Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bảo đảm AN SINH xã hội CHO NÔNG dân ở HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.34 KB, 97 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo đảm ASXH là một yêu cầu của sự phát triển bền vững, là mục tiêu
hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới, cũng là một đòi hỏi cấp thiết đối
với nước ta trong giai đoạn hiện nay. Bảo đảm ASXH là điều kiện để bảo đảm
định hướng XHCN cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường, phản ánh bản
chất tốt đẹp của chế độ XHCN ở nước ta. Việc chăm lo, xây dựng và tổ chức
thực hiện các chính sách ASXH, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự nghiệp xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam; chúng ta đang phấn đấu đến
hết năm 2020 hệ thống ASXH sẽ bao phủ khắp toàn dân. Nghị quyết số 15NQ/TW, ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về một số
vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020 khẳng định: “Hệ thống
ASXH phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và
người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ; bảo
đảm bền vững, công bằng” và đặt mục tiêu “Phấn đấu đến năm 2020 có
khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH; 35% lực lượng lao động
tham gia BHTN” [21, tr.4].
Khu vực nông thôn nước ta vẫn còn nghèo, nông dân vẫn còn khổ và
nông nghiệp vẫn còn chịu nhiều rủi ro; tình trạng thất nghiệp, thiếu công ăn
việc làm của người lao động, giữa các vùng vẫn chưa thu hẹp, tình trạng
nghèo đói và tái nghèo vẫn chưa được giải quyết một cách bền vững, phân
hóa xã hội ngày càng phức tạp. Bảo đảm ASXH đối với người nông dân còn
nhiều khó khăn [2, tr.7].
Phúc Thọ là một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội, trong những
năm qua huyện đã có nhiều nỗ lực thực hiện chính sách ASXH, bảo đảm
ASXH cho người dân nói chung và cho nông dân nói riêng đã góp phần làm
thay đổi diện mạo nông thôn và đô thị Phúc Thọ. Là huyện có vị trí địa lý
thuận lợi, có nhiều tiềm năng và lợi thế về phát triển ngành nông nghiệp, từ đó
3


góp phần nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm ASXH cho nông dân. Tuy nhiên,


việc bảo đảm ASXH cho người nông dân còn nhiều hạn chế bất cập: Công tác
giảm nghèo còn chưa bền vững, còn tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày
càng có xu hướng gia tăng, nguy cơ thất nghiệp hay bị tổn thương khi việc
làm không đầy đủ do đất đai canh tác bị thu hẹp trong quá trình quy hoạch đô
thị hóa; phát triển công nghiệp. Bên cạnh đó, lao động dư thừa trong huyện
còn nhiều; tính chủ động và tính hiệu quả về độ bền vững trong tiếp cận các
nguồn lực tài chính để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh chưa được khẳng định.
Là huyện các tệ nạn xã hội có nguy cơ lan rộng, nhiều làng bị ô nhiễm môi
trường rất nặng, tình trạng di cư lao động tự do và nhiều bức xúc khác đang
diễn biến phức tạp. Trước yêu cầu cần phải bảo đảm ASXH cho nông dân với
chất lượng tốt hơn, hiệu quả hơn, việc bảo đảm ASXH cho nông dân của
huyện Phúc Thọ càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Vì vậy, nghiên cứu đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những giải pháp nâng
cao hiệu quả bảo đảm ASXH cho nông dân ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà
Nội góp phần phát triển kinh tế bền vững cả về xã hội và môi trường, đáp ứng
yêu cầu phát triển chung của Thủ đô văn minh, hiện đại là việc làm cần thiết.
Với lý do đó tác giả chọn đề tài:“Bảo đảm an sinh xã hội cho nông dân ở
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp cao học có ý
nghĩa về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
ASXH, bảo đảm ASXH cho người dân đã có nhiều công trình nghiên
cứu, giải quyết ở nhiều phương diện, lĩnh vực, mức độ khác nhau.
* Các công trình nghiên cứu
- Dưới góc độ những cuốn sách:
Giáo trình: “An sinh xã hội” do PGS.TS Nguyễn Văn Định chủ
biên, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân (2009) [15], Cuốn sách gồm 8
chương, giáo trình đã chọn lọc trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về
4



ASXH, trong mỗi vấn đề lý luận đều được liên hệ với thực tế Việt Nam và
các nước trên thế giới.
Cuốn sách của tác giả Mai Ngọc Cường về: “Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia (2009) [7],
là một trong những công trình đầu tiên ở Việt Nam đi sâu nghiên cứu về vấn
đề ASXH trên quy mô toàn diện, rộng lớn. Đây là một vấn đề hết sức phức
tạp và đang thu hút được đông đảo sự quan tâm của cộng đồng trong xã hội
hiện nay.
Cuốn sách của tác giả Mai Ngọc Anh về: “ASXH đối với nông dân
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia (2010) [2].
Tổng kết kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông
dân ở một số nước trên thế giới, rút ra kinh nghiệm có thể vận dụng vào xây
dựng hệ thống ASXH nước ta; khái quát thực trạng hệ thống ASXH ở nước
ta, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn chế của hệ thống ASXH
đối với nông dân; Sử dụng ma trận SWOT làm rõ những thuận lợi, khó khăn,
cơ hội và thách thức trên cơ sở đó đề xuất việc lựa chọn các phương án xây
dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân ở nước ta những năm
tới, theo đó đưa ra một số khuyến nghị các giải pháp xây dựng và hoàn thiện
hệ thống ASXH đối với nông dân trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Cuốn sách: “Chính sách xã hội đối với di dân nông thôn – thành thị” do
PG.TS Lê Quốc Lý chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia (2013) [26]. Cuốn sách
đã tập trung phân tích thực trạng tình hình di dân nông thôn – thành thị ở Việt
Nam hiện nay cũng như thực trạng việc làm, thu nhập, đời sống, ASXH đối
với người lao động điều kiện di dân, và nêu phương hướng, giải pháp hoàn
thiện chính sách đối với vấn đề di dân.
Cuốn sách: “Chính sách ASXH – Thực trạng và giải pháp” do PGS.TS
Lê Quốc Lý chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia (2014) [25]. Cuốn sách đã đánh
giá một cách tổng quan thực trạng về chính sách ASXH ở Việt Nam; học tập
5



kinh nghiệm của các nước đi trước, việc điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn
quá trình thực thi chính sách ASXH ở nước ta, phát hiện những trở ngại, khó
khăn, góp phần đánh giá những chính sách an sinh hiện tại để tìm ra các biện
pháp điều chỉnh trong thời gian tới và đã nêu ra những mục tiêu, quan điểm
và giải pháp thực thi hiệu quả chính sách ASXH ở Việt Nam đến năm 2020.
- Dưới góc độ luận án:
Công trình nghiên cứu “Nghiên cứu hiệu quả Báo chí trong hoạt động
tuyên truyền về ASXH ở Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế” của tác
giả Dương Văn Thắng, Luận án tiến sĩ, Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2013 [37].
Tác giả đã chỉ ra ASXH là những chính sách xã hội quan trọng bậc nhất đối
với toàn dân ở nước ta đang từng bước mở rộng và hoàn thiện theo định
hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đến năm 2020. Bước vào thời kỳ đổi
mới, thời kỳ hội nhập và phát triển, đất nước đang đứng trước những thời cơ
và vận hội lớn, đi liền với những khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi báo chí
với vai trò chủ lực của tính truyền thông.
“Bảo đảm ASXH trên địa bàn thành phố Hà Nội ”. Luận án Tiến sĩ Kinh
tế của Đông Thị Hồng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2015 [16], tác giả đã đánh giá thực trạng về các điều kiện đảm bảo ASXH cho
người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội, đội ngũ cán bộ thực hiện việc bảo
đảm ASXH, các nguồn lực bảo đảm ASXH, công tác tuyên truyền, phổ biến
kiến thức và khả năng “tự an sinh” của người dân,..; trên cơ sở đó đưa ra
những quan điểm, phương hướng cho việc phát huy các điều kiện đảm bảo
ASXH cho người dân ở Thành phố đến năm 2020.
- Các bài viết đăng trên các Tạp chí khoa học:
“Bảo đảm ngày càng tốt hơn ASXH và PLXH là một nội dung chủ yếu
của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2010-2020”; tác giả Nguyễn Tấn
Dũng, đăng trên Tạp chí Cộng sản, 2010 [9]; “Một số ý kiến chế định về

6



quyền ASXH trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”; Tác giả Nguyễn
Thị Loan Anh đăng trên tạp chí Cộng sản, 2010 [4].
“An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí
Cộng sản phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương tổ chức
Hội thảo khoa học của PGS, TS Vũ Văn Phúc, Tạp chí Cộng sản, năm 2011
[19]; “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện chính sách xã hội
trong phát triển bền vững - những giải pháp chủ yếu đối với Việt Nam” của
GS,TS. Đỗ Thế Tùng, Tạp chí Cộng sản, 2011 [36].
“ASXH ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Tác giả Phạm Xuân Nam,
Viện Xã hội học số 2, năm 2012 [24]; “An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” của PGS, TS Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí
Cộng sản, Tạp chí Cộng sản, năm 2012 [19].
“ An sinh xã hội ở Việt Nam: Định hướng mô hình và giải pháp”, Tác
giả Đặng Nguyên Anh và cộng sự Tạp chí số mới của Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội Việt Nam, 2013 [3]; “Bảo đảm ASXH vì mục tiêu phát triển con
người ở Việt Nam: Định hướng mô hình và giải pháp” của Đặng Nguyên
Anh, Tạp chí số mới của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, 2013 [3].
Nội dung các bài viết về ASXH và đảm bảo ASXH nêu trên đã đề cập
và đưa ra những luận cứ, luận chứng về thực trạng ASXH đối với người dân
(nhất là đối tượng yếu thế trong xã hội) hiện nay, nghiên cứu từng trụ cột của
chính sách ASXH, GQVL, y tế, giáo dục...Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng,
các bài viết đã phân tích nguyên nhân khách quan, chủ quan, chủ yếu, thứ yếu
tác động đến quá trình thực hiện, triển khai ASXH trong thời gian tới.
Những công trình, đề tài khoa học nêu trên đề cập dưới nhiều lĩnh
vực khác nhau, đã có những kiến giải, dự đoán và định hướng khác nhau
về ASXH và bảo đảm ASXH. Đồng thời, các công trình nghiên cứu đề

7



xuất những phương hướng và giải pháp... đây là những tài liệu quý để tác
giả tiếp thu trong quá trình thực hiện đề tài. Tuy nhiên, việc luận giải vấn
đề “Bảo đảm ASXH cho nông dân ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội”
từ góc nhìn kinh tế chính trị chưa có công trình, đề tài khoa học nào đề
cập. Do vậy tác giả khẳng định đề tài luận văn không trùng lặp với công
trình nào đã nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu

Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về ASXH và Bảo đảm ASXH cho
nông dân, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm ASXH cho
nông dân ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

- Luận giải cơ sở lý luận về bảo đảm ASXH cho nông dân trên địa bàn
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng bảo đảm ASXH cho nông dân ở huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội thời gian qua và chỉ ra những vấn đề cần giải quyết trong thời
gian tới.

- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo
đảm ASXH cho nông dân ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội trong thời
gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Bảo đảm ASXH cho nông dân dưới góc nhìn

của khoa học kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu


- Về nội dung: Nghiên cứu số lượng, chất lượng, các điều kiện phương
thức bảo đảm ASXH cho nông dân. Tập trung nghiên cứu thực hiện chính sách
ASXH cho cho nông dân như: Bảo hiểm xã hội; Bảo hiểm y tế; trợ giúp xã hội và
cứu trợ xã hội; dịch vụ xã hội cơ bản cho cho nông dân.
8


- Về không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng từ năm 2010
đến nay và đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm ASXH cho nông dân ở
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận, thực tiễn: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận

của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối,
quan điểm, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam; các nghị quyết của
Thành ủy thành phố Hà Nội, Huyện ủy, các nghị quyết, báo cáo của Ủy ban
nhân dân huyện Phúc Thọ... Đồng thời, luận văn sử dụng số liệu trên các tài
liệu thu thập được và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học
có liên quan đã công bố.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng

phương pháp của khoa học kinh tế chính trị: phương pháp trừu tượng hóa
khoa học, kết hợp các phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích - tổng hợp, so
sánh thống kê và phương pháp chuyên gia để làm sáng tỏ những nội dung của
đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa của đề tài


Luận văn hoàn thành sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về ASXH, bảo đảm ASXH cho nông dân.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu và giảng dạy môn học kinh tế chính trị Mác - Lênin, làm tài liệu
tham khảo để huyện Phúc Thọ và một số địa phương tương đồng đề ra chủ
trương, biện pháp bảo đảm ASXH cho nông dân đạt hiệu quả cao.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI
CHO NÔNG DÂN Ở HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. An sinh xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và vai trò của nó đối với
nông dân
1.1.1. Khái niệm an sinh xã hội và bảo đảm an sinh xã hội
* Khái niệm ASXH
Nghiên cứu về ASXH các nhà khoa học, các tổ chức xã hội đã dành
nhiều công sức luận bàn, ngày càng phong phú và đa dạng có nhiều định
nghĩa, quan niệm khác nhau. Có thể nêu lên một số ý kiến tiêu biểu:
Theo Ngân hàng Thế giới (WB): “ASXH là những biện pháp công cộng
nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế
được nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và
những bấp bênh thu nhập” [15, tr.11]. Theo quan niệm của Tổ chức Lao động
Thế giới (ILO) trong cuốn cẩm nang ASXH đã đưa ra khái niệm: “ASXH là
sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số

các biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các
cú sốc về kinh tế và xã hội làm mất hoặc giảm nghiêm trọng thu nhập vì ốm
đau, thai sản, thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, tử
vong. Cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con” [2,
tr.17]. Liên Hiệp quốc cho rằng ASXH gồm 3 thành tố quan trọng là: (1).
BHXH để đảm bảo an toàn trước các rủi ro về thu nhập và mức sống khi về
già hoặc các tai nạn lao động và thường là các chương trình phải đóng góp về
tài chính, người lao động phải đóng góp một phần vào quỹ BHXH và khi nghỉ
hưu họ được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp BHXH; (2). TGXH là biện pháp
nhà nước hoặc cộng đồng có chính sách hoặc biện pháp trợ giúp bảo đảm
cuộc sống dưới hình thức chuyển khoản cho từng người, nhóm người... gọi
10


chung là đối tượng BTXH; (3). Trợ cấp dưới hình thức chuyển khoản cho
từng người, thông thường là hỗ trợ cho từng nhóm người cụ thể... gọi chung
là trợ cấp cho đối tượng BTXH. [16, tr.30]. Trong đạo luật về ASXH của Mỹ
năm 1935 lại quan niệm, ASXH là sự bảo đảm của xã hội, nhằm bảo trợ nhân
cách cùng giá trị của cá nhân, đồng thời tạo lập cho con người một đời sống
sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ [15, tr.11]. Trong hiến
chương Đại Tây Dương thì cho rằng: ASXH là sự bảo đảm thực hiện quyền con
người trong hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát triển chính kiến
trong khuôn khổ pháp luật, được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật, được học
tập, làm việc và nghỉ ngơi, có nhà ở, được chăm sóc y tế và bảo đảm thu nhập để
có thể thỏa mãn nhu cầu thiết yếu [16, tr.30].
Qua các quan niệm trên nhận thấy, một trong những nhu cầu xã hội hiện
đại là sự bảo vệ an toàn cho tất cả các thành viên trong xã hội trước các nguy
cơ bị giảm sút hoặc bị mất nguồn thu nhập trước các cú sốc về KT-XH hay
chính là bảo đảm ASXH cho người dân.
Ở Việt Nam, mặc dù ASXH là một lĩnh vực còn nhiều mới mẻ nhưng

cũng đã dành được sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà quản lý nghiên
cứu về vấn đề này, theo “Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam” tập I cũng đã
thống nhất khái niệm về ASXH (“Social Security”) là: “Sự bảo vệ của xã hội
đối với công dân qua các biện pháp công cộng nhằm giúp họ khắc phục
những khó khăn về kinh tế và xã hội; đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ
cấp cho các gia đình đông con...”. Nói đến ASXH là nói đến bảo đảm an toàn
cho xã hội với mục tiêu hướng tới tất cả các thành viên trong xã hội được bảo
vệ an toàn trước rủi ro, không để tình trạng họ rơi vào cảnh bần cùng hóa; tạo
nên một xã hội hài hòa, công bằng, phát triển ổn định và bền vững [25, tr.13].
Theo tác giả Phạm Xuân Nam trong bài viết “ASXH ở Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới” Viện Xã hội học số 2, năm 2012 [24], đề cập khi tiếp cận
ASXH theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
11


Theo nghĩa rộng, ASXH (social security trong tiếng Anh) là sự bảo đảm
thực hiện các quyền con người được sống trong hòa bình; được tự do làm ăn,
cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ pháp luật; được học
tập, có việc làm, có nhà ở; được bảo đảm thu nhập để thỏa mãn nhu cầu thiết
yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già...Theo nghĩa này thì tầm bao phủ của ASXH
là rất lớn và vì vậy bên cạnh thuật ngữ ASXH được sử dụng rộng rãi, có
những lúc những nơi, các thuật ngữ bảo đảm xã hội, bảo trợ xã hội, an toàn xã
hội...cũng dùng với những hàm nghĩa không hoàn toàn tương đồng.
Theo nghĩa hẹp, ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên
của mình, thông qua một loạt các biện pháp công cộng nhằm khắc phục
những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm thu nhập, gây ra
bởi thiên tai, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già,
đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp y tế cho các gia đình có con nhỏ,
cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi [24, tr.1].
Tại hội thảo Quốc tế với chủ đề: “Hệ thống ASXH ở Việt Nam” ngày

22/8/2007, tiến sỹ Nguyễn Hải Hữu, đại diện cho phía Việt Nam đã đưa ra
khái niệm: “ASXH là một hệ thống các cơ chế chính sách, biện pháp của nhà
nước và xã hội nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi
ro, các cú sốc về KT-XH làm cho họ có nguy cơ bị suy giảm mất nguồn thu
nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức
lao động hoặc vì những nguyên nhân khách quan rơi vào hoàn cảnh nghèo
khổ và cung cấp dịch vụ sức khỏe cho cộng đồng, thông qua hệ thống mạng
lưới về BHXH, BHYT và trợ giúp xã hội” [18, tr.19].
Trong bài “Bảo đảm ngày càng tốt hơn ASXH và PLXH là một nội dung
chủ yếu của Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020” của Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng, khẳng định “ASXH và PLXH là hệ thống các chính sách và giải
pháp nhằm vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro

12


và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa góp phần không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân [9, tr.3].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
khẳng định: “ASXH là một hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà
nước và các lực lượng xã hội thực hiện nhằm bảo đảm mức tối thiểu về thu
nhập và giảm nghèo, về chăm sóc sức khỏe, về tiếp cận giáo dục và về thụ
hưởng các phúc lợi cho mọi thành viên trong xã hội; thông qua việc nâng cao
năng lực tự an sinh của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng và thông qua
quản lý, kiểm soát các rủi ro do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, thiên tai, tác
động tiêu cực của kinh tế thị trường...dẫn đến giảm hoặc bị mất thu nhập và
giảm khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản” [12, tr 6].
Kế thừa các nghiên cứu của các tổ chức, các nhà khoa học, dưới góc độ
kinh tế chính trị ASXH có thể hiểu: ASXH là một hệ thống chế độ, chính sách
của nhà nước và xã hội nhằm giúp đỡ những người kém may mắn trong xã

hội được nhà nước bảo trợ thông qua mạng lưới BHXH, BHYT; cứu trợ xã
hội, ưu đãi xã hội khi họ xảy ra biến cố về tài chính. Với quan niệm trên,
ASXH phản ánh:
- ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với những người gặp rủi ro về kinh
tế trong đời sống xã hội.
- ASXH là hệ thống các chương trình, chính sách mà Nhà nước, cộng
đồng và xã hội tiến hành để giúp đỡ người dân thoát nghèo và giảm nghèo,
giảm thiểu những rủi ro về kinh tế thông qua các trụ cột, hệ thống chính
sách sau:
+ Trụ cột BHXH, BHYT: BHXH, BHYT là những bộ phận quan trọng
nhất trong hệ thống ASXH, đã được thể chế hóa bằng Luật BHXH, được
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua
ngày 29/6/2006 và Luật BHYT được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14/11/2008. Các chế độ BHXH,
13


BHYT bắt buộc theo luật định hiện nay ở nước ta gồm: (1) Ốm đau; (2) Thai
sản; (3) Dưỡng sức và phục hồi sức khỏe; (4) Tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp; (5) Hưu trí; (6) Tử tuất; (7) Khám, chữa bệnh BHYT; (8) BHTN, bao
gồm: Trợ cấp thất nghiệp; hỗ trợ học nghề; hỗ trợ tìm việc làm.
Loại hình BHXH tự nguyện áp dụng cho các đối tượng không thuộc diện
tham gia BHXH bắt buộc, bao gồm các chế độ: (1) Hưu trí; (2) Tử tuất;
BHYT tự nguyện áp dụng đối với các đối tượng chưa tham gia BHYT bắt
buộc, có nhu cầu tham gia, chế độ hưởng tương tự BHYT bắt buộc. Với các
chế độ BHXH, BHYT rộng lớn, bao quát hầu hết khắc các lĩnh vực cuộc
sống, sức khỏe của mọi người dân; do đó, hệ thống ASXH thì BHXH, BHYT
giữ vai trò trụ cột chính, bền vững nhất...
+ Chế độ chính sách Trợ cấp, TGXH và XĐGN: TCXH là trụ cột thể
hiện đạo lý truyền thống “uống nước nhứ nguồn” và “tương thân, tương ái”

của dân tộc Việt Nam đối với những người có công trong xã hội (cá nhân và
gia đình có công, thương binh, liệt sĩ...) và những người bị rơi vào những
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. TCXH đó là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội
về thu nhập và các điều kiện sinh sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên
của xã hội trong những trường hợp bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả
năng để tự lo liệu được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình. TGXH là
sự giúp đỡ thêm của cộng đồng và xã hội bằng tiền hoặc bằng các điều kiện
và phương tiện thích hợp để đối tượng được giúp đỡ có thể phát huy khả năng
tự lo liệu cuộc sống của mình và gia đình, sớm hòa nhập trở lại với cuộc sống
của cộng đồng... XĐGN là một trong những trụ cột quan trọng bậc nhất của
việc bảo đảm ASXH cho người dân. Vì thế, đây là một chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; đồng thời
là tiêu chí quan trọng góp phần phát triển bền vững của mỗi quốc gia. XĐGN
có mối quan hệ chặt chẽ với việc GQVL cho người lao động; với việc trợ cấp,
TGXH; với việc đóng góp BHXH, BHYT cho người nghèo. Muốn đẩy mạnh
14


XĐGN phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên các khía cạnh: Hoàn thiện
cơ sở hạ tầng; hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề cho người nghèo; tín
dụng cho người nghèo vay vốn; hỗ trợ người nghèo về giáo dục; hỗ trợ người
nghèo về y tế; hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo;...
+ Chế độ chính sách GQVL cho người lao động: Đây là trụ cột quan
trọng góp phần bảo đảm ASXH cho người dân trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước... GQVL cho người lao động góp phần quan trọng trong
việc XĐGN, giải quyết được hàng loạt các vấn đề xã hội đặt ra. Để GQVL
cho người lao động được khơi thông, phát triển có hiệu quả đòi hỏi phải có
chủ trương, chính sách phù hợp của Nhà nước, phải có giải pháp đồng bộ dựa
trên điều kiện đặc thù của từng địa phương trong cả nước [16, tr.36].
* Khái niệm bảo đảm ASXH

Ở Việt Nam, bảo đảm ASXH đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta đặc biệt quan tâm. Trong cuốn “Đường Cách mệnh” xuất bản
năm 1927, nói về công hội, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Lại có bất thường
phí như để dành lúc bãi công hoặc giúp những hội khác bãi công, hoặc
giúp đỡ người mất việc làm, khi ốm đau, tai nạn, hoặc làm những việc
công ích”. Có thể nói, đây là ý tưởng ban đầu của bảo đảm ASXH. Ngay
sau khi giành được chính quyền, năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người đứng đầu Nhà nước ta xây dựng và ban hành Hiến pháp, trong đó
quy định những người già, hoặc người tàn tật không việc làm thì được
giúp đỡ. Trong giai đoạn từ năm 1947 đến những năm 50 của thế kỷ XX,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo, ban hành một loạt chính sách, chế
độ liên quan đến cán bộ, công chức, người lao động như chế độ tiền
lương, phụ phí, chế độ trợ cấp BHXH đối với cán bộ, công chức, viên
chức; chế độ đãi ngộ quân nhân. Trong những năm 60 của thế kỷ XX,
khi tổ chức công đoàn phát triển, chế độ BHXH, chế độ thai sản, ốm đau,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu, tuất được Chủ tịch Hồ
15


Chí Minh quan tâm chỉ đạo, ban hành. Đây là những yếu tố nền tảng của
bảo đảm ASXH.
Thấm nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo đảm ASXH,
trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta đều quan tâm đến vấn đề bảo đảm
ASXH. Nội hàm của bảo đảm ASXH cũng ngày càng được Đảng ta nhận thức
đầy đủ, toàn diện. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
đã khẳng định: Bảo đảm ASXH là tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống
BHXH, BHYT, BHTN, Trợ giúp và CTXH đa dạng, linh hoạt, có khả năng
bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị
tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. Tăng tỉ lệ
người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm. Đẩy mạnh xã hội hoá dịch

vụ BHXH, chuyển các loại hình Trợ giúp và CTXH sang cung cấp dịch vụ
bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Bảo đảm cho các nông dân có cuộc sống
ổn định, hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh
tế, dịch vụ công thiết yếu. Thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm pháp
luật BHXH, bảo đảm thực hiện đúng, đầy đủ chế độ quy định đối với mọi đối
tượng. Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xoá đói, giảm nghèo
ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hoá các nguồn lực và
phương thức xoá đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn,
phát triển giáo dục, dạy nghề và GQVL để xoá đói, giảm nghèo bền vững; tạo
điều kiện và khuyến khích người đã thoát nghèo vươn lên làm giàu và giúp đỡ
người khác thoát nghèo. Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước
chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân. Tạo
điều kiện, khuyến khích người nông dân tích cực tham gia phát triển kinh tế
để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân trên địa bàn.
Trên cơ sở nghiên cứu dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, tác giả
đưa ra quan niệm bảo đảm ASXH là: Bảo đảm An sinh xã hội là tổng thể các

16


hoạt động của toàn xã hội dựa trên các quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước nhằm huy động có hiệu quả các nguồn lực vật
chất, tài chính để bảo đảm cho các đối tượng được hưởng chính sách ASXH,
tạo điều kiện cho họ nâng cao mức sống vật chất, văn hóa, tinh thần và tái sản
xuất sức lao động.
Như vậy, điều có ý nghĩa quyết định để thực hiện được mục tiêu, nhiệm
vụ bảo đảm ASXH là việc phải tạo ra được các nguồn lực kinh tế, vật chất tài
chính cần thiết. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước thì không bao
giờ có thể giải quyết được các yêu cầu to lớn của bảo đảm ASXH. Do đó việc
xã hội hóa để tạo ta các nguồn lực sẽ là con đường cơ bản để thực hiện thắng

lợi mục tiêu, nhiệm vụ bảo đảm ASXH. Nói cách khác phải coi đó là trách
nhiệm, nghĩa vụ của các thành phần và tổ chức kinh tế, của tất các nguồn lực
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với các hoạt động của các tổ
chức, cá nhân và các thành phần xã hội khác. Với quan niệm trên, bảo đảm
ASXH phản ánh:
Một là, bảo đảm ASXH là bảo đảm các điều kiện nhằm thực hiện tốt các
chính sách ASXH của Nhà nước và xã hội. Trong đó chủ yếu là các chính
sách: BHXH là trụ cột quan trọng nhất của ASXH. Nó bao gồm cả một hệ
thống cả về chính sách, tổ chức và nguồn lực để vận hành, bảo đảm tính bền
vững và không ngừng phát triển của thể chế. Vì vậy, nó liên quan và thậm chí
“chi phối” và ảnh hưởng đến nhiều chính sách phát triển của quốc gia. Vận
hành của BHXH theo hai cơ chế bắt buộc và tự nguyện; BHYT bao gồm cả
BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện, BHYT cho người nghèo, đối tượng bảo
trợ xã hội (BTXH) và trẻ em dưới 6 tuổi; ƯĐXH được coi là bộ phận cốt cán
của ASXH, thực hiện tôn vinh, đãi ngộ cho đối tượng người có công được
hưởng các trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng qua các chế độ ưu đãi về vật
chất, tinh thần phù hợp với điều kiện cụ thể của khả năng kinh tế đất nước và
luôn được điều chỉnh bởi các chế định Nhà nước; TGXH là bộ phận thiết yếu
17


hướng vào nhóm cư dân thiệt thòi, yếu thế thường dễ bị tổn thương. Họ
không có khả năng bảo đảm được nhu cầu tối thiểu của cuộc sống do bị rơi
vào hoàn cảnh rủi ro, éo le bất thường. TGXH được thực hiện bằng nguồn
quỹ phúc lợi của Nhà nước và sự huy động từ cộng đồng. Đối tượng cần trợ
giúp rất đa dạng và thường không ổn định và có các hình thức trợ giúp thường
xuyên và trợ giúp đột xuất.
Hai là, chính sách ASXH luôn phải đa dạng, phong phú và phải thực
hiện lồng ghép nhiều chính sách khác nhau nhằm bảo đảm tốt nhất cho mọi
mặt đời sống của đối tượng được thụ hưởng trong xã hội. Chính sách cho

ASXH được thực hiện bằng nhiều hình thức như CTXH, dịch vụ xã hội, chăm
sóc y tế và các khoản trợ cấp như trợ cấp thôi việc, trợ cấp thất nghiệp,... Trên
cơ sở đó đề ra chủ trương, chính sách, biện pháp thực hiện ASXH. Nhà nước
cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách đối với người nghèo, với các nhóm cư
dân cư trú ở vùng sâu, vùng xa, hướng tới giảm khoảng cách chênh lệch giữa
các nhóm dân cư.
Ba là, thực hiện tất cả các điều kiện bảo đảm ASXH góp phần hạn chế,
phòng ngừa những rủi ro phát sinh do điều kiện chủ quan và khách quan tác
động. Bảo đảm ASXH là làm thế nào để thực thi được các chính sách đó một
cách có hiệu quả, các chính sách thực sự đi vào đời sống hàng ngày của các
đối tượng thụ hưởng nhằm giúp họ giải quyết được những khó khăn, vướng
mắc để nhanh chóng hòa nhập cộng đồng như phải có một thể chế chính sách
phù hợp với điều kiện hiện tại, phải có nguồn lực tài chính đủ mạnh để thực
hiện các chương trình ASXH, phải có một bộ máy tổ chức và một đội ngũ cán
bộ có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt.
Như vậy xét về bản chất, bảo đảm ASXH là tạo ra lưới an toàn gồm
nhiều tầng, nhiều lớp cho tất cả các thành viên trong trường hợp bị giảm, bị
mất thu nhập hay khi gặp những rủi ro xã hội khác. Bảo đảm ASXH là một
trong những chính sách xã hội cơ bản của Nhà nước nhằm thực hiện chức
18


năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, bảo đảm an toàn thu nhập và
cuộc sống cho các thành viên trong xã hội do đó nó vừa có tính kinh tế, vừa
có tính xã hội và nhân đạo sâu sắc.
1.1.2. Vai trò bảo đảm an sinh xã hội đối với nông dân
Bảo đảm ASXH cho nông dân có vai trò quan trọng: trong quá trình lao
động, sản xuất ra của cải vật chất, người nông dân không phải lúc nào cũng
đảm bảo chắc chắn rằng khỏe mạnh để duy trì thu nhập ổn định, sản xuất để
phát triển mà có những lúc rủi ro như: ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động dẫn

đến bị mất hoặc giảm khả năng làm việc. Mặt khác, quá trình lao động sản
xuất của người nông dân còn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, môi
trường, xã hội. Vì thế, sự cần thiết phải có biện pháp phòng tránh, khắc phục
rủi ro; bảo vệ sự an toàn cho người nông dân trước các nguy cơ, cú sốc về
kinh tế. Chính vì vậy, bảo đảm ASXH cho người nông dân là một trong những
công cụ có vai trò quan trọng thể hiện:
Một là, bảo đảm ASXH góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định
chính trị, xã hội trên địa bàn dân cư sinh sống. Có thể khẳng định, bảo đảm
ASXH nói chung, bảo đảm ASXH đối với người nông dân nói riêng là một
trong những công cụ, giải pháp hữu hiệu mà Nhà nước dùng để điều hành,
quản lý xã hội, thông qua đó làm giảm thiểu sự bất bình đẳng xã hội, phân
hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, trên cơ sở đó tạo nên niềm tin của người
dân đối với đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách điều
hành, quản lý của Nhà nước, tạo nên sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội người dân yêu quê hương, làng xóm, láng giềng, gia đình quyết tâm làm
giàu, xây dựng gia đình, quê hương giàu mạnh, tạo ra động lực khuyến khích
người nông dân làm giàu cho mình, cho xã hội, giúp cho nông dân có điều
kiện nâng cao trình độ, chuyên môn, kinh nghiệm, tay nghề, thúc đẩy tăng
trưởng, phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng địa bàn nông thôn văn hóa...
19


Bảo đảm ASXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho khu vực
nông thôn, mà người nông dân sinh sống, nhất là những thời điểm KT-XH
chịu sự tác động nhiều rủi ro do thiên tai, điều kiện tự nhiên tác động. Mặt
khác, có tăng trưởng kinh tế mới có điều kiện vật chất để đầu tư, phát triển
kinh tế, phát triển giáo dục, đào tạo con người. Bảo đảm ASXH góp phần đẩy
mạnh chính sách XĐGN, GQVL cho người lao động, người nông dân, thực
hiện công bằng xã hội.
Hai là, bảo đảm ASXH góp phần đảm bảo các điều kiện, thực hiện tốt

các chính sách giúp cho người nông dân phòng ngừa và đối phó với những rủi
ro. Đây là vai trò có ý nghĩa quyết định trong việc ổn định cuộc sống của
người nông dân khi họ phải đối phó với những khó khăn về kinh tế, suy sụp
về tinh thần, thể hiện:
+ Thực hiện các chính sách, chương trình giúp người nông dân mang
tính chất phòng ngừa rủi ro. Đây được coi là tầng trên cùng của hệ thống
ASXH đối với nông dân. Vai trò của tầng này là hướng tới can thiệp và bao
phủ toàn bộ người dân nông thôn; giúp cho họ có được thu nhập từ việc làm,
có được năng lực vật chất cần thiết để đối phó một cách tốt nhất các rủi ro,
hạn chế rủi ro và tự bảo vệ mình trước rủi ro. Nội dung quan trọng của hợp
phần này là các chính sách, chương trình ở tầm vĩ mô cho khu vực nông
nghiệp. Nó bao gồm các chính sách và chương trình về việc làm; chương
trình phòng ngừa tai nạn thương tích; phòng ngừa thảm họa thiên tai đối với
con người... Để phòng ngừa tốt cần có các nghiên cứu dự báo và kế hoạch đối
phó dài hạn. Hệ thống ASXH đối với nông dân còn có vai trò quan trọng
trong việc phòng ngừa rủi ro. Sự phòng ngừa rủi ro có ý nghĩa quan trọng
trong việc ổn định cuộc sống của người nông dân khi họ đương đầu với
những khó khăn về kinh tế... Để phòng ngừa, giảm thiểu những ảnh hưởng
những tiêu cực từ những rủi ro này, Nhà nước nên tạo môi trường thuận lợi để
người nông dân có điều kiện đóng góp tham gia từ khi còn trong độ tuổi lao
20


động, đến khi về già họ có khả năng đối phó nhờ vào lương hưu hoặc tiền bảo
hiểm tuổi già...
+ Thực hiện các chính sách, chương trình giúp người nông dân mang
tính chất giảm thiểu rủi ro. Đây được coi là tầng thứ hai của hệ thống ASXH
đối với nông dân. Tầng này có vị trí đặc biệt quan trọng khi rủi ro xảy ra,
đồng thời cũng hướng tới bao phủ toàn bộ dân cư trong khu vực nông nghiệp
và nông thôn; nhưng trên thực tế mức độ bao phủ của nó hẹp hơn tầng thứ

nhất và hướng trực tiếp vào những người nông dân khi gặp rủi ro và gián tiếp
chịu hậu quả từ rủi ro như những người thiếu việc làm, người có thu nhập
thấp, người già, tàn tật, trẻ em mồ côi, người nghèo... Bên cạnh hệ thống
chính sách, chương trình ở tầm vĩ mô, Nhà nước cũng tạo môi trường khuyến
khích các hoạt động ở tầm trung và vi mô. Tầng thứ hai này còn giữ vai trò
tạo sức bật cho các đối tượng tái hòa nhập cộng đồng thông qua các chương
trình và chính sách cụ thể. Hệ thống ASXH đối với người nông dân sẽ giải
quyết những vấn đề liên quan đến giảm thiểu rủi ro, hạn chế tính dễ bị tổn
thương và khắc phục hậu quả của rủi ro thông qua các chính sách và chương
trình cụ thể nhằm giúp cho người nông dân ổn định cuộc sống, tái hòa nhập
cộng đồng thông qua “sức bật” của các lưới ASXH hoặc bảo đảm cho họ có
mức sống ở mức tối thiểu không bị rơi vào tình cảnh bần cùng hóa.
+ Thực hiện các chính sách, chương trình giúp người nông dân mang
tính chất khắc phục rủi ro. Đây được coi là tầng cuối cùng của hệ thống bảo
đảm ASXH đối với người nông dân nhằm bảo vệ an toàn cho người nông dân
khi họ gặp phải rủi ro mà bản thân họ không tự khắc phục được, để họ không
rơi vào cảnh bần cùng hóa. Tuy vây, tầng cuối này cũng chỉ là “Phao cứu
sinh” tạm thời, nó vẫn có chức năng tạo “sức bật” cho các đối tượng tham gia
vào các tầng trên và hòa nhập cộng đồng; chỉ có một bộ phận nhỏ đối tượng
xã hội không còn cách nào khác sẽ phải dựa vào “phao cứu sinh” ấy để tồn

21


tại. Bảo đảm ASXH đối với nông dân khi thực hiện tốt sẽ góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.
Ba là, bảo đảm ASXH giúp cho người nông dân tiếp cận, hưởng thụ
PLXH, BTXH. Hai bộ phận hợp thành của mô hình tổ chức ASXH cho nông
dân thể hiện:
- Theo nguyên tắc đóng – hưởng, bảo đảm ASXH cho nông dân bao gồm

BHYT tự nguyện và BHXH tự nguyện.
- Theo nguyên tắc không dựa vào đóng góp, bảo đảm ASXH cho nông
dân bao gồm các hình thức trợ giúp. Ở mỗi nước khác nhau có hình thức trợ
giúp khác nhau, nhưng đều có một điểm chung là nguồn tài chính cho TGXH
đều được thực hiện từ ngân sách nhà nước. Ở nước ta các hình thức trợ giúp
chủ yếu là TGXH thường xuyên và TGXH đột xuất từ Nhà nước và cộng
đồng xã hội.
Như vậy, bảo đảm ASXH cho nông dân ở nước ta được thực hiện thông
qua việc tự nguyện tham gia đóng góp của người dân, sự giúp đỡ của Nhà
nước và cộng đồng. ASXH là biện pháp bảo đảm để phòng ngừa, ngăn chặn
và hạn chế rủi ro. Đó là trách nhiệm của mỗi người dân, của xã hội và cộng
đồng trong việc xây dựng hệ thống ASXH. Trước hết, mọi nông dân phải tự
nguyện và chủ động tham gia vào hệ thống ASXH. Họ phải có tự nguyện tích
lũy, đóng góp vào quỹ an sinh để được thụ hưởng khi cần thiết. Tuy nhiên,
tích lũy của nông dân là một yêu cầu, thêm nữa mức thu nhập không cao, do
vậy khả năng chủ động tham gia ASXH theo nguyên tắc đóng – hưởng là
không cao, vì thế sự trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng lại càng có ý nghĩa
quan trọng. Nhà nước không những bảo đảm tài chính cho các chương trình
an sinh không đóng góp, mà cần có sự trợ giúp nhất định để nông dân tham
gia ASXH theo nguyên tắc đóng – hưởng. Đồng thời sự giúp đỡ cộng đồng
cũng rất cần thiết, nhất là trong các trường hợp nông dân gặp thiên tai, lũ lụt,

22


mất mùa, hoặc những người do bệnh tật, đau yếu mất sức lao động, cô đơn
không nơi nương tựa,... Điều này thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc.
Bảo đảm ASXH đối với nông dân thuộc lĩnh vực ASXH cho khu vực phi
chính thức (phi kết cấu), hệ thống luật pháp cho khu vực này cần có những
quy định có tính đặc thù những người tự làm, nông dân,... được gọi với cái tên

là khu vực phi chính thức hoặc khu vực phi kết cấu. Khu vực phi kết cấu chủ
yếu ở những hoạt động thủ công nghiệp truyền thống, quy mô nhỏ, hoạt động
mang tính chất kinh tế gia đình như trồng trọt, chăn nuôi, làm gia công cho
các hợp tác xã hoặc xí nghiệp, kinh doanh cá thể,...Như vậy, ASXH cho nông
dân thuộc lĩnh vực ASXH cho khu vực phi chính thức. Hoạt động khu vực
này rất đa dạng, phong phú, nhưng quy mô nhỏ, khó đo đếm và kiểm soát như
khu vực chính thức. Hệ thống luật pháp cho việc thực thi ASXH đối với nông
dân vì thế còn nhiều bất cập và tính nhất quán chưa cao, vì thế việc xây dựng
hệ thống luật pháp về ASXH đối với khu vực này phải tính đến đặc thù về quy
mô, phạm vi, khả năng kiểm soát để thực hiện chính sách ASXH. Người nông
dân là những người có thu nhập thấp và không ổn định, vì vậy tính bền vững
và ổn định về tài chính cho việc thực hiện ASXH không cao. Điều này cũng
dẫn đến trong quản lý nhà nước phải tính đến những quy định về mức đóng,
mức hưởng như thế nào để phù hợp với khả năng thu nhập của nông dân, có
như thế mới bảo đảm tính khả thi của chính sách ASXH và bảo đảm ASXH.
1.2 Quan niệm, nội dung và các nhân tố tác động đến bảo đảm an
sinh xã hội cho nông dân ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm về bảo đảm an sinh xã hội cho nông dân ở huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
Nông dân Việt Nam nói chung và nông dân huyện Phúc Thọ, thành phố
Hà Nội nói riêng là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản
xuất nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu
bằng nghề ruộng, vườn sau đó đến các ngành nghề mà tư liệu sản xuất chính
23


là đất đai. Nhìn chung, nông dân là những người nghèo, lao động nặng nhọc
nhưng hiệu quả công việc và năng suất lao động thấp.
Trong quá trình CNH, HĐH nhất là đối với nông nghiệp, nông thôn,
nông dân đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng nông thôn, chủ

động sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn. Trong giữ
gìn nếp sống văn hóa, thuần phong mỹ tục và là lực lượng quan trọng tham
gia vào xây dựng hệ thống chính trị xã hội nông thôn vững mạnh, bảo đảm an
ninh trật tự tại cơ sở.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để nghiên cứu về bảo đảm ASXH cho
nông dân, mặt khác nội hàm bảo đảm ASXH cho nông dân cũng chỉ mang
tính tương đối, vì hệ thống ASXH có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ
cho nhau, đan xen lẫn nhau. Về cấu trúc hệ thống ASXH đối với nông dân, có
thể thấy hệ thống ASXH đối với nông dân phân chia theo các dạng cấu trúc
khác nhau như: cấu trúc hệ thống ASXH đối với nông dân theo chức năng,
nhiệm vụ cơ bản; cấu trúc hệ thống ASXH đối với nông dân theo sự phát triển
của hệ thống chính sách và đối tượng tham gia; cấu trúc hệ thống ASXH đối
với nông dân theo hình thức cung cấp dịch vụ; cấu trúc hệ thống ASXH đối
với nông dân theo không gian và thời gian; cấu trúc hệ thống ASXH đối với
nông dân theo hệ thống quản lý; cấu trúc hệ thống ASXH đối với nông dân
theo hệ thống pháp luật [2, tr.36].
Bảo đảm ASXH cho nông dân ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
chính là bảo đảm ASXH cho nông dân ở một địa phương cụ thể, trên cơ sở
nghiên cứu, tác giả cho rằng: Bảo đảm ASXH cho nông dân huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội đó chính là hoạt động tích cực, chủ động của các chủ thể
trên cơ sở nhận thức đúng những thuận lợi, khó khăn của địa bàn huyện, của
nông dân để đảm bảo các điều kiện cần thiết, thực hiện tốt chính sách ASXH
của Nhà nước và xã hội nhằm hạn chế, phòng ngừa và khắc phục các rủi ro

24


do những tác động khách quan đến cộng đồng dân cư trên địa bàn, bảo đảm
sự ổn định và phát triển của huyện. Quan niệm trên chỉ ra:
Chủ thể thực hiện bảo đảm ASXH cho nông dân trên địa bàn huyện

Phúc Thọ là: Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân của huyện.
Trong đó, mỗi chủ thể có một nhiệm vụ cụ thể, phụ thuộc vào chức năng,
nhiệm vụ của từng tổ chức. Trong đó, Đảng bộ huyện Phúc Thọ giữ vai trò
lãnh đạo; trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng về bảo đảm ASXH đề ra
chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng với điều kiện của huyện Phúc Thọ.
Chính quyền các cấp của huyện tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, Nghị quyết của Đảng bộ huyện về bảo đảm ASXH; các tổ chức chính
trị, xã hội, đoàn thể, nhân dân của huyện thực hiện đảm bảo ASXH theo chức
tránh nhiệm vụ được giao.
Đối tượng được bảo đảm ASXH là người nông dân.
Mục đích của bảo đảm ASXH cho người nông dân là để các đối tượng
này có được cuộc sống vật chất, văn hóa, tinh thần tốt hơn mức trung bình của
xã hội.
Trên cơ sở đó, cho thấy nội hàm quan niệm bảo đảm ASXH cho nông
dân ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội phản ánh một số vấn đề sau:
- Thứ nhất, bảo đảm ASXH cho nông dân ở huyện Phúc Thọ, thành phố
Hà Nội là đảm bảo những điều kiện nhằm thực hiện tốt nhất các quan điểm
chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước ta và các giải pháp của chính
quyền địa phương huyện nhằm bảo đảm ASXH cho nông dân trên địa bàn.
- Thứ hai, đối tượng của việc bảo đảm ASXH trên địa bàn huyện là nông
dân, nhất là những người yếu thế, chịu nhiều rủi ro do yếu tố khách quan
mang lại như: Chăm sóc sức khỏe thông qua BHXH, chăm sóc tuổi già,
phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, TGXH; người sống độc
thân, người tàn tật, nhóm người nông dân gặp cú sốc về kinh tế do rủi ro và

25


tác động bất thường về kinh tế, xã hội, môi trường, hay suy giảm nghiêm
trọng thu nhập do ốm đau, bệnh tật, thai sản, thương tật, mất sức lao động,

hoặc tử vong...
- Thứ ba, chủ thể tham gia vào việc bảo đảm ASXH cho nông dân ở
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội là Nhà nước, cấp ủy Đảng, chính quyền
thành phố Hà Nội, cấp ủy Đảng, chính quyền huyện Phúc Thọ, các tổ chức
đoàn thể chính trị xã hội. Cá nhân người nông dân là đối tượng được thụ
hưởng. Nhà nước, cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương thành phố, huyện
nhà hoạch định chính sách phát triển KT-XH, hướng tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, bảo đảm vận hành, quản lý phát
triển đúng hướng. Đồng thời, đưa ra hệ thống chính sách về ASXH như
BHYT, BHXH, Trợ giúp đặc biệt, TGXH nhằm hỗ trợ, giúp đỡ giảm thiểu rủi
ro cho người nông dân. Mặt khác, cấp ủy Đảng, chính quyền thành phố,
huyện Phúc Thọ chăm lo phát triển nguồn lực như cơ sở hạ tầng, xây dựng
nông thôn mới, chính sách môi trường, nước sạch, chăm lo phát triển nguồn
lực cho bảo đảm ASXH, nhất là việc bảo đảm an toàn về đời sống vật chất
cho người nông dân, các thành viên gặp rủi ro khác. Các tổ chức đoàn thể xã
hội khác như: Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến
binh, các Doanh nghiệp trên địa bàn huyện... đóng vai trò quan trọng trong
quá trình tiến hành, tổ chức thực hiện bảo đảm ASXH cho nông dân, cung cấp
dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm học sinh. Tham gia
cung cấp dịch vụ chăm sóc người già, trẻ em tàn tật...
- Thứ tư, phương thức bảo đảm ASXH cho nông dân ở huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội thực hiện được tiến hành phong phú, đa dạng, bằng nguồn
lực của Nhà nước, của Thành phố, của huyện và được huy động nguồn lực
theo hình thức xã hội hóa tham gia của doanh nghiệp và tự nguyện của người
dân, nhằm mục tiêu quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững về kinh tế, xã
hội gắn với việc bảo vệ môi trường.
26


1.2.2. Nội dung bảo đảm an sinh xã hội cho nông dân ở huyện Phúc

Thọ, thành phố Hà Nội.
Với mục tiêu nhằm nâng cao mức sống cho người nông dân và khuyến
khích họ tham gia vào hệ thống ASXH. Nội dung bảo đảm ASXH cho nông
dân ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội gồm:
Một là, thực hiện chế độ BHXH, BHYT cho nông dân.
Bảo hiểm là sự bảo đảm thay thế hay bù đắp một phần thu nhập của
người nông dân khi họ gặp rủi ro trong đời sống (sức khỏe, tai nạn, mùa
màng…) thông qua việc đóng thường xuyên một khoản tiền (phí bảo hiểm)
cho tổ chức (nhà nước hoặc tư nhân) tương ứng với xác xuất xảy ra và chi phí
của rủi ro liên quan đến chu kỳ sống của người nông dân và gia đình họ.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người nông dân là trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Để đối tượng người
nông dân có cuộc sống cao hơn mức trung bình của xã hội, Đảng và Nhà nước ta
đã có chế độ chính sách ưu đãi cho người nông dân. Các cấp, các ngành, các địa
phương trên cơ sở chế độ chính sách của nhà nước thực hiện chi trả cho đối
tượng người nông dân theo quy định.
Thông qua các chương trình chính sách thực hiện việc bảo đảm ASXH
cho nông dân ở huyện Phúc Thọ cụ thể như:
Bảo đảm ASXH thông qua BHXH tự nguyện. Bởi người nông dân phần
lớn làm việc ở khu vực phi chính thức, nên hầu hết chưa tham gia vào hệ
thống BHXH bắt buộc. Do vậy BHXH tự nguyện là hình thức bảo trợ mà xã
hội dành cho người nông dân thông qua hàng loạt các biện pháp công bằng
nhằm tránh tình trạng khốn khó về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm thu
nhập do gặp rủi ro. Người nông dân được hưởng hai chế độ là hưu trí và tử
tuất. Thực tế cho thấy, người nông dân làm việc ở khu vực nông nghiệp, nông
thôn, thu nhập không cao. Khi về già, thì họ hầu hết là không còn khả năng

27



×