Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Vấn đề chính sách phát triển văn hoá từ thực tiễn thành phố đà nẵng (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.49 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HỒNG HẠNH

VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 60 34 04 02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2017


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Khoa học Xã hội

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ AN

Phản biện 1: .............................................................
Phản biện 2: ..............................................................

Luận văn được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện khoa học xã hội ....... giờ ...... ngày ...... tháng .....
năm ......
`

Có thể tìm hiểu luận văn tại


Thư viện Học viện Khoa học Xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam cũng như
nhiều quốc gia khác trên thế giới ngày càng nhận thức sâu sắc về tầm
quan trọng của văn hoá, cũng như CSVH đối với sự phát triển bền vững
đất nước.
Ở Việt Nam, từ những nhận thức đó, Đảng và Nhà nước đã luôn
quan tâm và đề ra nhiều chủ trương, chính sách xây dựng và phát triển
sự nghiệp văn hoá. NQTƯ5 KVIII “về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã ghi nhận một bước
tiến mới về việc nhận thức vai trò của văn hóa, chính sách phát triển
văn hóa đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Trong suốt hơn 15 năm
sau khi NQTƯ5 KVIII được ban hành, nhiều CSVH đã ra đời góp phần
phát triển văn hóa nước nhà và những CSVH đó không những tạo điều
kiện để người dân có cơ hội sáng tạo văn hóa, mà còn mở rộng mức
hưởng thụ văn hoá cho người dân, góp phần phát triển con người Việt
Nam một cách toàn diện.
Quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về văn hoá, Đảng bộ và chính quyền thành phố Đà
Nẵng hết sức quan tâm lĩnh vực quan trọng này và những thành tựu nổi
bật về phát triển kinh tế - xã hội của thành phố thời gian qua có một
phần đóng góp không nhỏ từ các CSVH hiệu quả mang lại. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành tựu thì việc hoạch định và triển khai thực hiện
những CSVH của thành phố thời gian qua vẫn tồn tại không ít những
bất cập, hạn chế tác động xấu đến các lĩnh vực của đời sống xã hội và
trong chính lĩnh vực văn hoá, cần ban hành những chính sách để giải
quyết. Trong số các vấn đề chính sách phát triển văn hoá từ thực tiễn

thành phố Đà Nẵng thời gian qua có thể thấy nổi bật lên hai vấn đề
chính sách: Văn hoá thành phố vẫn chưa được đầu tư phát triển tương
1


xứng với kinh tế và nhu cầu thụ hưởng của người dân, ĐTH đã làm
biến đổi mạnh mẽ văn hoá và lối sống của cư dân Đà Nẵng.
Thực trạng các bất cập, hạn chế trong quá trình phát triển văn
hoá của thành phố Đà Nẵng thời gian qua cần được các giới, các ngành,
các cấp quan tâm, bàn luận, nghiên cứu, mạnh dạn đề xuất các vấn đề
chính sách nhằm sửa đổi, bổ sung những CSVH bất cập, không còn phù
hợp, kịp thời đề ra những CSVH mới đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu
của sự phát triển bền vững. Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài
“Vấn đề chính sách phát triển văn hoá từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng” làm luận văn chính sách công là xuất phát từ nhu cầu cấp thiết
của thực tế và có ý nghĩa thực tiễn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
thành phố.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, phạm trù chính sách công, CSVH còn khá mới mẻ vì
thế những công trình nghiên cứu về đối tượng này chưa nhiều. Hơn
nữa, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đề cập tới vấn đề chính
sách phát triển văn hóa, đặc biệt là từ thực tiễn một địa phương, cụ thể
là thành phố Đà Nẵng. Có thể khái quát một số công trình tiêu biểu liên
quan đến vấn đề nghiên cứu như sau:
2.1. Nghiên cứu về chính sách công
- Công trình Tìm hiểu về khoa học chính sách công (NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1999) của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Viện Khoa học chính trị và cuốn Đại cương về chính sách công
(NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013) do Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn
Hoà (Đồng chủ biên) là hai trong nhiều công trình mà tôi tiếp cận để

tìm hiểu một cách khái quát về khoa học chính sách công ở khía cạnh
lịch sử, khái niệm, bản chất...
- Công trình Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình
chính sách (NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2001) của
Lê Chi Mai đã đưa ra những quan niệm về khái niệm, bản chất, vai
2


trò... chính sách công được chấp nhận rộng rãi. Công trình này cũng đã
chỉ ra các bước của quy trình chính sách công, từ xây dựng đến triển
khai chính sách.
- Trong bài Đánh giá chính sách công ở Việt Nam: Vấn đề và
giải pháp (trên Tạp chí Cộng sản online, ngày 17-12-2012), Nguyễn
Đăng Thành đã phân tích một khâu quan trọng của quy trình chính
sách, đó là đánh giá chính sách. Trên cơ sở đó, tác giả nhận diện vấn đề
chính sách và đề xuất giải pháp.
- Trong Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, niên khoá
2011-2013, tài liệu Phân tích chính sách công: Nhập môn, Chương 3:
Cấu trúc các vấn đề chính sách của William N. Dunn đã giới thiệu bản
chất, đặc điểm, cấu trúc vấn đề chính sách. Đây là một trong những
nguồn tài liệu mà tác giả luận văn tham khảo để xây dựng phần cơ sở lý
luận.
2.2. Nghiên cứu về chính sách phát triển văn hóa
Thực tế có khá nhiều công trình nghiên cứu về văn hoá, nhưng
nghiên cứu ở khía cạnh CSVH thì không nhiều, còn nghiên cứu về vấn
đề chính sách phát triển văn hoá thì hầu như không có:
- Trong công trình Phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 20112020: Những vấn đề phương pháp luận (NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2009), Phạm Duy Đức đã bàn đến các vấn đề phương pháp luận
nghiên cứu, thực trạng và giải pháp để phát triển văn hóa, con người
Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020 căn cứ từ Chiến lược phát triển

văn hoá đến năm 2020 của nước ta với những định hướng và nhiệm vụ
được xác định cụ thể.
- Cuốn Chính sách văn hoá (Giáo trình dành cho sinh viên Đại
học và Cao đẳng các trường văn hoá - nghệ thuật, Hà Nội, 2012) đã
giới thiệu các khái niệm, đặc tính, vai trò CSVH của một số nước trên
thế giới và những vấn đề cốt yếu trong CSVH Việt Nam qua các giai
đoạn lịch sử, đặc biệt là thời kỳ đổi mới. Đây là nguồn tài liệu quan
3


trọng để tác giả luận văn xây dựng phần cơ sở lý luận của đề tài.
- Trong công trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển văn
hoá trong thời kỳ đổi mới (NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2012), tác giả Nguyễn Danh Tiên giúp người đọc có thêm tài liệu về
quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn
hóa từ năm 1986 đến nay.
- Tổng kết 15 năm thực hiện NQTƯ5 KVIII, tác giả Nguyễn Tri
Nguyên đã có bài viết: Đổi mới và hoàn thiện chính sách văn hoá (Báo
Nhân dân cuối tuần online, ngày 17-9-2013). Ở công trình này, tác giả
khẳng định vai trò của CSVH. Ông viết: “Chính sách văn hóa hiện thực
hóa được những tư tưởng cơ bản trong các nghị quyết của Đảng ta về
văn hóa, thực chất là ý chí, quan điểm và định hướng, tạo điều kiện cơ
bản để quản lý văn hóa của đất nước với tư cách là phương tiện hiệu
quả để thiết lập cuộc sống tốt đẹp đồng thời với việc phát triển một nền
sản xuất và thị trường văn hóa lành mạnh”.
- Trong cuốn Văn hoá sức mạnh nội sinh của phát triển, Phùng
Hữu Phú, Đinh Xuân Dũng (Đồng chủ biên) (NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2004), các bài viết chuyên sâu của nhiều nhà khoa học
đầu ngành về văn hoá đã đưa ra một cái nhìn khá toàn diện về những
vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới ở
nước ta; đề xuất mục tiêu, quan điểm, định hướng và giải pháp có tầm

chiến lược và tính đột phá trong việc xây dựng và phát triển văn hóa
trong giai đoạn hiện nay.
2.3. Nghiên cứu về văn hoá Đà Nẵng
Nghiên cứu về văn hoá Đà Nẵng có thể đề cập đến một số bài
viết của các nhà nghiên cứu trên Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà
Nẵng, như sau:
- Lê Hữu Ái trong công trình Đô thị hoá và các hiệu ứng văn hoá
cho sự phát triển kinh tế ở thành phố Đà Nẵng hiện nay vào năm 2011
đã chỉ ra những nét khác biệt trong lối sống của cư dân Đà Nẵng so với
4


các vùng miền khác, chịu tác động của quá trình ĐTH nhưng lối tư duy
tiểu nông (tính tuỳ tiện, tính vô tổ chức...) của người dân Đà Nẵng,
cũng như của những người nhập cư trong nước khó có thể nhanh chóng
thay đổi để phù hợp với lối sống đô thị văn minh, hiện đại; đồng thời đề
xuất biện pháp khắc phục những tồn tại trên.
- Năm 2012, Viện Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng đã tiến
hành khảo sát lấy ý kiến của người dân về thực trạng và nhu cầu sử
dụng đối với hệ thống thiết chế văn hoá thể thao trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng (2002-2012) tại 3 phường thuộc quận Hải Châu (Hoà Cường
Bắc, Bình Hiên và Thuận Phước) và 2 xã thuộc huyện Hoà Vang (Hoà
Tiến và Hoà Châu) và trên cơ sở này Huỳnh Năm và Đàm Thị Vân
Dung đã căn cứ để nhận định vấn đề trên với bài viết Hệ thống thiết chế
văn hoá cơ sở tại thành phố Đà Nẵng, thực trạng và nhu cầu qua ý kiến
của người dân và đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần xây
dựng và sử dụng có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở xã,
phường trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Năm 2014, Đỗ Thanh Tân trong bài viết Xu hướng vận động
văn hoá trong bối cảnh đô thị hoá ở Đà Nẵng hiện nay đã có những

đóng góp khi chỉ ra: Đà Nẵng trong bối cảnh ĐTH diễn ra trên diện
rộng, văn hoá thành phố đang ở vào giai đoạn đặc biệt, không ngừng
tiếp biến, văn hoá phát triển trong thời cơ và thánh thức mới (văn hoá
và lối sống đô thị, sự biến đổi của văn hoá gia đình…).
Trên đây là những công trình, bài viết đề cập đến văn hoá Đà
Nẵng trên các khía cạnh liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận văn,
tuy không trực tiếp nhưng cũng góp phần giúp tác giả tìm hiểu văn hoá
Đà Nẵng ở những nét nổi bật.
Nhìn chung, nội dung của những công trình, tài liệu nghiên cứu
trên đề cập tới những vấn đề lý luận: chính sách công, CSVH, các vấn
đề phát triển văn hóa ở Đà Nẵng (chưa khai thác dưới góc độ vấn đề
chính sách phát triển văn hoá). Đây là những nguồn tài liệu tham khảo
5


quý giá giúp tác giả kế thừa và xây dựng nên hệ thống cơ sở lý luận của
đề tài; liên hệ nghiên cứu lĩnh vực văn hoá ở hướng tiếp cận mới: vấn
đề chính sách, từ đó có thể đề xuất một số giải pháp giải quyết những
vấn đề đặt ra trong thực tiễn phát triển văn hóa ở thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
- Xác định các vấn đề chính sách từ thực tiễn phát triển văn hóa
của thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực phát hiện và đề
xuất các vấn đề chính sách phát triển văn hóa trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chính sách công,
vấn đề chính sách công, CSVH, chính sách phát triển văn hóa, chu trình

chính sách phát triển văn hoá và việc xác định vấn đề chính sách phát triển
văn hoá.Thứ hai, từ việc phân tích và đánh giá thực trạng về những bất
cập, hạn chế trong xây dựng và phát triển văn hóa trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng thời gian qua, tìm ra nguyên nhân (khách quan, chủ quan) của
các vấn đề chính sách phát triển văn hóa đó.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực phát hiện và
đề xuất các vấn đề chính sách phát triển văn hoá trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề chính sách phát
triển văn hóa từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: địa bàn thành phố Đà Nẵng
- Về thời gian: từ năm 1997 đến năm 2015
6


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
- Khoa học chính sách công: Phân tích chu trình chính sách từ
phát hiện vấn đề, xây dựng chính sách, ban hành, triển khai thực hiện,
kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả, phát hiện vấn đề và tiếp tục hoàn thiện
chính sách.
- Văn hóa học phát triển: Với nguyên lý về sự phát triển cho thấy
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của bất kỳ lĩnh vực
nào, trong đó có lĩnh vực văn hoá, con người đều tôn trọng quan điểm
phát triển. Các nhà nghiên cứu văn hoá hiện nay quan niệm rất biện
chứng khi cho rằng: văn hoá không chỉ thúc đẩy mà có khi còn cản trở
sự phát triển. Vì vậy, văn hoá về cơ bản vừa có vai trò động lực, mục

tiêu, nguồn lực nội sinh đối với phát triển kinh tế - xã hội nhưng văn
hoá cũng có thể trở thành lực cản đối với phát triển nếu nó lạc hậu, lệch
lạc, thiếu đồng bộ trong chính bản thân nó hay đối với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội nói chung.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thu thập thông tin, số
liệu từ các văn bản triển khai thực hiện, tổng kết, đánh giá, thẩm tra... của
Thành uỷ, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng, Sở
VH,TT&DL và các đơn vị liên quan về lĩnh vực văn hoá.
- Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp: Thu thập thông tin, số
liệu bằng trao đổi, phỏng vấn sâu. Phương pháp này khắc phục những
hạn chế mà các phương pháp khác mắc phải: Trao đổi với một số lãnh
đạo, quản lý lĩnh vực văn hoá ở thành phố Đà Nẵng; phỏng vấn nhà
nghiên cứu lịch sử, văn hoá có uy tín của thành phố (ông Bùi Văn
Tiếng, nguyên Trưởng Ban Tổ chức Thành uỷ Đà Nẵng, hiện là Chủ
tịch Liên hiệp Hội văn học nghệ thuật thành phố).
Ngoài ra, trong luận văn tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học xã hội như tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê...
7


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài vận dụng lý thuyết về chính sách công, cụ thể là lý thuyết
về chu trình chính sách công, trong đó có khâu xác định vấn đề chính
sách công để xác định các vấn đề chính sách phát triển văn hóa từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng; do vậy, kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng
tỏ, chứng minh và bổ sung cho các lý thuyết về chính sách công, đưa ra
lý luận về khái niệm chính sách công, vấn đề chính sách công và chính
sách phát triển văn hóa.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Nghiên cứu vấn đề chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng sẽ làm rõ những thuận lợi, khó khăn, những tồn tại,
hạn chế trong thực thi đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về
văn hoá ở cấp địa phương. Từ đó, giúp các nhà hoạch định chính sách
(của địa phương, Trung ương) xác định các vấn đề chính sách, các mục
tiêu, giải pháp công cụ giải quyết các vấn đề chính sách nhằm phát triển
lĩnh vực văn hoá, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
- Ngoài ra, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những
người nghiên cứu, tìm hiểu chính sách phát triển văn hóa, các vấn đề
chính sách phát triển văn hoá trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 03 chương, không kể phần mở đầu, kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1. Lý luận về vấn đề chính sách phát triển văn hoá
Chương 2. Thực trạng xây dựng, ban hành, thực hiện chính sách
phát triển văn hoá từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1997-2015
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao năng lực phát hiện và đề
xuất các vấn đề chính sách phát triển văn hoá trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng

8


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ
1.1. Khái niệm công cụ
1.1.1. Chính sách công, vấn đề chính sách công và vấn đề
chính sách phát triển văn hoá

- Chính sách công
“Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên
quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể và giải pháp thực
hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác
định” (Đỗ Phú Hải, Học viện Khoa học xã hội, 2012).
“Chính sách công là những quyết định hành động của các cơ
quan thuộc Nhà nước tác động đến các hiện tượng tồn tại trong quá
trình vận động, phát triển của xã hội để đạt được các mục tiêu nhất
định”.
- Vấn đề chính sách công
Vấn đề chính sách công là một bộ phận của vấn đề xã hội, là vấn
đề cần được trả lời và là mâu thuẫn cần phải giải quyết hoặc đang trong
quá trình giải quyết về mặt chính sách của Nhà nước trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội...) hay nói cách
khác thì đây là những nhu cầu trong tương lai của đời sống xã hội cần
được đáp ứng, cần đạt được về mặt chính sách của Nhà nước.
- Vấn đề chính sách phát triển văn hoá
Vấn đề chính sách phát triển văn hoá được hiểu là một bộ phận
của các vấn đề xã hội dùng để chỉ những mâu thuẫn nảy sinh trong quá
trình phát triển văn hoá hay những nhu cầu về văn hoá mà người dân
cần được giải quyết, đáp ứng bằng chính sách của Nhà nước.
1.1.2. Chính sách văn hóa và chính sách phát triển văn hoá
- Chính sách văn hoá
9


Định nghĩa của các chuyên gia văn hoá tại Monaco năm 1967 và
của UNESCO cuối thế kỷ XX: “Chính sách văn hoá là một hệ thống các
nguyên tắc, các thực hành của nhà nước trong lĩnh vực văn hoá nhằm
phát triển và quản lý thực tiễn đời sống văn hoá theo những quan điểm

phát triển và cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển đời sống
văn hoá tinh thần của nhân dân trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất
và tinh thần sẵn có của xã hội” [28, tr.21].
- Chính sách phát triển văn hóa
“Chính sách phát triển văn hoá là một hệ thống các quyết định
thực hành của nhà nước trên lĩnh vực văn hoá, có những quan điểm và
có cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá tinh thần,
vật chất của người dân trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất, tinh
thần sẵn có của xã hội và cả sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới tiên
tiến đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về hưởng thụ và sáng tạo văn hoá
của người dân”.
1.2. Chu trình chính sách phát triển văn hóa và việc xác định
vấn đề chính sách phát triển văn hoá
1.2.1. Chu trình chính sách phát triển văn hoá
a) Xác định vấn đề chính sách văn hoá
Xác định vấn đề chính sách văn hoá là giai đoạn khởi đầu nằm
trong chu trình chính sách phát triển văn hoá, bao gồm từ bước khởi
đầu phát hiện ra những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển
văn hoá hay những nhu cầu về văn hoá mà người dân cần được giải
quyết, đáp ứng bằng chính sách.
b) Xây dựng chính sách phát triển văn hoá
Chính sách PTVH ở nước ta được xây dựng bởi các cơ quan hay
các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước theo yêu cầu của xã hội, của
nhân dân, là sản phẩm của quá trình thực thi quyền lực chính trị.
c) Ban hành chính sách phát triển văn hoá
Trong những năm qua, đã có một số bộ Luật về văn hóa đã được
10


ban hành, các cơ quan Chính phủ xây dựng các Nghị định hướng dẫn

thực hiện luật; các Bộ soạn thảo và ban hành các thông tư - tạo môi
trường pháp lý thuận lợi để thực hiện chính sách. Ở cấp địa phương,
Thành uỷ, Tỉnh Uỷ, các Sở VH, TT&DL… có thể xây dựng, ban hành
các văn bản hành chính phù hợp với thẩm quyền của mình nhằm cụ thể
hoá chủ trương, đường lối, chính sách văn hoá của Đảng, Nhà nước
thành văn bản pháp quy.
d) Đánh giá chính sách văn hoá
Đánh giá chính sách công nói chung, CSVH nói riêng là khâu rất
quan trọng nhưng thường ít được quan tâm. Sau khi chính sách phát
triển văn hoá được thực hiện, Chính phủ tổ chức điều tra khách quan
đối với những đối tượng hưởng lợi, các đối tượng chịu tác động trực
tiếp từ CSVH và đánh giá kết quả thực hiện chính sách.
1.2.2. Xác định vấn đề chính sách phát triển văn hoá
Xác định vấn đề chính sách phát triển văn hóa là khâu mấu chốt
trong toàn bộ chu trình chính sách phát triển văn hoá. Yêu cầu cao nhất
của khâu này là khả năng nhìn ra vấn đề phụ thuộc ở năng lực nhận
thức, biểu đạt nó cũng như cơ chế nêu vấn đề để vấn đề văn hoá trở
thành chính sách.
Xác định vấn đề và đề xuất chính sách phát triển văn hoá được
thực hiện theo các bước sau:
- Tổng quan vấn đề: Tổng quan rõ ràng về các tồn tại, hạn chế, trở
ngại, khó khăn, vướng mắc trong đời sống kinh tế - xã hội dưới tác động
của đường lối, pháp luật, CSVH cần được giải quyết bằng chính sách.
- Xác định quy mô, mức độ nghiêm trọng của vấn đề: Nghiên cứu
thực tiễn để xác định quy mô, mức độ nghiêm trọng của các vấn đề đó
để định rõ phạm vi và mức độ can thiệp của chính sách.
- Trình bày vấn đề: Trình bày một cách rõ ràng, nội dung đầy đủ
các phần (mô tả vấn đề, nguyên nhân gây ra, phân tích bản chất vấn
đề).
- Đề xuất phương án chính sách: Đề xuất các phương án chính

11


sách.
- Phân tích chính sách: Phân tích để lựa chọn chính sách nào là
cần thiết nhất, phù hợp nhất.
- Đề xuất chính sách: Hoàn thiện phương án tối ưu và đề xuất
việc ban hành chính sách.
1.3. Đặc điểm và những nhân tố tác động đến chính sách phát
triển văn hoá
1.3.1. Đặc điểm của chính sách phát triển văn hoá
Tính chất cơ bản: Tính cưỡng chế (của quyền lực công - tức nhà
nước), tính thứ bậc (do tính thứ bậc của tổ chức nhà nước), tính mục
tiêu (do tính mục tiêu của quyền lực chính trị)…
Tính giai cấp (chính sách đó phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm
quyền), tính dân tộc (phù hợp với đặc điểm lịch sử, văn hoá, tâm lý…
dân tộc)…
1.3.2. Những nhân tố tác động đến chính sách phát triển văn
hoá
* Tác động của toàn cầu hoá
Cơ hội: Tiếp thu tinh hoá văn hoá nhân loại, làm phong phú văn
hoá dân tộc; quảng bá đất nước, con người, văn hoá Việt Nam.
Thách thức: Dễ lai căng văn hoá ngoại lai, nguy cơ bị nhất thể
hóa về văn hóa; mai một các giá trị bản sắc văn hoá dân tộc…
* Tác động của kinh tế thị trường
Cơ hội: Văn hoá phát triển trong môi trường cạnh tranh, năng
động hơn, trình độ hưởng thụ văn hoá của người dân ngày càng được
nâng lên; xã hội hoá hoạt động văn hoá…
Thách thức: Tác động của mặt trái kinh tế thị trường làm biến
đổi các giá trị truyền thống văn hoá dân tộc; gây khó khăn cho hoạt

động quản lý, phân cực, phân tầng trong hưởng thụ văn hoá.
* Tác động của quá trình CNH, HĐH, ĐTH
Cơ hội: hiện đại hoá cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động
12


văn hoá; học hỏi thành tựu, kinh nghiệm, hoạt động quản lý văn hoá
tiên tiến…
Thách thức: làm mờ nhạt, biến dạng các giá trị bản sắc văn hoá
truyền thống; quản lý về nội dung thông tin (mạng xã hội)…
* Tác động của xu hướng tìm về cội nguồn và đời sống tâm linh
Cơ hôi: các di sản văn hoá dân tộc được quan tâm, bảo tồn; chủ
nghĩa yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng… được giữ gìn, phát huy;
các giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống tốt đẹp được kế thừa, phát huy.
Thách thức: khơi dậy các lễ hội, phong tục… đã lỗi thời, lạc hậu,
mê tín dị đoan; khơi dậy tư tưởng dân tộc hẹp hòi, phá vỡ khối đại đoàn
kết dân tộc…
Tiểu kết chƣơng 1
Tìm hiểu khái quát những khái niệm cơ bản (chính sách công,
vấn đề chính sách công…), đưa ra quan niệm về các khái niệm (chính
sách công, chính sách phát triển văn hoá); xây dựng chu trình chính
sách phát triển văn hoá và xác định vấn đề chính sách phát triển văn
hoá; tìm hiểu đặc điểm và những nhân tố tác động đến chính sách phát
triển văn hoá; xác định thực trạng và nguyên nhân các vấn đề chính
sách phát triển văn hoá từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng trong những
năm vừa qua (giai đoạn 1997-2015).
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG, BAN HÀNH, THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG GIAI ĐOẠN 1997-2015

2.1. Các nhân tố chủ yếu tác động và tình hình thực hiện
chính sách phát triển văn hoá ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn 19972015
2.1.1. Các nhân tố chủ yếu tác động đến quá trình hoạch định
chính sách phát triển văn hoá ở thành phố Đà Nẵng
13


- Nhân tố khách quan
Nhân tố kinh tế: Tăng trưởng kinh tế ổn định tạo nền tảng, điều
kiện và tiền đề cho phát triển văn hoá (cung cấp các yếu tố vật chất, kỹ
thuật và tài chính).
Nhân tố về chính trị:
Nhân tố chính trị tức nói đến bản chất chính trị, lý tưởng chính
trị, trình độ chính trị của đội ngũ lãnh đạo Đảng, chính quyền; trực tiếp
là Sở VH, TT&DL; ý thức chính trị của người dân.
- Nhóm nhân tố về văn hoá - xã hội:
Thành phố đã có những chính sách phát huy sự đa dạng về văn
hóa trí tuệ, về tư duy sáng tạo..; sự đóng góp của hoạt động nghiên cứu
khoa học và công nghệ nhằm nâng cao năng lực quản lý, xây dựng…
CSVH.
- Về chủ quan
Quan điểm, hệ thống giá trị cá nhân của người làm chính sách
(thành kiến, kinh nghiệm, tri thức) tác động trực tiếp, chi phối quy trình
hoạch định chính sách phát triển văn hoá.
2.1.2. Tình hình thực hiện chính sách phát triển văn hoá ở
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1997-2015
2.1.2.1. Những chính sách phát triển văn hoá chủ yếu của
thành phố Đà Nẵng được ban hành và thực hiện trong giai đoạn
1997- 2015
Trong những năm qua, Đà Nẵng đã xây dựng, ban hành nhiều

chính sách văn hóa và những chính sách đó đã và đang đi vào thực tiễn,
đem lại những hiệu quả nhất định.
2.1.2.2. Hiệu quả của những chính sách phát triển văn hoá của
thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 1997-2015
- Tư tưởng, trí tuệ và nhân cách con người thành phố Đà Nẵng
từng bước được xây dựng và hoàn thiện; môi trường văn hóa lành
mạnh, nếp sống văn hoá, văn minh đô thị được định hình
14


Hiệu quả của Chương trình “5 không, 3 có” 1; cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở”; triển khai thực
hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”... tạo nên một phong trào thi đua yêu nước rộng khắp, bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.
- Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa - lịch
sử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có nhiều tiến bộ
Đến năm 2015, trên địa bàn thành phố đã có 18 di tích cấp quốc
gia, 47 di tích cấp thành phố và 40 di tích nằm trong danh mục kiểm kê2.
Công tác quản lý, bảo tồn, trung tu, tôn tạo di tích của thành phố
Đà Nẵng về cơ bản thực hiện tốt, đã có sự phân cấp quản lý, bảo vệ di
tích; công tác nghiên cứu, sưu tầm cũng được quan tâm; một số làng
nghề, lễ hội tiêu biểu được tổ chức quy hoạch và tạo điều kiện thuận lợi
để duy trì và phát triển.
- Văn học - nghệ thuật thành phố Đà Nẵng có bước phát triển
đáng kể
Thành phố tạo điều kiện để đội ngũ văn nghệ sỹ có những sáng
tác chất lượng; công tác đào tạo, bồi dưỡng hội viên về nhận thức chính
trị, tư tưởng, thẩm mỹ luôn được các cấp, các ngành và Liên hiệp các
Hội văn học - nghệ thuật quan tâm; Các sáng tác, các tác phẩm có chất

lượng được xét khen thưởng và trao giải;...
2.2. Thực trạng và nguyên nhân của các vấn đề chính sách
phát triển văn hoá đặt ra từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng giai đoạn
1997-2015
2.2.1. Văn hoá thành phố vẫn chưa được đầu tư phát triển
tương xứng với kinh tế và nhu cầu thụ hưởng của người dân
2.2.1.1. Thực trạng
Ngân sách thành phố bố trí từ nguồn vốn xây dựng cơ bản đầu tư
1

“5 không”: Không có hộ đói; Không có người lang thang, xin ăn; Không có người mù
chữ; Không có giết người để cướp của; Không có người nghiện ma túy ở cộng đồng. “3
có”: Có nhà ở; Có việc làm; Có nếp sống văn hoá văn minh đô thị.
2
Sở VH, TT&DL, Báo cáo kết quả hoạt động ngành VH, TT&DL năm 2015 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2016, tháng 11/2015, tr.4.

15


cho ngành văn hoá là ít, quá khiêm tốn so với vị trí của một thành phố
lớn, trong giai đoạn 2005-2015 đầu tư cho văn hoá từ ngân sách thành
phố là 523,514 tỷ đồng (trung bình 47,6 tỷ đồng/năm), mức đầu tư
trước đó (từ năm 2005 về năm 1997) cũng ở mức trung bình hoặc thấp
hơn. Mức đầu tư đó ở những năm gần đây giảm dần so với những năm
trước (năm 2010 là 113.069 triệu đồng; năm 2011 là 51.754 triệu đồng;
năm 2013 là 15.201 triệu đồng, năm 2014 là 30.077 triệu đồng), trong
khi đó tổng chi ngân sách cho đầu tư phát triển của thành phố qua các
năm trung bình từ 3.000-7.000 tỷ đồng, mức chi cho lĩnh vực văn hoá
chỉ chiếm khoảng 0,9% ngân sách, năm 2010 cũng mới chỉ đạt 1.02%;

thấp hơn so với yêu cầu của Trung ương với mục tiêu đặt ra tại Hội
nghị lần thứ 10, BCH TƯ Đảng khóa IX là tăng đầu tư cho văn hóa,
phấn đấu đến năm 2010 các địa phương đạt ít nhất là 1.8%3.
Hiện tại, kinh phí cấp cho sự nghiệp văn hoá dựa trên định mức
theo dân số. Trong khi dân số thành phố Đà Nẵng ít, nhưng các hoạt
động và tổ chức bộ máy của ngành văn hoá lớn do đó kinh phí không
đủ để thực hiện các nội dung hoạt động trong năm.
Do ngân sách thành phố bố trí từ nguồn vốn xây dựng cơ bản đầu
tư cho ngành văn hoá thấp nên cơ sở vật chất văn hoá ở cấp thành phố
vẫn chưa được quan tâm, đầu tư tương xứng.
Đặc biệt, hiện thành phố vẫn còn thiếu một số thiết chế văn hoá
quan trọng, như Quảng trường Trung tâm, Nhà hát Trung tâm, nhiều
công viên cho thành phố.
Đà Nẵng với chiều dài bờ biển khoảng 34 km (tính theo mép
nước là 89 km) với một bề dày về văn hoá biển khá độc đáo thì việc
thành lập Bảo tàng Hải Dương học là việc làm cần thiết.
Hệ thống thiết chế Trung tâm Văn hoá - Thể thao quận, huyện
trên địa bàn thành phố vẫn còn không ít những bất cập, hạn chế.
Hệ thống thiết chế văn hoá cơ sở (gồm cấp: xã, phường, thị trấn
3

Theo Kết luận số 30-KL/TW ngày 20/7/2004 của BCHTƯ.

16


và thôn bản) của Đà Nẵng hiện nay chưa được xây dựng đầy đủ, nhiều
nơi trong tình trạng xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng chưa
cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân. Mạng lưới thư viện cơ
sở chưa đảm bảo và chưa hoạt động tốt.

Khảo sát hệ thống thiết chế văn hoá tại 2 quận trung tâm của
thành phố là Hải Châu và Thanh Khê, tác giả luận văn chỉ ra những
tồn tại trên.
Tóm lại, thực trạng trên cho thấy một vấn đề đặt ra rất bức xúc
lâu nay đối với sự nghiệp văn hoá của Đà Nẵng: Kinh phí đầu tư thấp,
khâu quy hoạch chưa hợp lý, hệ thống thiết chế văn hoá, đặc biệt là
thiết chế văn hoá cơ sở vừa thiếu, nhiều nơi trong tình trạng xuống cấp,
chắp vá, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp4. Vì vậy, vấn đề chính
sách đặt ra trong quá trình phát triển văn hoá hiện nay của thành phố Đà
Nẵng là cần xây dựng và ban hành chính sách về tăng và ổn định mức
đầu tư cho văn hoá của thành phố tương xứng với đầu tư cho phát triển
kinh tế và nhu cầu người dân.
2.2.1.2. Nguyên nhân
- Một số cấp uỷ, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thật sự
quán triệt sâu sắc vai trò, mục tiêu và động lực của văn hóa trong tiến
trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội.
- Công tác lập quy hoạch, kế hoạch xây dựng và phát triển văn
hoá nói chung của thành phố còn hạn chế, chưa có một đề án tổng thể
mang tính chiến lược lâu dài.
- Kinh phí đầu tư dành cho văn hoá của thành phố vừa thiếu vừa
hạn chế, đặc biệt chưa dành đủ nguồn kinh phí đầu tư xây dựng, hoàn
thiện và đưa vào hoạt động tốt hệ thống thiết chế văn hoá cơ sở.

4

Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng (2012), Báo cáo Quy hoạch tổng thể

phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2020.

17



- Nguyên nhân từ những hạn chế, yếu kém trong đội ngũ cán bộ
và công tác cán bộ là nguyên nhân của mọi nguyên nhân.
2.2.2. Đô thị hoá đã làm biến đổi mạnh mẽ văn hoá và lối sống
của cư dân Đà Nẵng
2.2.2.1 Thực trạng
Đối với cư dân bản địa, ĐTH làm văn hoá truyền thống bị mai
một dần, , những yếu tố tiêu cực như: sự tuỳ tiện, tính vô tổ chức, đề
cao kinh nghiệm thái quá so với tri thức khoa học… thì khó có thể một
sớm một chiều thay đổi được.
Sự biến đổi văn hoá ở Đà Nẵng dưới tác động của người nhập cư
trong nước: với những nếp nghĩ, lối sống cũ mang theo, như: lối sống
bừa bộn, xả rác nơi công cộng, thích quần tụ một nơi, lập hội đồng
hương; tuy nhiên ý thức cố kết cộng đồng đó chỉ giới hạn trong một
phạm vi nhất định vì vậy ít nhiều tạo nên những rào cản, sự khu biệt
trong đoàn kết rộng rãi hơn giữa người bản địa và người nhập cư.
Sự biến đổi văn hoá thành phố trước sự tác động của văn hoá
ngoại quốc và người nhập cư nước ngoài: sự biến đổi văn hoá và lối
sống trong cư dân thành phố, đặc biệt giới trẻ hiện nay thật sự đáng lo
ngại khi mà văn hoá ngoại lai đang dần xâm chiếm, văn hoá truyền
thống đang thiếu bền vững.
Mặt trái của kinh tế thị trường tác động đến người dân Đà Nẵng,
đặc biệt là giới trẻ, đó là lối sống thực dụng, ích kỷ, đề cao cuộc sống
hưởng thụ, cổ xuý cho tư tưởng tự do phát triển cá nhân… đang hình
thành trong giới trẻ thành phố là mối nguy cơ làm mai một, xói mòn
nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của cha ông.
Quá trình ĐTH của thành phố Đà Nẵng cũng đã và đang làm
cho các mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng biến đổi, sự
biến đổi về cơ cấu, dẫn đến sự biến đổi về văn hoá và lối sống của gia

đình: Ở nội thành hay ngay cả ngoại thành, bữa cơm gia đình sum họp
ấm cúng thưa dần, người già trở nên cô đơn hơn, trẻ nhỏ thì thiếu sự
18


quan tâm đủ đầy, chủ yếu về mặt tinh thần.
Về quan hệ làng xóm, láng giềng ở Đà Nẵng hiện nay các gia
đình ở nội đô có xu hướng “kín cổng cao tường”, “đèn nhà ai nấy
sáng”,…
Đô thị hoá đã làm biến đổi mạnh mẽ văn hoá và lối sống của cư
dân Đà Nẵng đã và đang là vấn đề chính sách đặt ra trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, quá trình ĐTH của thành phố.
2.2.2.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, do tác động của kinh tế thị trường, mặt trái của kinh tế
thị trường đã tác động làm biến dạng văn hoá và lối sống của người dân
Đà Nẵng: lối sống thực dụng cao độ, kiếm tiền bằng mọi giá, chủ nghĩa
cá nhân vị kỷ…
Thứ hai, do sự tác động của văn minh công nghiệp khiến con
người ta quấn vào nhịp sống gấp gáp, ngày càng xa cách trong cuộc
sống tinh thần.
Thứ ba, ảnh hưởng của toàn cầu hoá, tệ nạn xã hội và tội phạm
có xu hướng gia tăng, sự lo ngại về mất bản sắc, sự đồng hoá về văn
hoá và sự huỷ hoại những giá trị văn hoá địa phương, văn hoá dân tộc
cũng là những nguyên nhân làm biến đổi văn hoá.
Tiểu kết chƣơng 2:
Ở chương 2, tác giả triển khai, giải quyết các nội dung: Xác định
các nhân tố chủ yếu tác động đến quá trình hoạch định chính sách phát
triển văn hoá ở Đà Nẵng và những thành tựu nổi bật trong phát triển
văn hoá của Đà Nẵng. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mạnh, tích cực,
những thành tựu đạt được thì văn hoá thành phố vẫn còn tồn tại một số

bất cập, hạn chế, yếu kém kéo dài, tác động cản trở sự phát triển, đó là:
văn hoá thành phố vẫn chưa được đầu tư phát triển tương xứng với kinh
tế và nhu cầu thụ hưởng của người dân; ĐTH đã làm biến đổi mạnh mẽ
văn hoá và lối sống của cư dân Đà Nẵng.
Sau khi nhận diện và đề xuất các vấn đề chính sách từ thực tiễn
19


phát triển văn hoá của địa phương tác giả mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp nâng cao năng lực phát hiện và đề xuất các vấn đề chính sách phát
triển văn hoá của thành phố.
CHƢƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC PHÁT HIỆN VÀ
ĐỀ XUẤT CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN
HOÁ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1. Mục tiêu về chính sách phát triển văn hoá của thành phố
Đà Nẵng đến năm 2020, tầm nhìn 2030
3.1.1. Mục tiêu tổng quát
Từng bước xây dựng văn hóa, con người Đà Nẵng phát triển toàn
diện. 3.1.2. Mục tiêu cụ thể
3.1.2.1. Ban hành Kế hoạch tăng đầu tư cho lĩnh vực văn hoá,
phát triển hệ thống thiết chế văn hoá, đặc biệt là thiết chế văn hoá cơ
sở giai đoạn 2015 - 2020, tầm nhìn 2030
- Đảm bảo ngân sách thành phố bố trí hàng năm trong giai đoạn
2016 đến 2020 cho ngành Văn hóa đạt ít nhất 1,8% so với tổng chi
ngân sách thành phố.
- Đầu tư quy hoạch, xây dựng, nâng cấp các công trình văn hóa
quy mô lớn; đồng thời đầu tư, hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hoá cơ
sở.
- Xây dựng các quy định, quy chế mới, phù hợp cho hoạt động

của hệ thống thiết chế văn hoá.
3.1.2.2. Ban hành Đề án chống biến đổi văn hoá và lối sống của
cư dân thành phố, đặc biệt trong giới trẻ đến năm 2030
- Thực hiện điều tra, khảo sát về văn hoá và lối sống của cư dân
thành phố.
- Tăng cường thực hiện kiểm kê, kiểm duyệt các sản phẩm công
20


nghiệp văn hoá, dịch vụ...
- Đầu tư kinh phí xây dựng các mô hình, các phong trào, các
cuộc thi tìm hiểu văn hoá và lối sống.
3.2. Một số giải pháp nâng cao năng lực phát hiện và đề xuất
các vấn đề chính sách phát triển văn hoá trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng trong thời gian sắp tới
3.2.1. Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nhằm tạo ra nguồn
lực, môi trường để tăng đầu tư cho phát triển văn hoá thành phố
Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội là giải pháp có tính chất nền
tảng, tạo động lực thúc đẩy việc thực hiện các giải pháp khác. Kinh tế
tăng trưởng nhanh, bền vững tạo cho ngân sách thành phố một nguồn
thu dồi dào, ổn định để đầu tư cho văn hoá.
- Đầu tưu ngân sách cho hoạt động điều tra, khảo sát, đánh giá
thực trạng, hiệu quả CSVH đã ban hành.
- Ngoài ra, nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, lịch sử địa phương
để tìm ra lợi thế so sánh, đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán, tâm
lý…
- Chú trọng đầu tư trang thiết bị đồng bộ, hiện đại cho công tác
quản lý, công tác hoạch định CSVH...
- Ngoài chế độ tiền lương theo quy định chung của Trung ương,
Thành phố có biện pháp cải cách chế độ thu nhập hợp pháp để cải thiện

đời sống cho cán bộ, công chức ngành văn hoá.
3.2.2. Kiện toàn cơ chế chính sách công nói chung, cơ chế
chính sách văn hoá nói riêng
Đây là giải pháp nhằm tạo ra môi trường, điều kiện để thúc đẩy
việc thay đổi về chất của chu trình CSVH.
- Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế hợp tác giữa cơ quan khoa học
và nhà hoạch định chính sách.
- Ngoài chế độ báo cáo trong cơ quan nhà nước, Đảng, cần xây
dựng cơ chế thông tin rộng rãi những vấn đề CSVH.
21


- Thể chế hoá bằng văn bản quy trình chế độ hoạt động “hiến kế”
của các tổ chức, cá nhân.
- Đẩy mạnh phân cấp quản lý để nâng cao tính chủ động, sáng
tạo của từng ngành, từng cấp; đề cao trách nhiệm cá nhân, đặc biệt
những người đứng đầu trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
- Thể chế hoá bằng văn bản việc phân công, phân nhiệm giải
quyết các vấn đề cơ bản của CSVH.
- Thể chế hoá quy trình hoạch định chính sách, ràng buộc trách
nhiệm cá nhân làm chính sách đối với chính sách được ban hành.
- Thể chế hoá hoạt động giám sát, phản biện của các tổ chức
chính trị - xã hội, các hội quần chúng.
3.3.3. Nâng cao nhận thức của lãnh đạo Đảng, chính quyền
thành phố về tầm quan trọng của văn hoá, chính sách văn hoá đối
với sự phát triển bền vững của thành phố
Giải pháp nâng cao nhận thức của lãnh đạo Đảng, chính quyền
thành phố về tầm quan trọng của văn hoá, CSVH đối với sự phát triển
bền vững của thành phố là mấu chốt tạo ra bước đột phá ngay từ bước
định hướng phát triển.

- Quán triệt nhiệm vụ xây dựng văn hoá và con người Việt Nam
trong giai đoạn cách mạng mới.
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong hệ thống
chính trị từ thành phố đến cơ sở nhằm nâng cao kiến thức (chuyên môn
và nghiệp vụ) về văn hóa, nắm vững vai trò của văn hoá, CSVH đối với
phát triển.
3.3.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá đáp ứng
yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ và thực tiễn phát triển văn hoá
của thành phố
- Thu hút nguồn nhân lực văn hoá (các nhà nghiên cứu, chuyên
gia...).
- Công tác tuyển chọn, bố trí cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn
22


hoá phải phù hợp trong từng lĩnh vực, đúng chuyên ngành. Đổi mới
công tác đánh giá cán bộ, có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ,… cho cán bộ làm công tác văn hoá.
3.3.5. Tạo điều kiện để người dân - đối tượng chấp hành, cũng
như thụ hưởng các chính sách văn hoá tham gia vào quá trình hoạch
định chính sách
- Xây dựng khung pháp lý bảo đảm sự tham gia của người dân
trong việc ra quyết định.
- Tăng cường các biện pháp giáo dục, có chính sách đẩy nhanh,
đẩy mạnh việc nâng cao hơn nữa trình độ văn hoá cho người dân, đặc
biệt là kiến thức pháp luật, xã hội.
- Tổ chức thường xuyên việc công khai minh bạch hoá thông tin,
đặc biệt là những thông tin về vấn đề chính sách phát triển văn hoá.
- Tăng cường việc đối thoại hai chiều và nhiều chiều giữa bộ

phận quản lý các đề án chính sách với người dân trong việc giải quyết
các vấn đề chính sách.
- Đối với bản thân đối tượng thi hành chính sách - người dân cần
thiết phải tự trang bị cho mình những điều rất cơ bản để có thể đạt được
quyền làm chủ trong hoạch định chính sách công nói chung, CSVH nói
riêng: trau dồi tình cảm đạo đức tốt đẹp, cương quyết đấu tranh chống
lại thói hư tật xấu, cái ác trong đời sống xã hội...
Tiểu kết chƣơng 3
Hệ giải pháp nêu trên cũng đã đề cập những khía cạnh rất cơ bản
thuộc về nhận thức của Đảng, cơ chế chính sách, con người, mối quan
hệ phối hợp hoạt động,… Tuy nhiên, để thật sự phát huy tác dụng, mỗi
giải pháp cần được cụ thể hoá ở rất nhiều các biện pháp, phối kết hợp
thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ.

23


×