Trường hợp biên bản lấy lời khai của đương sự được lập ngoài trụ sở của Tòa án thì có người làm
chứng hoặc xác nhận của ủy ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập
biên bản.
Biên bản phải có chữ ký của người lấy lời khai, người ghi biên bản và đóng dấu của Tòa án.
1.3.6.2. Lấy lời khai người làm chứng
a/ Xác định điều kiện để lấy lời khai người làm chứng
Người làm chứng là người được đương sự mời đến hoặc do cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập
đến để khai báo những tình tiết có liên quan đến vụ án mà họ được biết, người làm chứng là người
không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Lời khai của người làm chứng chứa đựng nhiều
chứng cứ về những tình tiết cần chứng minh nhằm giúp Tòa án tìm ra sự thật khách quan của vụ án.
Tuy vậy, lời khai của người làm chứng cũng có thể bị sai lệch và không phù hợp với sự thật khách
quan như trong trường hợp người làm chứng bị mua chuộc, dụ dỗ, đe dọa, người làm chứng cố tình
khai báo sai sự thật, người làm chứng không nhớ kỹ đúng sự việc đã chứng kiến. Trong các trường hợp
đó lời khai của nhân chứng không mang tính khách quan. Các lời khai của nhân chứng lúc đó phải
được đánh giá với các chứng cứ khác của vụ án.
BLTTDS quy định trường hợp cần lấy lời khai của người làm chứng tại Điều 99, đó là trường
hợp “theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết”. Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày
3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTDS giải thích rõ các trường hợp Tòa án tiến hành lấy lời khai của người làm chứng: Khi đương
sự có yêu cầu bằng văn bản lấy lời khai của người làm chứng, thì Tòa án tiến hành lấy lời khai của
người làm chứng đó. Trong trường hợp này, Thẩm phán phải yêu cầu đương sự có văn bản yêu cầu
theo cách thức đã nêu ở trên.

17



Đối với trường hợp Thẩm phán lấy lời khai của người làm chứng theo yêu cầu của đương sự thì
trước khi áp dụng biện pháp này, Thẩm phán phải xem xét đủ các điều kiện để thu thập chứng cứ theo
yêu cầu của đương sự. Khi đã thấy đủ rồi, Thẩm phán mới làm giấy triệu tập gửi cho người làm chứng.
Trong giấy triệu tập phải ghi rõ lý do triệu tập (để làm chứng trong vụ án...), thời gian, địa điểm làm
việc... theo mẫu giấy triệu tập chung của Tòa án. Giấy triệu tập phải được tống đạt hợp lệ tới người làm
chứng.
Khi xét thấy cần thiết tuy đương sự không có yêu cầu, Thẩm phán có thể tiến hành lấy lời khai
của người làm chứng. Được coi là “cần thiết” nếu việc lấy lời khai của người làm chứng bảo đảm cho
việc giải quyết vụ án dân sự được toàn diện, chính xác, công minh, đúng pháp luật.
b/ Phương pháp lấy lời khai người làm chứng và cách ghi biên bản lấy lời khai người làm chứng.
Về căn bản phương pháp lấy lời khai của người làm chứng và cách ghi biên bản lấy lời khai của
người làm chứng được thực hiện giống như đối với phương pháp lấy lời khai của đương sự và cách ghi
biên bản lấy lời khai của đương sự. Ngoài ra có một số điểm chú ý thêm ghi biên bản: Nếu người làm
chứng là thân thích, gần gũi với đương sự như cha, mẹ, vợ, con, anh chị em… hoặc bạn bè thân thích
thì trong biên bản cũng phải ghi rõ quan hệ đó. Trong biên bản ghi lời khai của người làm chứng phải
có thêm các nội dung: Cam đoan đã được Tòa án giải thích rõ về quyền và nghĩa vụ của người làm
chứng; Cam đoan khai báo trung thực trước Tòa án; Cam đoan xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước
pháp luật về lời khai của mình.
1.3.6.3. Đối chất
Khi đương sự có yêu cầu hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự,
người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người
làm chứng, hoặc giữa những người làm chứng với nhau theo thứ tự hợp lý. Tùy từng trường hợp cụ thể
mà tiến hành đối chất về từng vấn đề một hoặc để từng người trình bày về các vấn đề cần đối chất theo
thứ tự.
Triệu tập đương sự, người làm chứng,… tới đối chất là điều tương đối khó khăn do có thể các bên
sẽ không hợp tác. Chính vì thế mà thẩm phán cũng cần biết “dọa” cho các bên tới, ví dụ “mời anh/chị
tới để làm rõ những sự kiện abc xyz vì nếu với các sự kiện như trên sẽ gây bất lợi tới quyền lợi, lợi ích
của anh/chị trong vụ việc, nếu cố tình không tới thì lập biên bản lưu lại trong hồ sơ vụ án”.
Khi bắt đầu đối chất, Thẩm phán hỏi về mối quan hệ giữa những người tham gia đối chất, sau đó
hỏi họ về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Cần đặt những câu hỏi tạo mâu thuẫn giữa những bên được

hỏi, xoáy sâu vào mâu thuẫn, từ đó làm nổi bật lên những chênh lệch trong lời khai giữa các bên.
18


Cần chú ý vẻ mặt, phong thái, cảm xúc của các bên khi bị đặt câu hỏi. Cách sắp xếp chỗ ngồi khi
đối chất cũng cần chú ý, để hai bên ngồi đối diện nhau có thể có lợi hoặc bất lợi tới mục đích của buổi
đối chất.
Ngoài ra, trong quá trình đối chất, Thẩm phán có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên
quan; có thể để cho những người tham gia đối chất hỏi lẫn nhau; câu hỏi và trả lời của những người
này phải ghi vào biên bản.
Chỉ sau khi những người tham gia đối chất đã khai xong mới được nhắc lại những lời khai trước
đó của họ. Chú ý: Thẩm phán không quá nghiêng về phía một bên, chỉ đứng ở trung gian và nêu câu
hỏi.
Thẩm phán tự mình hoặc thư ký Tòa án ghi biên bản đối chất. Biên bản phải có chữ ký của những
người tham gia đối chất. Thẩm phán tiến hành đối chất, thư ký ghi biên bản đối chất và đóng dấu của
Tòa án. Cách ghi biên bản đối chất về cơ bản cũng thực hiện như đối với trường hợp ghi biên bản lấy
lời khai của đương sự và của người làm chứng.
1.3.6.4. Xem xét thẩm định tại chỗ
a/ Những trường hợp cần xem xét, thẩm định tại chỗ:
Những vụ án mà đối tượng tranh chấp là bất động sản, vật không thể di chuyển hoặc trường hợp
thẩm phán cần nắm vững hiện trường xảy ra sự việc tranh chấp nếu đương sự có yêu cầu xem xét, thẩm
định tại chỗ và xét có căn cứ thì Thẩm phán tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ.
b/ Quyết định xem xét thẩm định tại chỗ
Khi tiến hành biện pháp xem xét, thẩm định tại chỗ, Thẩm phán phải ra quyết định. Quyết định
xem xét, thẩm định tại chỗ phải có các nội dung chính sau: (1) Ngày, tháng, năm ra quyết định và tên
Tòa án ra quyết định; (2) Đối tượng và những vấn đề cần xem xét, thẩm định tại chỗ; (3) Thời gian, địa
điểm tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ.
Quyết định xem xét thẩm định tại chỗ phải được gửi cho ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ
chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định kèm theo văn bản đề nghị ủy ban nhân dân hoặc cơ
quan, tổ chức cử đại diện tham gia việc xem xét, thẩm định tại chỗ.

Vào ngày, giờ đã định trong quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ, nếu chưa có đại diện của ủy
ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức, thì Thẩm phán phải liên hệ để họ có mặt. Trong trường hợp vắng
mặt đại diện của ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức, thì Thẩm phán phải hoãn việc xem xét thẩm
định tại chỗ.
19


Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ phải được giao hoặc gửi cho đương sự để họ biết và chứng
kiến việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Tuy nhiên, nếu đương sự vắng mặt thì việc xem xét, thẩm định tại
chỗ vẫn được tiến hành theo thủ tục chung.
c/ Thực hiện việc xem xét thẩm định tại chỗ:
Theo Điều 101 BLTTDS, việc xem xét thẩm định tại chỗ phải do Thẩm phán tiến hành với sự có
mặt của đại diện UBND cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định tại chỗ.
Đối với đương sự, Thẩm phán cần có thông báo việc xem xét thẩm định tại chỗ để đương sự biết và
chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó.
Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải được ghi thành biên bản. Thẩm phán tự mình hoặc thư ký
Tòa án ghi biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ. Biên bản phải ghi rõ kết quả xem xét, thẩm định, mô tả
rõ hiện trường, có chữ ký của người xem xét, thẩm định và chữ ký hoặc điểm chỉ của đương sự nếu họ
có mặt, của đại diện UBND cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và
những người khác được mời tham gia việc xem xét, thẩm định. Sau khi lập xong biên bản, người xem
xét thẩm định phải yêu cầu người đại diện UBND cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần
xem xét, thẩm định ký tên và đóng dấu xác nhận ( Khoản 2 Điều 101 BLTTDS ).
Trong trường hợp có người cản trở việc tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ thì Thẩm phán yêu
cầu đại diện của ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức có biện pháp can thiệp, hỗ trợ kịp thời để thực
hiện việc xem xét thẩm định tại chỗ. Trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu lực lượng cảnh sát bảo
vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc công an nhân dân có thẩm quyền để có các biện pháp can thiệp. Thẩm phán
phải lập biên bản về việc đương sự cản trở việc xem xét, thẩm định tại chỗ và lưu vào hồ sơ vụ án.
Theo tìm hiểu kinh nghiệm các vụ việc trước đây, để thực hiện được biện pháp này, trên thực tế,
các Thẩm phán ở địa phương đã phải vận dụng nhiều cách khác nhau từ việc phối hợp với chính quyền
địa phương, Mặt trận tổ quốc, tổ chức Đảng... để giải thích, thuyết phục đương sự hợp tác, đặc biệt là

trong các vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất để Tòa án tiến hành đo vẽ, định giá nhà đất, tài sản tranh
chấp.
Trong trường hợp không thể xem xét, thẩm định tại chỗ được, Thẩm phán phải thu thập các
chứng cứ khác như sử dụng những bản vẽ nhà đất cũ hoặc những số liệu về diện tích nhà đất có tại
những tài liệu khác như sổ mục kê, sổ kê khai đăng ký ruộng đất...(nếu có) để giải quyết vụ án.
1.3.6.5. Trưng cầu giám định
a/ Điều kiện để trưng cầu giám định.

20


Trong trường hợp việc đánh giá chứng cứ cần phải sử dụng các kiến thức chuyên môn như xác
định chữ viết, chữ ký, vân tay của một người nào đó hay cần xác định nguyên nhân gây thiệt hại trong
xây dựng, xác định gen ADN.v.v… và có yêu cầu của đương sự về việc trưng cầu giám đình, Tòa án
cần phải trưng cầu giám định khoa học.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu có chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì điều đó có nghĩa là
chứng cứ đó đang bị nghi ngờ về tính xác thực. Muốn khẳng định chắc chắn thì phải giám định chứng
cứ mới xác định được chứng cứ giả mạo hay xác thực. Xuất phát từ tính chất của các quan hệ dân sự,
các bên có quyền quyết định và tự định đoạt trong quá trình giải quyết vụ việc, kể cả việc cung cấp
chứng cứ cho Tòa án, BLTTDS đã quy định cho phép đương sự đưa ra chứng cứ bị tố cáo là giả mạo
được rút lại chứng cứ đó nhằm đảm bảo cho việc giải quyết nhanh chóng vụ án mà không cần phải
giám định tránh gây lãng phí về thời gian và tiền bạc. Nếu đương sự không rút lại chứng cứ đó thì
người tố cáo có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định đối với chứng cứ đó để xác minh về tính
hợp pháp của chứng cứ. Trong trường hợp việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án sẽ
chuyển cho cơ quan điều tra hình sự có thẩm quyền xem xét về trách nhiệm hình sự đối với người cung
cấp đó, và người ra chứng cứ giả mạo có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại nếu việc giả mạo chứng cứ đó
gây thiệt hại cho người khác.
Trong các trường hợp này, Tòa án chỉ tiến hành trưng cầu giám định theo sự thỏa thuận lựa chọn
của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự. Theo Nghị quyết số 04/NQHĐTP ngày 3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì Thẩm phán phải yêu cầu
đương sự thể hiện sự thỏa thuận lựa chọn hoặc yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định bằng văn bản, có

thể làm bằng văn bản riêng, có thể ghi trong bản khai, có thể ghi trong biên bản ghi lời khai, biên bản
đối chất.
b/ Quyết định trưng cầu giám định
Khi soạn thảo quyết định trưng cầu giám định, Thẩm phán phải căn cứ vào Điều 102 của
BLTTDS, Luật giám định tư pháp, Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết và biện pháp thi hành Luật giám định tư pháp để ra quyết định trưng cầu giám định.
Quyết định trưng cầu giám định phải có các nội dung chính sau đây: (1) Ngày, tháng, năm ra
quyết định và tên Tòa án ra quyết định; (2) Tên, địa chỉ của tổ chức giám định nếu Tòa án trưng cầu tổ
chức giám định hoặc họ, tên, địa chỉ của người giám định viên được trưng cầu giám định nếu Tòa án
trưng cầu người đó tiến hành giám định; (3) Nguồn gốc và đặc điểm của đối tượng giám định; (4) Tên
21


các tài liệu có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo; (5) Những vấn đề cần giám định; (6) Các yêu
cầu cụ thể cần có kết luận giám định; (7) Thời hạn trả lời kết quả giám định.
1.3.6.6. Định giá tài sản
a/ Xác định điều kiện định giá tài sản
Theo quy định của BLTTDS tại Điều 97, định giá tài sản là một trong những biện pháp thu thập
chứng cứ của Tòa án nhằm giúp cho việc giải quyết vụ án được chính xác.
Tòa án ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp trong các trường hợp sau đây:
(1) Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;
(2) Các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc đưa ra giá tài sản
khác nhau hoặc không thỏa thuận được giá tài sản;
(3) Các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá tài sản theo mức giá thấp so với
giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá nhằm trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước hoặc
người thứ ba hoặc có căn cứ cho thấy tổ chức thẩm định giá tài sản đã vi phạm pháp luật khi thẩm định
giá.
Trong trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm, Tòa án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm hủy bản án sơ thẩm
để xét sử sơ thẩm lại thì việc định giá tài sản lại chỉ được thực hiện khi một hoặc các bên đương sự có
yêu cầu. Việc định giá tài sản lại được thực hiện theo thủ tục chung.

Điều 163, 164, 165, và 166 BLTTDS quy định nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng chi phí định giá, xử lý
tiền tạm ứng chi phí định giá và nghĩa vụ nộp tiền chi phí định giá. Vì vậy, khi đương sự có yêu cầu
định giá, Tòa án giải thích cho họ biết nghĩa vụ nộp tạm ứng chi phí định giá và chỉ tiến hành các thủ
tục định giá khi người yêu cầu đã nộp được tạm ứng chi phí định giá.
b/ Quyết định định giá tài sản tranh chấp
Định giá tài sản là một biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án trong quá trình chuẩn
bị xét xử vụ án nên Tòa án phải ra quyết định thành lập Hội đồng định giá tài sản. Khi ra quyết định
định giá tài sản tranh chấp, Tòa án phải:
(1) Xem xét tài sản cần định giá là loại tài sản nào, có liên quan đến cơ quan chuyên môn nào,
Hội đồng định giá cần phải có bao nhiêu thành viên và trong trường hợp cụ thể này cần cử đại diện của
cơ quan nào làm chủ tịch Hội đồng định giá.
(2) Trên cơ sở đó, Tòa án có công văn gửi cho các cơ quan chuyên môn đề nghị cử cán bộ làm
chủ tịch và ủy viên Hội đồng định giá. Trong công văn cần nêu rõ tài sản cần định giá , yêu cầu cụ thể
22


đối với chủ tịch , ủy viên hội đồng định giá và thời hạn cơ quan chuyên môn có công văn trả lời cho
Tòa án biết việc cử người tham gia Hội đồng định giá.
Sau khi nhận được các công văn trả lời của các cơ quan chuyên môn về việc cử người làm chủ
tịch và ủy viên Hội đồng định giá, Thẩm phán phải kiểm tra những người được cử có đáp ứng các yêu
cầu cụ thể mà Tòa án nêu trong công văn hay chưa, có ai trong số họ là người thân thích với đương sự
trong vụ án hay không. Nếu có người chưa đáp ứng các yêu cầu cụ thể này là người thân thích với
đương sự trong vụ án thì đề nghị cơ quan chuyên môn đã cử người đó cử người khác thay thế.
(3) Chỉ khi đã làm đủ các bước (1), (2) thì Thẩm phán mới ra quyết định định giá. Quyết định
định giá phải có các nội dung chính sau đây: (1) Ngày, tháng, năm ra quyết định và tên của Tòa án ra
quyết định; (2) Tài sản cần định giá; (3) Họ, tên, cơ quan công tác của Chủ tịch và các thành viên Hội
đồng định giá; (4) Nhiệm vụ của Hội đồng định giá; (5) Thời gian, địa điểm tiến hành định giá.
c/ Thực hiện định giá tài sản:
Quyết định về giá của Hội đồng định giá tài sản là một trong những nguồn chứng cứ, có ảnh
hưởng lớn đến việc giải quyết vụ án của Tòa án. Do đó, khi tiến hành định giá tài sản hội đồng phải có

sự tham gia đầy đủ của các thành viên nhằm bảo đảm cho kết quả định giá được minh bạch, chính xác
và quyết định của Hội đồng định giá phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. Để
việc định giá tiến hành đúng thời gian, địa điểm, và đủ thành phần ghi trong quyết định định giá tài sản,
Tòa án cần liên hệ trước với các thành viên Hội đồng định giá để họ biết sắp xếp lịch công tác và tham
gia định giá. Trường hợp việc định giá không đúng thời gian ghi trong quyết định định giá thì Tòa án
phải thông báo thời gian định giá cho các thành viên Hội đồng định giá và những người có liên quan
biết.
Việc định giá phải được ghi thành biên bản, Tòa án có thể cử một thư ký Tòa án để giúp việc cho
Hội đồng định giá ghi biên bản về việc tiến hành định giá. Trong biên bản định giá phải ghi rõ thời
gian, địa điểm tiến hành định giá, thành phần Hội đồng định giá tài sản. Đại diện Tòa án, Viện kiểm sát
tham dự cuộc họp của Hội đồng định giá với vai trò giám sát chứ không phải là thành viên Hội đồng
định giá, không tham gia biểu quyết về giá. Trong biên bản định giá tài sản khi định giá từng tài sản
phải mô tả rõ tình trạng, đặc điểm, chất lượng tài sản, nguồn gốc tài sản, ý kiến của Hội đồng định giá
về tài sản, ý kiến của các đương sự về giá của Hội đồng định giá. Các đương sự có quyền phát biểu về
giá do Hội đồng định giá nêu ra nhưng quyền quyết định cuối cùng về giá là thuộc Hội đồng định giá.

23


Trong trường hợp có người cản trở việc tiến hành định giá tài sản thì Thẩm phán yêu cầu đại diện
UBND hoặc cơ quan, tổ chức có biện pháp can thiệp, hỗ trợ kịp thời. Trong trường hợp cần thiết Thẩm
phán yêu cầu lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân có thẩm quyền để
có biện pháp can thiệp, hỗ trợ. Thẩm phán phải lập biên bản về việc đương sự cản trở việc định giá tài
sản và lưu vào hồ sơ vụ án.
1.3.6.7. Ủy thác thu thập chứng cứ
a/ Điều kiện ủy thác thu thập chứng cứ
Trong quá trình giải quyết các vụ kiện dân sự, có một thực tế phát sinh là Tòa án đã thụ lý vụ
kiện dân sự xét thấy cần phải thu thập thêm chứng cứ do chưa đủ căn cứ để giải quyết vụ án nhưng việc
thu thập chứng cứ gặp trở ngại do phải được tiến hành ở địa phương khác hoặc ở ngoài lãnh thổ Việt
Nam. Để giải quyết khó khăn này, pháp luật tố tụng dân sự đã quy định cơ chế ủy thác thu thập chứng

cứ cho các Tòa án. Theo đó, Tòa án đã thụ lý vụ án dân sự có thể ủy thác cho Tòa án khác trong trường
hợp cần thu thập chứng cứ ở địa phương khác trong lãnh thổ Việt Nam hoặc ủy thác thông qua cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam hoặc các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự của nước ngoài mà nước đó và
Việt Nam đã ký kết hiệp định tương trợ tư pháp hoặc cùng Việt Nam gia nhập điều ước quốc tế có quy
định về vấn đề này đối với trường hợp cần thu thập chứng cứ ở ngoài lãnh thổ Việt Nam thực hiện việc
thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự.
b/ Quyết định ủy thác tư pháp
Khi tiến hành việc ủy thác thu thập chứng cứ như ủy thác lấy lời khai của đương sự, của người
làm chứng, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản hoặc ủy thác các biện pháp khác để thu thập chứng cứ,
xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự, Thẩm phán phải ra quyết định ủy thác. Trong quyết định ủy
thác phải ghi rõ tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, quan hệ
pháp luật tranh chấp và những công việc cụ thể ủy thác để thu thập chứng cứ. Tòa án nhận ủy thác có
trách nhiệm thực hiện công việc cụ thể được ủy thác trong thời hạn 1 tháng, kể từ ngày nhận được
quyết định ủy thác và thông báo kết quả bằng văn bản cho Tòa án đã ra quyết định ủy thác. Trường hợp
không thực hiện được việc ủy thác thì phải thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do của việc không thực
hiện được việc ủy thác cho Tòa án đã ra quyết định ủy thác (Điều 105 BLTTDS ).
Để thuận lợi cho việc thực hiện ủy thác, trong nhiều trường hợp Tòa án ra quyết định ủy thác còn
phải gửi kèm cả bản sao một số tài liệu liên quan đến nội dung ủy thác.

24


Để đảm bảo thời hạn tố tụng, trong quyết định ủy thác, Thẩm phán cần ấn định một thời hạn hợp
lý để Tòa án được ủy thác thực hiện việc thu thập chứng cứ.
Trường hợp việc thu thập chứng cứ phải tiến hành ở ngoài lãnh thổ Việt nam thì Tòa án làm thủ
tục ủy thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự
của nước ngoài mà nước đó và Việt Nam đã ký hiệp định tương trợ tư pháp hoặc cùng Việt Nam gia
nhập điều ước quốc tế có quy định vấn đề này.
1.3.6.8. Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ
a/ Điều kiện áp dụng biện pháp yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ

Điều 106 BLTTDS quy định trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để
thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập
chứng cứ nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn.
Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
giải thích rõ, chỉ trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ,
đã sử dụng mọi cách thức và khả năng cho phép để yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý, lưu giữ
chứng cứ cung cấp cho mình chứng cứ mà vẫn không được cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp thì mới
có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ. Đây là trường hợp mà bắt buộc đương
sự phải có đơn yêu cầu được đương sự viết riêng. Khi nhận đơn yêu cầu của đương sự, Thẩm phán phải
kiểm tra xem đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ hay chưa. Nếu đương
sự chưa tiến hành hoặc không có chứng cứ về việc đã tiến hành việc thu thập chứng cứ mà không có
kết quả, Thẩm phán sẽ không tiếp nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ
chức cung cấp chứng cứ cho Tòa án. Thẩm phán cần giải thích và hướng dẫn cho đương sự thực hiện
đầy đủ các thủ tục mà pháp luật đã quy định.
Chỉ khi đương sự thực hiện đầy đủ những quy định trên, Thẩm phán mới nhận đơn yêu cầu của
đương sự. Đơn yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý,
lưu giữ phải có các nội dung chính sau: (1) Ngày, tháng, năm viết đơn; (2) Tên Tòa án mà đương sự
yêu cầu tiến hành thu thập chứng cứ; (3) Tên, địa chỉ của người có yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ;
(4) Vấn đề cụ thể cần thu thập; (5) Lý do vì sao tự mình không thu thập được chứng cứ đó; (6) Họ, tên,
địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập.
b/ Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ

25


×