Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hiện tượng tôn giáo mới ở hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

ĐOÀN HÀ THU

HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI
Ở HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

--------

ĐOÀN HÀ THU

HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI
Ở HÀ NỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN ĐĂNG SINH

HÀ NỘI - 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, luận văn “Hiện tượng tôn giáo mới ở Hà Nội hiện
nay” là công trình nghiên cứu khoa học của tôi dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS Trần Đăng Sinh.
Tôi đã nghiên cứu, tìm hiểu và hoàn thiện luận văn trong đó có sự kế
thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước với những trích dẫn có nguồn
gốc rõ ràng, được sử dụng trong phạm vi cho phép.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn. Luận văn này
không trùng với với bất cứ luận văn nào ở thời điểm hiện tại.
Hà Nội, ngày 06 tháng 05 năm 2017
Tác giả luận văn

Đoàn Hà Thu


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn đầu tiên, chân thành và sâu sắc nhất tới
PGS.TS Trần Đăng Sinh - Thầy đã tận tình quan tâm, hướng dẫn tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Thầy đã giúp cho tôi tiếp cận
được nhiều kiến thức về tôn giáo, đặc biệt là hiện tượng tôn giáo mới. Thầy
còn chỉ bảo, giúp tôi rèn luyện kỹ năng trong nghiên cứu khoa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, Phòng đào tạo Sau đại học cùng các thầy, cô giáo khoa Triết học đã quan
tâm, tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành tốt khóa học.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến những người thân
trong gia đình và bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ tôi có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ học tập và nghiên cứu trong suốt thời gian qua.
Hà Nội, ngày 06 tháng 05 năm 2017

Tác giả luận văn

Đoàn Hà Thu


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Mục đích của đề tài ....................................................................................... 5
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .............................................................. 5
5. Giả thuyết khoa học ...................................................................................... 5
6. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 6
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 6
8. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
9. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của đề tài ................................ 6
NỘI DUNG....................................................................................................... 8
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI Ở HÀ
NỘI HIỆN NAY .............................................................................................. 8
1.1. Các khái niệm cơ bản............................................................................... 8
1.1.1. Tôn giáo .............................................................................................. 8
1.1.2. Tôn giáo mới và hiện tượng tôn giáo mới........................................... 9
1.1.3. Giáo hội, giáo phái, chính đạo, tà đạo ............................................. 13
1.2. Cơ sở hình thành và tồn tại của hiện tượng tôn giáo mới ở Hà Nội
hiện nay .......................................................................................................... 15
1.2.1. Điều kiện địa lý - tự nhiên ................................................................. 15
1.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội .................................................................. 18
1.2.3. Lối sống tâm lý của cư dân Hà Nội .................................................. 25

1.2.4. Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân Hà Nội ............................ 28
1.3. Biểu hiện của hiện tượng tôn giáo mới ở Hà Nội hiện nay................. 29
1.3.1. Thời gian xuất hiện và thành viên tham gia ..................................... 29
1.3.2. Một số hiện tượng tôn giáo mới ở Hà Nội hiện nay ......................... 34


1.3.3. Đặc điểm chung của các hiện tượng tôn giáo mới ở Hà Nội ........... 64
Chương 2. SỰ TÁC ĐỘNG CỦA HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI TỚI
CÁC LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Ở HÀ NỘI HIỆN NAY ..........68
2.1. Tác động của các hiện tượng tôn giáo mới tới các lĩnh vực của đời
sống kinh tế, xã hội và văn hóa - tư tưởng .................................................. 68
2.1.1. Tác động tới tình hình kinh tế ........................................................... 69
2.1.2. Tác động tới tình hình xã hội ............................................................ 71
2.1.3. Tác động tới lĩnh vực văn hóa - tư tưởng ......................................... 74
2.2. Khuyến nghị trong cách ứng xử với hiện tượng tôn giáo mới ở Hà Nội
hiện nay .......................................................................................................... 76
2.2.1. Về phía các cơ quan, ban ngành ....................................................... 77
2.2.2. Về phía xã hội và quần chúng nhân dân ........................................... 78
2.2.3. Về phía các tổ chức tôn giáo mới ..................................................... 80
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88


DANH MỤC ẢNH
Trang
Hình 1.1: Hồ Gươm Hà Nội ............................................................................ 15
Hình 1.2: Bản đồ địa chính Hà Nội sau thay đổi năm 2008 ........................... 17
Hình 1.3: Chân dung ông: Lưu Văn Ty .......................................................... 39
Hình 1.4: Chân dung bà: Nguyễn Thị Điền .................................................... 46

Hình 1.5: Kinh sách Hoàng Thiên Long ......................................................... 49
Hình 1.6: Phía trước điện Hoàng Thiên Long nhìn từ xa ............................... 51
Hình 1.7: Phía cổng sau điện Hoàng Thiên Long ........................................... 51
Hình 1.9: Điện Đại Phúc Phúc ........................................................................ 52
Hình 1.10: Ban Thờ điện Hoàng Thiên Long ................................................. 53
Hình 1.11: Chân dung bà: Đặng Thị Trinh ..................................................... 60
Hình 1.12: Lời răn của bà Đặng Thị Trinh ..................................................... 62


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Hiện tượng tôn giáo mới” là hiện tượng mang tính chất toàn cầu với
sự xuất hiện rộng khắp ở các nước Phương Tây từ thập niên 50, 60 của thế kỷ
XX và ở Việt Nam vào những năm 1890 đến nay. Đây cũng chính là thời kỳ
Chủ nghĩa Tư bản phát triển với nhiều những biến thái mới, giai cấp Tư sản ở
các nước không giải quyết đến cùng mục tiêu “Tự do, bình đẳng, bác ái” đã
đề ra. Hơn nữa, hệ thống Xã hội Chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã.
Chính những điều này đã khiến người lao động hoang mang, gặp nhiều khó
khăn trong cuộc sống, ảnh hưởng lớn tới tâm lý, niềm tin vào tín ngưỡng, tôn
giáo của đông đảo quần chúng nhân dân. Và đây trở thành môi trường màu
mỡ cho “Hiên tượng tôn giáo mới” len lỏi, phát triển.
“Hiện tượng tôn giáo mới” được nảy sinh từ sự thế tục hóa các tín
ngưỡng, tôn giáo truyền thống hay sự du nhập từ nước ngoài. Nó tạo ra sức
ảnh hưởng mạnh mẽ và tác động tích cực như: đem lại niềm tin vào cuộc sống
cho những người yếu thế; giải phóng con người khỏi bế tắc, sự lo âu hay áp
lực được đặt ra từ xã hội hiện đại mà các tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống
không giải quyết được. Mặt khác, “Hiện tượng tôn giáo mới” cũng có nhiều
tác động tiêu cực tới đời sống xã hội. Với niềm tin mù quáng vào những biểu
hiện mang tính tiêu cực của “Hiện tượng tôn giáo mới” đã làm cho đời sống
tâm linh, thuần phong mỹ tục bị xáo trộn, ảnh hưởng xấu tới truyền thống văn

hóa dân tộc. Dưới tác động tiêu cực, “Hiện tượng tôn giáo mới” còn gây ra sự
hao phí tiền của, sức lực, thời gian của một phận không nhỏ cư dân, làm cản
trở tiến trình phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước.
Với những biểu hiện đa hình, đa dạng cùng sự ảnh hưởng tới các mặt
của đời sống xã hội thì “Hiện tượng tôn giáo mới” luôn thu hút được sự chú ý,
quan tâm của các cá nhân, tổ chức, các nhà khoa học trong việc nghiên cứu,
1


tìm tòi từ lý luận đến thực tiễn, những nét cơ bản, cái tổng thể, cái cụ thể hay
những vấn đề mang tính chất chính trị liên quan tới hiện tượng tôn giáo này.
Bên cạnh đó, các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
cũng ban hành nhiều chính sách về tôn giáo nhằm ứng xử với “Hiện tượng tôn
giáo mới”. Nhưng để có chính sách đúng đắn, phù hợp với bối cảnh lịch sử xã hội lại là một vấn đề không dễ dàng được đặt ra đối với các cấp, các cơ
quan, ban ngành. Đòi hỏi phải có sự hiểu biết kỹ càng, xác thực trên tất cả các
khía cạnh về “Hiện tượng tôn giáo mới”.
Trước tình hình trên, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu về “Hiện tượng tôn
giáo mới” ở Hà Nội - trung tâm: kinh tế - chính trị - văn hóa tiêu biểu của cả
nước trên cả khía cạnh lý luận và thực tiễn dưới góc độ triết học, tôn giáo. Từ
đây sẽ đem lại cái nhìn toàn diện, xác thực về hiện tượng tôn giáo mới đang
diễn ra trên địa bàn trong thời gian gần đây, góp phần đưa ra những luận cứ cho
việc hoạch định chính sách về tôn giáo cũng như việc nghiên cứu, tìm hiểu về
tôn giáo, tôn giáo mới hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu
Các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã có nhiều công
trình nghiên cứu, các bài viết của các nhà khoa học xung quanh hiện
tượng này bao gồm:
Trên thế giới:
- Bruno Fouchereau (Đào Hùng dịch, 2001), “Giáo phái, tên biệt kích
của Mỹ”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 5, công trình đã đề cập tới sự tiếp

cận tôn giáo mới ở nhiều nước Châu Âu. Khi các nước Châu Âu lo ngại trước
tình hình những tôn giáo có nguồn gốc từ Mỹ được truyền bá sang các lục địa
khác nên chính họ (Anh, Đức, Tây Ban Nha…) đã dùng các biện pháp cưỡng
chế và coi đây là tà đạo. Đứng trước bối cảnh này, Mỹ hoàn toàn phản đối
hành động đó và can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia trên. Sự đối
2


lập đó đã dẫn tới mâu thuẫn về tôn giáo giữa Mỹ và nhiều nước Châu Âu, dẫn
tới những bất đồng gay gắt.
- Maliavin V. (2004), “Hiện tượng các tôn giáo hỗn tạp tại Trung
Quốc”, trong: Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Tôn giáo và đời sống hiện
đại, tập 5, Nxb. Khoa học xã hội, nội dung tác phẩm đã đi sâu vào nghiên cứu
các hiện tượng tôn giáo mới ở Trung Quốc như: diễn ra như thế nào? xu
hướng biến động ra sao?
- Eillen Barker (Hoàng Văn Chung, 2007), “Tổng quan về bức tranh
giáo phái ở Anh quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 9, trình bày về các
hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện ở Anh khoảng từ 900 đến 2000 hiện tượng.
Thêm vào đó còn đề cập tới thái độ ứng xử của người dân, xã hội và chính
phủ Anh đối với hiện tượng này.
Ở Việt Nam có những nghiên cứu về tôn giáo như:
- Trương Như Vương (2005), “Tìm hiểu quan niệm đạo đức trong kinh
thánh”, Nxb. Tôn giáo, đã đề cập tới việc nghiên cứu nội dung kinh thánh qua
các tư tưởng nhân văn, nhân đạo và sự quan tâm đến những người nghèo khó
trong xã hội. Qua đây, tác giả hướng tới quan niệm cho rằng: Đạo đức trong
kinh thánh mang nhiều điểm tích cực trong xã hội ngày nay.
- Hoàng Thị Lan (2011), “Phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa đạo
đức của tôn giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo, Số 4, bài viết nói lên thực trạng của việc gìn giữ, phát huy
những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức tôn giáo. Từ đó đề cập tới các giải

pháp khắc phục những mặt yếu kém, hạn chế và phát triển việc giữ gìn giá trị
tốt đẹp về văn hóa, đạo đức tôn giáo theo chiều hướng tốt gắn với thời đại.
- Trung tâm nghiên cứu tôn giáo, Trường Đại học khoa học xã hội và
nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), “Tôn giáo trong xã hội Việt Nam
hiện nay”, Nxb. Tôn giáo, đưa ra những nghiên cứu về các tôn giáo truyền

3


thống như Phật giáo, Kitô giáo… và sự tác động của nó tới con người, xã hội.
Đặc biệt tác phẩm còn đề cập tới sự khái quát về tình hình tôn giáo ở Việt
Nam vào những năm gần đây, từ đó phác họa nên cái nhìn toàn cảnh, xác thực
về mọi mặt của tôn giáo.
Những nghiên cứu về hiện tượng tôn giáo mới:
- GS. Đặng Nghiêm Vạn (2001), “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn
giáo ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, đề cập tới xu thế của tình
hình tôn giáo hiện nay và phân tích những nguyên nhân, biểu hiện của các
hiện tượng tôn giáo mới, các giáo phái ở một số quốc gia trên thế giới và ở
Việt Nam.
- TS. Lương Thị Thoa (2003), “Các trào lưu tôn giáo mới - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường đại học
Sư Phạm Hà Nội, công trình đã nêu lên cái nhìn khái quát về hiện tượng tôn giáo
mới từ những khía cạnh khác nhau về cả mặt lý luận và thực tiễn.
- Trung tâm nghiên cứu tôn giáo, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (2014), “Chủ nghĩa hậu
hiện đại và phong trào tôn giáo mới ở Việt Nam và Thế giới”, Nxb. Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, đã đề cập khá tổng thể về các hiện tượng
tôn giáo mới trên Thế giới và ở Việt Nam.
- Nguyễn Văn Minh (2014), “Các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, Số 11, bài viết đã giới thiệu

tổng quan các vấn đề cơ bản và đặc điểm, nguồn gốc, xu hướng phát triển
cùng ảnh hưởng của các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam.
- TS. Vũ Văn Chung (2016), “Tìm hiểu hiện tượng tôn giáo mới vùng
đồng bằng sông Hồng”, Nxb. Tôn giáo, tác giả đã tập trung phân tích nguyên
nhân ra đời và phát triển của các hiện tượng tôn giáo mới ở vùng đồng bằng
sông Hồng, vạch ra cái nhìn cụ thể về diễn biến hoạt động của các hiện tượng
tôn giáo mới.
4


- Trương Văn Chung (Chủ biên) (2016), “Tôn giáo mới nhận thức và
thực tiễn”, Nxb. Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, đưa ra những số
liệu được chỉnh lý mới nhất về hiện tượng tôn giáo mới diễn ra trên thế giới
cụ thể như: Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Châu Phi và ở Việt Nam, cùng việc
phân tích cơ sở lý luận một cách tương đối hệ thống đã cho cái nhìn toàn cảnh
về hiện tượng tôn giáo mới.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả trên thế
giới và trong nước đều đã đề cập từ các khía cạnh khác nhau tới tổng quan của
các hiện tượng tôn giáo mới. Đây là nguồn tư liệu quý báu và bổ ích giúp cho
chúng tôi tiếp cận và nghiên cứu, cùng với đó là sự kế thừa thành quả của những
người đi trước trong việc nắm bắt nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, vấn đề cơ bản
của các hiện tượng tôn giáo mới ở Hà Nội trong những năm gần đây.
3. Mục đích của đề tài
Đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng, tác động của hiện tượng tôn giáo
mới ở Hà Nội hiện nay, qua đó đề xuất một số khuyến nghị đối với các cấp
quản lý trong ứng xử với các hiện tượng tôn giáo mới đó.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể
- Hiện tượng tôn giáo mới
4.2. Đối tượng nghiên cứu

- Các hiện tượng tôn giáo mới tiêu biểu như: Long Hoa Di Lặc; Ngọc
Phật Hồ Chí Minh; Thanh Hải Vô Thượng Sư; Chân Không; Hoàng Thiên
Long; Hội Phật Mẫu ở Hà Nội từ năm 1986 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu làm sáng rõ được nguyên nhân hình thành, mục đích, diễn biến
hoạt động của các tổ chức tôn giáo mới ở Hà Nội hiện nay thì chúng ta sẽ thấy
được bức tranh toàn cảnh về hiện tượng tôn giáo mới đang diễn ra trên địa
5


bàn, sự ảnh hưởng của nó đối với đời sống tín ngưỡng tôn giáo, góp phần làm
tốt công tác quản lý tôn giáo của cấp lãnh đạo, ban ngành ở Hà Nội hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ thực trạng hiện tượng tôn giáo mới ở Hà Nội trong những năm
gần đây.
- Trình bày những tác động của hiện tượng tôn giáo mới đến các mặt
của đời sống xã hội.
- Đề xuất một số khuyến nghị trong ứng xử đối với hiện tượng tôn giáo
mới trong thời gian tới.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Địa bàn Hà Nội.
- Thời gian: Khoảng từ năm 1986 đến nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo, chúng tôi sử dụng các phương pháp trong nghiên cứu đề tài gồm:
- Phương pháp phỏng vấn sâu.
- Phương pháp quan sát các nghi lễ được thực hiện ở các tôn giáo mới.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điền dã.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có 2 chương, 5 tiết.

10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của đề tài
10.1. Những luận điểm cơ bản
- Các hiện tượng tôn giáo mới ở Hà Nội hiện nay tồn tại trên cơ sở
những nguyên nhân nhất định và có đặc điểm, cách thức tổ chức, tiến hành
nghi lễ đặc thù.
- Những tác động của hiện tượng tôn giáo mới tới các lĩnh vực của đời
sống xã hội là hết sức sâu sắc.
6


10.2. Đóng góp mới của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần:
- Cho cái nhìn toàn cảnh về hiện tượng tôn giáo mới đang diễn ra ở Hà
Nội hiện nay.
- Định hướng và hoạch định các chính sách về tôn giáo của các cấp, ban
ngành có liên quan.
- Là tài liệu tham khảo cho mọi người quan tâm tới vấn đề tôn giáo, tôn
giáo mới ở Hà Nội.

7


NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI
Ở HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng trong đời sống xã hội. Nó xuất hiện, tồn tại
và phát triển ở các cộng đồng người trong suốt lịch sử phát triển của nhân
loại, có những tác động sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội.

Xét về bản chất của tôn giáo, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những quan
điểm dựa trên việc phân tích bản chất xã hội của tôn giáo. C.Mác cho rằng:
“Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con người chưa tìm
được bản thân mình hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần nữa. Nhưng
con người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế
giới. Con người chính là thế giới con người, là Nhà nước, là xã hội. Nhà
nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, tức thế giới quan lộn ngược” [23,
569-570]. Và: “Tôn giáo là lí luận chung của thế giới ấy, là cương yếu bách
khoa của nó, là logic hình thức phổ cập của nó, là sự chuyển y về mặt đạo
đức của nó, là sự bổ sung trang nghiêm của nó, là căn ái phổ biến mà nó
dựa vào và biện hộ. Tôn giáo biến bản chất con người thành tính hiện thực
ảo tưởng, vì bản chất con người không có tính hiện thực thực sự… Sự
nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là
sự phản kháng chống cự sự nghèo nàn ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của
chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống
như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc
phiện của nhân dân” [23, 569-570].
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ăngghen đã xét tôn giáo dưới dạng
hình thái ý thức xã hội: “Tất cả các tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư
8


ảo vào trong đầu óc của con người của những lực lượng ở bên ngoài chi phối
cuộc sống hằng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở
trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” [24, 437-438].
Theo đó ta thấy, C.Mác đã chỉ rõ bản chất xã hội của tôn giáo và cho
thấy con người đã sản sinh ra tôn giáo và tôn giáo tác động trở lại bằng việc
nó phản ánh thế giới tâm linh của con người, chứ không phải có tôn giáo, có
môi trường tôn giáo mới sinh ra con người. Thêm vào đó, Ph.Ăngghen cũng
vạch ra được bản chất hiện thực của tôn giáo khi xem tôn giáo là một hình

thái ý thức xã hội. Do vậy, cũng tương đồng với quan điểm của C.Mác,
Ph.Ăngnghen đã khẳng định đời sống tâm linh của con người được ẩn trong
tôn giáo. Tôn giáo là “lực lượng siêu trần thế” bằng những yếu tố hư ảo nhằm
giúp trấn an tinh thần cho con người vượt qua những bế tắc, lầm than trong
cuộc sống thực tại.
1.1.2. Tôn giáo mới và hiện tượng tôn giáo mới
1.1.2.1. Tôn giáo mới
Tôn giáo mới là một hiện tượng xã hội đặc biệt mang nhiều yếu tố phức
tạp. Hiện tại chưa có một định nghĩa chung nhất về thuật ngữ tôn giáo mới.
Các nhà nghiên cứu trong nước và trên thế giới đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về thuật ngữ này.
Giáo sư Inoue Nobutaka của đại học Kogakuin Nhật Bản đã đưa ra 4
cách hiểu về thuật ngữ tôn giáo mới gồm:
“Tôn giáo mới là các tôn giáo xuất hiện từ khoảng đầu thế kỷ XIX.
Tôn giáo mới là các tôn giáo xuất hiện khoảng trong thời kỳ Duy Tân
Minh Trị đến nay.
Tôn giáo mới là các tôn giáo xuất hiện từ đầu thế kỷ XX.
Tôn giáo mới xuất hiện sau thế chiến thứ II” [43, 70].

9


PGS.TS Trương Văn Chung đưa ra nhận xét: “Bản thân thuật ngữ tôn
giáo mới còn rất mơ hồ, không bao quát hết được tính đa dạng, tính không ổn
định, đặc trưng, các chiều kích tôn giáo…” [43, 298].
Qua đó, ta thấy để hiểu về thuật ngữ “Tôn giáo mới” không chỉ bàn về
thời điểm xuất hiện của thuật ngữ này. Bởi lẽ, chưa có một nghiên cứu cụ thể
nào đưa ra được con số về sự xuất hiện, ra đời của thuật ngữ này một cách
chính xác nhất. Thế nên, muốn hiểu được thuật ngữ tôn giáo mới ta phải xét
tới chức năng của nó. Tiêu biểu như tác giả Jonh Saliba với công trình nghiên

cứu, tìm hiểu về tôn giáo mới của mình đã cố gắng đưa ra định nghĩa về thuật
ngữ tôn giáo mới một cách cụ thể, chi tiết theo ba nguyên tắc tiếp cận là: triết
học - tôn giáo, xã hội học - tôn giáo, tâm lý học - tôn giáo. Điều đó được thể
hiện như sau:
“1. Định nghĩa Triết học - Tôn giáo (Định nghĩa thần học): Ông đưa ra
định nghĩa mang tính điển hình của Wanter Raston Martin (1928 - 1989) là:
“một tôn giáo mới là một nhóm tín đồ tự phát, bao quanh một lãnh tụ tinh
thần hay một nhóm giảng dạy phủ nhận hoặc giải thích sai lệch giáo lý thiết
yếu của Kinh Thánh”
2. Định nghĩa Xã hội học - Tôn giáo: Tôn giáo mới là một tổ chức xã
hội có một lãnh tụ tinh thần và một nhóm tín đồ có đời sống tâm linh và sinh
hoạt tôn giáo khép kín hoặc cách ly với xã hội thông thường.
3. Định nghĩa Tâm lý học - Tôn giáo: Tôn giáo mới là hình thức tôn
giáo đặc biệt phản kháng của tâm thức lo âu, chán nản bất lực trước những
biến động, những thay đổi quá lớn của xã hội làm tổn thương đời sống tinh
thần của một nhóm người” [43, 146-147].
Bên cạnh đó, đứng trên phương diện Triết học - Tôn giáo thì PGS.TS
Trương Văn Chung cho rằng: “Những hình thức tổ chức, giáo lý, nghi lễ và
niềm tin khác biệt, độc lập với tôn giáo thông thường, tôn giáo truyền thống,
chúng phản ánh những biến động lớn của đời sống văn hóa, tinh thần xã hội
10


đương đại và nhu cầu chuyển đổi tâm linh của một nhóm người trong môi
trường văn hóa - xã hội cụ thể” [43, 147].
Tựu chung lại, thuật ngữ tôn giáo mới xuất hiện khi có sự biến động về
chính trị - kinh tế - xã hội trên phạm vi ảnh hưởng trực tiếp tới mọi mặt của
đời sống xã hội cư dân. Tôn giáo mới là hình thức tôn giáo đặc biệt và vô
cùng phức tạp, được hình thành từ một nhóm tín đồ, đi đầu là người khởi
xướng và sáng lập ra hình thức tôn giáo đó. Tôn giáo mới thực hiện các nghi

lễ không theo quy định rõ ràng hay không thuộc các hình thức tôn giáo truyền
thống và đi ngược lại với mục đích của tôn giáo truyền thống. Mặt khác còn
là sự cứu thế cho những người tin theo thoát tình trạng tiêu cực, bần cùng về
mặt tinh thần do gặp những khó khăn mà cuộc sống thực tại đem lại.
1.1.2.2. Hiện tượng tôn giáo mới
Với biểu hiện của các hình thức tôn giáo mới diễn ra rộng khắp như
“nấm mọc sau mưa” ở cả các nước phương Đông và phương Tây, những nhà
nghiên cứu cũng đưa ra nhiều tên gọi khác nhau để chỉ vấn đề này.
Các học giả Âu - Mỹ đã trải qua quá trình nghiên cứu tỉ mỉ, sâu sắc và
đi tới một cách gọi thống nhất là “tôn giáo mới” hay “phong trào tôn giáo
mới”. Tuy nhiên thì họ cũng cho rằng: “Việc sử dụng thuật ngữ “phong trào
tôn giáo mới” tuy chưa bao quát làm rõ ngoại diên và nội hàm của các loại
hình tôn giáo mới, song nó cho phép người nghiên cứu gạt bỏ những định
kiến tiêu cực và không bị áp đặt bởi khuôn mẫu văn hóa truyền thống” [43,
141]. Hơn nữa, các học giả cũng khẳng định: “Tôn giáo mới là một cụm từ có
tính khái quát hơn so với thuật ngữ đã sử dụng để chỉ các “hiện tượng tôn
giáo mới” như “tôn giáo lạ”, “tôn giáo nguy hiểm”, “tôn giáo bên lề”, “tôn
giáo khác thường”, “tôn giáo phi truyền thống”… để đi tới chấp nhận cụm từ
“tôn giáo mới”” [43, 139].
Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu lại đưa ra các cách gọi khác như nhà
nghiên cứu J.P.Willaime gọi là “các giáo phái trong ngoặc kép” (les sectes)
11


[37, 10] hoặc nhà nghiên cứu F.Champion lại sử dụng thuật ngữ mang đậm
hình ảnh tượng trưng: ““Tôn giáo bồng bềnh”với hàm ý chỉ các hình thức tôn
giáo mới là thứ tôn giáo lờ mờ (religion diffusé) thứ tôn giáo theo lối chia bài,
tùy ý (religion à la carte)” [37, 10].
Ở nước có điều kiện kinh tế phát triển, có bối cảnh chính trị biến động
như Liên Bang Nga thì đưa ra cách gọi về vấn đề tôn giáo mới lạ, tự phát hay

du nhập là “tôn giáo dung hợp”. Theo tác giả N.S.Capustin trong tác phẩm
“sự tiến triển đặc biệt của tôn giáo” cho rằng: “những hình thức tôn giáo mới
lạ là sự phản ánh những thay đổi to lớn về thể chế kinh tế và văn hóa - xã hội,
chúng luôn mượn các hình thức cũ để phản ứng lại hoặc thích ứng với những
thay đổi nhu cầu tâm linh tôn giáo”. Ông gọi đó là những tôn giáo dung hợp
(Religious synrestive): “Đó là những hình thức tôn giáo pha trộn, liên hợp,
hỗn dung các yếu tố, bộ phận của nhiều tôn giáo khác nhau, tạo nên một hình
thức mới” [43, 141].
Ở Việt Nam, ngoài những tên gọi được sử dụng như “đạo lạ”, “tôn giáo
bồng bềnh” thì các nhà nghiên cứu tôn giáo nghiêng về sử dụng tên gọi “hiện
tượng tôn giáo mới”.
Với thuật ngữ “hiện tượng tôn giáo mới” thì “Từ “phenomena”, tức là
“các hiện tượng” rất mềm với tư duy của người Việt Nam. Nếu dùng từ
“movement”, thì có vẻ hơi khẳng định, còn nếu dùng từ “phong trào” thì
mang nghĩa khẳng định một cái gì đó đã phát triển, rất đang phát triển… Còn
cụm từ “tôn giáo mới” (New religion) lại có khi nó đơn giản quá khiến người
ta không hiểu hết ý được” [43, 224].
Qua đó ta thấy, việc sử dụng thuật ngữ “Hiện tượng tôn giáo mới” là ưu
việt hơn hẳn các tên gọi khác. “Hiện tượng tôn giáo mới” là những tổ chức
tôn giáo mới xuất hiện, không đồng nhất với tôn giáo truyền thống. Được tạo
ra dưới hình thức tôn giáo đặc biệt mang tính chất tôn giáo có người đứng đầu
như “giáo chủ” sáng lập ra tôn giáo đó, lôi kéo tín đồ, hướng tín đồ đi theo
12


những lễ nghi, thủ tục không chính thống, không rõ ràng và không được sự
cấp phép của các cơ quan chính quyền Nhà nước. “Hiện tượng tôn giáo mới”
xuất hiện khi có sự biến động, chuyển đổi về tình hình kinh tế - chính trị - xã
hội nảy sinh sự bế tắc, bất ổn về tinh thần của một bộ phận dân cư chưa bắt
kịp với sự biến động, thay đổi đó. Lợi dụng kẽ hở này mà những “Hiện tượng

tôn giáo mới” lan tràn, phát triển nhanh chóng và gây ra những ảnh hưởng sâu
sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội.
1.1.3. Giáo hội, giáo phái, chính đạo, tà đạo
- Giáo hội và giáo phái
Giáo hội và giáo phái là hai khái niệm mà ranh giới giữa chúng chỉ
mang tính tương đối. Trong những công trình nghiên cứu của mình các nhà
nghiên cứu đã cố gắng đưa ra khái niệm khái quát nhất để chỉ những thuật
ngữ này.
Theo GS.TS Đỗ Quang Hưng thì: “Giáo hội chỉ tập hợp những cộng đồng
đoàn người có cùng tín ngưỡng đức tin. Là tổ chức trần thế của tôn giáo mà ở đó
quyền lực thần thánh thiêng liêng được thực thi qua các chức năng thế tục như
duy trì, truyền bá giáo lý, giáo luật, củng cố niềm tin tôn giáo, thực hành các lễ
nghi tôn giáo, quản lý và giám sát mọi hoạt động của đời sống đạo… Giáo hội
như là một tổ chức công đoàn (chức sắc và tín đồ) cùng với ba yếu tố khác: giáo
chủ sáng lập, giáo lý - giáo luật và hệ thống nghi lễ, tạo nên một tôn giáo” [19,
223-243]. Và có thể hiểu giáo hội theo nghĩa hẹp là “Chỉ những đoàn trong một
tổ chức của các nhóm phái, các giáo phái” [19, 223-243].
Bên cạnh đó, giáo phái lại là khái niệm “dùng để chỉ các nhóm tách biệt từ
các tôn giáo, biến thể từ một tôn giáo gốc mà ra” [37, 12] hay TS. Vũ Văn Chung
cũng đưa ra quan điểm của mình tương đồng với tư tưởng trên
“Giáo phái phản ánh sự chia tách tôn giáo, trong tiến trình phát triển
của nó, từ một tôn giáo gốc ban đầu, do những yêu cầu khách quan và chủ
13


quan của lịch sử mang lại. Đó là những biến thể được hình thành từ một tôn
giáo gốc, qua sự phân tách về mặt tổ chức giáo hội, sự khác biệt ít nhiều về
giáo lý, phương thức tu trì và hoạt động nhưng nói chung vẫn giữ căn gốc về
thần học, giáo lý của tôn giáo ban đầu” [5, 9].
Mặt khác, khi phân biệt giữa giáo hội và giáo phái, PGS.TS Nguyễn

Quang Hưng cho rằng: “giáo hội ám chỉ những tổ chức tôn giáo đã được thừa
nhận, được hợp thức hóa từ phía nhà cầm quyền và có tư cách pháp nhân xã
hội, còn giáo phái phần nhiều chưa có được tính chính danh ngay từ phía giáo
hội của tôn giáo mẹ” [43, 179].
Qua đó ta thấy, giáo hội là khái niệm dùng để chỉ tổ chức bao gồm
đông đảo những người có cùng niềm tin tôn giáo và thực hiện theo các giáo
lý, nghi lễ mà tổ chức đặt ra dưới sự trụ trì của người đứng đầu và được xã
hội thừa nhận.
Giáo phái là khái niệm nói lên một bộ phận người tin theo ở tôn giáo có
trước tự nguyện tập hợp hình thành nên một tổ chức riêng biệt. Nhìn chung tổ
chức này vẫn sử dụng các giáo lý hay nghi lễ của tôn giáo gốc nhưng có sự
biến đổi khác đi.
- Chính đạo và tà đạo
Chính đạo và tà đạo là hai khái niệm đối lập nhau, nói lên tính chất của
tôn giáo.
Chính đạo được hiểu là tính chính thống, là tôn giáo được số đông
người trong xã hội công nhận, tin theo và đem lại lợi ích tốt đẹp cho họ, được
pháp luật thừa nhận.
Tà đạo lại mang nghĩa ngược lại, là khái niệm dùng để chỉ tính không
chính thống, là tổ chức tôn giáo không được xã hội công nhận, là tổ chức tôn
giáo mang màu sắc của sự mê tín dị đoan, có những lễ nghi đi ngược lại với
đạo đức xã hội, gieo rắc mầm mống độc hại.
14


1.2. Cơ sở hình thành và tồn tại của hiện tượng tôn giáo mới ở Hà Nội
hiện nay
Hà Nội là một trong những trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa bậc
nhất của cả nước, mang trong mình “thế rồng cuộn hổ ngồi” cùng những nét
đặc trưng tiêu biểu nên Hà Nội - Thủ đô ngàn năm văn hiến, trở thành trái tim

của cả nước.
Cùng với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước, Hà
Nội mang những diện mạo mới, những thay đổi lớn về tất cả các mặt của đời
sống xã hội. Chính vì vậy, đã tạo ra môi trường gây những tác động trực tiếp
tới việc hình thành và tồn tại của các hiện tượng tôn giáo mới đang diễn ra
trên địa bàn.
1.2.1. Điều kiện địa lý - tự nhiên

Hình 1.1: Hồ Gươm Hà Nội
Nguồn: Internet
“Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây.
Đây lắng hồn núi sông ngàn năm.
Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội,
Hà Nội mến yêu!”
15


Những giai điệu đầu tiên của bài hát “Người Hà Nội” do nhạc sĩ
Nguyễn Đình Thi sáng tác vang lên đã mở ra một “Hà Nội mến yêu”, một Hà
Nội đượm vẻ đẹp từ dáng hình. Hà Nội như được “Trời phú” cho điều kiện tự
nhiên vô cùng thuận lợi với thế “rồng cuộn hổ ngồi”. Hà Nội nằm ở vị trí
trung tâm của đồng bằng sông Hồng, là mối giao thương huyết mạch cả về
đường bộ, đường thủy, đường sắt và đường hàng không tạo cơ hội thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế giữa các vùng, các khu vực và trên thế giới. Hơn nữa,
Hà Nội 36 phố phường còn là trung tâm văn hóa, là Thủ đô ngàn năm văn
hiến, thành phố vì hòa bình cùng những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như:
hồ Hoàn Kiếm, chùa Một Cột, Hoàng Thành Thăng Long… đã mở ra những
hướng phát triển du lịch thuận lợi, thu hút đông đảo lượng khách tham quan.
Hà Nội còn là nơi hội tụ của các cơ quan đầu não về chính trị lớn nhất cả
nước. Chính vì vậy, so với các thành phố, địa phương khác thì Hà Nội là

trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa tiêu biểu. Vì lẽ đó, Hà Nội luôn là nơi
được tiếp cận với nhiều điều kiện thuận lợi nhất, mới nhất nhằm phát triển
mọi mặt của đời sống xã hội. Nhưng đây cũng trở thành môi trường màu mỡ
để “Hiện tượng tôn giáo mới” lan tràn, phát triển với tốc độ nhanh, mạnh.
Bên cạnh đó, đi liền với quá trình phát triển kinh tế, xã hội và vươn
mình ra thế giới đòi hỏi Hà Nội phải mở rộng cơ hội cho nhiều nguồn đầu tư
phát triển trên địa bàn. Do vậy, với quỹ đất vốn có Hà Nội cần phải tăng thêm
diện tích tạo ra môi trường thuận lợi cho việc mở rộng sản xuất, mở rộng khu
vực kinh doanh…
Năm 2008, Hà Nội chính thức mở rộng địa chính sát nhập thêm tỉnh Hà
Tây, huyện Mê linh của tỉnh Vĩnh Phúc và bốn xã của huyện Lương Sơn, tỉnh
Hòa Bình. Diện tích toàn Hà Nội được nâng lên đạt hơn 3.300 km 2 và lọt vào
tốp 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới. Hà Nội có 12 quận, 17 huyện và 1
thị xã.
16


Hình 1.2: Bản đồ địa chính Hà Nội sau thay đổi năm 2008
Nguồn: Internet
Đây trở thành điều kiện vô cùng thuận lợi với quỹ đất lớn đã tạo cơ sở
cho việc phát triển, mở rộng sản xuất, xây dựng các khu công nghiệp hiện đại,
các khu đô thị cao tầng cùng các khu thương mại sầm uất. Ngoài ra, tận dụng
những tiềm năng phát triển về du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, tâm linh của các
địa phương được sát nhập, Hà Nội ngày càng mở rộng đầu tư và phát triển du
lịch nhiều hơn. Nhưng ở một khía cạnh khác, khi thực hiện việc mở rộng địa
chính thì vấn đề về quản lý đô thị lại được đặt ra bởi dân số đông nhu cầu về
chỗ ở tăng cao, tốc độ đô thị hóa nhanh gây ra những mặt trái tác động trực
tiếp tới đời sống dân cư, làm cho lối sống của họ dần bị thay đổi ít nhiều. Mặt
khác, thay đổi địa chính cũng liên quan trực tiếp tới vấn đề văn hóa. Khi mỗi
địa phương vùng miền có những nét văn hóa đặc trưng riêng. Mang nét riêng

17


hòa nhập với cái chung hình thành nên những khe hở, khoảng trống mà không
được quản lý tốt, đề cập kịp thời sẽ dễ bị các đối tượng xấu lợi dụng tạo nên
môi trường tín ngưỡng, tâm linh mang tính hủ tục, lạc hậu, đi ngược lại với
thuần phong mỹ tục. Thêm vào đó, mở rộng địa chính cũng khiến cho những
người dân vốn sống ở những địa phương mà điều kiện kinh tế, xã hội thấp
hơn phải chạy theo tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của nội thành. Đây là
một bài toán khó, trước bối cảnh kinh tế nhiều biến động khiến không ít cư
dân chủ yếu ở ngoại thành mang tâm trạng hoang mang, lo sợ. Trở thành điểm
yếu tạo điều kiện cho các “Hiện tượng tôn giáo mới” phát sinh, phát triển.
Qua đó, ta thấy với điều kiện địa lý - tự nhiên của Hà Nội không chỉ
mang lại nét đẹp riêng cho Hà Nội, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội
thì ở một khía cạnh khác, nó cũng tạo ra môi trường màu mỡ, kích thích sự
nảy sinh, lan truyền và phát triển cho các “Hiện tượng tôn giáo mới”.
1.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, mở rộng giao lưu giữa các nước trong
khu vực và trên thế giới thì Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng cũng tích
cực tham gia vào công cuộc đó. Ngoài những lợi ích được đem lại thì toàn cầu
hóa cũng tạo cho Hà Nội không ít những thách thức và khó khăn nhất định.
Có thể thấy rằng, toàn cầu hóa với sự hội nhập quốc tế sâu rộng từ việc
chuyển giao khoa học công nghệ, tiếp thu những công nghệ mới tiên tiến từ
các nước trên thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy tiến trình phát triển
công nghiệp hóa và hiện đại hóa trên địa bàn Hà Nội. Bên cạnh đó, các lĩnh
vực như giáo dục, thương mại, y tế… cũng có những cơ hội phát triển lớn
mạnh như các chương trình giáo dục liên kết với nước ngoài giúp cho học
sinh, sinh viên có thể du học tại những môi trường giáo dục tốt nhất trên thế
giới, hay điều kiện giáo dục trong nước cũng được nâng cao rõ rệt… Hơn
nữa, toàn cầu hóa cũng giúp cho Hà Nội thu hút được vốn đầu tư lớn từ nước

18


×