Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn ở huyện thường tín, hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 139 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ HẰNG

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN, HÀ NỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành : Triết học
Mã số :60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hoàng Thúc Lân

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi,
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Hoàng Thúc Lân, có kế thừa một số kết quả
nghiên cứu liên quan đã được công bố. Các số liệu và tài liệu được trích dẫn
trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan và có nguồn gốc, xuất xứ
rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn của mình.
Hà Nội, tháng năm 2017
Tác giả luận văn
Trần Thị Hằng


LỜI CẢM ƠN


Em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, phòng Sau đại học và các phòng
ban khác của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho em được
học tập, nghiên cứu tại trường. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Ban
chủ nhiệm khoa Triết học.
Đặc biệt, em xin gửi lời biết ơn sâu sắc đếnthầy PGS.TS Hoàng Thúc
Lân,người đã tận tâm, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận
văn.
Xin gửi lời cảm ơn tới Ủy Ban nhân dân Huyện Thường Tín, Hội Phụ nữ
Huyện Thường Tín, Ủy ban nhân dân các xã Văn Phú, Quất Động, Ninh Sở, Vạn
Điểm, đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, người thân những tình
cảm tốt đẹp nhất, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, động viên trong suốt quá trình
học tập thực hiện đề tài.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thành luận văn với tất cả sự nỗ lực và tâm huyết
của bản thân, song luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận
được sự giúp đỡ của Quý Thầy Cô!
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày….tháng….năm 2017
Tác giả

Trần Thị Hằng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ............................................. 3
3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 6
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ................................................................... 7

5. Giả thuyết khoa học ........................................................................................... 7
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................... 7
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 7
8. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 7
9. Cấu trúc luận văn................................................................................................ 8
10. Tóm tắt các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả ............................ 8
NỘI DUNG............................................................................................................ 9
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT HUY VAI
TRÒCỦA PHỤ NỮ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI .................... 9
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 9
1.1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài .............................................. 9
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của phụ nữ ..................................................................................................18
1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò của phụ nữ trong xây
dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay ..........................................................24
1.1.4. Thực chất của việc phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông
thôn mới ...........................................................................................................26
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc phát huy vai trò của phụ nữ trong xây
dựng nông thôn mới .........................................................................................32
1.2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................................36


1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội của Thường Tín ............................................36
1.2.2. Đặc điểm phụ nữ Thường Tín ................................................................42
1.2.3. Phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới ở
Thường Tín, Hà Nội là đòi hỏi khách quan .....................................................45
1.2.4. Một vài nét về thực trạng xây dựng nông thôn mới huyện Thường
Tín, Hà Nội hiện nay ........................................................................................47
Tiểu kết chương 1 ...............................................................................................52
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI

TRÒCỦA PHỤ NỮ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚIỞ
HUYỆN THƯỜNG TÍN, HÀ NỘI HIỆN NAY...............................................53
2.1. Thực trạng phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn
mới ở huyện Thường Tín, Hà Nội hiện nay .....................................................53
2.1.1. Kết quả phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới
ở huyện Thường Tín, Hà Nội hiện nay.............................................................53
2.2.2. Hạn chế của việc phát huy vai trò củaphụ nữ trong xây dựng nông
thôn mới ở huyện Thường Tín, Hà Nội hiện nay .............................................78
2.2. Giải pháp nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông
thôn mới ở huyện Thường Tín, Hà Nội hiện nay ............................................90
2.2.1. Phát huy vai trò của chính quyền địa phương trong công tác nâng
cao vị thế và phát huy vai trò của phụ nữ ........................................................90
2.2.2. Nâng cao nhận thức của người dân địa phương về vị trí, vai trò của
người phụ nữ trong gia đình và xã hội ............................................................93
2.2.3. Tăng cường phát huy vai trò của Hội Phụ nữ Thường Tín ...................94
2.2.4. Phát triển đa dạng hình thức sản xuất, tăng cường áp dụng khoa
học kĩ thuật để phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng kinh tế nông
thôn mới ...........................................................................................................98
2.2.5. Bản thân phụ nữ phải nỗ lực vươn lên để tự hoàn thiện bản thân ......102
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................103
KẾT LUẬN .......................................................................................................104


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................106



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng

góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Ngay từ những buổi đầu dựng nước, giữ nước, bà Trưng, bà Triệu đã dấy binh
khởi nghĩa đánh đuổi quân thù. Thế kỷ XX, trải qua hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ, lịch sử lại ghi nhận hàng vạn tấm gương phụ nữ, các mẹ, các
chị không ngại gian khổ, không tiếc máu xương, sẵn sàng chiến đấu, lao động,
hy sinh, cống hiến cuộc đời, con em và gia đình của mình cho nền độc lập tự do
của Tổ quốc. Phụ nữ không những là tấm gương anh hùng trong chiến đấu, mà
còn là tấm gương cần cù, gian khó để vượt lên cảnh đói nghèo và lạc hậu, góp
phần xây dựng đất nước ngày càng tươi đẹp, lớn mạnh hơn. Đảng, Bác Hồ
phong tặng phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu,
đảm đang” trong thời kỳ kháng chiến, và “Trung hậu, đảm đang, tài năng, anh
hùng” trong thời kỳ đổi mới của đất nước. Điều đó không chỉ là sự khích lệ,
động viên mà còn chính là sự thừa nhận và đánh giá vai trò to lớn của phụ nữ
Việt Nam.
Với truyền thống đó, phụ nữ Việt Nam “giỏi việc nước, đảm việc nhà”
tiếp tục vượt qua mọi thành kiến và thử thách, vươn lên và đóng góp tích cực
vào các hoạt động xã hội, duy trì ảnh hưởng rộng rãi vai trò của mình trên nhiều
lĩnh vực như: tham gia quản lý nhà nước; tham gia xóa đói giảm nghèo; xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; tham gia phòng chống tệ
nạn xã hội; thúc đẩy hoạt động đối ngoại … Có thể nói, vai trò của phụ nữ Việt
Nam được thể hiện ngày càng sâu sắc và có những đóng góp quan trọng trong
thành tựu của cách mạng Việt Nam.
Trong bài phát biểu tại buổi toạ đàm “Vai trò của Phụ Nữ Việt Nam
Trong Thế Kỷ XXI” do Quỹ Phát triển Phụ Nữ Liên Hợp Quốc UNIFEM và Hội
phụ nữ Việt Nam tổ chức dưới sự hỗ trợ của các tổ chức Liên Hợp Quốc tại Việt

1


Nam, Chủ tịch Hội phụ Nữ Việt Nam Hà Thị Khiết đã tôn vinh người phụ nữ

Việt Nam: “Trong thành tựu chung của đất nước, có sự đóng góp tích cực của
các tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Là một lực lượng lao động xã hội đông đảo, phụ
nữ Việt Nam đã tỏ rõ vai trò, khả năng, sức sáng tạo của mình trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, thích ứng với sự hội nhập và phát triển theo xu thế chung
của nhân loại”.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), và Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của
Đảng đã khẳng định: xây dựng nông thôn mới là một nhiệm vụ quan trọng trong
định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước.Đảng và Chính phủ thể hiện sự
quan tâm tới sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân và đưa ra: Quyết
định số 800/QĐ - TTg, ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
(2010 - 2020); Quyết định số 491/QĐ - TTg, ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ
tướng chính phủ về ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Chương trình được xây dựng với mục tiêu chung là: “Xây dựng nông thôn mới
có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp,
dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn
dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo
vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân
ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[48]. Trong 5 năm
thực hiện (2010 - 2015), chương trình được đề ra và đạt được rất nhiều thành tựu
đáng kể ở rất nhiều tỉnh thành trên cả nước. Trong đó huyện Thường Tín, thành
phố Hà Nội là một trong những địa phương được tiến hành thực hiện chương
trình và đã có những đóng góp rất lớn trong đề án chung của thành phố Hà Nội.
Để đạt được những thành tựu đáng ghi nhận đó, là sự góp sức vô cùng to lớn của
chính quyền địa phương, cùng toàn thể nhân dân, và đặc biệt là vai trò to lớn của
người phụ nữ huyện Thường Tín.
2



Trong quá trình phát triển đó, có sự đóng góp không nhỏ của đông đảo
phụ nữ trong toàn địa phương. Tuy nhiên, do một số trở ngại mà vai trò của họ
chưa được đánh giá một cách khách quan, và họ chưa có điều kiện để phát huy
hết khả năng, vai trò của mình. Việc phát huy một cách có hiệu quả vai trò của
phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới hiện nay không chỉ là cách giúp các gia
đình thoát nghèo, cải thiện cuộc sống, phát triển kinh tế, vươn lên làm giàu mà
còn góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, đồng thời là con đường để giải
phóng phụ nữ. Với ý nghĩa đó, vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới
là vấn đề hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Vì những lý trên, do tôi
chọn đề tài“Phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn ở huyện
Thường Tín, Hà Nội hiện nay” làmluận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề về phát huy vai trò của phụ nữ trong sự phát triển các lĩnh vực
kinh tế - xã hội, trong những năm gần đây có rất nhiều công trình nghiên cứu
dưới những góc độ khác nhau:
Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu về vai trò của người phụ nữ, có
một số công trình tiêu biểu: “Phụ nữ nông thôn với việc phát triển ngành nghề
phi nông nghiệp”, tác giả TS. Lê Thị Nhân Tuyết (1998), Nhà xuất bản Khoa
học xã hội; “Việc làm - đời sống của phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt
Nam”, tác giả Lê Thi (1999), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, những nghiên cứu
này khẳng định vai trò của phụ nữ nông thôn đối với quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động, nghề nghiệp và phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông
thôn. “Vị thế và vai trò xã hội của người phụ nữ trong gia đình nông thôn đồng
bằng Bắc Bộ hiện nay (Qua nghiên cứu tại tỉnh Nam Định), tác giả Nguyễn Thị
Kim Thoa (2000), Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn Hà Nội. Luận án đã góp tiếng nói về vị thế và vai trò xã hội của người phụ
nữ trên các phương diện đối với gia đình và sự phát triển chung của xã hội, đưa
ra các biện pháp nhằm nâng cao vai trò và vị thế của người phụ nữ nông thôn ở


3


đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. Vai trò của người phụ nữ trong công nghiệp hóa
nông thôn (Nghiên cứu khu vực đồng bằng sông Hồng), tác giả Hoàng Bá Thịnh
(2001), Luận án Tiến sĩ Khoa học Xã hội, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
Hà Nội. Công trình này đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa
nông thôn, thực trạng vai trò của người phụ nữ ở khu vực đồng bằng sông Hồng
trong quá trình công nghiệp hóa nông thôn, trình bày một số quan điểm chỉ đạo
và một số giải pháp nhằm phát huy vai trò đó. Sự tham gia và quyền quyết định
của phụ nữ nông thôn trong gia đình và xã hội (Nghiên cứu trường hợp phụ nữ
đang tham gia trong hệ thống chính trị cơ sở tại 4 xã của tỉnh Thanh Hóa), tác
giả Nguyễn Thị Thúy (2011), Luận án Tiến sĩ Xã hội học, Học viện Khoa học xã
hội, luận án đã cho thấy biến đổi kinh tế, xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua
đã và đang làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quan hệ xã hội ở nông thôn, trong
đó có quan hệ sắp xếp về phân công lao động giữa nam và nữ trong gia đình và
ngoài xã hội. Phát triển nguồn nhân lực nữ nhằm tăng trưởng kinh tế và thực
hiện công bằng xã hội ở miền núi phía Bắc Việt Nam, tác giả Lê Thị Thúy
(2013), Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Viện nghiên cứu Kinh tế quản lý Trung ương,
luận án đã phần nào phân tích một số cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân
lực nữ đối với tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; thực trạng phát triển
nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực nữ để phát triển kinh tế và thực
hiện công bằng xã hội ở miền núi phía Bắc Việt Nam đến năm 2020…“Vai trò
của phụ nữ trong nông nghiệp nông thôn ở xã Nghĩa Hiệp, Hưng Yên”
củaPGS.TS Quyền Đình Hà và nhóm nghiên cứuHọc viện Nông nghiệp Việt
Nam, nhóm tác giả so sánh vai trò của phụ nữ so với Nam giới trong sản xuất,
kiểm soát nguồn lực kinh tế. Khi khảo sát sự tham gia của phụ nữ trong các tổ
chức chính quyền, đoàn thể và việc tiếp cận các kênh thông tin và các quan hệ xã
hội thông qua các hoạt động cộng đồng, nghiên cứu cũng đã phát hiện và chỉ ra:
Phụ nữ nông thôn ít được tham gia hội họp thôn xóm, ít được tiếp cận các

phương tiện truyền thông. Nhưng phụ nữ có ưu thế và trách nhiệm hơn nam giới

4


khi tham gia các hoạt động xã hội, môi trường và xây dựng thôn, xã. Trên cơ sở
các kết quả nghiên cứu nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy
năng lực của phụ nữ nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ hoàn thành tốt
vai trò của mình trong sản xuất, trong đời sống và xã hội.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu về vấn đề nông thôn mới, vai trò
của cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới: “Giải pháp đẩy mạnh xây dựng
nông thôn mới trên địa bàn huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An”, của Phan
Đình Hà, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế (2011),đưa ra những nội dung, nguyên tắc
thực hiện, những giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh chương trình xây dựng nông
thôn mới ở huyện Thanh Chương, Hà Tĩnh.“Sự tham gia của thanh niên trong
thựchiện chương trình nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Bắc Giang”, Luận văn
Thạc sĩ Nguyễn Hoàng Trung (2012); “Nghiên cứu sự tham gia của cộng đồng
trong sự tham gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa
Bình”, tác giả Bùi Minh Tân, luận văn thạc sĩ khoa học Nông nghiệp (2013);
“Nghiên cứu vai trò của người dân trong xây dựng nông thôn mới tại huyện
Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, tác giả Hoàng Thị Oanh (2013)… các luận văn này
trình bày về sức mạnh chung của cộng đồng, đồng thời nêu lên tầm quan trọng
của việc phát huy nội lực của từng địa phương trong xây dựng nông thôn mới.
Một số bài báo, phỏng vấn như: “Vấn đề phát huy vai trò phụ nữ trong xây dựng
nông thôn mới” của tác giả Hồng Lựu, đăng trong chuyên mục Nông thôn mới
của tỉnh Quảng bình, (19/05/2015), bài viết đã đánh giá và nhận thức rõ vai trò
phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới, cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động
tuyên truyền, Hội Phụ nữ các cấp đã tập trung khai thác các nguồn lực hỗ trợ,
hướng dẫn phụ nữ phấn đấu vươn lên làm chủ trong phát triển kinh tế, xây dựng
gia đình hạnh phúc bền vững và tham gia tích cực các hoạt động xã hội phù hợp

với khả năng, góp phần tích cực vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội. Trong
bài phỏng vấn báo Nhân dân, (08/03/2015), bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Ủy viên
Trung Ương Đảng, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam cho biết: với 48,7%

5


số lao động khu vực nông thôn, phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Phụ nữ vừa là chủ thể góp phần quan
trọng vào thành công của chương trình, vừa là người được trực tiếp thụ hưởng
những thành quả tốt đẹp do chương trình xây dựng nông thôn mới mang lại.
Ðáng chú ý, trong xu hướng nam giới di cư ra thành phố tìm việc làm thì phụ nữ
đang giữ vị trí trung tâm và đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế,
văn hóa, xã hội, cộng đồng, tham gia trực tiếp, tích cực vào xây dựng cơ sở hạ
tầng, thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và xây dựng đời sống văn
hóa, tinh thần và quản lý cộng đồng.
Trong nội dung của các bài viết, luận văn, luận án nói trên, vấn đề phát
huy vai trò của người dân, đặc biệt là của phụ nữ trong xây dựng và phát triển
kinh tế - xã hội được đề cập một cách sâu sắc, những phương hướng và giải pháp
được nêu ra cụ thể, thiết thực, phù hợp với tính chất đặc thù của người phụ nữ
trong giai đoạn hiện nay.
Tóm lại, tất cả những công trình nghiên cứu, bài viết mà chúng tôi đã
tham khảo là rất phong phú về nội dung và hình thức.Các tác giả đề cập đến vai
trò của người phụ nữ trong phát triển nông thôn, có giá trị to lớn đối với việc
phát huy giá trị nguồn lực con người hiện nay. Mặc dù có nhiều công trình
nghiên cứu liên quan, song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống, hoàn thiện về vấn đề phát huy vai trò của người phụ nữ trong xây dựng
nông thôn mới ở huyện Thường Tín, Hà Nội hiện nay; vì thế nghiên cứu và làm
sáng tỏ vấn đề này là cần thiết, khách quan.
3. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích tình hình, thực trạng, và các yếu tố ảnh hưởng đến
vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới, tác giả đề xuất những giải
pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới ở
huyện Thường Tín, Hà Nội hiện nay.

6


4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Phụ nữ huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới ở huyện
Thường Tín, Hà Nội hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu thực hiện được các giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò, vị trí của
người phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Thường Tín, thành phố Hà
Nội hiện nay sẽ góp phần làm phát triển kinh tế - xã hội của toàn thành phố Hà Nội
nói chung và nâng cao vai trò của người phụ nữ huyện Thường Tín nói riêng.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu hệ thống những vấn đề lý luận về phát huy vai trò của phụ
nữ trong xây dựng nông thôn mới.
- Đánh giá thực trạng của việc phát huy vai trò phụ nữ trong xây dựng
nông thôn mới ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.
- Từ thực trạng đó tìm ra những thuận lợi và khó khăn của phụ nữ trong
quá trình xây dựng nông thôn mới, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai
trò của phụ nữ ở huyện Thường Tín, Hà Nội hiện nay.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Vai trò của phụ nữ ở một số lĩnh vực kinh tế, văn hóa, gia đình… cần
được phát huy trong xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay ở huyện

Thường Tín, Hà Nội.
- Đề tài nghiên cứu tại huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội
- Khảo sát số liệu từ năm 2010 - 2015
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ, vai trò của phụ nữ. Quan điểm, đường lối,

7


chính sách của Nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam về chương trình xây dựng
nông thôn mới ở nước ta hiện nay.
Đề tài sử dụng tổng hợp các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó, chú trọng phương pháp logic lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, điều tra xã hội học…
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 2 chương và 4 tiết.
10. Tóm tắt các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
10.1. Tóm tắt các luận điểm cơ bản
- Phát huy vai trò phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới nhằm khai thác
phát huy sức mạnh tổng hợp nguồn nhân lực địa phương góp phần xóa đói, giảm
nghèo và nâng cao vai trò, vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội ở
Thường Tín hiện nay, góp phần vào công cuộc giải phóng phụ nữ.
- Phát huy vai trò phụ nữ Thường Tín phải được xuất phát từ tình hình
thực tiễn, đồng thời vận dụng một cách linh hoạt các quy luật xã hội.
10.2. Đóng góp mới của luận văn
Về lý luận: góp phần nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận
chung về phụ nữ, vai trò của phụ nữ, về nông thôn, nông thôn mới, và vai trò của
người phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể là những định hướng cho việc xây

dựng mục tiêu, kế hoạch, biện pháp về phát huy vai trò của phụ nữ trong xây
dựng nông thôn mới; có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy: Triết học
(nghiên cứu và giảng dạy chuyên đề triết học phần chủ nghĩa duy vật lịch sử),
Kinh tế nông nghiệp, Phát triển nông thôn...
Đề tài cũng có ý nghĩa kiến nghị với Đảng và nhà nước có những chính
sách cụ thể nhằm nâng cao vai trò người phụ nữ trong lĩnh vực xây dựng nông
thôn mới nói riêng, và các hoạt động chính trị - xã hội nói chung trong giai đoạn
hiện nay.

8


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA PHỤ NỮ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Giới và phụ nữ
Khái niệm về “Giới” được xuất hiện đầu tiên ở các nước nói tiếng Anh,
vào khoảng những năm 60 của thế kỷ XX. Trong tiếng Anh “Giới” là “Gender”
và “Giới tính” là “Sex”. Ở Việt Nam, khái niệm này mới xuất hiện vào khoảng
thập kỷ 80. “Giới” là một thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ môn nhân học.
“Giới” đề cập đến việc phân công lao động, các kiểu phân chia: nguồn lực và lợi
ích giữa nam và nữ trong một bối cảnh xã hội cụ thể. “Giới” là yếu tố luôn biến
đổi cũng như tương quan về địa vị trong xã hội của nữ giới và nam giới, phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể.
Giới: Chỉ sự khác biệt về xã hội và quan hệ (về quyền lực) giữa trẻ em,
trai và trẻ em gái, giữa phụ nữ và nam giới, được hình thành và khác nhau ngay
trong một nền văn hóa, giữa các nền văn hóa và thay đổi theo thời gian. Sự khác

biệt này nhận thấy một cách rõ ràng trong vai trò, trách nhiệm, nhu cầu, khó
khăn và thuận lợi của các giới tính.
Giới tính: chỉ sự khác biệt về sinh học giữa nam giới và nữ giới mang tính
toàn cầu và không thay đổi. Các đặc trưng của giới tính bị quy định và hoạt động
theo các cơ chế tự nhiên, di truyền như: người nào có cặp nhiệm sắc thể giới tính
XX thì thuộc về nữ giới, người nào có cặp nhiễm sắc thể giới tính XY thì thuộc
về nam giới. Nữ giới vốn có chức năng sinh lý học như tạo ra trứng, mang thai,
sinh con và cho con bú bằng bầu sữa mẹ. Nam giới có chức năng tạo ra tinh
trùng. Trong thực tế, để nhấn mạnh yếu tố thực thể xã hội của con người, “giới
tính” được dùng thay cho cả giống và giới.
9


Như vậy, khi nói giới tính là nói đặc điểm của con người do tự nhiên quy
định. Giới tính ổn định, thậm chí là bất biến đối với cả nam và nữ, xét cả về mặt
không gian và thời gian. Chẳng hạn, phụ nữ trong mọi thời đại, mọi chế độ chính
trị, mọi nền văn hoá đều giống nhau ở khả năng mang thai và sinh con; nam giới
ở mọi nơi, mọi thời đại đều giống nhau ở chức năng sinh sản là làm cho phụ nữ
mang thai. Còn nói đến giới là nói đến địa vị xã hội, thái độ và hành vi ứng xử
giữa nam giới và phụ nữ do hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá… tạo nên. Địa
vị thái độ và hành vi đó không bất biến mà thay đổi do sự thay đổi của hoàn
cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá. Ví dụ: so với cách đây 50 năm về trước, đặc
điểm về giới tính của phụ nữ nước ta hiện nay không có sự thay đổi, thế nhưng
đặc điểm về giới, tức là địa vị xã hội, tương quan về mặt xã hội so với nam giới
đã có sự thay đổi căn bản, bởi vì kể từ cách mạng tháng tám 1945, hoàn cảnh,
điều kiện xã hội, văn hoá nước ta đã thay đổi toàn diện và sâu sắc.
Cho nên, để hiểu phụ nữ là gì, về mặt khoa học cần phân biệt khái niệm
khoa học tự nhiên (sinh vật học) về giống cái và giống đực, với khái niệm khoa
học xã hội về giới nữ và giới nam [1, tr. 21]. Sự khác biệt về giới được biểu hiện
đó là phụ nữ được xem là phái yếu, vì họ sống thiên hơn về tình cảm, họ là thành

phần quan trọng tạo nên sự yên ấm trong gia đình. Thiên chức của phụ nữ là làm
vợ, làm mẹ, nên họ gắn bó với con cái, gia đình hơn nam giới và cũng từ đấy
mối quan tâm của họ cũng có phần khác nam giới. Nam giới được coi là phái
mạnh, là trụ cột gia đình. Họ cứng rắn hơn về tình cảm, mạnh bạo và năng động
hơn trong công việc. Đặc trưng này cho phép họ dồn hết tâm trí vào lao động sản
xuất, vào công việc xã hội, ít bị ràng buộc bởi con cái và gia đình. Chính điều
này đã làm tăng thêm khoảng cách khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trong xã
hội. Hơn nữa, nam giới và nữ giới lại có xuất phát điểm không giống nhau để
tiếp cận cái mới, họ có những thuận lợi, khó khăn với tính chất và mức độ khác
nhau để tham gia vào các chương trình kinh tế, từ góc độ nhận thức, nắm bắt các
thông tin xã hội.
Vai trò của giới được thể hiện ở vai trò sản xuất, vai trò tái sản xuất và vai
trò cộng đồng. Vai trò sản xuất được thể hiện trong lao động sản xuất dưới mọi

10


hình thức để tạo ra của cải vật chất, tinh thần cho gia đình và xã hội. Vai trò tái
sản xuất ra con người nhằm duy trì nòi giống, tái tạo sức lao động. Vai trò này
không chỉ đơn thuần là tái sản xuất sinh học, mà còn cả việc chăm lo, duy trì,
phát triển lực lượng lao động cho hiện tại và tương lai như: nuôi dạy con cái,
nuôi dưỡng các thành viên trong gia đình, làm công việc nội trợ… vai trò này
hầu như là của người phụ nữ. Vai trò cộng đồng thể hiện ở những hoạt động
tham gia thực hiện ở mức cộng đồng nhằm duy trì và phát triển các nguồn lực
cộng đồng, thực hiện các nhu cầu, mục tiêu chung của cộng đồng
Phụ nữ là một khái niệm chung để chỉ một người, một nhóm người hay
toàn bộ những người trong xã hội mà một cách tự nhiên, mang những đặc điểm
giới tính được xã hội thừa nhận về khả năng mang thai và sinh nở khi cơ thể họ
hoàn thiện và chức năng giới tính hoạt động bình thường.Phụ nữ là một phần
nửa xã hội, gồm những người mà về mặt sinh học thuộc giống cái, phân biệt với

nửa kia của xã hội là nam giới thuộc giống đực. Nữ giới phân biệt với nam giới,
là một trong hai giới tính truyền thống, cơ bản và đặc trưng của loài người.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, có nhiều từ gần nghĩa với “nữ giới”, đều chỉ
một nhóm đối tượng thuộc nữ giới nhưng mang tính phân loại cao hơn. Một số
từ tiêu biểu hay gặp là “đàn bà”, “phụ nữ”, “con gái”... Cách hiểu những từ này
còn rất khác nhau, do đó, cần phải chuẩn hóa chúng để tránh những thành kiến,
những hiểu lầm hay những sai sót trong việc sử dụng. Sử dụng từ “phụ nữ” cho
thấy một cái nhìn ít nhất là trung lập, hoặc thể hiện thiện cảm, sự trân trọng nhất
định từ phía người sử dụng. Nó đề cập đến, hoặc hướng người ta đến những mặt
tốt, hoặc ít nhất là không xấu, đến những giá trị, những đóng góp, những ảnh
hưởng tích cực từ những nữ giới này.
1.1.1.2. Vai trò của phụ nữ
* Vai trò
Theo Từ điển xã hội học: “Vai trò là một tập hợp những kỳ vọng ở trong
một xã hội gắn với các hành vi của người mang các địa vị... ở mức độ này thì
mỗi vai trò riêng là một tổ hợp hay nhóm các kỳ vọng hành vi” [57, tr.3].

11


Broom - nhà xã hội học người Mỹ nói: “Vai trò là cái mà cá nhân phải
làm, tức là nó xác định các hành vi của con người được xem là phù hợp hay
không phù hợp với một địa vị mà người ta chiếm giữ” [17, tr.211].
Nhà nhân học Ralph Linton, người có công đầu trong việc xây dựng nội
dung xã hội học của khái niệm vị thế và vai trò. Ông định nghĩa, vị thế được hiểu
theo hai nghĩa. Theo nghĩa trừu tượng, vị thế là một vị trí trong một khuôn mẫu
tương tác nhất định. Theo nghĩa cụ thể, vị thế của một người là tập hợp tất cả
những vị thế mà người đó nắm giữ trong các mối tương tác xã hội. Do đó theo
hai nghĩa này vị thế xác định vị trí cụ thể của một người trong những mối tương
tác xã hội với những người khác và vị thế tổng hợp xác định vị trí của người đó

với tổng thể xã hội. Tuy nhiên, khái niệm vị thế chỉ nói đến xuất phát điểm của
hành vi chứ chưa nói đến mặt hoạt động của nó. Khái niệm vai trò mới nói đến
mặt động thái của hành vi. Nói cách khác vai trò là hành vi của người nắm giữ vị
thế mà hành vi đó hướng vào việc đáp ứng những kì vọng của người khác về
quyền và trách nhiệm gắn với vị thế. Một cá nhân có thể có đồng thời nhiều vai
trò do cá nhân đó có nhiều vị thế khác nhau trong các tổ chức khác nhau. Tuy
nhiên, trong một thời gian cụ thể, những vai trò đó không cùng biểu hiện với
mức độ tích cực ngang nhau. Một vị thế xã hội cụ thể thông thường có một số
các vai trò, người ta gọi là tập hợp các vai trò. Có các vị trí khác nhau thì mức độ
phức tạp của các vai trò gắn liền với chúng cũng khác nhau. Một cá nhân ở một
vị trí cụ thể luôn có nhiều quan hệ liên quan, trong đó có vai trò chính và vai trò
phụ. Những vai trò của một cá nhân ở một vị trí cụ thể không mâu thuẫn nhau
mà chúng có quan hệ tương tác nhau, giúp các cá nhân đó thể hiện được vai trò
tổng quát của mình.
Tóm lại, vai trò là những gì mà một cá nhân phải làm để giữ vị thế của
mình có giá trị, là những hành vi mà xã hội mong chờ, kỳ vọng một cá nhân thực
hiện phù hợp với vị thế xã hội của họ. Như vậy, các cá nhân và nhóm người
thông qua vị thế và vai trò gắn kết với nhau và gắn kết với toàn bộ xã hội.

12


* Vai trò của phụ nữ
Quan điểm về vai trò của phụ nữ trong “Phụ nữ trong phát triển” (Women
in Development - gọi tắt là WID); “Phụ nữ và phát triển” (Women and
Development - gọi tắt là WAD); “Giới và phát triển” (Gender and Development
- gọi tắt là GAD)
Thứ nhất, quan điểm “Phụ nữ trong phát triển” (WID): Cách tiếp cận Phụ
nữ trong phát triển (WID) xuất hiện vào đầu những năm 70 của thế kỉ XX, quan
điểm “phụ nữ trong phát triển” chú trọng vào phụ nữ, vào các vấnđề nảy sinh đối

với phụ nữ trong phát triển như cơ hội được học hành, có việclàm, được bình
đẳng trong gia đình và tham gia các hoạt động xã hội, được hưởng các dịch vụ
về chăm sóc sức khỏe và trong đời sống. Cách tiếp cận WID đòi hỏi công bằng
xã hội và quyền lợi cho phụ nữ.
Quan điểm WID đã chú trọng đến vai trò sản xuất của phụ nữ, chủ trương
đưa phụ nữ vào hòa nhập nền kinh tế đất nước, coi việc tiếp cận với cơ hội có
việc làm trong sản xuất và tham gia công tác xã hội là biện pháp nâng cao vai
trò, địa vị của phụ nữ. Quan điểm này khẳng định, việc không thừa nhận và sử
dụng vai trò sản xuất của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội là những sai lầm
dẫn đến việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực.
Quan điểm WID đã nhấn mạnh vai trò của phụ nữ trong quá trình xây
dựng và phát triển kinh tế của đất nước, coi trọng vai trò của phụ nữ với tư cách
là người hưởng thụ thành quả của sự phát triển, nắm giữ được các nguồn lực như
chìa khóa mở đường giúp cho phụ nữ thoát khỏi sự lệ thuộc. Tuy nhiên, cách
tiếp cận này mới chỉ đặt phụ nữ trong khuôn khổ phát triển đã được định sẵn chứ
chưa coi phụ nữ là chủ thể của quá trình phát triển kinh tế xã hội, do đó không
chỉ hạn chế khả năng phát huy tính chủ động, sáng tạo của phụ nữ mà có thể làm
giảm hiệu quả của các quá trình kinh tế.
Thứ hai,quan điểm “Phụ nữ và phát triển” (WAD) ra đời vào cuối những
năm 70, nổi lên từ một bài phê bình lý thuyết hiện đại hóa và phương pháp tiếp

13


cận WID. Khái niệm này dựa trên nhận định rằng, phụ nữ luôn là một phần của
các quá trình phát triển. Phụ nữ và tiến trình phát triển có mối liên hệ với nhau
và trên thực tế, không phải là không có biện pháp để đưa phụ nữ vào trong chiến
lược của quá trình phát triển.
Phương pháp tiếp cận này cho rằng phụ nữ luôn là một tác nhân kinh tế
quan trọng trong xã hội, công việc mà phụ nữ thực hiện cả trong gia đình và

ngoài xã hội đềuđóng vai trò trung tâm trong việc duy trì xã hội, nhưng sự hòa
nhập này chỉ góp phần duy trì cơ cấu của sự bất bình đẳng hiện nay trên bình
diện quốc tế. Cũng giống như WID, WAD đã quá chú trọng vào lĩnh vực sản
xuất, chú trọng vào chiến lược tham dự và việc triển khai các hoạt động tạo thu
nhập mà không xem xét đến việc thực hiện các chiến lược này sẽ tạo thêm áp lực
và gánh nặng cho phụ nữ. Các quan điểm của WAD bị phê phán là đã không coi
lao động gia đình như một giá trị kinh tế và WAD đã áp dụng các thành kiến và
các giả định của phương Tây vào các nước đang phát triển.
Thứ ba, quan điểm “Giới và phát triển” (GAD): xuất hiện vào những năm
90 của thế kỷ XX. Tiếp cận “Giới và phát triển” ra đời sau nên có được nhiều
kinh nghiệm từ những thất bại của nhiều chương trình phát triển. Tiếp cận “Giới
và phát triển” quan tâm đến sự phát triển bền vững, tập trung vào cân bằng giới
và các chương trình phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu cả nam và nữ. Tức là GAD
tạo sự chuyển biến trong suy nghĩ, cũng như nhìn nhận về vai trò, trách nhiệm,
các quyền tiếp cận, kểm soát nguồn lực kinh tế của phụ nữ và nam giới, điều
chỉnh các yếu tố cơ cấu tác động ảnh hưởng nhằm cải thiện tình trạng, vai trò của
phụ nữ và cân bằng các quan hệ giới.
Theo phương pháp tiếp cận này, phụ nữ được nhìn nhận, đánh giá như là
những nhân tố tích cực chứ không phải là những người thừa hưởng thành quả
của sự phát triển. Mục tiêu phát triển theo phương pháp này là sự tự lực, sức
mạnh của bản thân phụ nữ, tức là phụ nữ có cơ hội phát huy hết năng lực của
mình và có điều kiện phát triển một cách toàn diện và hoàn toàn bình đẳng với

14


nam giới. Đây là một phương pháp tiếp cận được ưa chuộng và được đánh giá là
phương pháp có hiệu quả trong việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới trong
thời gian hiện nay.
Quan điểm GAD cung cấp cơ sở lý luận cho việc xem xét vai trò của phụ

nữ trong mối tương quan với vai trò của nam giới trong phát triển cộng đồng xã
hội trên mọi lĩnh vực hoạt động khác nhau. Cần đánh giá những đóng góp của
phụ nữ đối với cộng đồng, tìm hiểu nhu cầu, nguyện vọng, tạo điều kiện để phụ
nữ phát huy được năng lực của mình, chủ động cùng nam giới tham gia các hoạt
động phát triển kinh tế gia đình và cộng đồng, các hoạt động văn hóa, chính trị,
chăm sóc sức khỏe sinh sản…. Quan trọng là hình thành được thói quen, các
chuẩn mực và giá trị mới về vai trò phụ nữ trong cộng đồng ở trong giai đoạn
hiện nay.
Như vậy, từ những quan điểm trên về vai trò của phụ nữ, chúng tôi rút ra
rằng: Vai trò của phụ nữ là những hành vi mà xã hội mong chờ phù hợp với vị
thế, chức năng của người phụ nữtrong gia đình cũng như ngoài xã hội. Khi xét
về vai trò của phụ nữ cần đặt người phụ nữtrong mối tương quan với cộng đồng,
với nam giới. Bởi vì, họ cần có sự chia sẻ của cộng đồng, và nam giới để họ có
thể thích ứng với sự phát triển của xã hội, đồng thời có thể đảm đương nhiều vai
trò trong gia đình và xã hội.
1.1.1.3. Nông thôn và nông thôn mới
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa giới hành chính lãnh thổ gắn
liền với cư dân sản xuất nông nghiệp và dịch vụ nông sản. Khái niệm “nông
thôn” thường đồng nghĩa với “làng”, “xóm”, “thôn”. Theo các tài liệu nghiên
cứu, “làng” là từ nôm, là tiếng nói dân dã, ngôn ngữ đời sống trong dân gian ăn
sâu vào tâm lý, tiềm thức của người Việt. Nó gợi ra môi trường kinh tế sản xuất
với nghề trồng lúa nước cổ truyền - không gian sinh tồn; đồng thời cũng là
không gian xã hội và cảnh quan văn hóa xây đắp nên nền tảng tinh thần, tạo
thành lối sống, cốt cách và bản lĩnh người Việt.

15


Làng vốn là một từ thuần Việt, dùng để chỉ một cộng đồng dân cư được
hình thành trên cơ sở liên hiệp tự nguyện giữa những người nông dân lao động

trên con đường chinh phục tự nhiên từ mấy thiên niên kỷ trước, quá trình hàng
nghìn năm đấu tranh chống xâm lược để giữ gìn môi trường sản xuất và sinh
hoạt của con người nơi đây. Nhà nghiên cứu Trần Từ cho rằng:“Làng là tế bào
sống của xã hội Việt cổ, là sản phẩm tự nhiên tiết ra từ quá trình định cư và cộng
cư của người Việt” [41, tr.11-12].Cùng với nhận xét đó, khẳng định vị trí của
làng trong việc hình thành nền văn hóa Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Từ
Chi viết: “Làng là tế bào sống của xã hội Việt Nam. Xã hội Việt Nam là sản
phẩm tự nhiên tiết ra từ quá trình định cư và cộng cư của người Việt trồng trọt.
Hiểu được làng Việt là có trong tay cơ sở tối thiểu và cần thiết để tiến lên tìm
hiểu xã hội Việt nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung, trong sức năng động
lịch sử của nó, trong ứng xử cộng đồng và tâm lý tập thể của nó, trong các biểu
hiện văn hóa, cả trong những phản ứng của nó trước những hình thái mà lịch sử
đương đại đặt vào nó” [14, tr.177].
Cùng với sự thay đổi của các triều đại trị vì trong lịch sử mà tên gọi của
“làng” có khác nhau: “làng” cũng gọi là “thôn” hoặc “làng xã”, cũng có khi
“làng” cũng chính là “xã”. Theo PGS.TSKH Phan Xuân Sơn: Trong lịch sử,
đơn vị “xã”, có nơi là “làng xã” một đơn vị quần cư - hành chính có từ lâu đời
trong kết cấu nông thôn Việt Nam. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
“làng”, những đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của “làng” là những yếu tố đặc
biệt quan trọng quyết định đến sự nghiệp dân chủ hóa cấp cơ sở nói riêng và sự
phát triển nông thôn, nông nghiệp nói chung.
Từ những ý kiến nêu trên, chúng ta có thể hiểu: “Làng xã” là một cộng
đồng địa vực, có ranh giới lãnh thổ tự nhiên và hành chính xác định; “làng” là
một đơn vị tự cấp về kinh tế; “làng xã” vừa có ruộng, có nghề,có đình làng tạo
nên một không gian khép kín thống nhất, có nhiều dòng họ tồn tại lâu đời, “làng
xã” là một cộng đồng tương đối độc lập về phong tục tập quán văn hóa; “làng

16



xã” là một đơn vị tự trị về chính trị. Tuy nhiên làng - xã cũng có những biến đổi
ít nhiều qua các thời kỳ, nhưng nhìn chung cho đến trước năm 1945, qua các
biến động, làng vẫn giữ được những cấu trúc truyền thống cơ bản.
Nông thôn được xác định là tổng hợp của các làng, nói cách khác, làng
Việt là đơn vị cơ bản của nông thôn Việt Nam. Làng - xã đã từng đóng vai trò rất
quan trọng đối với sự phát triển đất nước, là nơi lưu giữ những giá trị văn hoá,
nuôi dưỡng nguyên khí của dân tộc trước các nguy cơ đồng hoá, nô dịch. Những
giá trị nói trên của làng luôn luôn cần thiết cho phát triển đất nước,sẽ được tiếp
tục trong mô hình nông thôn mới. Tuy nhiên, tính khép kín, tính tự cung, tự cấp
của mô hình làng truyền thống rõ ràng không đáp ứng được yêu cầu phát triển
đất nước hiện nay.
Làng Việt Nam thời hiện đại đã có những sự thay đổi nhất định so với
làng trung và cận đại. Có những đặc điểm của làng cổ còn giữ được, nhưng cũng
có những đặc điểm ngày nay hầu như không thể tìm thấy. Truyền thống gia tộc
vẫn có những ảnh hưởng nhất định trong làng xã, nhưng do ngày nay, người dân
nông thôn có xu hướng thoát li ra các thành phố nên thành phần dân cư của làng
xãđa dạng hơn, tính chất cùng huyết thống cũng đã bị giảm mạnh. Vai trò của
chính quyền xã hiện nay được công nhận là nằm trong hệ thống quản lý nhà
nước đã và đang dần dà làm mất đi vai trò của hệ thống chính quyền làng theo
kiểu cũ. Làng hiện nay ngày càng được phát triển cả về những giá trị vật chất và
tinh thần, sự giao lưu, trao đổi hàng hóa, giúp cho đời sống nhân dân ngày càng
phát triển hơn, không còn tính khép kín và tự cung, tự cấp như trước.
Trong quá trình hình thành và phát triển, khái niệm “nông thôn” được mở
rộng nội hàm so với “làng” với nội dung: Nông thôn là phần lãnh thổ không
thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành
chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã. Vậy nông thôn mới là gì? Trong nghị quyết
số 26 - NQ/TW đưa ra mục tiêu: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý,

17



gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ đô thị theo quy
hoạch; xã hội nông thôn ổn định; giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng
cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nôngthôn dưới sự
lãnh đạo của Đảng được tăng cường” [9, tr.32].
Như vậy, nông thôn mới trước tiên phải là nông thôn, không phải thị tứ,
thị trấn, thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống. Nông thôn mới là
tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo
tiêu chí mới, có thể khái quát theo năm nội dung cơ bản sau: 1. Làng xã văn
minh sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; 2. Sản xuất phải phát triển bền vững theo hướng
kinh tế hàng hóa; 3. Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn ngày
càng được nâng cao; 4. Bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển; 5. Xã
hội nông thôn an ninh tốt, quảnlý dân chủ.
Sự khác biệt giữa nông thôn và nông thôn mới được thể hiện ở chỗ đó là:
nông thôn là khái niệm chứa đựng cả mô hình nông thôn cũ và mô hình nông
thôn mới, còn mô hình nông thôn mới chứa đựng những điều kiện đáp ứng các
yêu cầu phát triển, có sự đổi mới về tổ chức, vận hành các cảnh quan về môi
trường, đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, so với mô hình cũ, chứa đựng các đặc điểm chung, có thể vận dụng, phổ
biến trên cả nước. Nói khái quát về các tiêu chí của nông thôn mới ở nước ta
hiện nay
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò
của phụ nữ
1.1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của phụ nữ
* Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen
Trong thời kì nguyên thủy, không có cái gì là quyền tư hữu, khi sở hữu
của loài người là của chung thì không có sự phân biệt giới tính, hay bất bình
đẳng giữa nam và nữ. Trong xã hội đó, không có giai cấp, không có bóc lột lao
động, không có tài sản riêng. Đồng thời, phụ nữ không bị nô dịch, bị ràng buộc


18


×