Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Chính sách phát triển truyền thông từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.71 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG VĂN NỞ

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN TRUYỀN THÔNG
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HA NỘI, năm 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TRUYỀN
THÔNG ............................................................................................................ 8
1.1. Khái niệm chính sách truyền thông............................................................ 8
1.2. Vấn đề chính sách truyền thông ............................................................... 11
1.3. Giải pháp và công cụ của chính sách truyền thông.................................. 17
1.4. Chủ thể chính sách truyền thông .............................................................. 20
1.5. Thể chế chính sách truyền thông.............................................................. 21
1.6. Những nhân tố tác động đến chính sách truyền thông ............................. 23
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN TRUYỀN
THÔNG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .............................. 39
2.1. Các vấn đề, mục tiêu, chủ thể và thể chế phát triển truyền thông từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng................................................................................... 39
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách truyền thông thành phố Đà Nẵng . 45
2.3. Thực trạng triển khai thực hiện các giải pháp và công cụ chính sách
truyền thông thành phố Đà Nẵng .................................................................... 55


CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
TRUYỀN THÔNG Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG HIỆN NAY .................. 62
3.1. Nhu cầu, mục tiêu, định hướng hoàn thiện chính sách truyền thông....... 62
3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách truyền thông ở thành phố Đà Nẵng... 67
3.3. Kiến nghị .................................................................................................. 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH-HĐH

: Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa

CNTT

: Công nghệ thông tin

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CPĐT

: Chính phủ điện tử

Internet

: Mạng thông tin quốc tế


KT-XH

: Kinh tế- xã hội

TT&TT

: Thông tin và Truyền thông

TMĐT

: Thương mại điện tử

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Truyền thông có ảnh hưởng rất lớn đến mọi vấn đề của xã hội. Truyền
thông tác động đến nhận thức của công chúng, từ nhận thức sẽ tác động đến
hành động và ứng xử của công chúng. Khi mà một ứng xử của công chúng
được lặp đi lặp lại sẽ thành nề nếp, tập quán cuối cùng trở thành những chuẩn
mực của xã hội. Nhờ đến truyền thông mà những vấn đề này được xã hội chấp
nhận và lan truyền nhanh trong công chúng.
Truyền thông có tác động đến các nhóm đối tượng như sau:

Đối với chính quyền nhà nước:
Giúp các cơ quan nhà nước đưa thông tin đến người dân về các chính
sách kinh tế, văn hóa xã hội, luật pháp đến với dân chúng, thuyết phục công
chúng thay đổi về nhận thức và hành xử đúng pháp luật. Ngoài ra chính phủ
cũng nhờ truyền thông để thăm dò lấy ý kiến của dư luận trước khi ban hành
các văn bản pháp lý. Nhờ truyền thông mà nhà nước điều chính các chính
sách quản lý của mình và tạo ra sự đồng thuận cao trong dân chúng.
Truyền thông làm cho chính phủ, những người thừa hành pháp luật
được trong sạch và minh bạch hơn, thông qua thông tin phản biện của các đối
tượng dân chúng trong xã hội.
Đối với công chúng:
Giúp cho người dân cập nhật thông tin kinh tế văn hóa xã hội, pháp luật
trong và ngoài nước. Giúp người dân giải trí và học tập về phong cách sống
những người xung quanh. Truyền thông ủng hộ cái đẹp và bài trừ cái xấu.
Truyền thông đóng vai trò trong việc tạo ra các xu hướng về lối sống, văn
hóa, thời trang…

1


Ngoài ra truyền thông còn giúp cho người dân phản hồi, nói lên tiếng
nói của mình, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Đối với nền kinh tế:
Nhờ có truyền thông mà doanh nghiệp có thể quảng bá sản phẩm và
dịch vụ, giúp cho người mua nhận biết và sử dụng sản phẩm và dịch vụ.
Truyền thông cũng tạo ra nhu cầu tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ, giúp các
công ty tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người, giúp kinh tế phát triển.
Bản thân truyền thông cũng là một ngành kinh tế quan trọng của một
quốc gia, giải quyết công ăn việc làm và tạo ra giá trị cho nền kinh tế.
Truyền thông cũng là công cụ giúp cho người tiêu dùng phản ánh về

chất lượng sản phẩm và dịch vụ của các nhà sản xuất.
Tính 2 mặt của truyền thông:
Truyền thông cũng có tính 2 mặt của nó nếu thông tin, hình ảnh truyền
đi mang tính tiêu cực, thì tác động của truyền thông cũng tạo ra những ảnh
hưởng tiêu cực cho các đối tượng công chúng trong xã hội. Nhất là những đối
tượng thanh thiếu niên, những đối tượng có trình độ nhận thức còn thấp,
không có khả năng chắt lọc thông tin, nếu thông tin từ truyền thông tiêu cực
thì dễ bị lôi kéo và có những tác động tiêu cực cho bản thân và cho cộng đồng
xã hội.
Trong kinh tế, truyền thông tác động đến tiêu dùng của người dân giúp
người dân tiêu dùng nhiều hơn, giúp kinh tế phát triển. Tuy nhiên, truyền
thông cũng tác động đến việc con người ngày càng tiêu dùng nhiều hơn so với
nhu cầu cần thiết. Con người ngày càng làm việc nhiều hơn để phục vụ cho
các nhu cầu tiêu dùng. Các giá trị vật chất ngày càng được xã hội đánh giá
cao hơn các giá trị tinh thần. Sản xuất và tiêu dùng nhiều sẽ hủy diệt môi
trường và tác động xấu đến đời sống của người dân.

2


Sau 20 chia tách từ tỉnh Quảng Nam và trở thành thành phố trực thuộc
Trung ương (1997), Đà Nẵng hiện nay là một trong những trung tâm báo chí
lớn của cả nước (sau Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh). Hiện Đà
Nẵng có 08 cơ quan báo chí địa phương với 07 ấn phẩm, 04 kênh truyền hình,
01 kênh phát thanh, 01 báo điện tử hoạt động thường xuyên; 01 ấn phẩm đặc
san (04 kỳ/năm); 05 Đài Truyền thanh cấp quận, huyện và 17 bản tin với 118
kỳ/năm.
Về cơ quan báo chí Trung ương và các địa phương khác hoạt động trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng, có: 07 cơ quan báo chí Trung ương đóng tòa
soạn; 71 cơ quan báo chí Trung ương đặt văn phòng đại diện; 23 cơ quan báo

chí Trung ương và địa phương cử phóng viên thường trú (trong đó có 06 cơ
quan báo chí cử phóng viên thường trú nhưng chưa đáp ứng đủ các điều kiện
theo quy định của pháp luật về báo chí).
Về truyền hình trả tiền: Đà Nẵng hiện có 08 doanh nghiệp hoạt động truyền
hình trả tiền với 183.622 thuê bao, trong đó Truyền hình cáp Sông thu chiếm tỷ lệ
lớn (65%) với 120.059 thuê bao (số liệu cập nhật đến tháng 6 năm 2015).
Trong khuôn khổ luận văn này, tôi chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá
08 cơ quan báo chí thuộc thành phố Đà Nẵng để làm rõ chính sách phát triển
truyền thông từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
Theo đó, trong thời gian qua, các cơ quan báo chí của thành phố Đà Nẵng
hoạt động đúng tôn chỉ mục đích, đúng định hướng của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, góp phần quan trọng trong xây dựng và phát triển thành phố.
Nhịp sống hiện đại cũng đòi hỏi con người lựa chọn hình thức thông tin
nhanh gọn, trực tiếp, dễ nhớ, dễ hiểu. Chính vì vậy, các cơ quan báo, đài
muốn tồn tại và phát triển phải không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng nội
dung thông tin cũng như hình thức thể hiện nhằm đáp ứng nhu cầu, mong đợi
của khán giả trong và ngoài nước. Việc đổi mới nội dung thông tin, đa dạng

3


hoá các chủ đề, cập nhật công nghệ tiên tiến đã trở thành những vấn đề then
chốt hàng đầu của các cơ quan báo chí trong cả nước.
Tuy nhiên, phần lớn các cơ quan truyền thông của thành phố Đà Nẵng
vẫn chưa ngang tầm với tiềm năng hiện có; chưa có nhiều đột phá trong việc
tạo nhiều ấn phẩm có chất lượng cao và nội dung tốt; thiếu những chương
trình truyền hình có sức lan tỏa sâu rộng… Một trong những nguyên nhân là
do nguồn nhân lực cho truyền thông vẫn còn yếu; chất lượng các phương tiện
truyền thông chưa cao và việc bố trí nguồn vốn cho công tác truyền thông vẫn
chưa tương xứng trong giai đoạn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, truyền thông đang phát triển vô cùng
mạnh mẽ. Một số tập đoàn truyền thông khổng lồ đang nắm giữ vị trí độc
quyền, chiếm lĩnh không gian thông tin toàn cầu, thao túng dư luận và tác
động mạnh mẽ đến ý thức xã hội toàn cầu. Thông tin là một nhu cầu thiết yếu,
vì vậy, truyền thông ngày càng thâm nhập sâu vào tất cả các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh…
Ngành truyền thông Việt Nam và Đà Nẵng nói riêng vẫn còn một
khoảng cách khá xa so với các nước trên thế giới. Truyền thông chưa thật sự
trở thành một ngành công nghiệp đem về nhiều lợi nhuận như nhiều nước trên
thế giới. Về lâu dài, Đà Nẵng cần hướng đến xây dựng một ngành công
nghiệp truyền thông chuyên nghiệp.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có nhiều tác phẩm, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ, tiến sỹ,
các đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề truyền thông trên nhiều
lĩnh vực…, như: Luận án Phát triển nhân lực nhà báo của các Đài Phát thanh Truyền hình của các Thành phố lớn Việt Nam - Nghiên cứu điển hình tại Đài
Phát thanh - Truyền hình Hà Nội của tác giả Nguyễn Tiến Dũng.

4


Tác giả đã hệ thống hóa những vấn đề có tính chất lý thuyết về phát
triển nhân lực nhà báo trong Đài Phát thanh - Truyền hình thông qua các khái
niệm nhân lực, nhân nhà báo, đặc điểm và vai trò của nhà báo. Xây dựng các
khái niệm liên quan đến nhà báo, nhân lực nhà báo nói chung và làm trong
Đài Phát thanh - Truyền hình nói riêng. Tác giả đã tập trung trình bày các
hoạt động chủ yếu của phát triển nhân lực nhà báo gồm: Kế hoạch hóa nhân
lực nhà báo; thực hiện công tác phát triển nhân lực nhà báo như đào tạo mới,
bồi dưỡng nghiệp vụ; phát triển cá nhân của nhà báo, công tác tuyển dụng
nhân lực nhà báo; sử dụng nhân lực nhà báo. Ngoài ra, tác giả đưa ra các nhân

tố ảnh hưởng đến phát triển nhân lực nhà báo trong các Đài Phát thanhTruyền hình.
Những đóng góp mới của luận án góp phần làm sáng tỏ các vấn đề về
lý luận cũng như ứng dụng thực tiễn trong công tác phát triển nhân lực nhà
báo của các Đài Phát thanh - Truyền hình trong bối cảnh hội nhập với truyền
thông quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay nhưng chưa có một công trình nghiên cứu
chuyên sâu về chính sách phát triển truyền thông từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng. Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài này làm luận văn thạc sỹ của
mình, luận văn thực hiện có sự kế thừa, phát triển những thành quả của các đề
tài liên quan trước đó để đánh giá, phân tích từ đó đề xuất các giải pháp phù
hợp với tình hình thực tế tại thành phố Đà Nẵng.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính
sách phát triển truyền thông tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua, để
làm cơ sở đề xuất các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phát triển
truyền thông tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chính sách truyền thông và

5


thực hiện chính sách truyền thông; tổng quan và nhận xét thực hiện chính
sách hiện hành về truyền thông của Việt Nam, tìm hiểu kinh nghiệm điển hình
của các nước về thực hiện chính sách truyền thông. Phân tích, đánh giá thực
trạng chính sách phát triển truyền thông tại thành phố Đà Nẵng; phát hiện vấn
đề, nguyên nhân, những ưu điểm và hạn chế. Đề xuất hoàn thiện các giải pháp
tăng cường thực hiện chính sách phát triển truyền thông tại thành phố Đà
Nẵng trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những mối quan hệ phát sinh
trong quá trình cung cấp và tiếp nhận thông điệp truyền thông có chủ ý giữa
cơ quan quản lý, các cơ quan truyền thông cùng một số phát sinh trong quá
trình phát triển truyền thông tại thành phố Đà Nẵng có liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi không gian thành phố Đà Nẵng và
trong khoản thời gian từ 2015- 2016 để phân tích thực trạng truyền thông trên
địa bàn thành phố.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và
phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy phạm
chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực
hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách.
Lý thuyết của chính sách công được soi sáng qua thực tiễn của chính sách
công giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở thu thập số
liệu thứ cấp; các phương pháp nghiên cứu, như: phương pháp thống kê, phân

6


tích, so sánh và suy luận logic để tổng hợp các số liệu, dữ liệu nhằm đánh giá
thực tiễn tình hình phát triển truyền thông trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và
xác định mục tiêu, để có thể phân tích đúng thực trạng làm cơ sở cho việc đề
xuất các giải pháp phù hợp.
Tham khảo và sử dụng tài liệu từ sách, báo, tạp chí về truyền thông, các
website Thành ủy, website Ủy ban Nhân dân; các báo cáo, nghị quyết và đề

án quy hoạch phát triển truyền thông của thành phố Đà Nẵng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài này này cung cấp cơ sở lý luận chính sách công để nghiên cứu
vấn đề truyền thông.
Hệ thống hóa một số cơ sở lý luận và nghiên cứu thực tiễn từ đó đề xuất
giải pháp tăng cường chính sách truyền thông trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Cung cấp những vấn đề có thính thực tiễn trong việc vận dụng các lý
thuyết về chính sách công để xem xét giữa lý thuyết và thực tiễn về chính
sách truyền của thành phố Đà Nẵng. Từ đó, đưa ra những đề xuất có giá trị
tham khảo đối với các ngành quản lý để nâng cao hiệu quả chính sách truyền
thông trong thực tiễn những năm tiếp theo.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách truyền thông.
Chương 2: Thực trạng chính sách phát triển truyền thông từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách truyền thông ở thành phố
Đà Nẵng hiện nay.

7


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TRUYỀN THÔNG
1.1. Khái niệm chính sách truyền thông
1.1.1. Khái niệm truyền thông
Lịch sử loài người cho thấy, con người có thể sống được với nhau, giao

tiếp và tương tác lẫn nhau trước hết là nhờ vào hành vi truyền thông (thông
qua ngôn ngữ hoặc cử chỉ, điệu bộ, hành vi… để chuyển tải những thông
điệp, biểu lộ thái độ cảm xúc). Qua quá trình truyền thông liên tục, con người
có sự gắn kết với nhau, đồng thời có những thay đổi trong nhận thức và hành
vi. Chính vì vậy, truyền thông được xem là cơ sở để thiết lập các mối quan hệ
giữa con người với con người, là nền tảng hình thành nên cộng đồng xã hội.
Nói cách khác, truyền thông là một trong những hoạt động căn bản của bất cứ
một tổ chức xã hội nào.
Hiểu một cách đơn giản, truyền thông (Communication) là quá trình
truyền đạt, chia sẻ thông tin; là một kiểu tương tác xã hội với sự tham gia của
ít nhất 02 tác nhân.
Thông thường người ta chia truyền thông thành 3 loại:
- Truyền thông liên cá nhân (giữa người này với người khác);
- Truyền thông tập thể (truyền thông trong nội bộ một tổ chức);
- Truyền thông đại chúng.
Ngày nay, xã hội loài người không ngừng phát triển, đời sống của người
dân không ngừng được nâng cao. Đòi hỏi vai trò ngày một lớn hơn nữa của
truyền thông trong việc cung cấp thông tin. Có thể nói, truyền thông có vai trò
ngày càng lớn trong xã hội, ảnh hưởng nhiều mặt đến đời sống con người. Từ
đó, khái niệm truyền thông được hiểu ở nhiều phạm vi, lĩnh vực khác nhau.

8


Theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia): Truyền thông là hoạt động
truyền đạt thông tin qua trao đổi ý tưởng, cảm xúc, ý định, thái độ, mong đợi,
nhận thức hoặc các lệnh, như: ngôn ngữ, cử chỉ phi ngôn ngữ, chữ viết, hành
vi và có thể bằng các phương tiện khác như thông qua điện từ, hóa chất, hiện
tượng vật lý và mùi vị. Đó là sự trao đổi có ý nghĩa của thông tin giữa hai
hoặc nhiều thành viên (máy móc, sinh vật hoặc các bộ phận của chúng).

Trong cuốn “Truyền thông lý thuyết và kĩ năng cơ bản” do Phó giáo sư,
tiến sĩ Nguyễn Văn Dững (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) làm chủ biên,
đã nêu khái niệm: Truyền thông là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư
tưởng, tình cảm… chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người
nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến đến điều
chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, của
nhóm, của cộng đồng và xã hội.
Khái niệm trên đã chỉ ra bản chất và mục đích của truyền thông. Về bản
chất, truyền thông là quá trình chia sẻ, trao đổi hai chiều, diễn ra liên tục giữa
chủ thể truyền thông và đối tượng truyền thông. Quá trình chia sẻ, trao đổi hai
chiều ấy có thể được hình dung qua nguyên tắc bình thông nhau. Khi có sự
chênh lệch trong nhận thức, hiểu biết giữa chủ thể và đối tượng truyền thông
gắn với nhu cầu chia sẻ, trao đổi thì hoạt động truyền thông diễn ra. Quá trình
truyền thông vì vậy chỉ kết thúc khi đã đạt được sự cân bằng trong nhận thức,
hiểu biết giữa chủ thể và đối tượng truyền thông. Về mục đích, truyền thông
hướng đến những hiểu biết chung nhằm thay đổi thái độ, nhận thức, hành vi
của đối tượng truyền thông và tạo định hướng, giá trị cho công chúng.
Trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay,
truyền thông càng có ý nghĩa, vai trò và mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách
rời với các phương tiện công nghệ hiện đại. Truyền thông hiện đại đòi hỏi
nhiều hơn việc phát triển sản phẩm, dịch vụ tốt, định giá hấp dẫn và đưa nó

9


đến địa điểm thuận tiện cho tiêu thụ, mà còn phải thực hiện chiến lược truyền
thông đến các bên quan tâm hiện tại và tiềm năng, cũng như công chúng nói
chung. Công tác tuyền thông ngày càng khó khăn hơn, bởi nhiều địa phương,
doanh nghiệp cũng tận dụng nó để thu hút sự chú ý ngày càng bị phân tán của
khách hàng. Để vươn đến thị trường mục tiêu và xây dựng giá trị thương hiệu,

những nhà tiếp thị cần vận dụng chiến lược truyền thông một cách sáng tạo,
nên truyền thông nội dung gì, cách thức truyền thông như thế nào, truyền
thông đến ai và mức độ truyền thông thường xuyên ra sao… đang là câu hỏi
cần đặt ra giữa các địa phương, doanh nghiệp và các nhà làm công tác truyền
thông.
Như vậy, truyền thông là các phương tiện mà các địa phương, doanh
nghiệp sử dụng thông tin, thuyết phục và gợi nhớ người tiêu dùng, khách du
lịch một cách trực tiếp hay gián tiếp về sản phẩm, dịch vụ và thương hiệu mà
họ cung cấp. Truyền thông đại diện cho tiếng nói chung của thương hiệu, là
phương cách để thiết lập sự đối thoại và xây dựng các quan hệ với người tiêu
dùng. Truyền thông thực hiện nhiều chức năng đối với người tiêu dùng, nó có
thể đóng góp vào giá trị thương hiệu nhờ thiết lập thương hiệu trong tâm trí
và khắc họa nên hình ảnh thương hiệu.
Quá trình truyền thông là quá trình truyền tải thông tin của địa phương,
doanh nghiệp đến người tiêu dùng, để họ biết đến tính năng sản phẩm, dịch
vụ, các chương trình của địa phương, doanh nghiệp, lợi ích mà địa phương,
doanh nghiệp đó có thể mang đến cho khách hàng thông qua sản phẩm hoặc
dịch vụ.
Từ những nghiên cứu trên, rút ra khái niệm về truyền thông như sau:
Truyền thông là quá trình chia sẻ thông tin thông qua các phương tiện nhằm
tuyên truyền, tạo được sự cân bằng về nhận thức và lan tỏa thông tin trong xã
hội để đạt được một mục đích nào đó của chủ thể truyền thông.

10


1.1.2. Khái niệm chính sách công
Chính sách công là tập hợp các quyết định mang tính chính trị của Đảng
cầm quyền nhằm vạch ra những đường hướng hành động ứng xử cơ bản của
chủ thể quản lý với các vấn đề, hiện tượng tồn tại trong đời sống để thúc đẩy

và quản lý sự phát triển nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định cho trước.
Khái niệm chính sách công được diễn đạt khái quát như sau: “Chính sách
công là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của nhà nước nhằm lựa
chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các
vấn đề của xã hội theo mục tiêu xác định của đảng chính trị cầm quyền”.
Chủ thể ban hành chính sách là Nhà nước thông qua các cơ quan quyền
lực (Quốc hội, Chính phủ), các bộ, ngành thực hiện chức năng quản lý nhà
nước.Chính sách công được biểu hiện bằng nhiều cấp độ khác nhau: Hiến
pháp, Luật, Nghị định, Nghị quyết… Mục đích cuối cùng là để phát triển và
quản lý sự phát triển của xã hội. Cấu trúc của chính sách gồm 3 bộ phận:
Quan điểm và định hướng chính sách; biện pháp thực hiện chính sách, các
công cụ của chính sách; mục tiêu mà chính sách hướng tới.
Căn cứ lý thuyết về khoa học chính sách công và khái niệm về truyền
thông, có thể đưa ra khái niệm Chính sách truyền thông như sau: Đó là tập
hợp các quyết định của nhà nước, địa phương hay doanh nghiệp nhằm thông
tin, tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, định hướng dư luận xã hội và giám sát,
phản biện xã hội… để thực hiện mục tiêu và giải pháp phát triển đã đề ra.
1.2. Vấn đề chính sách truyền thông
Xác định vấn đề chính sách là giai đoạn khởi đầu trong quá trình xây
dựng chính sách công, bao gồm từ bước phát hiện những vấn đề xã hội, mâu
thuẫn nảy sinh trong đời sống xã hội, đến mức cần phải có giải pháp giải
quyết bằng chính sách cho đến khi hoàn thành những mục tiêu của chính sách
công. Những vấn đề đó thường là những vấn đề trong xã hội, những khó khăn

11


vướng mắc trong quá trình phát triển hoặc là nhu cầu phát triển ở mức độ cao
hơn. Vì vậy, vấn đề của chính sách luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội.
“Việc xác định vấn đề chính sách được bắt đầu bằng cảm nhận vấn đề so với

cấu trúc vấn đề, đó là các cảm nhận về các trở ngại, khó khăn, vướng mắc
trong xã hội cần được giải quyết bằng chính sách. Theo quy luật vận động,
vấn đề chính sách đang mang tính hiện thực và tương lai, các hiện tượng đang
tồn tại thực tế sẽ làm nảy sinh những vấn đề trong tương lai”. Việc xác định
rõ quy mô và mức độ quan trọng của vấn đề của xã hội để định rõ phạm vi và
mức độ can thiệp của chính sách là hết sức quan trọng và cần được xem xét
cụ thể thông qua các chỉ số đáng tin cậy và biện pháp đo lường khoa học.
Vấn đề của chính sách truyền thông nảy sinh khi mâu thuẫn giữa tiềm
năng thực thế và vai trò quan trọng của truyền thông đối với việc thực hiện
nhiệm vụ phát triển của địa phương cần phải giải quyết, dẫn tới các cơ quan
truyền thông phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế vốn có; có
thể khâu tuyển dụng công chức, viên chức phụ trách lĩnh vực truyền thông
chưa được quan tâm đầy đủ; việc lựa chọn các kênh truyền thông; việc bố trí
nguồn vốn ngân sách đầu tư cho truyền thông còn nhiều hạn chế; cách tiếp
cận phương pháp để tiếp xúc tiến truyền thông chưa phù hợp, nội dung
truyền thông chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu tăng cường năng lực. Việc xác
định đúng vấn đề chính sách đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây
dựng, ban hành, thực hiện chính sách và quyết định đến sự thành công hay
thất bại của chính sách.
1.2.1. Nhân lực cho truyền thông
Tuyển dụng là quy trình sàng lọc và tuyển chọn những người có đủ
năng lực đáp ứng yêu cầu công việc, là khâu đầu tiên trong quá trình quản lý
nhân sự. Tuyển dụng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ
viên chức có đủ phảm chất chính trị và năng lực chuyên môn tại các cơ quan

12


đáp ứng đủ nhu cầu giải quyết công việc. Việc tuyển dụng viên chức phải căn
cứ vào nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp

và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập. Theo Điều 21, Luật Viên
chức, việc tuyển dụng viên chức phải theo các nguyên tắc: Bảo đảm công
khai, minh bạch, công bằng, khách quan và đúng pháp luật; bảo đảm tính
cạnh tranh; tuyển chọn đúng người đáp ứng nhu cầu của vị trí việc làm; đề
cao trách nhiệm của người đứng đầu của người đứng đầu sự nghiệp công lập;
ưu tiên người có tài năng, người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu
số. Việc tuyển dụng viên chức đã được chuyển đổi phân phối theo kế hoạch
sang thực hiện thông qua nhiều phượng thức như thi tuyển, xét tuyển, thuyên
chuyển, tiếp nhận và điều động khách quan chất lượng và bước đầu đã chú ý
đãi ngộ người có tài năng. Các đơn vị sự nghiệp đã thực hiện quyền tự chủ
trong quản lý, việc tuyển dụng viên chức đã phân cấp cho người đứng đầu
đơn vị sự nghiệp. Tuy nhiên, việc tuyển dụng viên chức hiện vẫn gặp phải vấn
đề chất lượng đầu vào chưa cao, chưa đồng đều; tuyển dụng người không đủ
năng lực thực hiện nhiệm vụ. Hệ thống các quy định về tiêu chuẩn viên chức
chú trọng vào văn bằng chứng chỉ mà ít chú ý đến năng lực kinh nghiệm. Nhà
nước đã có nhiều văn bản quy định việc đổi mới cơ chế quản lý hoạt động các
đơn vị sự nghiệp. Mặt khác, về văn bản đề ra những quy định rất chặt chẽ
nhưng rất ít cơ quan, địa phương thực hiện nghiêm túc, minh bạch mà thường
đặt ra “các quy định nội bộ” để định hướng và ưu tiên các mối quan hệ, con
cháu trong ngành.
Điều đó phản ánh sự thiếu thống nhất, đồng bộ trong quản lý nhà nước
đối với hoạt động sự nghiệp và là nguyên nhân cản trở sự phát triển của đội
ngũ viên chức phụ trách lĩnh vực truyền thông.
1.2.2. Chất lượng các phương tiện truyền thông
Chất lượng các kênh truyền thông hiệu quả để tải thông điệp trở nên

13


ngày càng khó khăn hơn, bởi các kênh truyền thông ngày càng bị phân đoạn

và kết cụm. Kênh truyền thông có thể là kênh trực tiếp hoặc kênh gián tiếp,
trong mỗi kênh có nhiều kênh phụ. Có hai loại kênh truyền thông cơ bản để
lựa chọn: Kênh cá nhân (trực tiếp) và kênh phi cá nhân (gián tiếp).
- Kênh truyền thông cá nhân (trực tiếp)
Trong các kênh truyền thông cá nhân, hai hay nhiều người sẽ trực tiếp
truyền thông với nhau, họ có thể truyền thông qua tiếp xúc trực tiếp với đối
tượng, qua điện thoại hoặc qua thư từ trên cơ sở giao tiếp cá nhân. Các kênh
truyền thông trực tiếp có thể chia thành các kênh giới thiệu, kênh chuyên viên
hoặc kênh xã hội. Kênh giới thiệu gồm các nhân viên thực hiện truyền thông
của địa phương tiếp xúc trực tiếp với người mua trên thị trường mục tiêu.
Kênh chuyên viên gồm những kênh chuyên viên độc lập phát biểu ý kiến của
mình với khách hàng mục tiêu. Kênh xã hội gồm những người láng giềng, bạn
bè các thành viên trong gia đình và những người đồng sự nói chuyện với
khách hàng mục tiêu. Ảnh hưởng của vai trò các nhân đối với công chúng
mục tiêu đặc biệt quan trọng trong các trường hợp họ cần mua những sản
phẩm đắt tiền, có nhiều rủi ro hay không mua thường xuyên, những sản phẩm
nói lên địa vị hoặc thị hiếu của người sử dụng.
- Kênh truyền thông phi cá nhân (gián tiếp)
Những kênh truyền thông gián tiếp chuyển các thông điệp đi không cần
có sự tiếp xúc hay giao tiếp trực tiếp, chúng bao gồm các các phương tiện
truyền thông đại chúng, bầu không khí và các sự kiện. Các phương tiện truyền
thông đại chúng bao gồm những phương tiện truyền thông dưới dạng ấn phẩm
(thư trực tiếp, báo cáo và tập chí), ngững phương tiện truyền thông marketing
(truyền thanh, truyền hình), những phương tiện truyền thông điện tử (Internet,
đĩa ghi hình, băng ghi âm) và những phương tiện trưng bày (pano, bảng hiệu,
áp phích). Bầu không khí là những khung cảnh có chủ tâm nhằm tạo ra hay

14



củng cố xu hướng mua và tiêu dùng của sản phẩm. Các sự kiện là công việc
có chủ tâm nhằm chuyển tải các thông điệp đến đặc biệt đến công chúng mục
tiêu như tổ chức các buổi họp báo, lễ khai trương và bảo trợ hoạt động thể
thao… Mặc dù ít hiệu quả hơn truyền thông trực tiếp nhưng các phương tiện
truyền thông đại chúng có thể là công cụ chủ yếu để kích thích truyền thông
du lịch hiệu quả.
- Tích hợp các kênh truyền thông
Mặc dù truyền thông trực tiếp thường hiệu quả hơn truyền thông gián
tiếp, nhưng truyền thông gián tiếp có thể là phương tiện chính thúc đẩy
phương tiện truyền thông trực tiếp. Truyền thông gián tiếp tác động đến thái
độ và hành vi cá nhân thông qua một quá trình từ các ý tưởng thường chuyển
từ phát thanh, truyền hình và báo chí sang người dẫn đạo ý tưởng và từ những
người này sang những nhóm dân cư ít quan tâm đến truyền thông.
1.2.3. Việc bố trí nguồn vốn cho truyền thông
Ngân sách dành cho các hoạt động truyền thông đóng vai trò quan
trọng trong hoạch định chương trình phát triển du lịch của địa phương. Vì
vậy, chính quyền thành phố, các cơ quan nhà nước có liên quan cần phải chú
trọng đầu tư cho những kênh truyền thông không những phù hợp với những
mục tiêu phát triển của địa phương mà còn phù hợp với ngân sách của địa
phương có được, hay nói cách khác là chọn phương thức bố trí ngân sách
chấp nhận được.
Có thể nêu một số phương thức tính toán thường sử dụng, đó là:
- Phương pháp tính theo phần trăm thu ngân sách
Bố trí vốn ngân sách theo một tỉ lệ phần trăm nhất định trên tổng thu
ngân sách của địa phương.
Phương pháp này có ưu điểm: Thứ nhất, nó có nghĩa là nguồn vốn bố
trí cho truyền thông sẽ thay đổi tùy theo khả năng thu ngân sách của địa

15



phương. Trước hết, nó khuyến khích các nhà lãnh đạo, quản lý nghĩ đến mối
liên hệ giữa chi phí truyền thông với khả năng lợi ích thu được từ hiệu quả từ
truyề thông. Thứ hai, nó khuyến khích các nhà lãnh đạo, quản lý chấp nhận bố
trí danh sách cho truyền thông một tỉ lệ phần trăm nhất định dựa trên khả
năng thu ngân sách hàng năm của địa phương đó.
Mặc dù dù vậy phương pháp này cũng có nhược điểm nhất định. Nó
dẫn đến chỗ xác định ngân sách căn cứ vào khả năng dự đoán thu ngân sách
trong tương lai chứ không phải theo nguồn vốn ngân sách hiện có của địa
phương hoặc những cơ hội của thị trường. Sự phụ thuộc của nguồn vốn ngân
sách truyền thông sẽ gây trở ngại cho việc lập kế hoạch dài hạn cho phát triển
truyền thông.
Phương pháp tính theo cân bằng cạnh tranh
Ở một số địa phương, việc xác định ngân sách còn được thực hiện theo
nguyên tắc bảo đảm ngang bằng với chi phí của các địa phương trong khu
vực, vùng miền hoặc mức độ xếp loại đô thị. Phương pháp này cho rằng, mức
chi phí ở các địa phương khác là cơ sở để xem xét duy trì cân bằng khả năng
cạnh tranh, giúp ngăn chặn sự xung đột thái quá trong công tác truyền thông
tại các địa phương với nhau. Tuy nhiên, bởi vì khả năng của các địa phương
là rất khác nhau về danh tiếng, nguồn cơ hội và mục tiêu truyền thông.
- Phương pháp mục tiên và công việc thực hiện
Phương pháp này đòi hỏi những người làm công tác truyền thông phải
xây dựng kế hoạch ngân sách truyền thông của mình trên cơ sở xác định mục
tiêu cụ thể và các nhiệm vụ cần phải hoàn thành để đạt được mục tiêu rồi ước
tính chi phí để thực hiện những nhiệm vụ đó. Tổng các cho phí này dự toán
ngân sách truyền thông.
- Phương pháp tùy theo khả năng
Định ngân sách truyền thông dựa vào khả năng mà địa phương có thể

16



chi ra được. Phương pháp xác định ngân sách này hoàn toàn bỏ qua vai trò của
truyền thông như một khoản đầu tư và ảnh hưởng tức thời của truyền thông đến
khối lượng tiêu thụ. Nó dẫn đến một ngân sách truyền thông hằng năm không
xác định, gây khó khăn cho việc lập kế hoạch truyền thông dài hạn.
1.3. Giải pháp và công cụ của chính sách truyền thông
1.3.1. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực truyền thông
Một trong những yêu cầu của việc tuyển dụng viên chức phụ trách lĩnh
vực truyền thông là phải có trình độ và được đào tạo bài bản, am hiểu truyền
thông. Trong điều kiện chất lượng đào tạo chưa cao như hiện nay, chưa đồng
đều khó tuyển được người giỏi như yêu cầu đề ra, do đó cần thực hiện dân
chủ công bằng minh bạch trong tuyển dụng và chú ý đến năng lực thực tế
nhiều hơn chú ý đến văn bằng chứng chỉ; cần làm tốt hơn nữa về việc cung
cấp thông tin, yêu cầu tuyển dụng; đổi mới hình thức nội dung tuyển dụng
cho phù hợp với vị trí việc làm là công tác truyền thông. Mặt khác việc tuyển
dụng phải thật sự nghiêm túc để công chức, viên chức không còn cảm giác
“vào cơ quan nhà nước chủ yếu nhờ ô dù, quen thân, chạy tiền”; thực hiện
ứng dụng công nghệ thông tin trong tuyển dụng viên chức để đảm bảo chất
lượng đầu vào và phòng chống tiêu cực trong công tác tuyển dụng.
Công cụ chính sách cho giải pháp nâng cao chất lượng tuyển dụng công
chức, viên chức lĩnh vực truyền thông là:
Về phía Nhà nước, có những quy định chặt chẽ hơn về những công tác
tuyển dụng. Đồng thời sử dụng công cụ hỗ trợ tài chính cho viên chức mới
được tuyển dụng, tạo điều kiện cho họ yên tâm công tác trong ít nhất 03 năm
đầu tuyển dụng. Ngoài ra, Nhà nước cần sớm cải cách chế độ tiền lương, phụ
cấp đối với công chức, viên chức; nghiên cứu xây dựng khung pháp lý để
công chức, viên chức có thêm thu nhập chính đáng từ hoạt động chuyên môn;

17



nhân rộng mô hình tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp
có thu.
Về phía các cơ quan ban hành, lập kế hoạch dài hạn về tuyển dụng
công chức, viên chức; sử dụng công cụ truyền thông có hiệu quả hơn nữa để
cung cấp thông tin tuyển dụng, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ của đơn vị
để đông đảo ứng viên quan tâm được biết. Bên cạnh đó, cần đổi mới hình
thức và nội dung tuyển dụng đảm bảo tuyển được người thật sự đáp ứng được
yêu cầu công việc trọng tâm là làm công tác truyền thông. Mặt khác, không
tuyển dụng cho đủ chỉ tiêu số lượng mà cần chú trọng tuyển những người thật
sự phù hợp cho lĩnh vực truyền thông.
Về phía các đơn vị quản lý công chức, viên chức, tạo điều kiện cho
công chức, viên chức tham gia các hoạt động truyền thông khác theo khả năng
của mình để thêm thu nhập mà vẫn đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Do vậy, cần quy định rõ quyền và nghĩa vụ của công chức, viên chức tại đơn
vị thông qua hợp đồng làm việc, hợp đồng khoán việc.
1.3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng các kênh truyền thông
Lịch sử báo chí truyền thông Việt Nam tính từ năm 1865 khi tờ “Gia
Định báo” ra đời đến nay đã được 143 năm. So với lịch sử báo chí thế giới
tương đối muộn nhưng với điều kiện Việt Nam chừng ấy năm cũng là một
dấu mốc lớn. Trong dòng chảy chung ấy có nhiều khuynh hướng báo chí khác
nhau: báo chí của thực dân đế quốc xâm lược; báo chí của những người Việt
Nam yêu nước, báo chí cách mạng và nổi bật lên là dòng báo chỉ Cách mạng.
đã có 83 năm phải triển kể từ ngày báo Thanh niên ra đời (21/6/1925) tại
Quảng Châu - Trung Quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập. Báo chí cách
mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng và dân tộc,
và đồng hành, phục vụ cách mạng và dân tộc để giành chính quyền năm 1945,
giải phóng Miền Bắc năm l945, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước


18


năm 1975, tiến hành sự nghiệp Đổi mới đất nước năm 1986 và hội nhập sâu
rộng vào đời sống quốc tế hiện nay.
Trong tiến trình phát triển do điều kiện khách quan và chủ quan nên
báo chí truyền thông cũng có sự phát triển ở các mức độ khác nhau. Tuy
nhiên giai đoạn 20 năm đất nước đổi mới và đổi mới báo chí (từ năm 1986 tới
nay), báo chí truyền thông Việt Nam có bước phát triển mạnh mẽ, nhanh
chóng và toàn diện nhất
Ngày nay, truyền thông đang phát triển rất mạnh và đang được sư dụng
trong mọi hoạt động, mọi lĩnh vực. Trong bối cảnh đó, các trào lưu các
khuynh hướng tư tưởng và báo chí truyền thông mới mẽ của thế giới tác động
và ảnh hưởng nhanh chóng, mạnh mẽ vào từng nước; tác động trực tiếp vào tư
tường tình cảm tâm lý, lối sống và đạo đức của con người. Đây là những điều
kiện để báo chí truyền thông mỗi nước và từng địa phương phát triển, đáp ứng
tốt hơn nhu cầu thông tin đa dạng, phong phú, kịp thời, chính xác của công
chúng. Vì vậy việc lựa chọn, ưu tiên cho kênh truyền thông nào cũng là khâu
quan trọng, quyết định đến chiến lược phát triển của mỗi địa phương. Khi lựa
chọn kênh truyền thông cần chú ý mức độ bao phủ đến đâu, khả năng thích
ứng của từng kênh đối với từng đối tượng địa phương nhắm đến…
Công cụ chính sách cho giải pháp lựa chọn kênh truyền thông là:
- Nhà nước xác định các kênh truyền thông dựa trên phạm vi, mức độ
và khả năng tiếp cận thị trường của kênh đó có phù hợp với tình hình thực tế
của địa phương đó hay không. Từ đó ban hành văn bản quy phạm pháp luật
như quyết định, quy định hoặc các văn bản khác như chiến lược ngắn hạn, dài
hạn sử dụng một kênh hoặc tích hợp nhiều kênh để phát huy tối đa hiệu quả
ưu điểm của từng loại hình nhất định.
- Các ngành chức năng, cơ quan quản lý nhà nước lĩnh vực báo chí
truyền thông có trách nhiệm tham mưu, đề xuất các ý tưởng để xem xét lựa


19


chọn kênh truyền thông phù hợp. Đưa ra chương trình hành động hoặc kế
hoạch thực hiện các ý tưởng trong đó trong khoảng thời gian nhất định để sơ
kết, nhằm tổng kết nhằm đánh giá việc thực hiện kết quả lựa chọn đã đề ra.
1.3.3. Giải pháp về bố trí ngân sách cho truyền thông
Xác định ngân sách cho hoạt động truyền thông là một quyết định khó
khăn và chi phối đế sự thành công, hiệu quả của hoạt động truyền thông. Do
đó cần quan tâm ưu tiên nguồn vốn đảm bảo cho hoạt động truyền thông với
nhiều hình thức đa dạng khác nhau.
Công cụ chính sách cho giải pháp bố trí ngân sách cho truyền thông là:
- Kinh phí ngân sách nhà nước là nguồn vốn chủ yếu, có ý nghĩa quyết
định đến hoạt động truyền thông. Nhà nước cần có kế hoạch phân bố đảm bảo
hoạt động truyền thông xuyên suốt, không bị tắc nghẽn, nhất là đảm bảo chi
phí cho bộ máy công chức, viên chức làm công tác truyền thông và chi phí
vận hành cho các dịch vụ của các kênh truyền thông. Phương pháp tính toán
bố trí ngân sách tùy theo nguồn lực thực tế của từng địa phương mà xác định
sao cho phù hợp nhất.
- Nguồn vốn xã hội hóa là nguồn vốn thứ yếu. Nhà nước có kế hoạch
vận động tài trợ, kêu gọi các doanh nghiệp, hoặc người dân có lợi ích trên lĩnh
vực truyền thông tham gia hỗ trợ, tài trợ vốn cho hoạt động truyền thông. Tuy
đây là nguồn vốn thứ yếu nhưng nó đảm bảo hoạt động truyền thông được đa
dạng hơn, phong phú hơn, có sự cạnh tranh về chất lượng truyền thông nhằm
nâng cao hiệu quả phát triển của địa phương.
1.4. Chủ thể chính sách truyền thông
Chính sách là công cụ được Nhà nước dùng để điều hành hoạt động
kinh tế- xã hội. Vì vậy, chủ thể ban hành chính sách là nhà nước, cụ thể là các
cơ quan có thẩm quyền, như: Quốc hội, Chính phủ, các Bộ và cơ quan ngang


20


Bộ, trực thuộc Bộ. Trong số các cơ quan kể trên, Bộ Thông tin và Truyền
thông là cơ quan đóng vai trò chính trong việc tham mưu và trực tiếp xây
dựng chính sách.
Ở cấp tỉnh, thành phố, chủ thể ban hành chính sách truyền thông là các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: Tỉnh ủy, Thành ủy, Ủy ban Nhân dân
tỉnh, thành phố; Ban Tuyên giáo Thành ủy, Sở Thông tin- Truyền thông là cơ
quan chịu trách nhiệm chính trong việc tham mưu xây dựng chính sách và tổ
chức triển khai thực hiện chính sách.
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí.
- Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện quản lý nhà nước về báo chí.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện
quản lý nhà nước về báo chí.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí tại địa phương.
1.5. Thể chế chính sách truyền thông
- Luật số 103/2016/QH13 của Quốc hội: Luật Báo chí; ngày ban hành
05/04/2016; ngày có hiệu lực 01/01/2017.
- Nghị định số 09/2017/NĐ-CP ngày 09/02/2017 của Chính phủ quy
định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan
hành chính nhà nước.
- Nghị định số 08/2017/NĐ-CP ngày 08/02/2017 của Chính phủ quy
định về lưu chiểu điện tử đối với loại hình báo nói, báo hình và báo điện tử
độc lập với cơ quan báo chí.
- Nghị định số 72/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về hoạt

động nhiếp ảnh.

21


- Nghị định số 06/2016/NĐ-CP ngày 18/01/2016 của Chính phủ quản
lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ phát thanh, truyền hình.
- Nghị định số 18/2014/NĐ-CP ngày 14/3/2014 của Chính phủ quy
định về chế độ nhuận bút trong lĩnh vực báo chí, xuất bản.
- Nghị định số 159/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản.
- Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản
lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng
- Nghị định số 88/2012/NĐ-CP ngày 23/10/2012 của Chính phủ quy
định về hoạt động thông tin, báo chí của báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện
nước ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.
- Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 quy định về việc cung
cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc
cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước.
- Nghị định số 02/2011/NĐ-CP ngày 06/01/2011 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản (Được
thay thế bởi Nghị định 159/2013/NĐ-CP từ ngày 01/01/2014).
- Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28/8/2008 của Chính phủ về quản
lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet
- Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/04/2002 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Báo chí.
- Nghị định số 98/CP ngày 13/9/1997 của Chính phủ ban hành Quy
chế hoạt động của báo chí Việt Nam liên quan đến nước ngoài.
- Nghị định số 67/CP ngày 31/10/1996 của Chính phủ ban hành Quy

chế hoạt động thông tin, báo chí của phóng viên nước ngoài, các cơ quan, tổ
chức nước ngoài tại Việt Nam.

22


×