Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Vai trò của phụ nữ trong gia đình nông thôn miền trung việt nam Tiếp cận dưới góc độ thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.99 KB, 17 trang )



VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG GIA ÐÌNH
NÔNG THÔN MIỀN TRUNG VIỆT NAM:
TIẾP CẬN DƯỚI GÓC ÐỘ GIỚI

(Trường hợp Chiết Bi Hạ, Thủy Tân, Hương Thủy, Thừa Thiên Huế)

- Hoàng Thị Ái Hoa
1. Dẫn luận
1.1. Xét một cách tổng thể, có thể dễ dàng nhận thấy vị thế của phụ nữ
Việt Nam ngày càng ñược khẳng ñịnh trên nhiều phương diện. Cũng không
mấy khó khăn, người ta có thể ñưa ra hàng loạt lý do cho sự tiến bộ này, như:
các quan niệm cổ truyền bị thủ tiêu; sự phân công lao ñộng trong cơ chế kinh
tế thị trường; ảnh hưởng của các trào lưu văn hóa hiện ñại v.v...
Song, khi ñặt ra câu hỏi về mức ñộ bình ñẳng của phụ nữ Việt so với nam
giới, có nhiều quan niệm khác nhau:
(1) Xuất phát từ phương pháp ñịnh lượng (về ñộ chênh thời gian lao ñộng,
quyền ñưa ra quyết ñịnh, phạm vi quan hệ xã hội, vai trò lãnh ñạo v.v.), ña số ý
kiến cho rằng phụ nữ ngày nay vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi, ñể có ñược sự bình
ñẳng trong gia ñình và ngoài xã hội, họ còn phải vượt qua chặng ñường khá xa
1
.
(2) Bằng phương pháp ñịnh tính và từ góc nhìn văn hóa học, một số nhà
nghiên cứu lại cho rằng phụ nữ Việt là những “nội tướng” của gia ñình. Họ thật sự
bình ñẳng với nam giới, vấn ñề là họ thể hiện vai trò của mình rất tinh tế, theo
cách mà những người không thấu hiểu văn hóa Việt thì không thể nhìn thấy
2
.
1.2. Mỗi ý kiến nêu trên ñều có cơ sở lý luận và thực tiễn riêng và xem
ra ñều có lý. Khi khảo sát trên ñịa bàn miền Trung, chúng tôi càng thấy rõ ñây


chính là nơi ñiển hình nghiệm ñúng cho cả hai nhận ñịnh trên. Trong ñó, lý do
cơ bản nhất chính là dư âm của Huế - cái nôi phong kiến cuối cùng của Việt

1
Các công trình nghiên cứu về “Vị thế người phụ nữ Việt Nam ngày nay”:
(Suzette Mitchell: ðổi mới về giới); Nguyễn Linh Khiếu, 2001; Trần
Hồng Vân, 2001; Lê Minh, 2000; Lê Minh, 1997; Trần Thị Vân Anh - Lê Ngọc Hùng, 1996; Lê
Ngọc Văn, 1997: 19 - 26; ðỗ Thị Bình, 1998: 30 - 35 v.v…
2
Trần Quốc Vượng (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Hà Nội, Nxb, Giáo dục ; Trần Ngọc Thêm
(1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Tp. HCM, Nxb. Tp.HCM.
Nam - với những mô hình tam/ tứ ñại ñồng ñường; tam tòng, tứ ñức; thuyền
theo lái, gái theo chồng… và cả gái có công, chồng không phụ; lệnh ông
không bằng cồng bà; của chồng, công vợ…
Với ñiểm nghiên cứu là làng Chiết Bi Hạ (Xã Thuỷ Tân - Hương Thuỷ -
Thừa Thiên Huế), bằng số liệu
3
cụ thể lẫn những phân tích, nhận ñịnh sau các
cuộc phỏng vấn trên nhiều ñối tượng, chúng tôi sẽ làm rõ nhận ñịnh của mình.
ðồng thời, bài viết cũng sẽ góp phần phác họa phần nào chân dung của người
phụ nữ trong gia ñình nông thôn miền Trung hiện nay.
2. Vai trò của người phụ nữ trong gia ñình thôn Chiết Bi Hạ
“Ở mọi xã hội, công việc của cả nam và nữ ñều nhằm duy trì sự tồn tại
của hộ gia ñình và cộng ñồng. Tuy nhiên, công việc của họ lại có xu hướng
khác nhau về tự nhiên và giá trị thể hiện qua sự ñòi hỏi về vai trò, trách
nhiệm khác nhau giữa nam và nữ. ðây ñược coi là sự phân công lao ñộng
theo giới. Theo ñó công việc của phụ nữ ñược chia ra ba loại:
- Công việc tái sản xuất (Reproductive work)
4


- Công việc sản xuất (Productive work)
5


3
Lý thuyết về khung phân tích giới (Gender Anlysis Framework) ñã hình thành và cụ thể hóa qua
8 công cụ sau:
(1) Phân công lao ñộng theo giới (the sexual/gender division of labor)
(2) Loại công việc (types of work)
(3) Tiếp cận và kiểm soát nguồn lực (access to and control over resources and benefits)
(4) Những nhân tố ảnh hưởng (influencing factors)
(5) Tình trạng và ñịa vị (condition and position)
(6) Nhu cầu thực tế và lợi ích chiến lược (Practical needs and strategic interests)
(7) Các cấp ñộ tham gia (levels of participation)
(8) Khả năng biến ñổi (potential for trans - formation)
(Nguyễn Kim Hà, 1999: 23).
Chúng tôi sử dụng các tiêu chí này trong bài nghiên cứu của mình, trong ñó nhấn mạnh ñến loại
(1) và (2).
4
Công việc tái sản xuất liên quan ñến việc chăm sóc và duy trì hộ gia ñình (mang thai, chăm sóc
con cái, nấu ăn, lấy nước, lấy củi, ñi chợ, trông nom nhà cửa và chăm sóc sức khoẻ cho gia ñình).
ðây là loại công việc thiết yếu ñể duy trì cuộc sống tồn tại của con người nhưng ít khi coi ñây là
“công việc thực sự”.
- Công việc cộng ñồng (Community work)
6

(Nguyễn Kim Hà, 1999: 24)
Phụ nữ thôn Chiết Bi Hạ
7
cũng tham gia ñầy ñủ các loại công việc này.

Khảo sát mức ñộ, thời gian tham gia mỗi loại công việc nêu trên, dưới sự chi
phối của các nhân tố chủ quan và khách quan, sẽ cho chúng ta ñánh giá một
cách tương ñối vai trò của họ trong gia ñình và xã hội.
2.1. Công việc tái sản xuất (Reproductive work)
Trước tiên, chúng ta khảo sát hai bản thống kê sau:
Loại công việc Chồng Vợ
Vợ chồng
cùng làm
Con
trai
Con
gái
Ông Bà
ði chợ

100%
Nấu ăn

60% 40%
Giặt giũ

100%
Rửa dọn bát ñũa

66,6
%
33,4
%
Quét dọn nhà cửa


53,3
%
46,7
%
Giúp con/cháu học
hành ở nhà
33,4% 40% 13,3% 13,3
%

Chăm sóc con cái 60% 40%
Bảng 1a:
Phân công công việc “tái sản xuất” trong hộ gia ñình chia theo giới
(gia ñình 3 thế hệ)

Loại công việc
Chồng

Vợ Vợ chồng
cùng làm
Con
trai
Con gái
ði chợ 100%

5
Công việc sản xuất là các công việc (hoạt ñộng) làm ra của cải vật chất và tinh thần, nhằm tạo ra
thu nhập hoặc ñể tự nuôi sống và tiêu dùng.
6
Công việc cộng ñồng là các công việc (hoạt ñộng) nhằm phục vụ cho các lợi ích của cộng ñồng
trong xã hội. Các cấp cộng ñồng trong xã hội nông thôn bao gồm: xóm, làng, xã, huyện lỵ v.v.

7
Thôn Chiết Bi Hạ (ñược tách ra từ thôn Chiết Bi - Phú Vang) cách thành phố Huế khoảng 15
km về phía ðông Nam, cách quốc lộ 1 khoảng 2 km về phía ðông Bắc. Ngôi làng này ñược thành
lập cách ñây trên 200 năm, do công khai phá của 4 dòng họ Lê Quang, Lương Quang, Lê ðình,

Lê Văn.

Nấu ăn


85%

2% 13%
Giặt giũ


66,6% 33,4%
Rửa dọn bát ñũa


73,3% 26,7%
Quét dọn nhà cửa


80% 20%
Giúp con cái học hành ở nhà
20%

26,6% 53,4%
Chăm sóc con cái



20% 80%
Bảng 1b: Phân công công việc “tái sản xuất ” trong hộ gia ñình chia theo giới (gia ñình 2 thế hệ)
Có thể thấy rằng, cho dù gia ñình ba hay hai thế hệ, thì một số lượng ô trống
lớn thuộc về nam giới, ngược lại, nữ giới thay nhau lấp ñầy các ô công việc. Trong
ñó, người vợ/mẹ gánh vác hầu như toàn bộ việc nội trợ. Nếu so sánh bảng 1a và
1b, các con số ñã có sự biến thiên theo chiều có lợi cho ñối tượng này. Nhưng thực
chất, người chia sẻ công việc cũng là nữ giới (bà, con gái). Trong các gia ñình hai
thế hệ, nam giới (chồng) cùng thể hiện trách nhiệm của mình nhiều hơn nhưng
mức ñộ chia sẻ không phải theo tỉ lệ 50/50 mà phụ nữ vẫn giữ vai trò chính. Thậm
chí, nhiều trường hợp, người chồng không hề tự nguyện mà chỉ thực hiện trong
ñiều kiện bất khả kháng (vợ bị ốm ñau, ñi xa, công việc ñột xuất...).
Lý giải hiện tượng nữ giới vẫn là lao ñộng chính trong các công việc nội trợ
không thể không xuất phát từ ý kiến của những người trong cuộc:
- 20% nam giới, chủ yếu là những người sống trong gia ñình ba thế hệ, vẫn
quan niệm nam ngoại, nữ nội. ðàn ông phải làm những công việc “lớn lao” bên
ngoài, không nên là “kẻ hèn” quanh quẩn nơi xó bếp.
Trường hợp anh Lê Văn B (30 tuổi) là một ví dụ ñiển hình, anh thừa nhận:
việc nội trợ tôi không hề ñụng tay ñụng chân, ñó là việc của ñàn bà. Nếu so với ña
số thanh niên trong làng, quan niệm của anh B hoàn toàn “lệch pha”. Nhưng qua
lời tâm sự của mẹ anh B (bà Nguyễn Thị H - 65 tuổi), chúng ta có thể lý giải xuất
phát ñiểm của quan niệm “thâm căn” này. Bà H nói: “ông nhà tôi không bao giờ
nấu cơm, trước ñây cũng vậy mà bây giờ cũng vậy, tôi có về muộn thế nào ông
cũng không nấu dùm, kể cả nấu nồi cơm, mà lại nấu cơm ñiện - không hề mệt nhọc
gì”. Dù ít hay nhiều, cách nghĩ của anh B rõ ràng ñã bị chi phối rất lớn từ những gì
mà anh nhìn thấy về cách phân công lao ñộng trong gia ñình của mình.
- 75% nữ giới không cảm thấy bất bình ñẳng khi phải làm hầu hết việc nhà. Họ
xem ñó như là công việc ñương nhiên và cảm thấy vui khi ñược chăm sóc gia ñình.
Thậm chí, họ “thấy chướng” khi ñàn ông làm nội trợ. 25% còn lại cũng không nề hà

nam hay nữ làm việc nhà, miễn sắp xếp ñược thời gian.
Ở khía cạnh nào ñó, không thể “quy chụp” hoàn cảnh bất bình ñẳng khi
chính người phụ nữ tự nguyện làm việc nội trợ và xem ñó như là thiên chức của
mình. Nếu so sánh 75% nữ giới cảm thấy không thoải mái khi ñể chồng làm việc
nhà thay mình với 80% nam giới phát biểu rằng họ sẵn sàng cùng làm nội trợ thì
quả là những con số ñáng bàn. Chính sự không thống nhất giữa người muốn chia
sẻ và người cần ñược chia sẻ là nguyên nhân khiến trên thực tế, nữ giới vẫn gánh
vác hầu hết những việc “không tên”.
Ngoài ra, con số 100% phụ nữ ñảm ñương việc ñi chợ cũng là một con số
ñáng lưu ý. Hiệu lực của quan niệm của chồng công vợ vẫn còn phổ biến trong các
gia ñình nông thôn Việt Nam. Việc người phụ nữ nắm giữ tay hòm chìa khóa
8

phù hợp với logic nam ngoại nữ nội, hơn thế, ñây cũng là một trong những công
việc ñược người ñàn ông xếp vào nhóm “xó bếp”. Nhưng nắm giữ túi tiền của gia
ñình không có nghĩa là người phụ nữ toàn quyền quyết ñịnh mọi khoản chi tiêu.
Bằng chứng là có ñến 83% gia ñình ñược hỏi khẳng ñịnh rằng khi cần quyết ñịnh
những công việc liên quan ñến các khoản chi lớn (làm nhà, sửa nhà, mua sắm
phương tiện ñi lại...) cũng như các việc trọng ñại (hướng nghiệp cho con cái, hôn
nhân của con cái...), các cặp vợ chồng luôn cùng nhau bàn bạc. Dù vậy, ñiều này
ñã thể hiện không khí khá dân chủ trong gia ñình nông thôn hiện nay, nhất là trong

8
Một thăm dò gần ñây cho thấy ña số phụ nữ vẫn là người nắm giữ tay hòm chìa khóa trong gia
ñình người Việt:
Chồng 18,5%
Vợ 74,3%
Mẹ chồng 3,3%
Mẹ vợ 1,1%
Người khác 2,9%

(Nguồn: )
các gia ñình hai thế hệ
9
. Thậm chí có ý kiến cho rằng ñây là một lợi thế của người
phụ nữ Việt. Nhưng cũng rất nhiều khi lợi thế này lại trở thành gánh nặng, nhất là
trong ñiều kiện kinh tế hạn hẹp, người phụ nữ phải tính toán sao cho mọi khoản
chi ñều hợp lý, ñảm bảo cho guồng quay của cuộc sống gia ñình có thể vận hành
trong ñiều kiện tốt nhất.
2.2. Công việc sản xuất (Productive work)
Những gì nữ giới ñã ñảm ñương trong nhóm công việc tái sản xuất như ñã
trình bày cho phép chúng ta suy luận nhóm công việc sản xuất sẽ do nam giới giữ
vai trò chính. Song, thực tế ở làng Chiết Bi Hạ tình hình khác hẳn.
Với diện tích ñất nông nghiệp khá hạn hẹp (4 - 5 sào/1 hộ), ñể giải quyết nhu
cầu kinh tế, một bộ phận dân cư, chủ yếu là nam giới thôn Chiết Bi Hạ phải chuyển
sang hoạt ñộng trong lĩnh vực phi nông nghiệp. ðáng chú ý là một nửa trong số họ
(85% nam giới) phải ly hương ñến làm việc tại các thành phố lớn ở hai ñầu ñất nước
(Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh), thậm chí họ còn ñi lập nghiệp trên ñất Lào.
Công việc thuộc lĩnh vực nông nghiệp mặc nhiên ñược “chuyển giao” hầu như toàn
bộ cho nữ giới (hơn 50% trong tổng số 902 nhân khẩu của thôn), thể hiện qua hai
bản thống kê sau:
Loại công việc Chồng Vợ Vợ
chồng
cùng
làm
Con
trai
Con
gái
Ông Bà
Thuê

1. Làm ruộng

Làm ñất (cày,
bừa)
100
%
Chọn/mua
giống
20% 33,4
%
20% 26,6%
Sạ lúa 20% 33,4
%
20% 26,6%
Dặm lúa 73,3
%
26,7%

9
Với các cặp vợ chồng già, tình hình khác hẳn, trường hợp gia ñình bà Lê Thị D (76 tuổi) là một
ví dụ tiêu biểu, bà so sánh:
“Bây giờ các cặp vợ chồng trẻ làm việc gì cũng cùng nhau bàn bạc thống nhất. Còn ngày trước,
ông nhà tôi rất gia trưởng, ông tự quyết mọi việc mà không hề hỏi ý kiến tôi. Sau khi ñã quyết
ñịnh rồi mới hỏi ñến việc chi tiền”.

×