Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ HUY ĐỘNG vốn CHO PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội ở QUẬN hà ĐÔNG, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.93 KB, 95 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển kinh tế - xã hội có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong ổn
định tình hình chính trị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Kinh tế phát triển, xã hội ổn định vừa là mục tiêu, vừa là động lực phấn đấu
của đảng bộ, chính quyền, nhân dân các địa phương trong cả nước nói chung,
Đảng bộ, chính quyền, nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội nói riêng.
Nhận thức sâu sắc vấn đề này, trong các kỳ Đại hội, Đảng bộ quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội luôn quan tâm lãnh đạo, đưa ra đường lối, chủ trương sát
đúng với tình hình thực tiễn của địa phương. Trên cơ sở đường lối, chủ trương
lãnh đạo của Đảng bộ quận, các chi bộ, đảng bộ trực thuộc, Ủy ban nhân dân
các phường, các ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn quận đã tích cực, chủ động
tìm nhiều giải pháp thực hiện, đặc biệt là giải pháp huy động vốn phục vụ các
chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Song, trong quá trình tổ chức thực hiện còn
nhiều hạn chế, bất cập. Vốn phục vụ tăng trưởng kinh tế - xã hội chưa tương
xứng với tiềm năng và lợi thế của quận.
Trong thời kỳ mới, Đại hội lần thứ XX Đảng bộ quận Hà Đông nhiệm kỳ
2015 - 2020 xác định: “Xây dựng quận Hà Đông trở thành đô thị phát triển
mạnh, toàn diện và bền vững trên cơ sở xây dựng và quản lý đô thị đi đôi với
phát triển kinh tế dịch vụ, thương mại và công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp.
Chú trọng quan tâm bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái; ưu tiên phát
triển hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Nâng cao đời sống vật chất tinh thần
của nhân dân; tạo chuyển biến mới trong xây dựng văn hóa người Hà Nội thanh
lịch, văn minh. Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội”[17, 33].
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên, quận Hà Đông rất cần có vốn
nhưng đang thiếu. Cho đến nay, với số vốn hiện có chỉ đáp ứng được 75% các
chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cần phải huy động thêm 25% vốn từ các
nguồn khác nhau. Vì vậy, khơi dậy, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn
3



vốn để phát triển kinh tế - xã hội được coi là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách
của quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay.
Đề tài luận văn: “Huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội ở quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội”, được hình thành từ những lý do trên.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vốn và huy động vốn là vấn đề rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước nói chung và cho các lĩnh vực của đời sống xã hội nói riêng. Do
đó, thời gian qua có nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, nổi
lên một số công trình khoa học tiêu biểu là:
- Uỷ ban KHNN (1991): “Những giải pháp huy động và sử dụng có hiệu
quả các nguồn vốn”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tài liệu đã luận giải các
vấn đề về động viên các nguồn vốn ngoài quốc doanh; huy động và sử dụng các
nguồn vốn trong nước; chiến lược tạo vốn công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát
triển kinh tế - xã hội.
- Chu Văn Cấp (1996): “Hệ thống ngân hàng với công cuộc đổi mới kinh tế
Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng số 6. Tác giả đã đề cập đến vốn và sử dụng vốn
trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
- Nguyễn Văn Lai (1996): “Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn
trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trên cơ sở phân tích thực trạng huy động
và sử dụng vốn, nhất là những yếu kém, bất cập trong thời gian gần 10 năm đổi
mới, tác giả đã đề xuất các giải pháp như: ổn định kinh tế vĩ mô; chú trọng phát
triển kinh tế thị trường và mở rộng thị trường vốn; hoàn thiện hệ thống pháp
luật về kinh tế cho phát triển kinh tế - xã hội.
- Báo cáo của Ban Chỉ đạo Thống kê Trung ương ngày 01/10/1999. Tài
liệu đã đề cập đến tình hình huy động vốn phát triển kinh tế Việt Nam từ 1986
đến 1999.
- Trần Xuân Kiên (2000): “Chiến lược huy động và sử dụng vốn trong
nước cho phát triển công nghiệp Việt Nam”, Nxb Lao động, Hà Nội. Tác giả
4



tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn
1995 - 2000, trên cơ sở đó khẳng định nhu cầu về vốn cho phát triển công
nghiệp là rất lớn, có vai trò quan trọng hàng đầu. Thông qua khái quát một số
kinh nghiệm tích tụ và tập trung vốn ở một số nước Đông Nam Á và Trung
Quốc, tác giả đưa ra những định hướng và giải pháp cơ bản để đẩy nhanh quá
trình tích tụ và tập trung vốn trong nước cho phát triển công nghiệp.
- Đinh Văn Phượng (2000): “Thu hút và sử dụng vốn đầu tư để phát
triển kinh tế miền núi phía Bắc nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ kinh tế,
Học viện Chính trị Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đã đi từ đặc điểm kinh tế xã hội kém phát triển của miền núi phía Bắc - trên phạm vi một vùng lãnh thổ
khá rộng của nước ta, và khẳng định vai trò quan trọng của vốn đồng thời đi
sâu làm rõ thực trạng thu hút và sử dụng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế của
vùng trong thời gian từ 1986 - 1998. Từ đó đề xuất một số phương hướng và
giải pháp cơ bản để huy động và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả cho phát
triển kinh tế ở các huyện miền núi phía Bắc.
- Phạm Thị Khanh (2004): “Huy động vốn trong nước phát triển nông
nghiệp vùng đồng bằng Sông Hồng”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn
sách phân tích thực trạng huy động vốn trong nước dưới các nguồn từ vốn
ngân sách, vốn của các doanh nghiệp nhà nước, vốn trong nhân dân trên địa
bàn vùng đồng bằng Sông Hồng nhằm phục vụ cho phát triển nông nghiệp.
- Chu Tiến Quang (2005): “Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển
kinh tế nông thôn, thực trạng và giải pháp”, Nxb. CTQG, Hà Nội. Mặc dù nội dung
cuốn sách bàn về huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông
thôn, nhưng cách tiếp cận, luận giải các vấn đề là những gợi ý cho tác giả vận dụng vào
huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Phan Thanh Khôi, Lương Thanh Hiếu (2006): “Một số vấn đề kinh tế xã hội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông
Hồng”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội dung cuốn sách đã đề cập khá

5



toàn diện về các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt sự tác động của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến phát triển kinh tế - xã hội. Hướng luận giải
của nội dung cuốn sách đã giúp tác giả vận dụng vào huy động vốn phát triển
kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Nguyễn Lương Thành (2006): “Tăng cường huy động vốn đầu tư xây
dựng các công trình kinh tế - xã hội - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ đổi
mới”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Tác giả đã
phân tích hiện trạng huy động vốn cho đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng xã hội ở tỉnh Bắc Ninh, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp đổi mới chính sách
kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường chính trị, pháp lý, đa dạng hoá các hình
thức huy động vốn.
- Nguyễn Thị ái Lan (2006): “Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
của các nước ASEAN và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Nxb Đại học
quốc gia, Hà Nội. Mặc dù nội dung cuốn sách bàn về thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, nhưng cách tiếp cận, luận giải nội dung là những định hướng
quí giá cho tác giả vận dụng vào luận giải những vấn đề huy động vốn cho
phát triển kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Đỗ Thị Anh (2009): “Huy động vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở tỉnh Đồng Nai”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác
giả tập trung vào luận giải cơ sở khoa học của việc huy động vốn cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Đồng Nai; đánh giá thực trạng trong việc huy
động vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Đồng Nai từ năm 2000 đến
năm 2008; trên cơ sở đó, đề xuất một số quan điểm, và giải pháp cơ bản nhằm
giải quyết những mâu thuẫn tồn tại trong quá trình huy động và sử dụng các
nguồn vốn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Đồng Nai.
- Phạm Văn Bái (2014): “Huy động vốn cho phát triển giao thông nông
thôn ở tỉnh Ninh Bình hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị,
Hà Nội. Tác giả tập trung vào luận giải về việc huy động vốn cho phát triển
6



giao thông nông thôn ở tỉnh Ninh Bình. Trên cơ sở đó, đề xuất một số quan
điểm và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh phát triển giao thông nông thôn ở
tỉnh Ninh Bình hiện nay.
- Nguyễn Minh Phong và Nguyễn Duy Phong (2014), Định hướng
chính sách tài chính Thủ đô, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 237. Những định
hướng chính sách tài chính thủ đô là tài liệu quí, giúp tác giả luận giải nội
dung giải pháp xây cơ chế, chính sách huy động vốn cho phát triển kinh tế xã hội ở quận Hà Động, thành phố Hà Nội.
- UBND quận Hà Đông (2015): Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 đến năm 2015, trình kỳ họp thứ 10 Hội
đồng nhân dân quận khóa XIX. Nội dung báo cáo đã cung cấp cho tác giả
nhiều số liệu, tư liệu quí giá để đánh giá, nhận định những thành tựu, hạn chế,
nguyên nhân huy động vố cho phát triển kinh tế - xã hội ở quân Hà Đông,
thành phố Hà Nội.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn,
song cho đến nay vấn đề huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội dưới góc độ kinh tế chính trị, chưa có công trình nào
nghiên cứu. Vì vậy, đề tài luận văn không trùng lặp với bất kỳ công trình nào
đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn
huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội,
đề xuất quan điểm và giải pháp huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội ở
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ quan niệm về vốn, vai trò của vốn và nội dung huy động vốn cho
phát triển kinh tế - xã hội.
- Đánh giá thực trạng huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội ở quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội.


7


- Đề xuất quan điểm và giải pháp huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã
hội ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thời gian tới
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội dưới góc độ KTCT học
Mác-Lênin
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu, đánh giá huy động vốn cho phát
triển kinh tế - xã hội như: giáo dục - đào tạo; thương mại - dịch vụ; quản lý đô
thị; xây dựng cơ bản; phát triển kinh tế; an sinh xã hội; văn hóa xã hội; quốc
phòng, an ninh.
- Phạm vi về thời gian: Tổng hợp số liệu từ năm 2010 đến nay.
- Phạm vi về không gian: Huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội ở
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối, quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế - xã hội, Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XVI; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận
Hà Đông lần thứ XX; phân tích, luận giải các hiện tượng, quá trình liên quan đến
huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội một cách khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển.
* Cơ sở thực tiễn
Đề tài sử dụng các báo cáo tổng kết, các đề án phát triển kinh tế - xã
hội và báo cáo tổng kết huy động vốn ở quận Hà Đông từ năm 2010 dến
năm 2015.


8


* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử và các phương pháp thường sử dụng trong nghiên cứu kinh tế chính trị Mác Lênin là: trừu tượng hóa khoa học; kết hợp lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng
hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc
xác định chủ trương, biện pháp huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội ở
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay và những năm tiếp theo, đồng thời
làm tài liệu tham khảo cho các quận khác trên địa bàn thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết cấu gồm 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CHO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Vốn và vai trò của vốn cho phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Khái niệm và phân loại vốn
* Khái niệm vốn
Vốn là nguồn lực quan trọng nhất đối với tăng trưởng và phát triển kinh
tế của mọi quốc gia. Việt Nam là nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu về vốn là
rất lớn. Tuy nhiên, do tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn quá thấp, khả năng

"hút" vốn còn nhiều khó khăn, nên lượng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội còn rất thiếu. Vì vậy, nhận thức và vận dụng đúng đắn phạm trù vốn sẽ
là tiền đề thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng về vốn để đầu tư
cho phát triển kinh tế - xã hội.
Theo nghĩa rộng, vốn gồm toàn bộ các nguồn lực kinh tế được đưa vào
chu chuyển, như: tiền, lao động, vật tư, tài nguyên, máy móc, thiết bị, ruộng
đất; giá trị của những tài sản vô hình, như: vị trí đất đai, công nghệ, quyền
phát minh, sáng chế. Trong các nền kinh tế phát triển thì tài sản vô hình ngày
càng có vai trò quan trọng trong cơ cấu vốn.
Theo nghĩa hẹp, vốn là một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất (lao
động, đất đai, vốn). Đối với các nhà kinh tế, vốn là yếu tố thứ ba của sản xuất cùng
hai yếu tố lao động và đất đai được kết hợp lại để sản xuất hàng hóa và dịch vụ.
Ngày nay, do yêu cầu của sự phát triển, vốn không những là yếu tố
quan trọng đối với quá trình sản xuất của các nước có nền kinh tế phát triển
mà còn là yếu tố khan hiếm đối với hầu hết các quốc gia đang và kém phát
triển trên thế giới. Vì vậy, phạm trù vốn luôn được các nhà kinh tế học hiện
đại quan tâm nghiên cứu và tiếp cận trên những bình diện khác nhau: "Vốn là
tiền bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất, kinh doanh nhằm sinh lợi" [45, 1126].
10


"Vốn là nhân tố "đầu vào" đồng thời bản thân nó lại là kết quả "đầu ra" của
hoạt động kinh tế" [12, 138]. Dưới dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản
tích lũy, tức là một phần thu nhập chưa được tiêu dùng. Dưới dạng vật chất,
vốn bao gồm các loại máy móc, thiết bị, nhà xưởng, các công trình hạ tầng,
các loại nguyên liệu, nhiên liệu, các sản phẩm trung gian, các thành phẩm.
Trong quá trình hoạt động của nền kinh tế, vốn luôn luôn vận động và chuyển
hóa về hình thái vật chất cũng như từ hình thái vật chất sang hình thái tiền tệ.
Tổng số vốn đã tích lũy được còn được gọi là tài sản quốc gia. Tài sản quốc
gia được tích lũy, có thể chia thành hai nhóm: vốn sản xuất (tài sản vật chất) và
vốn phi vật chất (tài sản phi vật chất). Như vậy, vốn sản xuất vật chất là một phần

của tài sản quốc gia như là kết quả của quá trình tích lũy và được trực tiếp sử dụng
trong quá trình sản xuất. Các khoản đầu tư dưới dạng thiết bị, máy móc, nhà
xưởng, vật kiến trúc hay một số vật liệu khác cần cho quá trình khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên thì được xếp vào vốn sản xuất.
Tài sản vật chất trong quá trình sử dụng hao mòn theo thời gian và do
nhu cầu sử dụng ngày càng tăng cho nên phải tiến hành thường xuyên việc bù
đắp hao mòn và tăng thêm khối lượng các tài sản vật chất mới [12, 138-139].
"Vốn là những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập và bản thân nó cũng được
yếu tố khác tạo ra” [8, 56].
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu:
Thứ nhất, vốn là một trong những nhân tố không thể thiếu trong quá trình
sản xuất ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Nó góp phần tạo ra thu nhập, đẩy mạnh
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thứ hai, vốn không chỉ là lượng tiền mặt nhất định trực tiếp đầu tư sinh lợi
nhuận mà còn là đại diện về mặt giá trị cho những tài sản hữu hình và vô hình
tham gia vào các quá trình sản xuất - kinh doanh.
Thứ ba, vốn được biểu hiện bằng tiền. Song, không phải tất cả tiền đều là
vốn. Tiền là hình thái biểu hiện của vốn. Trường hợp tiền để tiêu dùng hàng ngày,

11


tiền để cất trữ không được coi là vốn. Đó là các khoản để chi tiêu và tiền tiết kiệm
để giành, là các khoản tiền không sinh lời, không thể tạo ra sự phát triển kinh tế,
chỉ có những đồng tiền được đảm bảo bằng tài sản thật, đưa vào đầu tư kinh
doanh với mục đích sinh lời mới là vốn.
Trong giới hạn phạm vi và đối tượng nghiên cứu, đề tài chỉ đề cập dưới
góc độ huy động vốn trong nước bằng tiền để phát triển kinh tế - xã hội.
Một là, vốn là toàn bộ những giá trị của tất cả các yếu tố cần thiết để
cấu thành quá trình sản xuất, được hình thành nên từ nguồn lực kinh tế và sản

phẩm thặng dư của nhân dân lao động trong một quốc gia [29, 17]. Hay, nói
cụ thể hơn, vốn là toàn bộ những giá trị của tất cả các yếu tố cần thiết cấu
thành quá trình sản xuất, bao gồm: tiền mặt, nhà xưởng, máy móc thiết bị, vật
kiến trúc, nguyên liệu, đất đai, lao động, kinh nghiệm quản lý, chữ tín của
khách hàng đối với sản phẩm, bí quyết công nghệ, vị trí kinh doanh, mạng
lưới tiêu thụ sản phẩm, được hình thành nên từ các nguồn lực kinh tế và sản
phẩm thặng dư của nhân dân lao động trong một quốc gia.
Như vậy, các nhân tố cấu thành vốn là rất đa dạng: vốn bằng tiền, các
dạng của cải, vốn con người, vốn tài sản..v.v. Trong điều kiện nền sản xuất hàng
hóa, các loại vốn trên có thể thâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau và dĩ
nhiên, chúng sẽ trở thành tiền mặt trong những điều kiện cụ thể. Vì vậy, cần có
cách nhìn biện chứng, linh hoạt về các nguồn vốn. Từ đó, có biện pháp khai
thác, huy động nguồn vốn còn tiềm ẩn trong nền kinh tế vào phát triển kinh tế xã hội. Nhất là, khi có một nguồn vốn nhất định đủ sức tiến hành sản xuất kinh
doanh tạo ra sản phẩm hàng hóa thì điều quan trọng là phải tìm cách cấu trúc tối
ưu các yếu tố, quản lý có hiệu quả chúng để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
Hai là, vốn bằng tiền đầu tư vào phát triển kinh tế - xã hội. Để phát triển
kinh tế - xã hội phải có các khoản tiền ứng ra ban đầu. Xã hội càng phát triển,
những chi phí cho các khoản "đầu vào" càng lớn. Bởi lẽ, những tư liệu lao
động và đối tượng lao động do con người tạo ra có quy mô ngày càng lớn,
12


phong phú về kết cấu, đa dạng về chủng loại và hàm chứa một trình độ khoa
học - công nghệ ngày càng cao. Chúng trở thành những tài sản (vốn) rất có giá
trị.
* Phân loại vốn
Dựa vào đặc điểm vận động của vốn, có hai loại: vốn cố định và vốn
lưu động. Vốn cố định ứng với tài sản cố định (nhà xưởng, vật kiến trúc,
máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, dụng cụ đo lường, phương tiện quản
lý. Vốn lưu động ứng với tài sản lưu động (nguyên liệu, nhiên liệu, sản

phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hóa và các khoản tiền tệ đáp ứng nhu cầu
thanh toán chi trả).
Dựa theo hình thái và nguồn lực đầu tư, vốn có hai loại: vốn hữu hình
và vốn vô hình. Vốn hữu hình có hình thái vật chất cụ thể, bao gồm các tài
sản hữu hình, tiền mặt, những giấy tờ có giá trị thanh toán. Vốn vô hình là
phần vốn tiền tệ đã được chi phí nhằm sử dụng những tài sản vô hình để phục
vụ yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn vô hình bao gồm: vị trí
kinh doanh, bí quyết công nghệ, phát minh sáng chế.
Dựa vào thời gian sử dụng, vốn có ba loại: vốn ngắn hạn, vốn trung hạn
và vốn dài hạn. Vốn ngắn hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời
hạn 1 năm. Vốn trung hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời hạn
từ 1 năm đến dưới 5 năm. Vốn dài hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư
với thời hạn 5 năm trở lên.
Dựa vào pháp lý, vốn có hai loại: vốn pháp định và vốn vay. Vốn pháp
định là số vốn bắt buộc phải có để thành lập doanh nghiệp. Vốn pháp định là
bộ phận quan trọng hợp thành vốn đầu tư của doanh nghiệp. Trên thực tế, để
giảm bớt rủi ro, các chủ thể đầu tư thường xây dựng phương án kinh doanh
với tỷ lệ góp vốn pháp định trong tổng vốn đầu tư càng ít càng tốt. Vốn vay là
lượng vốn huy động từ các nguồn bên ngoài chủ thể kinh doanh để đảm bảo

13


tính liên tục, hiệu quả của quá trình sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường,
vốn vay là lượng vốn chiếm phần lớn trong tổng vốn đầu tư.
Ngoài các cách phân loại trên, người ta còn có những cách thức phân
loại vốn khác, như: phân theo giác độ sử dụng vốn có hai loại: vốn đầu tư trực
tiếp và vốn đầu tư gián tiếp; căn cứ vào quyền sở hữu các nguồn vốn để tiến
hành đầu tư trên tổng thể nền kinh tế có vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư
nước ngoài [41, tr.13]. Trong nền kinh tế thị trường, ở mỗi góc nhìn khác nhau

cho ta những quan niệm khác nhau về vốn, đầu tư vốn, song, xét về bản chất nó
là một thể thống nhất. Việc phân chia vốn thành các loại khác nhau nhằm mục
đích hiểu rõ bản chất phạm trù vốn. Nói cách khác, để hiểu được tính đa dạng,
phong phú và rất phức tạp của vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội trong
nền kinh tế thị trường, giúp cho các cấp, các ngành, các chủ thể kinh doanh có
kế hoạch chủ động để huy động và sử dụng vốn ngày càng có hiệu quả.
Cơ cấu nguồn vốn
Hiện nay, nguồn vốn trong nước tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau,
nhưng tựu chung lại có bốn loại: vốn ngân sách nhà nước, vốn doanh nghiệp,
vốn tín dụng ngân hàng và vốn tích lũy của dân cư.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây là nguồn vốn được hình thành
thông qua việc tiết kiệm của Chính phủ. Nói cách khác, phần tiết kiệm của
Chính phủ là phần tiết kiệm của ngân sách nhà nước. Tiết kiệm của Chính
phủ thể hiện ở số chênh lệch giữa tổng số thu so với tổng số chi tiêu thường
xuyên của ngân sách nhà nước. Về bản chất, đây là nguồn vốn của ngân sách
nhà nước chi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp: Đây là nguồn vốn được hình thành
từ phần tiết kiệm của doanh nghiệp, thể hiện ở phần lãi thuần được để lại
dùng làm tăng vốn chủ sở hữu. Phần lãi thuần để lại thực chất là phần đầu tư
ròng tăng thêm của các doanh nghiệp. Ngoài ra, phần khấu hao cơ bản hàng
năm cũng là nguồn để các doanh nghiệp đầu tư.
14


Nguồn vốn tín dụng: Đây là nguồn vốn được hình thành từ vốn tự có
của ngân hàng, vốn huy động, vốn vay và các nguồn khác. Nền kinh tế thị
trường càng phát triển, nguồn vốn tín dụng càng trở thành nguồn vốn chủ yếu
trong tổng vốn kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Ở nước ta, nguồn vốn tín
dụng được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, ngân hàng cổ
phần, quỹ tín dụng nhân dân.

Nguồn vốn của dân cư: Đây là nguồn vốn được hình thành từ phần còn lại
trong thu nhập của dân cư. Thu nhập của dân cư được hình thành từ thu nhập trong
kết quả lao động ở lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của các gia đình, cá nhân người lao
động; thu nhập do thừa kế, các loại thu nhập khác như: trúng xổ số, thân nhân từ
nước ngoài gửi về. Nói cách khác, nguồn vốn của dân cư là khoản tiết kiệm của họ.
Thực chất đó là phần dôi ra sau khi đã trừ chi tiêu của các hộ gia đình.
Trong nền kinh tế thị trường, tiết kiệm của dân cư là bộ phận chủ yếu và
ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng trong việc hình thành tổng nguồn
vốn đầu tư của các quốc gia. Theo điều tra của Tổng cục Thống kê; của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ước tính nguồn vốn trong dân cư hiện có từ 6-8 tỷ USD.
Trong đó chỉ có 36% vốn hiện có được huy động cho đầu tư phát triển [44, 8].
Tóm lại: Cơ cấu nguồn vốn trong nước bao gồm: vốn ngân sách, vốn
tín dụng, vốn của doanh nghiệp, vốn của dân cư. Mỗi nguồn vốn đều có đặc
điểm, tầm quan trọng riêng. Song, bản thân chúng là những yếu tố hợp thành
nên tổng nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, phải biết cách
khai thác, huy động, quản lý và sử dụng các nguồn vốn một cách hiệu quả.
1.1.2. Vai trò của vốn cho phát triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất, vốn là điều kiện nền tảng phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển kinh tế - xã hội bao gồm các lĩnh vực cơ bản như: phát triển
kinh tế; phát triển kết cấu hạ tầng; phát triển văn hóa; phát triển giáo dục - đào
tạo; quản lý đất đai, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường; giải quyết các
chính sách xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; giữ vững an
15


ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố quốc phòng; nâng cao chất
lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Tất cả các lĩnh vực này đều cần vốn.
Đây là nhu cầu đầu tiên, thiết yếu, quan trọng nhất cho phát triển kinh tế - xã
hội. Kinh nghiệm các nước trên thế giới, khu vực và trong nước cho thấy nơi
nào quan tâm tốt đến vốn, quản lý và đầu tư có hiệu quả thì nơi đó kinh tế;

kết cấu hạ tầng; văn hóa; giáo dục - đào tạo phát triển; quản lý đất đai, sử
dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường được đảm bảo; chính sách, an sinh xã
hội được giải quyết, chất lượng cuộc sống của nhân dân được nâng cao; an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quốc phòng được giữ vững; chất lượng
hoạt động của hệ thống chính trị được nâng cao và ngược lại.
Thứ hai, vốn tác động vào khoa học - công nghệ tạo ra động lực để
phát triển kinh tế - xã hội bền vững, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
Nghiên cứu trên cả phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy, bất kỳ mô
hình phát triển kinh tế - xã hội nào đều bao gồm 3 nhân tố cơ bản, lao động, đầu tư
và khoa học - công nghệ. Trong 3 nhân tố, mỗi yếu tố có vị trí, vai trò không
ngang bằng nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Sự tác động qua lại
giữ 3 nhân tố tạo lên sự thay đổi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhiều nhà
nghiên cứu đã nhấn mạnh vai trò của đầu tư có ý nghĩa quyết định đến phát triển
kinh tế - xã hội bền vững, nó có tác động đến nhân tố lao động và khoa học - công
nghệ. Thực tiễn đã chứng minh: “Trong xu thế phát triển hiện nay trên thế giới,
khu vực cũng như trong nước lĩnh vực nào, ngành nào quan tâm đến đầu tư vốn
cho phát triển khoa học - công nghệ ở đó phát triển nhanh, bền vững” [14, tr.6].
Hiểu rõ tầm quan trọng của khoa học - công nghệ, Đảng ta đã xác định:
"Khoa học - công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khoa học
và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của mỗi
quốc gia" [18, tr.24]. Trong những năm qua, tỷ lệ đầu tư cho khoa học - công nghệ
đã từng bước tăng lên. Năm 2014 đạt 1,28% tổng chi ngân sách, tương đương với
1.054 tỷ đồng. Song, về lâu dài phải nâng tỷ lệ đầu tư cho khoa học - công nghệ,
16


đặc biệt là khoa học - công nghệ ứng dụng trong phát triển kinh tế - xã hội. Đồng
thời tích cực thu hút các nguồn vốn vào phát triển lĩnh vực này. Từ năm 1995,
Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia theo
Quyết định số 808/TTg (9/12/1995) hoạt động theo Luật khuyến khích đầu tư.

Mục tiêu của quỹ là hỗ trợ một số ngành nghề được khuyến khích phát triển, trong
đó có lĩnh vực công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, vốn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà trước hết là các
ngành kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa.
Muốn tiến hành quá trình sản xuất phải có vốn. Tốc độ gia tăng của vốn
ảnh hưởng trực tiếp đến việc thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ vào quá
trình sản xuất. Nhờ đó cơ cấu các ngành kinh tế không ngừng được chuyển
dịch từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa chất lượng cao, thu lợi
nhuận lớn dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế đến lượt nó lại là
cơ sở cho việc tăng trưởng quy mô vốn đầu tư nhằm thúc đẩy quá trình sản
xuất hàng hóa ngày càng nhiều. Hiện nay, vốn đầu tư để chuyển dịch cơ cấu
các ngành kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa còn thấp, quản lý, sử dụng
còn kém hiệu quả, do đó chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế theo hướng
sản xuất hàng hóa còn chậm chạp thì việc tăng cường đầu tư vốn và sử dụng
chúng có hiệu quả sẽ khai thác được tiềm năng về lao động, nguyên liệu... tạo
ra sức bật mới, có tác dụng lan tỏa, lôi cuốn các ngành cùng phát triển, tạo ra
ngày càng nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị xuất khẩu cao, có lợi thế so
sánh trên trường quốc tế.
Thứ tư, vốn là điều kiện để đầu tư và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao
Hiện nay, lực lượng lao động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đã
qua đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao, nhưng chất lượng đáp yêu cầu nhiệm vụ còn
thấp, khoảng 18% - 30%”[44, 8]. Số còn lại phải đào tạo lại trong thực tiễn.
Mặc dù trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đầu tư
17


cho đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nhưng vẫn chưa đáp ứng được
đòi hỏi của thực tiễn. Vì vậy tăng cường đầu tư vốn cho nguồn nhân lực chất
lượng cao là vấn đề cấp thiết. Về lâu dài các địa phương phải thành lập Quỹ

hỗ trợ giáo dục, động viên sự đóng góp của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội
để đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, trước hết là đào tạo nghề cho nông dân.
Tóm lại: Vốn là yếu tố quan trọng với phát triển kinh tế - xã hội. Hiểu rõ
tầm quan trọng của vốn sẽ có phương pháp đúng đắn để khai thác, huy động và
sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
1.2. Quan niệm, nội dung và nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn
cho phát triển kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm, nội dung huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã
hội ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
* Quan niệm về huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Huy động là điều động, tập trung số đông
các yếu tố vào để thực hiện một mục tiêu nào đó” [45, tr.427]. Trên cơ sở
đó có thể hiểu: Huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội là tổng thể các
hoạt động của chủ thể nhằm điều động, tập trung các nguồn vốn trong xã
hội, bao gồm: tiền vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước; tiền tích luỹ từ hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiền tiết kiệm trong dân;
huy động thông qua vay vốn ngân hàng, các quỹ tín dụng, huy động từ
nước ngoài đầu tư vào phát triển kinh tế - xã hội.
Từ quan niệm chung về huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội, có
thể quan niệm: Huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội là hoạt động tích cực, chủ động của Đảng bộ, chính quyền,
nhân dân địa phương nhằm thu hút các nguồn vốn trong xã hội theo quy định
của luật pháp đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quận.
Từ quan niệm trên cho thấy:
Mục đích huy động vốn là phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội ở
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, bao gồm các lĩnh vực: dịch vụ, công

18



nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; kết cấu hạ tầng đô thị hiện đại; công tác quản
lý đô thị, quản lý đất đai, tài nguyên và bảo vệ môi trường; nông nghiệp theo
hướng chuyên canh, sản xuất hàng hóa; văn hóa, giáo dục - đào tạo; chính
sách an sinh xã hội nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh.
Chủ thể huy động vốn là toàn thể Đảng bộ, chính quyền, nhân dân quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội. Để huy động vốn có hiệu quả đòi hỏi, ngay từ
khâu qui hoạch, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải chú trọng
xây dựng chiến lược dài hạn, trung hạn, ngắn hạn dựa vào tiềm năng, lợi thế
của quận để có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn trong xã hội không
ngừng phát triển kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch đề ra, Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân toàn quận có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện huy động
vốn cho phát triển kinh tế - xã hội theo qui định của pháp luật.
Phương thức huy động vốn, trên cơ sở quy định của luật pháp hiện
hành, việc huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội được thực hiện theo các phương thức cơ bản là: phương
thức kế hoạch hóa; phương thức thị trường và phương thức vận động sự đóng
góp của nhân dân.
Huy động vốn theo phương thức kế hoạch hóa, là phương thức huy
động vốn thông qua cơ chế kế hoạch huy động các nguồn ngân sách của Nhà
nước và địa phương cho phát triển kinh tế - xã hội. Theo phương thức này,
Quận ủy và chính quyền các cấp ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội phải
phân bổ và bảo đảm ngân sách cho phát triển các lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội theo kế hoạch đã được xác định.
Huy động vốn theo phương thức thị trường, là phương thức huy động
vốn thông qua cơ chế thị trường. Quận ủy và chính quyền các cấp ở quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội thông qua cơ chế thị trường để huy động các nguồn
19



vốn của các tổ chức, cá nhân trong quận cho phát triển kinh tế - xã hội.
Huy động vốn theo phương thức vận động sự đóng góp của nhân dân,
là phương thức thông qua các tổ chức chính quyền, đoàn thể vận động nhân
dân tham gia góp vốn để phát triển kinh tế - xã hội.
Trên thực tế, việc huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội ở quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội được thực hiện theo phương thức hỗn hợp: kết
hợp cả phương thức kế hoạch hóa và phương thức thị trường.
* Nội dung huy động vốn
Tiếp cận huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội dưới góc độ là tổng thể các hoạt động của các chủ thể nhằm
tập trung, thu hút các nguồn vốn theo quy định của pháp luật bao gồm các nội
dung sau đây:
Một là, xây dựng kế hoạch huy động vốn.
Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu về lượng vốn
cần đầu tư để thực hiện kế hoạch, các cơ quan chức năng của quận Hà Đông
phải xây dựng kế hoạch huy động vốn.
Nội dung kế hoạch huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội ở quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội bao gồm: Xác định rõ mục đích huy động vốn để
đầu tư vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội cụ thể; xác định
tổng lượng vốn cần huy động cho phát triển kinh tế - xã hội; xác định lượng
vốn huy động cho từng chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội; xác định
rõ nguồn vốn huy động cho phát triển kinh tế - xã hội; xác định rõ thời gian
huy động vốn (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) cho các công trình, chương trình,
dự án cụ thể.
Hai là, xây dựng cơ chế, chính sách huy động vốn.
Trên cơ sở kế hoạch huy động vốn, các cơ quan chức năng của quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội cần tích cực, chủ động xây dựng cơ chế, chính sách
để tạo hành lang pháp lý cho việc huy động vốn. Việc xây dựng cơ chế, chính
20



sách huy động vốn phải đồng bộ, phù hợp và kịp thời, trong đó chú ý việc bãi
bỏ những quy định không còn phù hợp và bổ sung, hoàn thiện những quy
định mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn, đặc biệt nguồn
vốn nhàn rỗi trong xã hội.
Cùng với việc xây dựng cơ chế, chính sách, các chủ thể, cơ quan chức
năng của quận Hà Đông, thành phố Hà Nội cần đẩy mạnh công tác tuyên
tuyền tạo sự đồng thuận trong nhân dân. Do đặc thù của lĩnh vực đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội là cần lượng vốn lớn, thu hồi vốn chậm, nên việc xây
dựng cơ chế, chính sách huy động vốn, một mặt phải hướng và khuyến khích
đầu tư vào những công trình trọng điểm liên quan đến lợi ích trực tiếp của
nhân dân cả trước mắt và lâu dài. Mặt khác, phải bảo đảm lợi ích cho các chủ
đầu tư sở hữu vốn. Quá trình xây dựng cơ chế, chính sách để thu hút, khuyến
khích đầu tư phát triển kinh tế - xã hội phải tính đến cả hỗ trợ vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước, lẫn điều chỉnh mức thuế, lãi suất vốn tín dụng nhân dân
một cách hợp lý.
Ba là, thực hiện đa dạng các hình thức, biện pháp huy động vốn.
Để huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội, các chủ thể, cơ quan
chức năng có liên quan của quận Hà Đông cần tiến hành các hình thức, biện
pháp huy động vốn. Các hình thức, biện pháp huy động vốn phải đa dạng,
phong phú, linh hoạt và phù hợp với từng nguồn vốn.
Huy động vốn từ ngân sách nhà nước: Đây là hình thức quan trọng
hàng đầu cho phát triển kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Vì, căn cứ quy định về phân cấp nguồn thu ngân sách cho các địa phương, Ủy
ban nhân dân, trình Hội đồng nhân dân quận quyết định phân cấp cụ thể các
nguồn thu ngân sách cho các cấp, phù hợp với tình hình thực tế, yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội;
quyết định dự toán thu, chi ngân sách; nhiệm vụ thu, chi cho từng ban ngành
trong quận và bổ sung từ ngân sách thành phố cho cấp dưới.

21


Huy động vốn theo hình thức nhà nước và nhân dân cùng làm: Đây là
hình thức khá phổ biến trong huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội ở
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Quận Hà Đông kích thích, thu hút một
phần vốn tự nguyện từ nhân dân thông qua việc hỗ trợ ngân sách cho phát
triển các công trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong hình thức huy động vốn
này, vốn ngân sách nhà nước không chỉ đơn thuần là vốn mồi, mà quan trọng
là nó đã trở thành cú hích, là lực đẩy cho tất cả các thành phần kinh tế và nhân
dân tham gia đóng góp. Do đặc thù, sự phát triển kinh tế - xã hội giữa các
phường trên địa bàn quận Hà Đông không đồng đều, mỗi phường có những
thuận lợi và khó khăn khác nhau nên vốn ngân sách nhà nước huy động vào
phát triển kinh tế - xã hội, không mang tính dàn đều giữa các phường, từng
lĩnh vực, mà đầu tư có trọng tâm, trọng điểm phát triển ưu thế từng phường,
từng lĩnh vực cụ thể.
Huy động vốn theo hình thức tín dụng: Đây là hình thức vay vốn trên
cơ sở các quy định hiện hành về tín dụng. Trong đó, để xây dựng các công
trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương các tổ chức hoặc cá nhân đứng
ra vay vốn để xây dựng.
Ngoài ra, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội còn huy động vốn cho phát
triển kinh tế - xã hội thông qua một số hình thức, biện pháp khác, như: Huy
động vốn thông qua tài trợ của các doanh nghiệp, đóng góp tự nguyện của
nhân dân; thu phí, lệ phí sử dụng các dịch vụ; vốn từ chuyển nhượng quyền
sử dụng đất..v.v..
1.2.2. Nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn cho phát triển kinh tế xã hội ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Từ quan niệm và nội dung huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội
ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội cho thấy, để khả năng thành hiện thực
chịu sự chi phối, ảnh hưởng của các nhân tố sau:


22


Một là, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội
Quận Hà Đông là một trong những quận thuộc nội thành của thành
phố Hà Nội, nằm giữa giao điểm của quốc lộ 6 từ Hà Nội đi Hòa Bình và
đường 430. Hà Đông cũng là nơi khởi đầu của quốc lộ 21B nối trung tâm Hà
Nội tới các quận phía Nam thành phố. Hà Đông là nơi đặt trụ sở một số cơ
quan hành chính của thủ đô Hà Nội. Vốn là một vùng đất giàu truyền thống
văn hóa, Hà Đông là một trong những địa phương có tốc độ phát triển nhanh
của Hà Nội. Địa giới hành chính, phía bắc giáp quận Nam Từ Liêm, phía
đông giáp quận Thanh Trì, phía tây giáp huyện Quốc Oai, Hoài Đức, phía
nam giáp huyện Thanh Oai. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính theo
Nghị định số 23/2008/NĐ-CP, Hà Đông có 4.791,40 ha diện tích tự nhiên và
198.687 nhân khẩu.
Địa hình Hà Đông là vùng đồng bằng nên có địa hình bằng phẳng, độ
chênh địa hình không lớn, biên độ cao nằm trong khoảng 3,5 m - 6,8 m. Địa
hình được chia ra làm 3 khu vực chính: Khu vực Bắc và Đông sông Nhuệ;
khu vực Bắc kênh La Khê; khu vực Nam kênh La Khê. Với đặc điểm địa hình
bằng phẳng, quận Hà Đông có điều kiện thuận lợi trong thực hiện đa dạng hóa
cây trồng vật nuôi, luân canh tăng vụ, tăng năng suất.
Đặc điểm khí hậu nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm vào mùa hạ và lạnh khô
vào mùa đông, là một trong những thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp
đa dạng, với các loại cây trồng có nguồn gốc nhiệt đới và ôn đới, đặc biệt là
các cây trồng cho giá trị sản phẩm kinh tế cao như: rau cao cấp - súp lơ, cà
rốt, hoa và cây cảnh các loại.
Điều kiện thổ nhưỡng đất đai của quận Hà Đông chủ yếu là đất thịt nhẹ
và đất bãi dọc theo sông Đáy. Đất phù sa được bồi (Pb): diện tích là 261 ha,
chiếm khoảng 10,1% tổng diện tích đất nông nghiệp. Đất phù sa không được

bồi (P): diện tích là 1.049 ha, chiếm 37,4 % diện tích đất nông nghiệp. Đất
23


phù sa gley (Pg) diện tích 1.472 ha, chiếm 52,5% diện tích đất nông nghiệp.
Hà Đông là đầu mối của nhiều tuyến đường giao thông quan trọng đi
các tỉnh tây Bắc: Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu. Hà Đông có vị trí
chiến lược cả về chính trị, kinh tế và quân sự. Tuyến đường sắt trên cao Hà
Đông - Cát Linh chạy qua địa bàn quận. Quận Hà Đông có cơ cấu kinh tế
chuyển dịch, với tỷ trọng công nghiệp, xây dựng chiếm 53,5%, thương mại,
dịch vụ, du lịch chiếm 45,5%, nông nghiệp chỉ còn 1,0%. Sản xuất công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đã tiến những bước dài về quy mô, sản lượng,
có tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân 3 năm (2011-2013) đạt 17,7%. Từ
tháng 8/2014 đến tháng 8/2015, giá trị sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp ngoài quốc doanh của quận Hà Đông đạt gần 1.821 tỷ đồng; tổng thu
ngân sách nhà nước đạt 1.964,5 tỷ đồng. Trên địa bàn Hà Đông đã và đang
triển khai xây dựng nhiều khu đô thị mới: Văn Quán, Mỗ Lao, Xa La, Văn
Phú, Lê Trọng Tấn, Dương Nội, Park City, U silk, trục đô thị phía Bắc, dự án
đường trục phía nam Hà Nội, các trường đại học, các bệnh viện quốc tế do
các tập đoàn bất động sản hàng đầu như Nam Cường, Geleximco, Cienco 5,
VIDC, Xí nghiệp Xây dựng Tư nhân số 1 Điện Biên, Tập đoàn Văn Phú
invest .v.v. với số vốn huy động đầu tư hàng chục tỷ đôla.
Hà Đông là một vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời. Làng Vạn
Phúc có nghề dệt lụa nổi tiếng. Danh tiếng của lụa Hà Đông đã đi vào thi ca,
âm nhạc và điện ảnh. Làng Đa Sĩ có nghề rèn nổi tiếng và là một làng có
truyền thống hiếu học. Các sản phẩm của làng từ con dao, cái kéo đến những
sản phẩm nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp có mặt khắp mọi miền. Năm
2001, làng rèn Đa Sĩ đã được cấp bằng công nhận làng nghề truyền thống.
Làng La Khê từ xa xưa đã nổi tiếng là vùng đất tằm tơ, dệt lụa. Ðất của làng
do phù sa sông Hồng, sông Ðáy, sông Nhuệ bồi đắp nên, vì vậy rất màu mỡ,

thích hợp cho nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ. Làng La Khê nổi tiếng với
sản phẩm the tiến vua với hoa văn độc đáo. Đình, chùa, bia Bà làng La
24


Khê còn nổi tiếng trong sinh hoạt văn hóa tâm linh.
Hà Đông là một trong sáu trọng điểm du lịch của thành phố Hà Nội. Các
sản phẩm du lịch chủ yếu gồm: Du lịch làng nghề; du lịch văn hóa; du lịch vui
chơi giải trí, du lịch tâm linh. Hà Đông có hơn 200 di tích lịch sử - văn hóa, trong
đó có 83 di tích đã được xếp hạng, 47 lễ hội truyền thống. Năm 2015, ước tính
quận Hà Đông đón 52.300 lượt khách, trong đó có 11.750 lượt khách quốc tế.
Nhìn chung, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên quận Hà Đông thành phố
Hà Nội, có điều kiện khá thuận lợi cho các ngành kinh tế phát triển, đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Do vậy, các nhà đầu tư yên tâm
tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Đây là, một trong những nhân tố hết sức
cơ bản tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn phát triển kinh tế - xã
hội của quận. Vấn đề đặt ra hiện nay, các chủ thể huy động vốn cho phát triển
kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội cần quan tâm hơn nữa
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng qui hoạch, kế hoạch và tổ chức
thực hiện huy động vốn, mới có thể đánh thức, khơi dậy những tiềm năng to
lớn mà vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên đã ưu đãi cho quận Hà Đông.
Hai là, cơ chế, chính sách huy động vốn cho phát kinh tế - xã hội ở
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Hiện nay, đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội, chủ yếu vẫn là nguồn từ ngân sách nhà nước theo các chương
trình, mục tiêu quốc gia. Trong khi đó, ở quận Hà Đông sự phát triển kinh tế xã hội giữa các phường không đồng đều. Những phường thuộc trung tâm quận
có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế - xã hội. Các phường Biên Giang,
Đồng Mai, Yên Nghĩa, Phú Lương, Phú Lãm từ xã mới chuyển lên phường có
nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội. Ở những phường này đối
tượng người nghèo và các đối tượng hưởng chế độ chính sách tập trung tương

đối đông. Do đó, cần có những chính sách cụ thể, phù hợp với điều kiện kinh tế
- xã hội ở từng phường; đặc biệt là những chính sách khuyến khích các doanh
25


nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và những nghị định về tín dụng phục
vụ nông nghiệp là những hành lang pháp lý để các doanh nghiệp và nhân dân
trên địa bàn quận lấy đó làm căn cứ để tiến hành tham gia.
Việc huy động vốn có hiệu quả hay không trước hết phải có được hành
lang pháp lý về huy động vốn. Chính hành lang pháp lý đó là cơ sở vững chắc để
các tổ chức, ban, ngành, các doanh nghiệp và hộ gia đình tiến hành các thủ tục
huy động vốn đạt hiệu quả cao nhất. Những năm qua, mặc dù đã có sự chuyển
đổi nhất định trong quá trình tái cơ cấu các doanh nghiệp, các thủ tục tín dụng và
các thủ tục khác, song sự chuyển đổi là hết sức chậm chạp vẫn qua nhiều khâu,
nhiều cấp trung gian. Điều đó dẫn đến khó khăn trong liên doanh, liên kết làm ăn
của doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân.
Tuy nhiên, việc huy động vốn qua các hình thức này cũng đang gặp rất
nhiều bất cập. Trong đó vướng mắc từ cơ chế chính sách là một trở ngại lớn.
Trên thực tế để vay được vốn ngân hàng cho một khu dân cư, địa phương phát
triển kinh tế - xã hội là rất khó khăn. Mặt khác, dù được nhà nước đã có nhiều
giải pháp hỗ trợ, nhưng nhiều địa phương, nhiều khu dân cư kinh tế còn quá
khó khăn cũng là một trở ngại lớn.
Vấn đề này đặt ra, để huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội chúng ta
phải đổi mới cơ chế quản lý và hoàn thiện cơ chế chính sách sao cho vừa phù hợp
với cơ chế thị trường vừa bảo đảm phù hợp kinh tế từng vùng, từng địa phương,
đáp ứng theo kế hoạch mục tiêu chung của Nhà nước và của địa phương.
Ba là, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội
Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quyết định quy hoạch,
kế hoạch huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của quận Hà Đông,

thành phố Hà Nội. Vì vậy, trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, quận Hà Đông xác định nhu cầu vốn cần đầu tư cho phát triển lĩnh vực

26


này. Trên cơ sở nhu cầu vốn cần đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, quận
Hà Đông xác định lượng vốn, nguồn vốn cần huy động.
Từ sự tác động của nhân tố này, đòi hỏi quận Hà Đông phải làm tốt công
tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, trên cơ
sở kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quận phải xây dựng quy hoạch, kế hoạch
huy động vốn phù hợp, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quận,
vừa phù hợp với khả năng thực tế các nguồn lực huy động được trong quận.
Bốn là, triển vọng và hiệu quả của các công trình, dự án
phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội Đảng bộ quận Hà Đông lần thứ XX nhiệm kỳ 2015 - 2020 xác
định: “Xây dựng quận Hà Đông trở thành đô thị phát triển mạnh, toàn diện và
bền vững trên cơ sở xây dựng và quản lý đô thị đi đôi với phát triển kinh tế
dịch vụ, thương mại và công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Chú trọng quan
tâm bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái; ưu tiên phát triển hạ tầng kỹ
thuật và hạ tầng xã hội. Nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân;
tạo chuyển biến mới trong xây dựng văn hóa người Hà Nội thanh lịch, văn
minh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội”[17, tr.33].
Như vậy, phát triển kinh tế - xã hội, là một nội dung quan trọng nằm trong
nhiệm kỳ 2015 - 2020. Để đạt được nội dung quan trọng này, quận Hà Đông phải
xây dựng các công trình, dự án. Triển vọng và hiệu quả các công trình, dự án ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. Bởi lẽ,
dự án nào có triển vọng, hiệu quả tốt sẽ thu hút các nguồn vốn nhanh hơn và nhiều
hơn. Ngược lại, dự án nào triển vọng thấp, hiệu quả kinh tế - xã hội không cao
việc thu hút, huy động các nguồn vốn sẽ gặp nhiều khó khăn.
Năm là, kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

Sự phát triển của kinh tế thị trường cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng ngày nay đang tác động mạnh mẽ tới sự
phát triển kinh tế - xã hội của quận. Kinh tế thị trường góp phần giải phóng mọi
năng lực, kích thích khả năng hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thành phần

27


×