Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Nâng cao nhận thức về thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh yên bái hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

HÀ THỊ DUYÊN

NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ THẾ GIỚI QUAN
DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP HUYỆN Ở TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

HÀ THỊ DUYÊN

NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ THẾ GIỚI QUAN
DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP HUYỆN Ở TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ VÂN ANH

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Lê Thị Vân Anh đã tận tâm,
nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo
trong Khoa sau Đại học, Khoa Triết học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thực
hiện đề tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời tri ân đến các đồng chí lãnh đạo Tỉnh Yên Bái,
các ban, ngành của Tỉnh, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp tại Tỉnh Yên Bái những người đã luôn tạo điều kiện, động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian qua để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả

Hà Thị Duyên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, luận văn thạc sĩ Triết học với đề tài: “Nâng cao
nhận thức về thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện ở tỉnh Yên Bái hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Thị Vân Anh.
Các số liệu, trích dẫn và tài liệu tham khảo trong luận văn là hoàn toàn
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017

Tác giả

Hà Thị Duyên


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 4
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ...................................................... 4
5. Giả thuyết khoa học ............................................................................... 4
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 5
7. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 5
8. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 5
9. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn ...................... 5
10. Kết cấu của luận văn ........................................................................... 6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO NHẬN THỨC
VỀ THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN ......................................... 7

1.1. Một số khái niệm cơ bản .......................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm thế giới quan duy vật biện chứng ................................... 7
1.1.2. Khái niệm nâng cao nhận thức thế giới quan duy vật biện chứng ............ 13
1.1.3. Khái niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ......................... 15
1.2. Đặc điểm, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ................. 18

1.2.1. Một số đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện............. 18
1.2.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện trong hoạt
động lãnh đạo quản lý, phát triển kinh - xã hội ở tỉnh Yên Bái ............ 21
1.3. Ý nghĩa của việc nâng cao nhận thức thế giới quan duy vật
biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ........................... 23
1.4. Nhân tố ảnh hưởng tới thế giới quan duy vật biện chứng của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Yên Bái ............................ 30
1.4.1. Nhân tố con người ......................................................................... 30
1.4.2. Ảnh hưởng của nhân tố kinh tế ..................................................... 32
1.4.3. Nhân tố văn hóa - xã hội ............................................................... 36


1.4.4. Nhân tố giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ........................ 42
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 44
Chương 2: NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT
BIỆN CHỨNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP
HUYỆN Ở TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY - THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP .............................................................................. 46

2.1. Một vài nét về tỉnh Yên Bái ................................................................... 46
2.2. Thực trạng nâng cao nhận thức về thế giới quan duy vật
biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Yên
Bái hiện nay ............................................................................................ 49
2.2.1. Thực trạng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện ........................................................... 49
2.2.2. Những thành tựu đạt được trong việc nâng cao nhận thức
về thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp huyện ở Yên Bái hiện nay ....................................... 53
2.2.3. Những hạn chế của việc nâng cao nhận thức về thế giới
quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

huyện ở tỉnh Yên Bái hiện nay....................................................... 68
2.2.4. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong việc
nâng cao nhận thức về thế giới quan duy vật biện chứng
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Yên Bái
hiện nay......................................................................................... 74
2.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao nhận thức về thế
giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyên ở tỉnh Yên Bái hiện nay ...................................................... 80
2.3.1. Nhóm giải pháp về công tác xây dựng Đảng ................................ 80
2.3.2. Nhóm giải pháp về kinh tế ............................................................ 83
2.3.3. Nhóm giải pháp về giáo dục - đào tạo........................................... 88
2.3.4. Nhóm giải pháp về bản thân cán bộ chủ chốt ............................... 93
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 100
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 103


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ

Bảng 2.1: Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ chủ chốt ....................... 50
Bảng 2.2: Báo cáo kết quả thực hiện mục tiêu đào tạo bồi dưỡng cán
bộ công chức giai đoạn 2011 - 2015 .............................................. 54
Bảng 2.3: Trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện .......................... 63
Biểu đồ 1: Các thành phần dân tộc của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện .............................................................................................. 62


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Thế giới quan khoa học là cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và định hướng đúng đắn cho hoạt động thực
tiễn. Hay nói cách khác thế giới quan khoa học có vai trò quan trọng trọng
nhận thức và cải tạo thực tiễn. Do đó việc giáo dục, nâng cao nhận thức về thế
giới quan duy vật biện chứng - thế giới quan khoa học cho đội ngũ cán bộ của
Đảng không chỉ là việc làm thường xuyên, lâu dài mà còn là vấn đề cấp thiết
trong công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta.
Nước ta đang trong quá trình xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Mặc dù trong quá trình hội nhập đã tạo ra nhiều cơ hội thúc đẩy
phát triển kinh tế - chính trị - xã hội. Nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng gặp
không ít khó khăn và thử thách. Do vậy để đưa đất nước sánh kịp các nước
trong khu vực và trên thế giới, vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp có đủ bản
lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo những
nhiệm vụ kinh tế, chính trị, tư tưởng của Đảng của Nhà nước phù hợp với
những quy luật khách quan. Đó là yêu cầu quan trọng và cần thiết hiện nay.
Tỉnh Yên Bái là tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa, là một trong mười
ba tỉnh vùng núi phía Bắc. Địa hình đồi núi khá phức tạp, khí hậu khắc nghiệt
diễn biến nhiều thiên tai. Trong địa bàn tỉnh có thành phố Yên Bái, thị xã
Nghĩa Lộ và 7 huyện với 30 dân tộc cùng sinh sống nên đã hình thành nên
những bản sắc dân tộc phong phú và đa dạng. Do vậy đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế chính trị, an ninh quốc
phòng trong tỉnh. Chính họ đã có đóng góp to lớn trong việc xây dựng và bảo
vệ quê hương phát huy truyền thống dân tộc góp phần xây dựng thành phố
văn minh giàu đẹp. Tuy nhiên trong tình hình cách mạng mới, một bộ phận


2
cán bộ đã xuất hiện những biểu hiện hạn chế nhất định về trình độ năng lực tư
duy sáng tạo, phẩm chất, tổ chức thực tiễn. v.v. trong đó có sự hạn chế về thế

giới quan duy vật biện chứng. Vì vậy việc tìm hiểu những thực trạng đó đưa
ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao nhận thức về thế giới quan duy vật
biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện là cần thiết và cấp bách.
Từ những căn cứ trên nhằm khắc phục những hạn chế và phát huy
những thành quả đã đạt được góp phần xây dựng con người mới, xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra, tác
giả đã chọn đề tài: “Nâng cao nhận thức về thế giới quan duy vật biện
chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Yên Bái hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về thế giới quan duy vật
biện chứng ở những góc độ khác nhau, với những nội dung và đối tượng trong
những hoàn cảnh và phạm vi cụ thể như:
• Nhóm công trình nghiên cứu về thế giới quan khoa học
Tác giả Bùi Ngọc với bài viết “Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch
sử”, đăng ở Tạp chí thông tin khoa học xã hội,1981, số 8. Trong bài viết này
tác giả tập trung phân tích sự hình thành và phát triển của thế giới quan khoa
học là một tất yếu lịch sử.
Lê Xuân Vũ khẳng định: “Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống
tinh thần của nhân dân ta”, Tạp chí Cộng sản, 186, số 6. Trong đó tác giả đã
có sự lý giải khá thuyết phục tầm quan trọng của thế giới quan Mác - Lênin
trong đời sống xã hội Việt Nam.
• Nhóm công trình nghiên cứu về thế giới quan duy vật biện chứng đối
với học sinh, sinh viên.
Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn đã tiếp cận vấn đề thế giới quan từ khía
cạnh sinh học, trong bài “Một số khía cạnh về vai trò của sinh học hiện đại


3
đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học”, đăng ở Tạp chí
triết học 1988, số 3. Còn Nguyễn Thị Luyến, Bùi Kiến Thưởng và Nguyễn

Thị Nết lại tìm đến đối tượng là sinh viên hay học viên, như: “Vấn đề bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị tỉnh Hà
Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ triết học của Bùi Kiến Thưởng, Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. Hay “Vấn đề giáo dục thế giới quan duy
vật biện chứng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội hiện nay”,
luận văn thạc sĩ triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005 của
Nguyễn Thị Luyến và “Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho học
sinh trung học phổ thông huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương hiện nay”, Luận
văn thạc sĩ khoa học triết học, trường Đại học sư phạm Hà Nội, 2012.
• Nhóm các bài nghiên cứu ở một số khu vực nhất định
Các tác giả: Trần Thanh Hà, Nguyễn Thị Luyến, Bùi Kiến Thưởng,Đỗ
Việt Hưng, Nguyễn Thị Nết tập trung nghiên cứu thế giới quan của đội ngũ
cán bộ đảng viên ở một số khu vực nhất định. Nếu tác giả Trần Thanh Hà
nghiên cứu “Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ đảng viên
người dân tộc Kh’mer ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
1993 và Đỗ Việt Hưng nghiên cứu “Nâng cao chất lượng bồi dưỡng thế giới
quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở quận Hồng Bàng”,
Luận văn thạc sĩ triết học, trường Đại học sư phạm Hà Nội, 2014.
Tác giả Bùi Ỉnh đã nghiên cứu “Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật
biện chứng đối với cán bộ đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Luận án PTS Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1988. Còn tác giả Trần Thước tập trung
nghiên cứu thế giới quan của riêng đội ngũ trí thức: “Sự hình thành thế giới


4
quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức ở Việt Nam”, luận án PTS Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993.
Tất cả các bài viết, đề tài nghiên cứu trên đã đề cập tới khái niệm thế

giới quan duy vật biện chứng, chức năng và cấu trúc nội dung của thế giới
quan, các hình thức phát triển của thế giới quan, làm rõ thế giới quan duy vật
và thế giới quan duy tâm, nội dung và bản chất của thế giới quan duy vật biện
chứng, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho cán bộ đảng viên, sinh
viên các trường đại học cao đẳng. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu “Nâng cao nhận thức về thế giới quan duy vật biện chứng cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Yên Bái hiện nay”
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng thế giới quan duy vật biện chứng và
việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện ở Yên Bái hiện nay, luận văn đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao nhận thức về thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp huyện ở Yên Bái hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của luận văn là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở tỉnh Yên Bái hiện nay.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu Nâng cao nhận thức về thế giới quan
duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Yên Bái
hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Nâng cao nhận thức về thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Yên Bái hiện nay rất có thể khắc phục được
những hạn chế trong công tác quản lý, lãnh đạo của người cán bộ.


5
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn làm rõ:

- Các vấn đề lý luận của đề tài, các khái niệm cơ bản như: nhận thức,
nâng cao, nâng cao nhận thức, đội ngũ cán bộ chủ chốt, thế giới quan duy vật
biện chứng.
- Đánh giá thực trạng, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao nhận thức về thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện ở tỉnh Yên Bái hiện nay.
7. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề bồi dưỡng, nâng cao nhận thức
về thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở
tỉnh Yên Bái từ 1986 đến nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp một số phương pháp
cụ thể như: phân tích - tổng hợp; quy nạp - diễn dịch; lịch sử - logic, so sánh đối chiếu, thống kê điều tra xã hội học trong việc nghiên cứu vấn đề.
9. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
9.1. Những luận điểm cơ bản
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò vô cùng quan trọng đối với
người cán bộ chủ chốt, là yếu tố then chốt cho hoạt động nhận thức và thực
tiễn của họ
Nâng cao thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
là một yêu cầu cấp thiết hiện nay trên mặt trận tư tưởng của Đảng ta.
Để nâng cao được nhận thức về thế giới quan duy vật biện chứng cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Yên Bái thì phải tìm được những
hạn chế và đưa ra những giải pháp cụ thể.


6
9.2. Đóng góp mới của luận văn
Góp phần làm sáng tỏ vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối
với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Yên Bái hiện nay.

Bước đầu đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở tỉnh Yên Bái hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu cho việc tham khảo cho việc định chiến
lược, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Yên Bái
hiện nay.
Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu giảng dạy và
học tập ở các trường chính trị, trung tâm bồi dưỡng chính trị.
10. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
bảng biểu và sơ đồ luận văn gồm 2 chương, 7 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO NHẬN THỨC
VỀ THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm thế giới quan duy vật biện chứng
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội, có sự thống
nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội. Cho nên “Bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ
xã hội” [43, tr.11]. Trong lịch sử triết học, các nhà triết học trước hết phải giải
đáp vấn đề bản chất của thế giới là gì? Là vật chất hay tinh thần? Các nhà triết
học cho rằng, bản chất của thế giới là vật chất. Ngược lại các nhà triết học
duy tâm lại cho rằng, bản chất của thế giới là tinh thần. Quan điểm của các
nhà triết học duy vật không ngừng bổ sung và phát triển gắn liền với sự phát
triển của khoa học và thực tiễn. Kế thừa tư tưởng của các nhà triết học duy vật

căn cứ vào thành tựu của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật đi đến khẳng
định rằng: Bản chất của thế giới là vật chất; thế giới thống nhất ở tính vật chất
và vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức, quyết định ý thức
và được ý thức phản ánh.
Thế giới quan chính là biểu hiện của cách nhìn bao quoát (bức tranh)
đối với thế giới bên ngoài, cả con người và cả mối quan hệ của con người với
thế giới. Cho nên con người luôn luôn đặt ra những câu hỏi cẩn phải làm rõ
trong quá trình phát triển của mình như: Thế giới quanh ta là gì? Nó có bắt
đầu và kết thúc không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và biến đổi của nó?
Con người là gì? Quan hệ của nó với thế giới bên ngoài ra sao? Nó có thể biết


8
gì và làm gì với thế giới đó? Vì sao có người tốt, kẻ xấu? Cuộc sống con
người có ý nghĩa gì? Những câu hỏi như vậy được đặt ra với mức độ khác
nhau đối với con người từ thời nguyên thủy cho đến ngày nay và cả mai sau.
Giải đáp những vấn đề cơ bản thiết thực nói trên, sẽ hình thành ở con người
những quan điểm, quan niệm của họ về thế giới, về vai trò của con người
trong thế giới. Đó chính là thế giới quan. Tác giả A-ki-tốp viết: Tổng hợp tất
cả những quan niệm chính kiến về thế giới, về cấu trúc, về nguồn gốc của nó,
ý nghĩa và giá trị về đời sống con người, lòng tin của con người trong hiện
thực được được gọi là thế giới quan. Theo Từ điển triết học (Liên Xô) bản
dịch ra Tiếng Việt thì thế giới quan là “Toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm
và niềm tin quy định hướng hoạt động và quan hệ của từng người, của một
tập đoàn xã hội, của một giai cấp hay của xã hội nói chung đối với thực tại”
[62, tr.539]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì thế giới quan là “Hệ thống
tổng quoát những quan điểm của con người về thế giới (toàn bộ sự vật thuộc
hiện tượng tự nhiên và xã hội) về vị trí của con người trong thế giới đó và về
những qui tắc xử sự do con người đề ra trong thực tiễn xã hội’’ [59, tr.202].
Tác giả Bùi Ỉnh cho rằng: “thế giới quan là hệ thống những quan điểm của

một chủ thể về thế giới, về những hiện tượng tự nhiên và các quy trình phát
triển của chúng, về bản thân con người, về vị trí và vai trò của con người
trước thế giới” [26, tr. 10]. Từ các quan niệm khác nhau về thế giới quan, ta
có thể hiểu: Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con
người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và về vị trí của con
người trong thế giới ấy. Cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người,
thế giới quan được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, song có ba hình
thức cơ bản đó là: Thế giới quan thần thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới
quan triết học. Trong ba hình thức thế giới quan chủ yếu nói trên thì thế giới
quan triết học là thế giới quan có trình độ phát triển cao hơn, sâu sắc hơn so


9
với thế giới quan thần thoại và tôn giáo. Trong thế giới quan triết học lại bao
gồm nhiều loại khác nhau như: thế giới quan duy tâm, thế giới quan duy vật
siêu hình và thế giới quan duy vật biện chứng.
Thế giới quan duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của
thế giới quan triết học duy vật, khoa học. Thế giới quan triết học duy vật biện
chứng ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX do C. Mác và Ph. Ăngghen
xây dựng sau đó được V.I.Lênin phát triển. Triết học duy vật biện chứng “đã
khắc phục được những hạn chế của thế giới triết học duy vật thô sơ, mộc
mạc; thế giới quan triết học duy vật siêu hình” [33, tr.13].
Bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng được thể hiện: Thế giới
quan duy vật biện chứng giải quyết một cách khoa học những nội dung là thế
giới quan. Thế giới quan duy vật biện chứng giải quyết đúng đắn, khoa học
vấn đề cơ bản của triết học. Trong thế quan duy vật biện chứng có sự thống
nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng, có sự thống nhất
hữu cơ giữa quan niệm duy vật và thế giới với quan niệm duy vật về con
người, cuộc sống của con người và quan niệm duy vật về lịch sử, có sự thống
nhất giữa tri thức khoa học và niềm tin cộng sản, có sự thống nhất giữa tính

thực tiễn và tính cách mạng.
Thế giới quan duy vật biện chứng được xây dựng trên những tiền đề
kinh tế xã hội và những tư tưởng, văn hóa tiên tiến của nhân loại, của thời đại
mà trực tiếp nhất là được dựa trên cơ sở phản ánh, khái quoát, đúng đắn, đầy
đủ và sâu sắc về mặt triết học những tư liệu do khoa học và thực tiễn mang
lại. Thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm ba nhân tố cơ bản đó là tri
thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng.
• Tri thức khoa học
Tri thức là yếu tố cơ bản đề hình thành thế giới quan. Thế giới quan
không thể có được nếu không có tri thức. Bất kỳ thế giới quan nào trước hết
cũng chứa đựng những tri thức nhất định về thế giới.


10
Tri thức khoa học là sự hiểu biết đúng đắn sâu sắc của con người về thế
giới, là kết quả của quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn đứng đắn của
con người trong hiện thực khách quan. Tri thức khoa học của con người có
nhiều loại khác nhau như: tri thức về tự nhiên, xã hội, con người hoặc cũng có
thể đi sâu vào một lĩnh vực chuyên ngành hẹp như: tri thức về kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, tri thức về ngôn ngữ, tin
học… Trong nội dung tri thức khoa học của thế giới quan duy vật biện chứng,
tri thức triết học Mác - Lênin đóng vai trò hạt nhân. Bởi vì chính triết học lý
giải về mặt thế giới quan và phương pháp luận của toàn bộ các sự kiện mà
khoa học và thực tiễn đem lại và biểu diễn chúng dưới bức tranh khái quát về
hiện thực khách quan. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở tri thức thì chưa hẳn đã
có thế giới quan duy vật biện chứng. Tri thức khoa học chỉ gia nhập vào thế
giới quan duy vật biện chứng khi nó trở thành niềm tin khoa học của con
người. Chỉ khi đó thì tri thức mới trở nên bền vững và sâu sắc, mới có giá trị
định hướng và là sức mạnh cho con người vươn lên cải tạo hiện thực.
• Niềm tin khoa học

Niềm tin khoa học là một nhân tố cơ bản trong cấu trúc của thế giới
quan duy vật biện chứng. Niềm tin khoa học là đúng đắn và vững chắc bởi nó
có cơ sở là tri thức lý luận khoa học với thực tiễn. Đó là sự hòa quyện một
cách hữu cơ giữa tri thức, tình cảm và ý chí cá nhân trong mỗi con người hay
mỗi cộng đồng xã hội. Toàn bộ những tri thức mà chủ thể và ý chí đã sắn
sang, quyết tâm hành động theo những mục tiêu xác định.
Niềm tin khoa học được hình thành trên cơ sở tri thức khoa học. Niềm
tin khoa học là nguồn gốc tích cực của mỗi cá nhân, mỗi tập đoàn người vươn
tới khát vọng nhận thức và cải tạo thế giới hiện thực với tư cách chủ thể của
thế giới quan. Niềm tin khoa học chi phối một cách mạnh mẽ nhận thức, tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống và hành động cách mạng của mỗi con người.


11
Nó đòi hỏi hành động của mỗi con người phải dựa trên cơ sở tri thức khoa
học và tuân theo những giá trị và chuẩn mực đúng đắn của xã hội. Nếu con
người làm một việc gì đó mà không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức,
của tư tưởng, thì họ sẽ bị mất đi những rung động của ý chí, nghị lực, lòng
nhiệt tình và sự cổ vũ cần thiết đối với hiệu quả của bất kỳ công việc gì, đặc
biệt là công việc có ý nghĩa to lớn đối với xã hội và giai cấp của mình.
Con người trở thành người với ý nghĩa cao quý của nó chỉ khi nào được
khích lệ bởi một niềm tin chân chính. C.Mác, Ph. Ăngnghen, V.I.Lênin, Hồ
Chí Minh… là những con người điển hình đã có một niềm tin khoa học vững
chắc vào giai cấp vô sản. Các bậc vĩ nhân đó không chỉ nắm vững chân lý mà
còn là tấm gương sáng về lối sống theo niềm tin khó học.
Niềm tin khoa học giúp cho con người tăng thêm nghị lực, củng cố ý
chí, quyết tâm, giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách, những giây
phút hiểm nghèo, thậm chí sẵn sang hy sinh bản thân mình vì những mục tiêu
mà mình cho là cao cả.
Do vậy, niềm tin được xác lập trên cơ sở một tri thức khoa học sẽ có

tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển.
• Lý tưởng cách mạng
Lý tưởng là hình thức đặc biệt của thế giới khách quan, là ý thức về cái
đang tồn tại và triển vọng phát triển của nó; là niềm tin nhìn vào thế giới như
cái cần phải có theo khát vọng của cá nhân, của một tập đoàn người hoặc là
của một giai cấp hay của cả một cộng đồng người rộng lớn.
Trong cuộc sống của mình, con người không thể sống mà không có lý
tưởng. Lý tưởng là trạng thái hoàn hảo nhất mà người ta mong muốn đạt tới.
Lý tưởng thôi thúc con người hành động để thỏa mãn các nhu cầu lợi ích.
Những quan niệm của con người về tương lai, về lý tưởng sẽ hình thành một
hình thức tâm lý với tư cách là niềm hy vọng cao cả nên sự khát khao hiến
dâng cả bản thân mình cho tương lai.


12
Lý tưởng mang tính lịch sử, nó có thể tiến bộ hay lạc hậu tùy thuộc vào
hình thái của các quan hệ xã hội. Trong xã hội có giai cấp, lý tưởng cũng
mang tính giai cấp và mang tính đảng nhất định. Lý tưởng của giai cấp vô sản
khác với lý tưởng của giai cấp tư sản; lý tưởng của Đảng Cộng sản khác với
lý tưởng của các đảng phản cách mạng…
Lý tưởng cách mạng là một nhân tố quan trọng trong thế giới quan duy
vật biện chứng về mặt định hướng cho toàn bộ hoạt động sống của cá nhân và
tập đoàn xã hội hoặc giai cấp. Nó là một nhân tố kích thích sự phấn đấuvươn
lên làm chủ của con người, làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản
thân mình.
Sự phát triển của một cá nhân hay của một tập đoàn người nào đó
không chỉ quy vào sự tang lên về tri thức về thế giới, mà còn phụ thuộc vào
sự tăng cường khả năng tái tạo thế giới, biến thế giới đang có thành thế giới
cần phải có thể đáp ứng nhu cầu phát triển của con người, của một tập đoàn
hay của một giai cấp nào đó.

Các nhà kinh điển Mác - Lênin đặc biệt nhấn mạnh tính tất yếu phải
chú ý đến quá trình biến tri thức thành niềm tin, thành lý tưởng nhằm hướng
chủ thể vào việc đạt tới chân lý và cải tạo hiện thực. Sống có lý tưởng đúng
đắn, cao thượng sẽ làm cho mỗi người cách mạng có thái độ, lập trường sống,
học tập và công tác tích cực lành mạnh. Từ đó giúp họ vươn tới những giá trị,
mục tiêu cao đẹp, đích thực như: lòng nhân ái, lòng vị tha và những phẩm
chất Chân - Thiện - Mĩ; đồng thời giúp cho họ biết đấu tranh phòng chống,
ngăn chặn và đẩy lùi mọi cái ác, cái xấu, cái tiêu cực và lạc hậu trong xã hội.
Tóm lại, ba nhân tố cơ bản trong cấu trúc của thế giới quan duy vật
biện chứng luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động, đan xen và
thâm nhập vào nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Trong ba nhân tố cơ bản
cấu thành thế giới quan duy vật biện chứng, nhân tố “Tri thức khoa học” là


13
nhân tố quan trọng nhất, có vai trò quyết định sự hình thành và phát triển thế
giới quan duy vật biện chứng. Còn nhân tố “Niềm tin khoa học” và “Lý
tưởngcách mạng” có vai trò trong quá trình biến tri thức thành hoạt động cải
tạo thế giới để phục vụ con người.

1.1.2. Khái niệm nâng cao nhận thức thế giới quan duy vật biện chứng
1.1.2.1. Nâng cao nhận thức
Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam: “Nâng cao là làm cho cao hơn trước:
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân (Hồ Chí Minh), quan trọng đối
tác việc nâng cao chất lượng công tác (Phan Văn Khải)” [34, tr.156].
Nhận thức - theo lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng là quá trình phản ánh tích cực và sáng tạo hiện thực khách quan bởi con
người trên cơ sở của thực tiễn lịch sử - xã hội. Nhận thức cũng là sự phản
ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc của con người. Nhưng sự phản ánh đó
không phải là một hành động nhất thời máy móc giản đơn, thụ động mà là
một quá trình phức tạp của hàng loạt hoạt động trí tuệ tích cực và sáng tạo.

Bởi vì, “… con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo
ra thế giới khách quan” [33, tr.228].
Nhận thức, tuy cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc con
người nhưng khác với ý thức và hoàn toàn khác với hành vi phản ánh ở động
vật về chất.
Nhận thức của con người là quá trình phản ánh hiện thực khách quan
một cách tích cực và sáng tạo là nhờ có hoạt động thực tiễn.
Theo Lênin, nhận thức là một quá trình “từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện
chứng của nhận thức chân lý, của nhận thức hiện thực khách quan” [33, tr.179].
Nhận thức là một quá trình biện chứng, quá trình ấy bao gồm hai giai đoạn là
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Tuy khác nhau về chất nhưng nhận


14
thức cảm tính và nhận thức lý tính có sự thống nhất hữu cơ, tác động biện
chứng với nhau. Chúng bổ sung hỗ trợ cho nhau, đem lại cho con người
những hiểu biết ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn và sâu sắc hơn về các sự
vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới.
Tóm lại, “nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực
trong đầu óc của con người, được quyết định bởi những quy luật phát triển xã
hội và gắn liền với hoạt động thực tiễn” [33, tr.407]. Và nâng cao nhận thức
là quá trình tăng lên sự nhận thức sâu sắc hơn nữa về tự nhiên, xã hội và tư
duy. Vì vậy cần phải luôn trau dồi và phát triển hơn nữa về mặt nhận thức.
1.1.2.2. Bồi dưỡng
Bồi dưỡng là quá trình liên tục nâng cao trình bộ chuyên môn, kiến
thức, kỹ năng nghiệp vụ, nâng cao năng lực hoặc phẩm chất nói chung trên cơ
sở của những kiến thức, kỹ năng đã được đào tạo trước đó.
Trong hoạt động bồi dưỡng cán bộ, công chức, bồi dưỡng nhằm cập
nhật, trang bị thêm, trang bị mới về kiến thức, kỹ năng thái độ thực thi nhiệm

vụ, công vụ; giúp cho người cán bộ, công chức ngày càng hoàn thành công
việc được giao có chất lượng và hiệu quả hơn.
Trong thực tế hiện nay khái niệm “Đào tạo, bồi dưỡng” cán bộ công
chức lại đang được hiểu chung là “bồi dưỡng”.
Theo Từ điển Tiếng việt của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn
Quốc gia, 2005: “Đào tạo: Làm cho trở thành người có năng lực theo những
tiêu chuẩn nhất định”; “Bồi dưỡng: Làm cho năng lực hoặc phẩm chất tăng
thêm” [59, tr.115].
Theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 03 năm 2010 của
Chính phủ về đào tạo bồi dưỡng công chức, tại Điều 5 giải thích: “Đào tạo là
quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy
định của từng cấp học, bậc học” và “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật,


15
nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc” [17, tr.124]. Do vậy có thể hiểu khái niệm
“đào tạo, bồi dưỡng” (cán bộ, công chức) là quá trình làm cho cán bộ công chức
có năng lực theo tiêu chuẩn nhất định và liên tục nâng cao trình độ chuyên môn,
kiến thức, kỹ năng thái độ thực thi nhiệm vụ, công vụ được giao.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một khâu của công tác nhân
sự, có điểm khác biệt so với loại hình đào tạo khác.
- Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là những người đang
hoạt động công vụ, phần lớn có kinh nghiệm thực tiễn, có nghề nghiệp ổn định.
- Mục tiêu của đào tạo, bồi dưỡng là trang bị cho cán bộ, công chức
những kiến thức, kỹ năng thái độ nhằm hướng tới xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức chuyên nghiệp, có đủ phẩm chất năng lực để làm tốt công việc
được giao.
- Hình thức thể hiện văn bằng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức chủ yếu là chứng chỉ.
Ngoài ra việc đào tạo, nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức được

thực hiện theo những quy định khác biệt so với các loại hình đào tạo khác của
hệ thống giáo dục quốc dân, tổ chức thực hiện trong hệ thống cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức của nhà nước; hoạt động theo nguồn kinh phí
riêng và theo những chương trình nội dung do hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước ban hành.
1.1.3. Khái niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
1.1.3.1. Khái niệm về cán bộ
Trong luật cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 của Nhà xuất bản chính
trị quốc gia Hà Nội - 2009 đã xác định về cán bộ như sau:
- Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố


16
trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Trong từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1993 thì thuật ngữ cán bộ được
hiểu theo hai nghĩa:
- Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Đảng, Nhà
nước và đoàn thể, theo nghĩa này cán bộ là những người làm công tác nghiệp
vụ chuyên môn không chỉ trong cơ quan nhà nước mà còn ở trong cả hệ thống
chính trị.
- Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, tổ chức và phân
biệt với người trong có chức vụ. Theo nghĩa này, cán bộ là những người làm
công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức của hệ thống chính trị.
Bộ phận cán bộ này được hình thành thông qua việc bầu cử dân chủ, đề bạt,
bổ nhiệm.
Như vậy, khái niệm cán bộ được hiểu theo hai nghĩa sau:

Một là: Cán bộ là những người làm công tác có nghiệp vụ, chuyên môn
trong một cơ quan, một tổ chức của hệ thống chính trị.
Hai là: Cán bộ là những người được bổ nhiệm vào các cấp lãnh đạo, chỉ
huy từ cơ sở đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) đề phân biệt với những người
không có chức vụ.
Hiện nay trong hệ thống chính trị của Việt Nam, khái niệm cán bộ được
quy định trong Luật cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 thông qua ngày 13
tháng 11 năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010, tại Điều 4 đã quy định
như sau:
- Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã,


17
thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cán bộ cấp xã) là
công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường
trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy, người
đứng đầu tổ chức chính trị, xã hội.
Như vậy nói đến khái niệm cán bộ đã được quy định rõ ràng, cụ thể,
xác định rõ nội hàm, đó là những người giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm
kỳ trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị Việt Nam, từ Trung ương đến
cấp huyện, xã và tương đương. Tùy góc độ và mục tiêu xem xét có thể phân
biệt đội ngũ cán bộ thành các nhóm khác nhau:
- Xét về loại hình có thể phân thành: Cán bộ Đảng, đoàn thể; cán bộ
nhà nước; cán bộ kinh tế và quản lý kinh tế; cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán
bộ cấp xã.

- Theo tính chất và chức năng, nhiệm vụ có thể phân thành: Nhóm
chính khách; nhóm lãnh đạo, quản lý; nhóm chuyên gia; nhóm công chức,
viên chức.
1.1.3.2. Quan niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
Theo Từ điển Tiếng việt thì chủ chốt là quan trọng nhất, tính từ là mang
tính chất quan trọng.
Theo tác giả thì chủ chốt là quan trọng nhất, có tính chất là nòng
cốt, cán bộ chủ chốt, nhiệm vụ chủ chốt đồng nghĩa với mẫu chốt, cốt lõi,
then chốt.
Cán bộ chủ chốt cấp huyện là cán bộ giữ các cương vị chủ chốt ở cấp
huyện như bí thư, phó bí thư cấp ủy, chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy
ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, có nhiệm vụ lãnh đạo,
giám sát, quản lý và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trên địa bàn, xây dựng tổ


18
chức xây dựng các huyện vững mạnh. Quan niệm thể hiện: thứ nhất, cán bộ
chủ chốt cấp huyện là một bộ phận cán bộ của Đảng, Nhà nước làm việc công
tác ở các huyện. Thứ hai, có vai trò quan trọng trong quán triệt và thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, lãnh đạo triển khai, tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh cấp huyện.
Thứ ba, có nhiệm vụ quan trọng trong lãnh đạo, xây dựng hệ thống chính trị,
xây dựng các tổ chức và đội ngũ cán bộ trong huyện trong sạch, vững mạnh.
Từ cơ sở quan niệm cán bộ chủ chốt cấp huyện và cách tiếp cận đội ngũ,
luận văn quan niệm: Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện bao gồm những cán
bộ giữ các cương vị chủ chốt ở cấp huyện như bí thư, phó bí thư cấp ủy; chủ
tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân các huyện với số lượng chất
lượng và cơ cấu theo yêu cầu nhiệm vụ được giao, có chức năng lãnh đạo, giám
sát quản lý và tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ ở cấp huyện.
Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện là phải xây dựng toàn bộ

các yếu tố cấu thành đội ngũ đó trong chỉnh thể thống nhất, không được xem
nhẹ một yếu tố nào.
Giai đoạn hiện nay, bí thư, chủ tịch huyện cũng như đội ngũ cán bộ chủ
chốt ở cấp huyện có vai trò quan trọng trong việc tổ chức và tập hợp quần
chúng thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng.
1.2. Đặc điểm, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
1.2.1. Một số đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
Thứ nhất, thành phần đa dân tộc đa dạng, có khá nhiều dân tộc thiểu số,
phản ánh tính chất đa dạng, phong phú của các dân tộc trên địa bàn tỉnh.
Dân tộc Kinh chiếm 66% đồng chí, dân tộc Tày chiếm 15,3% đồng chí;
Mông chiếm 5,5% đồng chí; Thái chiếm 6,2% đồng chí; Mường chiếm 4,2%
đồng chí; Thổ chiếm 2,8% đồng chí. Như vậy ta thấy được sự đa dạng trong
thành phần dân tộc từ đó sẽ tạo ra nhưng văn hóa, phong tục tập quán củ
những cán bộ ở những dân tộc khác nhau. Sự phong phú trong những truyền
thống dân tộc, tạo nên sự giao lưu nhiều chiều giữa các dân tộc.


×