Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHUYỂN DỊCH cơ cấu KINH tế NÔNG NGHIỆP HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.38 KB, 86 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN PHÚC THỌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ KINH NGHIỆM CỦA
MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG
10
1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp
10
1.2. Quan niệm, yêu cầu và các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phúc Thọ, thành
Phố Hà Nội
20
1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của
một số địa phương và bài học rút ra cho huyện Phúc Thọ
28
Chương 2. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2010-2015
37
2.1. Thành tựu và hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phúc Thọ, thành phố
Hà Nội
37
2.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phúc
Thọ, thành phố Hà Nội
49


Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Ở
HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN
NĂM 2025
57
3.1. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
57
3.2. Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
64
KẾT LUẬN
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
79
PHỤ LỤC
83


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là quá trình làm thay đổi (tăng
hoặc giảm) về tỷ lệ giữa các chuyên ngành, tiểu ngành thuộc ngành hay lĩnh
vực nông nghiệp theo một chủ đích nhất định. Trong nền kinh tế thị trường,
sự thay đổi về tỷ lệ và quy mô sản xuất, giá trị sản lượng giữa các chuyên
ngành, tiểu ngành của nông nghiệp theo một chiều hướng nào đó thường
nhằm mục tiêu đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường và đạt hiệu quả kinh tế tối
đa. Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thể hiện ở mức độ thích
nghi của bản thân ngành nông nghiệp với thị trường, ở sức cạnh tranh của
hàng nông sản trên thị trường trong nước và quốc tế; thể hiện ở sự tăng

trưởng và đóng góp của nó trong nền kinh tế và thể hiện ở tính bền vững của
ngành kinh tế này trong dài hạn.
Phúc Thọ là huyện ngoại thành của Thành phố Hà Nội, có vị trí địa lý
thuận lợi, có nhiều tiềm năng và lợi thế về phát triển ngành nông nghiệp. Thực tế
hiện nay, nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chủ yếu, đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Huyện. Sản xuất nông nghiệp của
Huyện đã đạt được những kết quả khá toàn diện: Tốc độ tăng trưởng đạt 9%
bình quân năm, cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, chuyển dịch tích
cực theo hướng tỷ trọng trồng trọt giảm dần, tỷ trọng của chăn nuôi, thủy sản
không ngừng tăng. Tuy nhiên, kết quả đó mới chỉ là bước đầu, chưa tương
xứng với tiềm năng lợi thế của Huyện. Đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp còn chậm; sản xuất nông nghiệp vẫn chưa có sự bứt phá, chủ yếu
vẫn là sản xuất nhỏ, hiệu quả thấp; sản xuất chưa thật gắn bó với thị trường;
năng suất, chất lượng nông sản còn thấp, sức cạnh tranh yếu. Trước yêu cầu
sản xuất nông nghiệp phải đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng nhanh của người
dân với chất lượng tốt hơn, an toàn hơn, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp của huyện Phúc Thọ càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
3


Để thực hiện những mục tiêu phát triển nông nghiệp theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ XX, nhiệm kỳ 2015-2020 đề ra đòi hỏi
ngành nông nghiệp Phúc Thọ cần có những giải pháp cụ thể, phù hợp. Vì vậy,
việc nghiên cứu đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, rút ra những bài học kinh
nghiệm, đề ra các giải pháp thúc đẩy chuyển dich cơ cấu kinh tế nông nghiệp
của Huyện là cần thiết và cấp bách, đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài:
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phúc Thọ, thành phố
Hà Nội” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói
riêng là vấn đề đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và hoạch
định chính sách. Cùng hướng với luận văn đã có nhiều công trình nghiên cứu
dưới dạng sách, đề tài và bài báo nghiên cứu đã được đăng tải như:
* Nhóm các công trình nghiên cứu về nông nghiệp nói chung
- Đinh Phi Hổ (2003), Kinh tế nông nghiệp - lý thuyết và thực tiễn, Nxb
Thống Kê, Hà Nội. Trong cuốn sách này, tác giả trình bày các vấn đề lý luận
cơ bản về kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng và thực tiễn kinh tế
nông nghiệp ở một số địa phương.
- Giáo trình Kinh tế nông nghiệp (2004), Đại học Kinh tế Quốc dân, Nxb
Thống kê, Hà Nội. Cuốn sách chỉ ra các cơ sở lý luận về cơ cấu kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc trưng, vai trò, sự cần thiết của chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong nông nghiệp.
- Ngô Thị Tố Quyên (2012), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong
mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 - 2020, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá khách quan thực tiễn
nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở Việt Nam, cuốn sách còn chỉ ra những
vấn đề còn tồn tại cũng như xu hướng phát triển của nông nghiệp, nông dân,
4


nông thôn Việt Nam trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 20112020, đồng thời đề xuất một số chính sách nhằm giải quyết những vấn đề tồn
tại đang đặt ra trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
- Vũ Quang Hiển (2013), Đảng với vấn đề nông dân, nông nghiệp và
nông thôn (1930 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách
này, nhóm tác giả đã đề cập đến những quan điểm lý luận của chủ nghĩa MácLênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn;
vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn trong đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và khẳng
định vấn đề tam nông trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp
- Nguyễn Văn Tiêm (02/2002), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp cần thực hiện ngay từ hộ gia đình nông dân”, Tạp chí Nông thôn mới.
Bài viết chỉ ra một trong những giải pháp để thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp là phải thực hiện ngày từ hộ gia đình nông dân.
- Nguyễn Xuân Dũng (7/2007), “Về giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp hiện nay”, Tạp chí Cộng sản. Bài viết phân tích và
khẳng định một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
ở nước ta giai đoạn trước đó, đến nay vẫn còn đúng, nhưng trong bối cảnh
mới thì cần có những giải pháp mới thích hợp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ở nước ta nói chung.
- Trần Anh Phương (01/2009), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế - thực trạng
và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Cộng sản. Tác giả tập trung phân tích
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH của cả nước bao gồm cả
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, chỉ ra những khó khăn trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta khi đã là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), trong đó tác giả đã chỉ ra những bất cập về quy
5


hoạch, về cơ sở vật chất, về vốn, về trình độ nguồn nhân lực, về nhận thức của
các chủ thể kinh tế, vv…
- Xaysongkarm Phimasone, Nguyễn Hữu Ngoan (220/2015), “Giải pháp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hàng hóa ở tỉnh Bo Keọ,
nước Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào”, tạp chí Kinh tế và Phát triển. Tỉnh
Bo Kẹo thuộc nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (CHDCND Lào) là một
địa phương nằm ở khu vực phía Tây Bắc Lào, là tỉnh miền núi có nhiều dân
tộc sinh sống. Nghiên cứu đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, từ đó đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hàng hóa ở tỉnh Bo Kẹo trong thời

gian tới.
- Nguyễn Xuân Trường (2004): “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế chính trị, Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn
nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa tại huyện của thành phố Hà Nội. Quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp đã tác động tích cực đến quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của huyện Ba Vì. Đề ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu
nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hợp lý.
- Phạm Văn Châu (2005):“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế chính trị,
Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn phân tích và đánh giá về thực trạng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh Bến
Tre, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp phát triển kinh tế nông nghiệp tại địa
phương trong thời gian tới.
- Lê Quang Điệp (2008): “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh
Thanh Hoá”, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Kinh tế, đại học Quốc gia Hà
Nội. Luận văn phân tích một số cơ sở lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển
6


dịch cơ cấu ngành kinh tế, kinh nghiệm chuyển dịch cơ cáu ngành kinh tế của
một số địa phương và bài học cho tỉnh Thành Hoá. Nghiên cứu thực trạng
chuểyn dịch cơ cáu ngành kinh tế của tỉnh Thanh Hoá từ năm 2001-2007, chỉ
rõ quá trình chuyển dịch trên các mặt: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo
GDP, cơ cấu lao động theo ngành kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế theo vốn đầu
tư và trong nội bộ các ngành kinh tế.
- Khuất Quang Cảnh (2010):“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
huyện Phúc Thọ theo hướng phát triển bền vững”, Luận văn thạc sĩ, trường
Đại học Kinh tế quốc dân. Luận văn phân tích và đánh giá về thực trạng chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông thôn huyện Phúc Thọ theo hướng phát triển bền
vững, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cơ bản đảm bảo sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn huyện Phúc Thọ theo hướng phát triển bền vững.
- Trương Thị Mỹ Hoa (2011): “Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Đà Nẵng. Luận
văn phân tích và đánh giá về thực trạng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp ở
huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, trên cơ sở đó đề xuất những phương
hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tại địa phương trong thời
gian tới.
- Hoàng Trung Kiên (2015): “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
ở huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang, trên cơ sở
đó đề xuất những giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại địa
phương trong thời gian tới.
- Nguyễn Khắc Hải (2015):“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở
huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị.
Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở tỉnh Hưng Yên, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại địa phương trong thời gian tới.
7


Các công trình khoa học trên đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau của
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nói riêng; những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn ở nhiều địa phương và
một số nước mà tác giả có thể kế thừa một cách có chọn lọc.
Ngoài ra còn nhiều đề tài, bài viết, công trình nghiên cứu khác đề cập
đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo từng mức độ khác nhau. Song
chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, vì vậy luận văn này không
trùng lắp với các công trình đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội giai đoạn 2010- 2015; trên cơ
sở đó đề xuất những giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ở huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội.
- Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện
Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội giai đoạn 2010- 2015.
- Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà
Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
* Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo nghĩa hẹp (bao gồm trồng trọt và chăn nuôi) ở huyện
Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội.
8


- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu khảo sát quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà
Nội từ năm 2010 đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận, thực tiễn

Luận văn sử dụng cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng
Cộng sản Việt Nam, chính sách pháp luật của Nhà nước, cơ chế, kế hoạch của
Thành phố Hà Nội và của huyện Phúc Thọ về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, các phương
pháp nghiên cứu tư liệu, lôgic và lịch sử, tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh
và phương pháp chuyên gia để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn được thực hiện thành công góp phần cung cấp cơ sở khoa
học cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phúc Thọ, Thành
phố Hà Nội.
- Luận văn là tài liệu tham khảo giúp các các nhà quản lý tại Huyện và
các địa phương khác tham khảo để đưa ra những giải pháp chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ở huyện trong thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn kết cấu gồm 3 chương (7 tiết).

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP Ở HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp
1.1.1 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp

* Khái niệm nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất
đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và
nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một số
nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao
gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa
rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản.
Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng và phức tạp trong nền kinh tế
quốc dân; theo nghĩa hẹp: gồm trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ trong nông
nghiệp; theo nghĩa rộng: gồm nông nghiệp; lâm nghiệp và thủy sản.
Như vậy có thể hiểu khái niệm nông nghiệp theo giáo trình Kinh tế chính
trị Mác- Lênin: Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là ngành sản xuất ra của cải vật
chất mà con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi để
tạo ra sản phẩm như lương thực, thực phẩm … nhằm thỏa mãn các nhu cầu của
mình. Nông nghiệp theo nghĩa rộng còn bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên.
Những điều kiện tự nhiên như đất đai, nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, bức xạ
mặt trời... trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng cây trồng vật nuôi.
Nông nghiệp cũng là ngành sản xuất có năng suất lao động rất thấp, vì đây là

10


ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên; là ngành sản xuất mà việc
ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ gặp rất nhiều khó khăn
* Cơ cấu kinh tế
CCKT là một phạm trù kinh tế, gắn liền với sự hình thành và phát triển
của nền kinh tế trong giới hạn một địa phương, một quốc gia hay một khu
vực. Nền kinh tế là một hệ thống phức tạp, bao gồm nhiều thành phần, nhiều
nhân tố có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. CCKT là

tổng thể các quan hệ hữu cơ giữa các nhân tố, các bộ phận cấu thành một
chỉnh thể nhất định của nền kinh tế. Trong bất kỳ một nền kinh tế quốc dân
nào người ta cũng có thể định tính hoặc định lượng mức độ phát triển của cơ
cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Một cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ cho phép tạo nên sự cân đối, hài hoà của
nền kinh tế để sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực tài nguyên, của
cải vật chất và lao động.
Xem xét cơ cấu kinh tế là xem xét cấu trúc bên trong của quá trình tái
sản xuất và mở rộng của nền kinh tế thông qua các mối quan hệ kinh tế. Đó là
quan hệ tỷ lệ về lượng, chất cơ cấu kinh tế của một xã hội luôn chịu ảnh
hưởng bởi quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của nền kinh
tế. Mối quan hệ kinh tế đó không phải mối quan hệ riêng lẻ, tách rời của các
bộ phận kinh tế mà là những quan hệ tổng thể của các bộ phận cấu thành nền
kinh tế như: quan hệ giữa các ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ…), giữa các vùng kinh tế, giữa các thành phần kinh tế… những quan hệ
này là những quan hệ cả về mặt lượng lẫn mặt chất.
Cơ cấu kinh tế bao giờ cũng biểu hiện trong những điều kiện về thời
gian và không gian nhất định, trong những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
nhất định, thích hợp với điều kiện của mỗi nước, mỗi vùng, mỗi địa phương
hoặc doanh nghiệp. Đồng thời, cơ cấu kinh tế không tồn tại một cách cố định
11


lâu dài mà luôn vận động và phải có những chuyển dịch cần thiết, thích hợp
với sự thay đổi quá nhanh chóng cơ cấu kinh tế - xã hội đều gây nên những
thiệt hại về kinh tế. Việc duy trì hay thay đổi cơ cấu kinh tế không phải là
mục tiêu mà chỉ là phương tiện của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì
vậy, có nên biến đổi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế hay không, chuyển dịch
nhanh hay chậm không phải dựa vào mong muốn chủ quan, mà phải dựa vào

mục tiêu đạt hiệu quả kinh tế - xã hội như thế nào. Điều này cần thiết cho sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước, cơ cấu của mỗi ngành kinh tế, trong
đó có cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Trong cơ cấu kinh tế quốc dân, cơ cấu ngành là quan trọng nhất. Cơ cấu
ngành được hình thành trên cơ sở phân công lao động theo ngành, là kết
quả của sự phân công lao động xã hội. CCKT ngành là tổ hợp các ngành
hợp thành, là các nhân tố tạo thành ngành kinh tế, là quan hệ hữu cơ giữa
các nhân tố tạo thành ngành kinh tế và trong nội bộ từng ngành đó. Về
mặt số lượng, cơ cấu ngành biểu hiện quan hệ tỷ lệ giá trị, tỷ trọng ngành
đó với ngành khác trong nền kinh tế. Quan hệ tỷ lệ về mặt giá trị của một
ngành nào đó trong cơ cấu ngành luôn luôn có sự thay đổi. Về mặt chất
lượng, cơ cấu ngành biểu hiện sự tác động qua lại bên trong giữa các
ngành với nhau.
Thông thường, các ngành trong CCKT được phân chia thành 3 nhóm:
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong từng nhóm ngành lại có sự phân
chia thành những phân ngành nhỏ hơn.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Cơ cấu kinh tế là mối quan hệ
tỷ lệ giữa các nhân tố, các bộ phận cấu thành một chỉnh thể nhất định của
nền kinh tế; trong đó, tổng thể các ngành, các lĩnh vực, bộ phận kinh tế có
vị trí, vai trò khác nhau, phụ thuộc lẫn nhau và có mối quan hệ tương hỗ
tương đối ổn định hợp thành.

12


Cơ cấu kinh tế là tổng thể hữu cơ các ngành, các vùng, các thành phần
kinh tế và tỷ trọng của mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi thành phần kinh tế trong
tổng thể nền kinh tế.
* Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một bộ phận cấu thành rất quan trọng

trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân; nó có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng, địa phương.
Cũng như cơ cấu kinh tế nói chung, nội dung của cơ cấu kinh tế
nông nghiệp bao gồm: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành
phần kinh tế.
Cơ cấu ngành: Cơ cấu ngành diễn ra sớm nhất, nó gắn liền với sự phát
triển của phân công lao động, phân công lao động theo ngành là cơ sở để hình
thành cơ cấu ngành, sự phân công lao động phát triển ở trình độ cao, càng tỉ
mỉ thì sự phân chia ngành càng đa dạng càng sâu sắc.
Cơ cấu ngành của nền kinh tế nông nghiệp bao gồm 4 nhóm ngành:
Trồng trọt; Chăn nuôi; Lâm nghiệp và nuôi trồng và khai thác thủy sản.
Trong từng nhóm lại được phân chia nhỏ hơn, chẳng hạn trong nội bộ
ngành trồng trọt được chia ra thành ngành trồng cây lương thực, cây ăn quả
và hoa, cây công nghiệp.
Cơ cấu vùng lãnh thổ: Sự phân công lao động theo ngành kéo theo sự
phân công lao động theo lãnh thổ, đó là hai mặt của một quá trình gắn bó hữu
cơ với nhau. Sự phân công theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên vùng lãnh thổ
nhất định, nghĩa là cơ cấu vùng lãnh thổ là nơi bố trí các ngành sản xuất và
dịch vụ theo không gian cụ thể nhằm khai thác mọi ưu thế vốn có.
Để hình thành cơ cấu vùng lãnh thổ hợp lý thì cần bố trí các ngành trên
vùng lãnh thổ hợp lý, để khai thác đầy đủ tiềm năng của từng vùng. Đặc biệt
cần bố trí các ngành chuyên môn hóa dựa trên những lợi thế so sánh của

13


vùng, đó là những vùng có đất đai tốt, khí hậu thuận lợi, đường giao thông lớn
và các công nghiệp đô thị.
So với cơ cấu ngành thì cơ cấu vùng lãnh thổ có tính trí tuệ hơn, có sự ỳ
hơn, chậm chuyển dịch hơn vì thế khi bố trí các ngành chuyên môn hóa cần

được xem xét cụ thể, thận trọng nếu phạm sai lầm khó khắc phục, tổn thất
nặng nề.
Cơ cấu thành phần kinh tế: Trong suốt một thời gian dài của thời kỳ bao
cấp ở nước ta cơ cấu thành phần kinh tế chậm chuyển biến với sự tồn tại
thuần nhất của hai loại hình kinh tế: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và
theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì các thành phần kinh tế phát triển đa
dạng nhiều thành phần, hiện nay bao gồm các thành phần kinh tế như: Kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Từ việc tiếp cận các khái niệm về nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nêu trên,
theo tác giả luận văn có thể hiểu: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một tổng thể
các quan hệ kinh tế, đó là các mối quan hệ tỷ lệ về số lượng, chất lượng và
các quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các bộ phận cấu thành nền nông nghiệp
bao gồm các ngành sản xuất nông nghiệp, các vùng sản xuất nông nghiệp và
các thành phần kinh tế nông nghiệp.
1.1.2. Khái niệm, nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp
* Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp luôn được coi là nhiệm vụ
quan trọng, một nội dung cơ bản lâu dài trong qua trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở nước ta nói chung và ở huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà
Nội nói riêng. Nếu xác định phương hướng, giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm
bảo hiệu quả KT - XH cao trong quá trình phát triển. Ngược lại, nếu kết quả
CDCCKT nói chung và CDCCKT nông nghiệp nói riêng không theo đúng mục
14


tiêu, yêu cầu của quá trình CNH, HĐH thì cái giá phải trả cho những sự phát
triển về sau sẽ là rất lớn. Vì không có một cơ cấu kinh tế cụ thể nào là hoàn
thiện và bất biến, quá trình chuyển dịch này xảy ra bởi sự phát triển và vận

động không ngừng của chính cơ cấu kinh tế đó. Cơ cấu kinh tế nông thôn nói
chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng sẽ vận động và chuyển hoá từ
cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới nhưng đòi hỏi phải có thời gian và
những bước phát triển nhất định. Đầu tiên là sự chuyển đổi về số lượng, khi
lượng được tích luỹ đến độ nhất định sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất. Đó là
quá trình chuyển hoá dần từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới hoàn
thiện và hiệu quả hơn.
Quá trình này tất yếu phải xảy ra bởi sự phát triển và vận động không
ngừng của sự vật do đó, không có một cơ cấu kinh tế cụ thể nào là hoàn thiện
và bất biến. Cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung và cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nói riêng sẽ vận động và chuyển hóa từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu
kinh tế mới nhưng việc này đòi hỏi phải có thời gian và qua các bậc thang
nhất định của sự phát triển. Đầu tiên là sự chuyển đổi về số lượng, khi lượng
được tích lũy đến độ nhất định sẽ dẫn đến sự chuyển đổi về chất. Đó là quá
trình chuyển hóa dần cơ cấu kinh tế cũ thành cơ cấu kinh tế mới phù hợp và
có hiệu quả hơn. Tất nhiên quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay
chậm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó sự tác động của con người có ý
nghĩa quan trọng. Đặc biệt cần phải có những giải pháp chính sách và cơ chế
quản lý thích hợp để định hướng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng. Tất
cả mọi sự nóng vội hoặc bảo thủ sẽ dẫn đến sự trì trệ trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và gây phương hại đến sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân nói chung. Sự chuyển dịch nền kinh tế nông nghiệp phải là
một quá trình không thể khác được nhưng không phải là một quá trình tự phát
do con người. Trên cơ sở nhận thức, nắm bắt được các quy luật khách quan
15


của cơ cấu kinh tế nông nghiệp con người sẽ tác động theo những mục tiêu đã
định nhằm chuyển dịch một cách có hiệu quả và đúng hướng phục vụ cho con

người. Nhưng vấn đề quan trọng là phải bắt nguồn từ đâu và với những biện
pháp nào mà khi tác động vào nó sẽ gây phản ứng dây chuyền tạo ra bước
phát triển nói lên tổng thể kinh tế nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế quốc
dân nói chung.
Quá trình chuyển dịch từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới
nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự tác động của
con người có ý nghĩa quan trọng thông qua các giải pháp, các cơ chế quản lý
thích ứng để định hướng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự nóng
vội hay bảo thủ, trì trệ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đều gây tác
hại đến việc phát triển của kinh tế nông thôn nói chung và kinh tế nông
nghịêp nói riêng.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là một quá trình tất
yếu. Nhưng quá trình đó không phải là quá trình vận động tự phát, mà con
người cần phải có tác động để thúc đẩy quá trình chuyển dịch này nhanh và
hiệu quả hơn. Trên cơ sở nhận thức và nắm bắt được quy luật vận động khách
quan, con người tìm và đưa ra các biện pháp đúng đắn tác động để làm cho
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra đúng mục tiêu và định hướng đã
vạch ra.
Mục tiêu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tạo ra một
hệ thống các tiểu ngành, nghề mới trong ngành nông nghiệp phù hợp điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi vùng. Kết quả của sự chuyển dịch là tạo
được mối quan hệ hữu cơ tương hỗ giữa các ngành trong nội bộ ngành nông
nghiệp với nhau và giữa các ngành nông nghiệp với các ngành kinh tế khác
sao cho phù hợp và có hiệu quả. Nó góp phần tác động tích cực tới quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
16


Vì vậy, theo tác giả: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là sự
thay đổi về số lượng, vai trò, vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ tương tác giữa

các ngành, phân ngành của lĩnh vực nông nghiệp trên cơ sở phù hợp với
sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
* Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
- Chuyển dịch cơ cấu ngành trong nông nghiệp biểu hiện sự thay đổi
các mối quan hệ tỷ lệ giữa trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản, giữa
cây lương thực, cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn quả…Trong trồng
trọt, do vậy cần phân biệt sự khác nhau trong nội bộ ngành nông nghiệp và
phải phân biệt theo đặc trưng kỹ thuật và kinh tế của chúng để tạo ra hệ thống
phân công lao động cho phù hợp giữa các tiểu thủ ngành trong cơ cấu kinh tế
nông nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp một cách khoa
học và hợp lý làm giảm tỷ trọng gía trị sản xuất ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng
giá trị sản xuất ngành chăn nuôi, ngư nghiệp. Trong trồng trọt thì giảm tỷ
trọng sản xuất lúa, tăng tỷ trọng diện tích cây rau màu có giá trị kinh tế cao ở
cả 3 vụ (Đông Xuân, Hè Thu và Thu Đông). Hiện nay, đối với các vùng trong
cả nước nói chung và địa bàn huyện Phúc Thọ nói riêng vấn đề sản xuất lúa
vẫn là nhiệm vụ quan trọng góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Vì vậy, cần chuyển dịch cơ cấu giống lúa để có năng suất, chất lượng, hiệu quả
cao trong sản xuất lúa. Tiếp tục chuyển mạnh một phần diện tích đất trũng, bãi
bồi sang đào ao nuôi cá, lập vườn để có giá trị kinh tế cao, hình thành các vùng
sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, xác định hợp lý cơ cấu đàn gia súc, gia
cầm. Thực hiện phương thức chăn nuôi kết hợp chế biến, tiêu thụ sản phẩm để
có hiệu quả kinh tế. Từng bước phát triển thủy sản trở thành thế mạnh, kết hợp
nuôi thả những giống cá có hiệu quả kinh tế cao với việc phát triển hệ thống
tiêu thụ, đưa giá trị thu nhập ở khu vực này tăng cao hàng năm.
- Chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt
17


Trong trồng trọt được phân ra trồng cây lương thực, cây công nghiệp,

cây thực phẩm, cây ăn quả, cây thức ăn gia súc, cây cảnh, cây dược phẩm…
Ở nước ta lương thực là ngành quan trọng nhất trong nông nghiệp.
Chính nó đảm bảo thỏa mãn nhu cầu lương thực cho tiêu dùng, tăng khối
lượng dự trữ, cung cấp thức ăn để phát triển chăn nuôi, tăng khối lượng lương
thực xuất khẩu. Mặc dù các ngành công nghiệp hiện đại ngày càng phát triển
và chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong tổng sản phẩm quốc gia, nhưng an toàn
lương thực luôn là vấn đề cấp thiết được đặt ra cho mỗi quốc gia cần quan
tâm giải quyết. Cuộc khủng hoảng kinh tế các nước trong khu vực trong
những năm qua chứng tỏ rằng không thể xem nhẹ vai trò của ngành nông
nghiệp mà trước hết là lương thực, thực phẩm.
Cây công nghiệp bao gồm cây ngắn ngày và dài ngày có ý nghĩa quan
trọng: cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và thủ công nghiệp, góp phần
tăng nguồn hàng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cần thiết của nhân
dân. Nhờ điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi, phù hợp nên cây công
nghiệp nước ta rất đa dạng, phong phú. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI khẳng định: “Giữ vững diện tích đất trồng lúa theo quy hoạch, bảo
đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia và tăng giá trị xuất khẩu gạo. Mở
rộng diện tích, áp dụng công nghệ cao để tăng năng suất chất lượng các loại
rau, màu, cây ăn quả, cây công nghiệp có lợi thế ” [11, tr.759].
Chuyển dịch cơ cấu trồng trọt là đẩy mạnh phát triển sản xuất và chế
biến các loại nông sản mà địa phương có lợi thế, nhất là đối với cây lương
thực; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, nâng cao hiệu quả sản
xuất lúa gạo trên cơ sở hình thành các vùng chuyên canh sản xuất lúa chất
lượng cao, giá thành hạ gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn
huyện còn phát triển các giống lúa cao sản và trồng các loại cây phù hợp cho
năng suất, sản lượng cao như: khoai lang, đậu tương… và các loại rau sạch,
cây thực phẩm ở các vùng bãi ven sông. Đối với cây công nghiệp và cây ăn quả
18



các loại ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn, lai tạo và nhân giống kết hợp
với nhập khẩu giống và công nghệ để sản xuất giống cây trồng có năng suất cao,
chất lượng, tạo thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi
Chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất chủ yếu của nông nghiệp,
cung cấp những sản phẩm có nhu cầu tiêu dùng hàng ngày cho nhân dân,
cung ứng nguyên liệu quan trọng cho công nghiệp, cung cấp phân bón và sức
kéo cho ngành trồng trọt. Chăn nuôi cũng là nơi cung cấp nguồn hàng xuất
khẩu quan trọng.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nhấn mạnh hướng tới: phát
triển nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp
với công nghệ tiên tiến” [Văn kiện đại hội XI, tr.760]. Vì vậy, chuyển dịch cơ
cấu chăn nuôi chủ yếu theo hướng khuyến khích phát triển chăn nuôi theo
hướng công nghiệp chủ yếu theo hình thức trang trại theo quy mô phù hợp với
điều kiện của địa phương, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung,
đa dạng hóa chủng loại với mục tiêu tăng giá trị sản phẩm hàng hóa, hạ giá
thành, tập trung phát triển chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm theo hướng
chăn nuôi sạch gắn với bảo vệ môi trường và phòng chống dịch bệnh đi đôi
với chế biến sản phẩm và thị trường tiêu thụ, tuyển chọn các loại con giống có
giá trị kinh tế cao, đảm bảo tiêu thụ trong nước và xuất khẩu ra ngoài nước.
- Chuyển dịch của cơ cấu vùng lãnh thổ theo hướng đi vào chuyên môn
hóa sản xuất và dịch vụ, hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn và hiệu
suất cao.
- Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế theo các xu hướng sau: Sự
phát triển đa dạng của nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế hộ nổi lên
trở thành kinh tế hộ độc lập, tự chủ, đây là thành phần kinh tế năng động
nhất, tạo ra sản phẩm hàng hóa phong phú, đa dạng cho xã hội. Trong quá
trình phát triển, kinh tế hộ chuyển từ quá trình tự cung tự cấp sang sản xuất
19



hàng hóa nhỏ tiến tới hình thành các trang trại, nông trại (tức sản xuất hàng
hoá lớn).
Thành phần kinh tế tập thể, trong đó hợp tác xã là nòng cốt chuyển đổi
các chức năng của mình sang các hợp tác xã kiểu mới làm chức năng hướng
dẫn sản xuất và công tác dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của các hộ nông dân mà
trước đây chức năng chủ yếu của hợp tác xã là trực tiếp điều hành sản xuất.
1.2. Quan niệm, yêu cầu và các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phúc Thọ, thành Phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về cơ cấu kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tác
giả luận văn cho rằng:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phúc Thọ, thành
phố Hà Nội là quá trình hoạt động có chủ đích, có định hướng của các chủ
thể nhằm tạo ra sự thay đổi về số lượng, vai trò, vị trí, tỷ trọng và mối
quan hệ tương tác giữa các ngành, phân ngành trong lĩnh vực nông nghiệp
trên cơ sở phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công
lao động xã hội.
Chủ thể của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội là cấp ủy, chính quyền, MTTQ, các tổ
chức chính trị - xã hội, các phòng, ban ngành từ huyện đến cơ sở và các
tầng lớp nhân dân trên địa bàn Huyện, trong đó giai cấp nông dân giữ vai
trò nòng cốt, quyết định.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phúc Thọ, thành phố
Hà Nội nhằm đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng nhu
cầu về nông sản của xã hội, nhu cầu tiêu dùng của dân cư; tạo cơ sở cho việc
thay đổi bộ mặt nông thôn nói chung và nông nghiệp nói riêng. Chuyển dịch
20



cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm tạo ra một nền sản xuất chuyên môn hoá,
thâm canh tiên tiến.
Chuyển dịch cơ cấu phải gắn với điều chỉnh quy hoạch sản xuất; liên
kết theo chuỗi, tập trung, phù hợp với điều kiện từng vùng. Gắn kết chặt chẽ
giữa phát triển nông nghiệp với công nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại,
dịch vụ.
Tận dụng tối đa nội lực, tranh thủ các nguồn lực để phát triển những lĩnh
vực, ngành nghề có lợi thế. Áp dụng phương thức sản xuất và quản lý tiên tiến
nhằm tăng năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm.
Phát triển các mô hình ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất,
nâng cao tỷ lệ cơ giới hóa. Phát triển sản xuất theo hướng công nghệ hiện đại,
sản xuất hàng hóa tập trung theo chuỗi gắn với an toàn thực phẩm và bảo vệ
môi trường.
1.2.2. Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phúc
Thọ, thành phố Hà Nội
Phúc Thọ là huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội, huyện Phúc thọ
có nhiều tiềm năng, lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng. Đặc biệt là từ khi hợp
nhất về Thành phố (01/8/2008), Phúc Thọ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp,
dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp.
Tiêu chí chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp một cách khoa học và
hợp lý, cụ thể là:
Thứ nhất, giảm tỷ trọng giá trị sản xuất ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng
giá trị sản xuất ngành chăn nuôi.
Trong trồng trọt thì giảm tỷ trọng sản xuất lúa, tăng tỷ trọng diện tích
cây rau màu có giá trị kinh tế cao ở cả 3 vụ để đạt hiệu quả cao hơn trên một
đơn vị diện tích sản xuất. Từng bước tăng tỷ trọng chăn nuôi trong sản xuất

21


nông nghiệp, xác định hợp lý cơ cấu đàn lợn, đàn gia cầm, đàn bò. Thực hiện
phương thức chăn nuôi kết hợp chế biến, tiêu thụ sản phẩm để có hiệu quả
kinh tế. Từng bước phát triển và xây dựng thương hiệu các sản phẩm nông
nghiệp của Huyện như: xây dựng thương hiệu bưởi Phúc Thọ, rau muống tiến
vua ở xã Sen Chiểu, cà dầm tương ở xã Tam Hiệp, vùng trồng rau an toàn ở
xã Thanh Đa, xã Vân Phúc, xã Vân Hà… trở thành thế mạnh, đem lại hiệu
quả kinh tế cao với việc phát triển hệ thống tiêu thụ, đưa giá trị thu nhập tăng
cao hàng năm. Với ngành chăn nuôi, xu hướng chung là số lượng các vật nuôi
có năng suất, giá trị kinh tế, xuất khẩu cao được quan tâm tăng đàn, tăng số
lượng như: lợn siêu nạc, lợn rừng, gia cầm chất lượng cao… giảm số lượng
vật nuôi kém năng suất và chất lượng.
Thứ hai, Chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ và trong nội bộ ngành nông nghiệp.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng là quá trình làm
cho tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm và tỷ lệ lao động trong ngành công
nghiệp và dịch vụ tăng. Trong nội bộ ngành nông nghiệp thì lao động trồng
trọt sẽ giảm dần, đặc biệt lao động trong trồng cây lương thực giảm (cây lúa),
lao động trồng cây công nghiệp, rau, hoa quả…có xu hướng tăng; lao động
trong ngành chăn nuôi thì tăng lên.
1.2.3. Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở huyện Phúc Thọ
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một khái niệm mang tính khách quan, tính
lịch sử xã hội, nó không những vận động, biến đổi và phát triển. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình, do vậy sự hình thành, vận
động, biến đổi và phát triển của nó là kết quả của sự tác động thường xuyên và
tổng hợp các nhân tố tác động tới cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
* Nhân tố về điều kiện tự nhiên


22


Phúc Thọ là huyện ngoại thành của Thành phố Hà Nội, với vị trí địa lý
thuận lợi cách trung tâm thành phố Hà Nội hơn 30 km, đã tạo điều kiện cho
Phúc Thọ có điều kiện khai thác những tiềm năng, lợi thế vốn có của mình để
phát triển kinh tế - xã hội tạo nên sự chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế
công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ của Huyện.
- Về tài nguyên nước: Huyện Phúc Thọ có nguồn tài nguyên nước
quan trọng, bao gồm nước mặt và nước ngầm. Nước mặt của sông Hồng và
sông Tích là hai nguồn cung cấp nước chính cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt,
đồng thời cũng là hệ thống tiêu thoát nước của phần lớn các xã trong Huyện.
Nước ngầm: hiện tại chưa có đủ tài liệu điều tra, khảo sát về trữ lượng nước
ngầm trên toàn Huyện, nhưng theo kết quả khảo sát sơ bộ thì mực nước ngầm ở
vào khoảng 15-25m, chất lượng khá tốt, có thể khai thác để sử dụng trong sinh
hoạt và sản xuất.

- Về tài nguyên khoáng sản: Hiện tại chưa có tài liệu nghiên cứu đánh
giá đầy đủ về các tài nguyên khoáng sản trên địa bàn huyện Phúc Thọ. Nguồn
khoáng sản đang khai thác chủ yếu là cát đen phục vụ san lấp và xây dựng.

- Về văn hóa: Phúc Thọ nằm trong vùng thuộc nền văn minh lúa
nước, tập quán sản xuất nông nghiệp có từ lâu đời. Huyện Phúc Thọ cũng
là một trong những vùng đất nổi danh về các di tích lịch sử văn hóa. Trên
địa bàn huyện hiện có 192 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 78 di tích
lịch sử đã được xếp hạng với 43 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia.
- Về dân số: Năm 2015, toàn Huyện có 181.327 người, mật độ dân số 1547
người/km2. Mật độ dân số cao nhất tại xã Liên Hiệp (2408 người/km2), thấp nhất
là xã Vân Hà (412 người/km 2). Tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm giai

đoạn 2010-2015 là 1,15%/năm, trong đó tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,1% năm.
- Lao động và việc làm: Đến năm 2015 Huyện có khoảng 96,6 nghìn lao
động trong độ tuổi, chiếm 53,3% dân số, lao động đã được qua đào tạo chiếm
24,2%, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 51,2%, lao động công nghiệp và
23


xây dựng: 17,8%, lao động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ: 12,2%, số
người trong độ tuổi đang đi học và thất nghiệp chiếm: 13,8%.
- Điều kiện về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
+ Về giao thông: trên địa bàn huyện Phúc Thọ, Quốc lộ 32 có chiều dài
gần 20km, chạy từ phía nam huyện theo hướng đông - đông nam và tây - tây
bắc, như một sợi chỉ nối liền các xã thành một hệ thống liên hoàn. Ngoài
Quốc lộ 32, Phúc Thọ còn có tỉnh lộ 417,418,419 phân bố đều khắp Huyện
theo hình xương cá. Hệ thống giao thông này tạo điều kiện thuận lợi cho Phúc
Thọ trong quá trình giao lưu, liên kết với trung tâm thành phố Hà Nội và các
đô thị, quận, huyện, thị, tỉnh thành lân cận.
Các tuyến đường trục chính của huyện, các xã được quan tâm tập trung
đầu tư xây dựng đồng bộ đảm bảo chất lượng, tiêu chuẩn của Bộ GTVT, tạo
thành mạng lưới giao thông thuận lợi kết nối giữa các xã, các thôn và Huyện
với Thành phố. Từ năm 2010 đến 2015, trên địa bàn huyện Phúc Thọ đã xây
dựng 2.648 tuyến đường ngõ xóm với chiều dài 169,77km.
+ Thủy lợi: Hệ thống thuỷ nông huyện Phúc Thọ được xây dựng
liên quan chặt chẽ với hệ thống thuỷ nông sông Tích và sông Đáy. Hiện
nay trên địa bàn Huyện có 21 trạm bơm tưới, tưới tiêu kết hợp do công ty
quản lý với 57 máy, tổng công suất đạt 78.140 m 3/h. Nhìn chung hệ thống
trạm bơm tưới, tưới tiêu kết hợp trên địa bàn Huyện đảm bảo phục vụ cho
sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Huyện.
+ Cơ sở hạ tầng khác
Hệ thống điện nông thôn được quan tâm cải tạo, củng cố, nâng cấp cơ

bản đảm bảo cung cấp đủ điện phục vụ cho sản xuất, dân sinh nông thôn.
100% các xã có hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện.
Mạng lưới bưu chính viễn thông phát triển rộng khắp các xã trên địa
bàn Huyện đáp ứng nhu cầu về thông tin của nhân dân.

24


+ Cơ sở văn hóa: Các hoạt động văn hóa thông tin đã bám sát nhiệm vụ
chính trị, làm tốt giáo dục nâng cao nhận thức tạo niềm tin phấn khởi để cán
bộ và nhân dân thực hiện tốt chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương. Sự nghiệp văn hóa
thông tin ngày càng được đầu tư phát triển. Hệ thống phát thanh truyền hình
và báo chí phát triển mạnh, đã góp phần làm tốt công tác tuyên truyền giáo
dục, phổ biến đường lối chính sách mới đến tận người dân. Các di sản văn
hóa, di tích lịch sử văn hóa được quan tâm đầu tư xây dựng tu bổ, bảo tồn tôn
tạo. Các tiết chế văn hóa, đài truyền thanh, nhà văn hóa thôn, cụm dân cư đã
và đang được triển khai xây dựng.
Đời sống văn hoá, thể thao ở cơ sở phát triển mạnh, đến nay đã có 78/79
làng có quy ước làng văn hoá, 56 làng đạt danh hiệu làng văn hoá (chiếm
70,8%), 27.774 hộ đạt gia đình văn hoá (chiếm 71,2%). Huyện có 78/192 di
tích được xếp hạng, trong đó có 42 di tích cấp quốc gia, 36 di tích cấp tỉnh.
+ Cơ sở y tế: Huyện có 01 bệnh viện nằm tại trung tâm Huyện với quy
mô 120 giường bệnh, 01 trung tâm y tế, 01 phòng khám đa khoa khu vực, 01
trung tâm DS-KHHGĐ và 23 trạm y tế xã, thị trấn. Tổng số cán bộ ngành y tế
trên địa bàn Huyện có 263 người, trong đó có 38 bác sỹ được phân bố ở Bệnh
viện đa khoa Huyện, Trung tâm y tế Huyện và tuyến y tế cơ sở (xã, thị trấn).
+ Cơ sở giáo dục - đào tạo: Toàn huyện có 24 trường mầm non, 24
trường tiểu học, 23 trường trung học cơ sở, 03 trường Trung học phổ thông và
01 Trung tâm giáo dục thường xuyên với tổng số 33.538 học sinh. Hệ thống

trường học được đầu tư đồng bộ, hiện đại, đảm bảo đạt chuẩn theo quy định.
Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, được nâng cao
trình độ chuyên môn và lý luận chính trị. Huyện đã hoàn thành phổ cập Tiểu
học, Trung học cơ sở và đang phấn đấu phổ cập bậc Trung học.
* Nhân tố về khoa học và công nghệ

25


Trong giai đoạn hiện nay, khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ
bão, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh
tế nông nghiệp nói riêng. Việc phát triển khoa học và công nghệ với khả năng ứng
dụng chúng vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn sẽ thay đổi chất lượng, năng suất
và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Đặc biệt công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang tạo ra sự chuyển biến cách
mạng trong lĩnh vực nông nghiệp, nổi bật là việc tạo ra các giống cây trồng, vật
nuôi có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn. Đây chính là động lực góp phần
tạo sự phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhờ ứng dụng các công nghệ mới trong các khâu canh tác, giống con mới,
chế biến, bảo quản, vận chuyển sản phẩm… sẽ trực tiếp làm đổi trạng thái sản xuất,
thực hiện phân công lại lao động tạo thêm ngành nghề mới trong nông thôn. Chính
sự tác động của khoa học - công nghệ sẽ thúc đẩy quá trình đa dạng hóa cơ cấu sản
xuất nông nghiệp với xu hướng các ngành nghề phi nông nghiệp ngày càng tăng.
Vai trò của khoa học kỹ thuật được ứng dụng vào sản xuất góp phần hoàn
thiện các phương pháp sản xuất nhằm khai thác sử dụng hợp lý hiệu quả hơn
các nguồn lực xã hội và khu vực nông thôn. Đồng thời việc ứng dụng khoa
học kỹ thuật cũng làm tăng năng lực sản xuất trong nông nghiệp, qua đó thúc
đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất, các vùng kinh tế trong nông nghiệp
góp phần tạo sự phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội của Huyện.
* Nhân tố về nguồn vốn

Để hình thành hay chuyển đổi một cơ cấu kinh tế nông nghiệp đòi hỏi
phải có điều kiện vật chất nhất định. Tương ứng với yêu cầu hình thành và
chuyển đổi cơ cấu kinh tế để đáp ứng đòi hỏi về các điều kiện vật chất này
nhất thiết phải đầu tư và phải có vốn đầu tư. Các nguồn vốn đầu tư chủ yếu để
hình thành và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp gồm: nguồn vốn của các
chủ thể kinh tế trong nông nghiệp; nguồn vốn ngân sách; nguồn vốn cho vay

26


×