Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bồi DƯỠNG NĂNG lực CÔNG tác CHO cán bộ cấp HUYỆN DIỆN BAN THƯỜNG vụ TỈNH ủy cà MAU QUẢN lý HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 123 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CÔNG
TÁC CHO CÁN BỘ CẤP HUYỆN DIỆN BAN
THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY CÀ MAU QUẢN LÝ
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực công tác và bồi
dưỡng năng lực công tác cho cán bộ cấp huyện diện Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Cà Mau quản lý
1.2. Thực trạng, nguyên nhân và một số kinh nghiệm bồi
dưỡng năng lực công tác cho cán bộ cấp huyện diện Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Cà Mau quản lý
Chương 2. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CÔNG TÁC
CHO CÁN BỘ CẤP HUYỆN DIỆN BAN THƯỜNG
VỤ TỈNH ỦY CÀ MAU QUẢN LÝ HIỆN NAY
2.1. Yêu cầu tăng cường bồi dưỡng năng lực công tác cho
cán bộ cấp huyện diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Cà Mau
quản lý hiện nay
2.2. Những giải pháp tăng cường bồi dưỡng năng lực công
tác cho cán bộ cấp huyện diện Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Cà Mau quản lý hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
3

9


9

41

59

59

69
95
97
105


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ và công tác cán bộ luôn giữ vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng đối
với việc xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng
cao chất lượng lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW
(khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ ” [13].
Để làm tốt công tác cán bộ, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều nội
dung, nhiều khâu, nhưng một trong những nội dung trọng yếu là bồi dưỡng năng
lực công tác của đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp
nói riêng. Bởi vì, đây là lực lượng chủ yếu ở các cấp giữ vai trò lãnh đạo, quản lý
điều hành, tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; làm cho đường lối, nghị quyết, chủ trương của
Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước được hiện thực hóa trên các địa bàn,
địa phương.

Thời gian qua, quán triệt quan điểm, nghị quyết của Đảng về chiến
lược công cán bộ thời kỳ mới, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Cà Mau đã quan tâm
đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ về mọi mặt cho cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức; đã tập trung lãnh đạo công tác quy hoạch,
đào tạo, luân chuyển để tạo nguồn cán bộ có năng lực thực tiễn bước đầu đạt
được kết quả nhất định, góp phần làm tốt công tác cán bộ của Tỉnh. Tuy
nhiên, bên cạnh đó việc bồi dưỡng năng lực công tác của cán bộ cấp huyện
diện BTV Tỉnh ủy quản lý vẫn là khâu yếu kém: nội dung chương trình đào
tạo còn bất cập; quy hoạch còn bị động, chắp vá… Chính điều này dẫn đến
một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, đảng viên có biểu hiện phai nhạt
lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, suy thoái về đạo đức, lối sống, quan liêu,
tham nhũng, lãng phí…

3


Hiện nay, nhiệm vụ chính trị của tỉnh Cà Mau, yêu cầu công tác xây dựng
chỉnh đốn Đảng, đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với đội ngũ cán bộ công chức
nói chung, trước hết là cán bộ cấp huyện diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý
ngang tầm chức trách, nhiệm vụ thời kỳ mới. Từ những lý do đó, tác giả chọn vấn
đề: “Bồi dưỡng năng lực công tác cho cán bộ cấp huyện diện Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Cà Mau quản lý hiện nay” làm đề tài nghiên cứu, đáp ứng yêu cầu cả lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề cán bộ, công chức cấp huyện đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu. Đến nay đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
cán bộ và công tác cán bộ của Đảng. Kết quả nghiên cứu của nhiều công trình
đã được công bố trên các sách, báo, tạp chí và trong các báo cáo tại các cuộc
hội thảo khoa học, các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sĩ
Nhóm các công trình liên quan đến đề tài nghiên cứu, có các tác giả

tiêu biểu, như: TS. Nguyễn Văn Tích (chủ biên), “Xác định cơ cấu và tiêu
chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn)”, Đề tài KTXH.05-11-06, 1993; Hồ Bá Thâm (1994), “Nâng cao năng lực tư duy của cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội; PGS,
TS Trần Xuân Sầm (chủ biên), “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo
chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1998; Nguyễn Mậu Dựng (1996), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của
Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay", luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; PGS. TS Nguyễn Phú Trọng (chủ nhiệm)
“Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhằm đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” Đề tài
khoa học xã hội cấp Nhà nước giai đoạn 1996-2000; Đề tài khoa học cấp bộ,
năm 2001; TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương (đồng chủ
biên), “Cơ sở lý luận, thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức”, Nxb

4


Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001; Nguyễn Thái Sơn (2002), “Xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, luận văn thạc sĩ, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Phạm Thị Thúy Vân (2005), “Xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở thành phố Cần Thơ hiện nay - Thực trạng
và giải pháp”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Chính trị; Trần Trung Trực (2005),
“Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Bình
Chánh, thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ
Khoa học Chính trị.
Liên quan trực tiếp đến đề tài, có các công trình tiêu biểu, như : Hà Thị
Bích Thủy (2006), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị
cấp phường, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay”, Luận
văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng, Hà Nội. Trần Hoàng Khải (2010), Tạo nguồn

cán bộ lãnh đạo quản lý ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay, Luận văn thạc sĩ chuyên
ngành xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;
Trần Thị Kim Dung (2011), “Cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Bắc Giang
trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Lý luận và lịch sử Nhà nước
pháp luật, Hà Nội; Cao Thanh Thương (2011), “Đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực quản lý cấp xã trên địa bàn huyện Hoài Nhơn - Bình Định”, Luận
văn Thạc sĩ Kinh tế, Đà Nẵng; Trương Ngọc Hùng (2012), “Giải pháp tạo động
lực cho cán bộ, công chức xã, phường, thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ
Kinh tế, Đà Nẵng; Trần Văn Thanh (2012), “Đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức
hành chính cấp xã, (phường) thành phố Quy Nhơn”, Luận văn Thạc sĩ Quản trị
kinh doanh, Đà Nẵng; Nguyễn Văn Hòa (2012), “Đánh giá thực trạng cán bộ
lãnh đạo chủ chốt ở xã, phường, thị trấn tỉnh Bạc Liêu giai đoạn hiện nay”,
Bạc Liêu; Chung Quy Nhơn, “Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã ở tỉnh Cà Mau
giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước,
Hà Nội; Nguyễn Thị Hồng Vân (2015), Xây dựng đội ngũ cán bộ phường diện

5


Ban Thường vụ Quận ủy quận Phú Nhuận quản lý hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ
Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, Hà Nội...
Nhóm các bài báo khoa học, có các tác giả tiêu biểu, gồm có: Trần Đình
Thu: “Giải pháp nâng cao đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở Kon Tum”, Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 9/2007; Thùy Anh: Nét mới trong tạo nguồn bí thư, chủ
tịch xã, phường ở Đồng Nai, Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 9 năm 2009.
Trần Quang Kiểm: “Hải Phòng tạo nguồn cán bộ xã, phường, thị trấn”, Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 7/2010. Bùi Văn Tiếng: Tạo nguồn lãnh đạo xã, phường ở
Đà Nẵng, Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 4 năm 2010. Trương Minh Nguyệt:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã ở Lạng Sơn”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số
4/2012. Phúc Sơn: “Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã”, Tạp chí Xây

dựng Đảng, số 5/2012. Lê Ngọc Xuyên: “Giải pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ cơ sở ở Tây Nguyên”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 1 + 2/2014 …
Với những góc độ khác nhau, trong những công trình, đề tài nghiên cứu
trên đã có những đóng góp nhất định cả về lý luận và thực tiễn theo phạm vi
nghiên cứu; phân tích sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ; dự báo xu hướng,
xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản trong công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ ở cấp huyện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới trên các địa bàn,
địa phương trong cả nước. Từ đặc thù công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trên các
địa bàn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học, giúp cấp ủy, chính quyền, các cơ
quan chức năng ở địa phương trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện xây dựng đội
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; qua đó nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung, CBCC nói riêng trong HTCT trên các địa
bàn, địa phương ở nước ta.
Tuy vậy, đến nay chưa có công trình, đề tài nào nghiên cứu về “Bồi dưỡng
năng lực công tác cho cán bộ cấp huyện diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Cà Mau
quản lý hiện nay” một cách có hệ thống, sâu sắc dưới góc độ chuyên ngành xây
dựng Đảng và Chính quyền nhà nước. Do vậy, tác giả lựa chọn vấn đề này làm đề

6


tài nghiên cứu, là công trình độc lập, không trùng lặp với các công trình, đề tài, luận
văn, luận án đã nghiệm thu, bảo vệ. Đồng thời, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết
quả nghiên cứu từ các công trình trên, căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện, để đưa ra những giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường bồi
dưỡng NLCT cho cán bộ chủ chốt cấp huyện diện Ban thường vụ Tỉnh ủy quản lý
ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực

tiễn, đề xuất những giải pháp cơ bản tăng cường bồi dưỡng NLCT cho cán bộ
cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề cơ bản về năng lực công tác và bồi dưỡng
NLCT cho cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm
bồi dưỡng NLCT cho cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp tăng cường bồi dưỡng
NLCT cho cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Là bồi dưỡng NLCT cho cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau
quản lý hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Là hoạt động bồi dưỡng NLCT cho cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy
Cà Mau quản lý; phạm vi khảo sát ở 8 huyện và 1 thành phố thuộc tỉnh Cà
Mau; các số liệu, tư liệu điều tra khảo sát để thực hiện đề tài giới hạn từ năm
2011 đến nay.

7


5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ của Đảng, đường lối, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ và chiến
lược xây dựng đội ngũ cán bộ, quy chế công tác cán bộ của BCHTW, pháp luật của
Nhà nước về cán bộ, công chức hiện nay
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn bồi dưỡng NLCT cho cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà

Mau quản lý; các báo cáo sơ kết, tổng kết về công tác tổ chức, cán bộ, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ các cấp ở tỉnh Cà Mau. Đồng thời, luận văn kế thừa, tiếp thu có
chọn lọc kết quả nghiên cứu của các đề tài đã nghiệm thu, công bố, ứng dụng.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đề tài sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của các khoa học chuyên ngành và liên
ngành; trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp kết hợp lôgich-lịch sử, phương
pháp nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, phân tích, tổng hợp khảo sát, điều tra
thực tế và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở lý
luận, thực tiễn để các cấp ủy đảng, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo bồi dưỡng
NLCT cho cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý hiện nay. Đồng
thời, có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở
các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện và Trường Chính trị tỉnh Cà Mau
hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CÔNG TÁC CHO CÁN BỘ CẤP HUYỆN
DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY CÀ MAU QUẢN LÝ
1.1. Năng lực công tác và bồi dưỡng năng lực công tác cho cán bộ cấp
huyện diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Cà Mau quản lý
1.1.1. Cán bộ cấp huyện và năng lực công tác của cán bộ cấp huyện diện

Ban Thường vụ Tỉnh ủy Cà Mau quản lý
* Khái quát về các huyện, thành phố thuộc tỉnh Cà Mau
Cà Mau là tỉnh cực Nam của Tổ quốc, được tách ra từ tỉnh Minh Hải
thành hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu từ ngày 01 tháng 01 năm 1997, là một
trong những tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long và nằm trọn trên bán
đảo Cà Mau. Mũi Cà Mau là địa danh có ý nghĩa kinh tế - chính trị, có ý
nghĩa thiêng liêng đối với nhân dân cả nước, có tầm chiến lược về an ninh quốc phòng, thuận lợi phát triển kinh tế biển. Toàn tỉnh có diện tích là 5.329,5
km2, là tỉnh có diện tích vào loại lớn trong vùng (chỉ sau tỉnh Kiên Giang);
được chia thành 9 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 1 thành phố và
8 huyện (thành phố Cà Mau, huyện Đầm Dơi, Ngọc Hiển, Cái Nước, Trần
Văn Thời, U Minh, Thới Bình, Năm Căn, Phú Tân). Dân số 1.222.199 người,
bao gồm 3 dân tộc chính là Kinh, Hoa, Khmer là chủ yếu.. Mật độ dân số
phân bố không đồng đều giữa các đơn vị hành chính cấp huyện trong tỉnh,
trong đó mật độ cao nhất ở thành phố Cà Mau đạt 819 người/ km² và thấp
nhất là huyện Ngọc Hiển đạt 107 người/ km²; với nhiều tôn giáo và thờ cúng
tín ngưỡng dân gian. Tín đồ Phật giáo và Kitô giáo chiếm số đông, còn lại là
Tin lành, Tịnh độ Cư sĩ, Cao Đài Minh Chơn Đạo, Cao Đài Tây Ninh, Cao
Đài Tiên Thiên và Thiền Lâm, Khất sĩ, Hòa Hảo…
Cà Mau có 6 trên 9 đơn vị hành chính cấp huyện là giáp biển, gồm
có: Đầm Dơi, Năm Căn, Ngọc Hiển, Phú Tân, Trần Văn Thời và U Minh. Các

9


huyện thuộc tỉnh Cà Mau có vị trí chiến lược quan trọng, là cầu nối để khai
thác biển, ven biển và là tiền tuyến bảo vệ Tổ quốc
Bên cạnh những thuận lợi là căn bản, cùng với sự tăng trưởng, phát
triển về kinh tế, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, hệ thống
chính trị cấp huyện trên địa bàn tỉnh Cà Mau ngày càng được xây dựng vững
mạnh. Các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể

nhân dân được xây dựng, củng cố kiện toàn chất lượng, hoạt động ngày càng
có hiệu quả thiết thực. Cấp uỷ, chính quyền nhận thức đầy đủ hơn về vai trò
của các tổ chức đoàn thể trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.
Tuy vậy, các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh vẫn còn đứng trước
những khó khăn phải giải quyết. Sự phân hóa giàu - nghèo tạo nên sự chênh
lệch về thu nhập và mức sống trong một bộ phận không nhỏ ở các tầng lớp
dân cư; các đối tượng chính sách, những gia đình có công với cách mạng, đời
sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn….làm nảy sinh những bức xúc về mặt
xã hội. Cùng với những giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp, các huyện cũng
là nơi còn tồn tại nhiều phong tục, tập quán lạc hậu từ cách nghĩ, cách làm
đến các thói quen trong sinh hoạt văn hoá chưa theo kịp sự phát triển của xã
hội. Trong cộng đồng dân cư, gồm mọi tầng lớp nhân dân, đa dạng, phức tạp
về trình độ văn hoá, lứa tuổi, giới tính, dân tộc, tôn giáo, ngành nghề. Trình
độ dân trí và phẩm chất, phong cách công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân
chưa đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ. Giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm,
nhất là ở cấp cơ sở, một số vụ việc còn để khiếu kiện vượt cấp, kéo dài; an
ninh, trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn những mâu thuẫn phức tạp, tệ nạn xã
hội những năm gần đây có chiều hướng gia tăng…
Những vấn đề đó đã đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với nâng cao
năng lực công tác của đội ngũ cán bộ các cấp, trong đó có cán bộ cấp huyện.
Cấp huyện là một cấp hành chính trong hệ thống hành chính 4 cấp ở
nước ta, có vai trò quan trọng trong chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp các xã,

10


phường, thị trấn thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước ở địa phương, đặc biệt là chỉ đạo phát triển toàn diện
các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng và an ninh trên địa bàn

huyện, thành phố thuộc tỉnh.
* Quan niệm cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý
Quan niệm cán bộ: Từ khi Đảng ta ra đời lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, từ
“Cán bộ” mới được sử dụng để chỉ những người có trọng trách trong tuyên truyền, tổ
chức, tập hợp quần chúng, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh; một lòng, một dạ
đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sau khi giành được chính quyền,
cán bộ là những người được bầu, bổ nhiệm trong các tổ chức đảng, hệ thống chính
quyền, người làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ ở các ngành, lĩnh vực....
Theo Luật Cán bộ, công chức: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu
cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung
ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước’’ [96, tr.7].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản
dị và dễ hiểu. Theo Người: "Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình dân chúng
báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng" [54, tr.97].
Cán bộ cấp huyện là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo
nhiệm kỳ trong Thường trực HĐND, UBND, bí thư, phó bí thư cấp ủy, người
đứng đầu tổ chức chính trị xã hội ở huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ của Bộ Chính trị, những cán
bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy quản lý gồm các chức danh: bí thư, phó bí
thư, uỷ viên BTV huyện uỷ, thành uỷ trực thuộc tỉnh ủy; chủ tịch, phó chủ
tịch HĐND, UBND các huyện (là ủy viên BTV), thành phố trực thuộc tỉnh.

11


Có thể hiểu cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh uỷ Cà Mau quản lý là những

người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cấp uỷ đảng, chính quyền cấp
huyện, thành phố chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính
trị, điều hành công tác, chỉ đạo cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng
của địa phương.
Thực hiện Quyết định số 67-QĐ/TW ngày 04 tháng 7 năm 2007 của Bộ
Chính trị ban hành Quy định về phân cấp quản lý cán bộ. BTV Tỉnh uỷ Cà
Mau đã ban hành Quyết định số 380-QĐ/TU ngày 06 tháng 12 năm 2011 ban
hành Quy định về phân cấp quản lý cán bộ của tỉnh, trong đó, tại Điều 12 quy
định cụ thể đối tượng cán bộ diện BTV Tỉnh uỷ Cà Mau quản lý là:
- Ở cấp tỉnh: Các đồng chí uỷ viên BTV, uỷ viên BCH Đảng bộ tỉnh, uỷ
viên UBND tỉnh, uỷ viên Ủy Ban kiểm tra Tỉnh uỷ; các bí thư ban cán sự
đảng, đảng đoàn; phó chủ tịch HĐND tỉnh, phó chủ tịch UBND tỉnh; trưởng
ban, phó trưởng ban của Tỉnh uỷ; Chánh văn phòng, phó văn phòng Tỉnh uỷ;
hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh; tổng biên tập, phó tổng
biên tập Báo Cà Mau; chủ tịch, phó chủ tịch: Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
(MTTQ) tỉnh, Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân; Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh,
Hội Cựu Chiến binh tỉnh, Hội Đồng Thi đua Khen thưởng tỉnh; bí thư, phó bí
thư Tỉnh đoàn; trưởng ban, phó trưởng ban của HĐND tỉnh; chánh văn
phòng, phó chánh văn phòng UBND tỉnh; các giám đốc, phó giám đốc sở và
Đài phát thanh - Truyền hình tỉnh; chánh thanh tra, phó chánh thanh tra tỉnh;
trưởng ban, phó trưởng ban: Ban Dân tộc tỉnh, Ban Bảo vệ chăm sóc sức
khoẻ cán bộ tỉnh; chủ tịch, phó chủ tịch các hội: Hội Văn học Nghệ thuật, Hội
Chữ thập đỏ, Hội nhà báo, Liên minh các hợp tác xã, Hội Liên hiệp Thanh
niên, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị, Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật
tỉnh; chánh án, phó chánh án, thẩm phán Toàn án nhân dân tỉnh; viện trưởng,
viện phó Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh; giám đốc, phó giám đốc: Bưu điện

12



tỉnh, Bảo hiểm xã hội tỉnh, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh; giám đốc
các ngân hàng chuyên doanh, Kho bạc Nhà nước tỉnh; cục trưởng, cục phó:
Cục Thống kê, Cục Thuế tỉnh; giám đốc chi nhánh Ngân hàng phát triển;
giám đốc Điện lực tỉnh; chủ tịch Hội Khuyến học tỉnh.
- Ở cấp huyện: bí thư, phó bí thư, uỷ viên BTV huyện uỷ, thành uỷ,
đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND; chủ tịch, phó chủ
tịch UBND huyện, thành phố thuộc tỉnh. Như vậy, các chức danh này chính là
đối tượng cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý.
Từ những vấn đề trên có thể quan niệm: cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh
ủy Cà Mau quản lý là những cán bộ của Đảng và Nhà nước giữ vai trò lãnh
đạo, quản lý, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội ở
địa phương, là những cán bộ nòng cốt của Đảng, bao gồm các chức danh: bí
thư, phó bí thư, uỷ viên BTV huyện uỷ, thành uỷ; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND;
chủ tịch, phó chủ tịch UBND huyện, thành phố thuộc tỉnh.
Quyền quản lý của BTV Tỉnh uỷ đối với những cán bộ này là: Quyết định
việc cụ thể hoá tiêu chuẩn chức danh cán bộ; quyết định đánh giá, quy hoạch,
đào tạo bồi dưỡng cán bộ; quy định lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ; quy định kiểm
tra giám sát, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách cán bộ; giới thiệu
nhân sự để HĐND bầu vào các chức vụ trong bộ máy nhà nước cấp huyện.
* Vai trò của cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý
Vai trò của cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý được
xem xét ở những mối quan hệ chủ yếu: vai trò của cán bộ với đường lối,
chính sách của Đảng; vai trò cán bộ với tổ chức bộ máy trong hệ thống chính
trị; vai trò của cán bộ với công việc đảm nhiệm và vai trò của cán bộ với quần
chúng nhân dân.
Một là, cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý giữ vai trò
nòng cốt trong tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính

13



sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cán bộ là cái gốc
của mọi công việc. Cán bộ huyện diện BTV tỉnh ủy quản lý là người quán
triệt, đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước đến
cơ sở địa phương và tổ chức thực hiện. Họ là lực lượng chịu trách nhiệm lãnh
đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền vận động, giáo dục, thuyết phục, giải quyết
các tranh chấp dân sự, khắc phục, ngăn chặn các tệ nạn xã hội, các mâu thuẫn
trong nội bộ nhân dân; giáo dục nhân dân tự giác chấp hành đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước; tham gia vào những quyết định
quan trọng của huyện, góp ý bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật Nhà nước. Vì vậy, cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà
Mau quản lý giữ vai trò quan trọng đối với việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hai là, Cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý quản lý
giữ vai trò quyết định trong lãnh đạo, quản lý thực hiện chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh ở
cấp huyện. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định: “Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ không chỉ là người vạch ra
đường lối mà còn có vai trò quyết định trong việc tổ chức thực hiện đường lối
đó. Người nói: “Cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể
thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể
thực hiện được”, “Cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không
tốt, không chạy được thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tê liệt”.
Điều đó khẳng định chất lượng cán bộ là nhân tố là vai trò quan trọng trong
việc thực hiện cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng vào đời sống xã hội.
Cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý là lực lượng chủ
yếu, nòng cốt nắm bắt và phản ánh kịp thời tình hình đời sống, tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân với Đảng và Nhà nước, cụ thể hoá các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đề ra những chỉ tiêu, nhiệm vụ lãnh đạo,


14


quản lý, tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, quốc
phòng - an ninh xây dựng đời sống văn hoá trên địa bàn cấp huyện. Họ là lực
lượng nòng cốt tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện dân chủ, tuyên truyền giáo
dục nhân dân về chủ nghĩa xã hội, về Đảng, về Nhà nước, về pháp chế, pháp
luật, về trách nhiệm và quyền làm chủ, bồi dưỡng nâng cao tinh thần yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức, năng lực của người làm chủ; chỉ đạo, hướng dẫn
tuyên truyền, thuyết phục nhân dân tự giác thi hành chính sách của Đảng và
pháp luật Nhà nước, đồng thời thu thập, phản ánh ý kiến của nhân dân, đề xuất
với cấp ủy đảng và chính quyền những chủ trương, biện pháp giải quyết những
vấn đề liên quan đến quyền hạn, nghĩa vụ của nhân dân.
Cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý là người tiếp
nhận và trực tiếp truyền đạt, hướng dẫn, triển khai tổ chức thực hiện các Nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước. Hoạt động của họ ở tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương; hội tụ đầy đủ mọi nội dung
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; phải đối mặt với những diễn biến phức
tạp của cuộc sống và trực tiếp nắm bắt và xử lý những vấn đề nảy sinh từ cơ
sở phản ánh.
Ba là, Cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý là lực
lượng nòng cốt trong xây dựng các tổ chức trong hệ hống chính trị cấp
huyện. Nghị quyết Trung ương ba khoá VII xác định: “Cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của
đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong xây dựng Đảng”. Cán bộ cấp
huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý không chỉ là lực lượng nòng cốt
trong lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh mà còn là lực lượng nòng cốt
trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị-xã hội trong

hệ thống chính trị. Ở cương vị là cán bộ chủ trì của các tổ chức trong hệ thống

15


chính trị, Cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý trực tiếp góp
phần quán triệt và thực hiện các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng Mặt trận Tổ quốc các tổ chức, đoàn
thể nhân dân trong hệ thống chính trị huyện vững mạnh, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả; là người đứng đầu ở cấp huyện, chịu trách nhiệm chính trong
việc tuyên truyền, tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động của cán bộ,
đảng viên và nhân dân trong toàn huyện, thành phố, chỉ đạo xây dựng và củng
cố, kiện toàn hệ thống tổ chức, bộ máy; xây dựng đội ngũ đảng viên, đoàn
viên, hội viên; tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng, bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ
và đề ra các chủ trương, giải pháp nhằm không ngừng đổi mới, nâng cao chất
lượng hoạt động của cơ quan, tổ chức mình, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
từng giai đoạn cách mạng.
Bốn là, Cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý là nguồn
bổ sung cán bộ cho cấp trên. Cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau
quản lý vững mạnh có đầy đủ phẩm chất, năng lực là một trong những nguồn
quan trọng cung cấp cán bộ cho cấp trên. Thông qua hoạt động thực tiễn ở cấp
huyện, đội ngũ cán bộ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong hoạt động lãnh
đạo, quản lý. Từ thực tiễn công tác ở cấp huyện đào luyện nên những cán bộ
ưu tú để lựa chọn, bồi dưỡng bổ sung vào nguồn cán bộ cho cấp tỉnh và Trung
ương. Nếu đội ngũ này phát triển và củng cố thì Đảng sẽ phát triển và củng
cố. Do vậy, xây dựng CBCC diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý vững mạnh
là một mắt xích quan trọng trong chiến lược cán bộ, bảo đảm sự kế tiếp vững
vàng giữa các thế hệ cán bộ ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
* Đặc điểm cán bộ cấp huyện diện BTV tỉnh uỷ Cà Mau quản lý
Một là, cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh uỷ Cà Mau quản lý là cán bộ

giữ các chức vụ quan trọng nhất trong HTCT ở cấp huyện, đại đa số là cán
bộ kiêm nhiệm.
Đa số cán bộ cấp huyện đều kiêm nhiệm một hoặc một số chức vụ khác

16


trong các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể. Đây là đội ngũ cán bộ có số lượng
không nhiều, thường từ 104 đến 130 người, chiếm khoảng 0,54% tổng số cán bộ,
công chức, viên chức toàn tỉnh. Song lại có vị trí rất quan trọng trong việc xây
dựng các nghị quyết, quyết định, lãnh đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính
trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của địa phương trong từng thời kỳ. Họ là những cán
bộ có sự hiểu biết sâu, rộng về đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, am hiểu tình hình chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng ở trong nước và ở địa phương; có
kiến thức, kinh nghiệm hoạt động trong công tác xây dựng Đảng, đoàn thể,
vận động quần chúng, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước; có năng lực tổ chức,
quản lý, chỉ đạo tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; có khả năng nghiên cứu khoa
học, chủ trì xây dựng hoặc thẩm định các đề án, chuyên đề công tác liên quan
đến lĩnh vực được phân công phụ trách.
Hai là, phần lớn cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý
đã qua rèn luyện, thử thách, trưởng thành trong thực tiễn đấu tranh cách
mạng của đất nước và trong phong trào của quần chúng. Đại bộ phận là cán
bộ trưởng thành từ các phong trào cách mạng ở địa phương, do vậy mà lập
trường, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu và con đường
XHCN, trung thành với Đảng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, tích cực
đấu tranh với những luận điểm sai trái. Hầu hết các đồng chí đều nêu cao ý
thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm; giữ gìn phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên, gương

mẫu trong thực hiện các nhiệm vụ được giao. Họ luôn được BTV Tỉnh uỷ
quan tâm, thường xuyên có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ xây dựng, củng cố,
kiện toàn cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Đại bộ phận cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh uỷ Cà Mau quản lý chủ
yếu được hình thành từ nguồn cán bộ trong quy hoạch tại chỗ, một số đồng

17


chí được điều động, luân chuyển từ nơi khác đến; song vẫn là trong nội bộ
giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương trong tỉnh. Tuy quê quán, nơi sinh của
cán bộ có khác nhau, từ nhiều miền quê trong cả nước, nhưng hầu hết đều
xuất thân từ nông thôn, gia đình nông dân, công nhân và đều có quá trình làm
ăn sinh sống, học tập, công tác nhiều năm ở Cà Mau. Mặt khác xuất phát từ
những đặc điểm riêng về tự nhiên, kinh tế, văn hoá xã hội địa phương mà cán
bộ cấp huyện luôn có truyền thống yêu quê hương, đất nước, cần cù chịu khó
lao động, sản xuất, cố gắng, tích cực học tập công tác để vươn lên, chủ động
sáng tạo trong công việc, có tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết gắn bó
với cộng đồng, gần gũi với quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân
tin yêu, tín nhiệm.
Cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh uỷ Cà Mau quản lý đều do tập thể
BTV Tỉnh uỷ xem xét ra nghị quyết, quyết định luân chuyển, bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại hoặc giới thiệu ứng cử. Do vậy đều là đối tượng điều chỉnh của quy
chế bổ nhiệm, quy chế bầu cử hiện hành, được thực hiện theo một quy trình
chặt chẽ có xem xét đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, năng lực
trình độ, kết quả công tác, hoàn thành nhiệm vụ, quan hệ với quần chúng hàng
năm...Trong quá trình đó họ một mặt chịu sự chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp của
BTV Tỉnh uỷ. Đồng thời họ phải chịu sự giám sát, kiểm tra, đánh giá của các cơ
quan, tổ chức có liên quan và quần chúng nhân dân nơi công tác và nơi cư trú.
Ba là, hiện tại cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh uỷ Cà Mau quản lý có

tuổi đời bình quân khá cao, phần lớn trên 40 tuổi, một bộ phận còn mang dấu
ấn của nền sản xuất nhỏ.
Theo số liệu thống kê của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Cà Mau, tính đến tháng
9 năm 2015, qua các lần bổ sung thay đổi và kết quả đại hội Đảng nhiệm kỳ
2015 - 2020, số Cán bộ cấp huyện hiện có 104 người, trong đó, nữ có 7 người,
chiếm 0,73%. Qua khảo sát cho thấy, độ tuổi của CBCC cấp huyện như sau:
từ 40 tuổi trở xuống có 10 người chiếm 9,62 %, từ 41 - 45 tuổi có 22 người,

18


chiếm 21,20%, từ 46 - 50 tuổi là 30 người, chiếm 28,90%), trên 50 tuổi có 37
người, chiếm 35,57% [xem phụ lục số 08]
Như vậy, theo độ tuổi, thì tuổi trung bình của đội ngũ này là 40 tuổi.
Nếu tính giai đoạn chín muồi nhất của năng lực công tác ở cán bộ cấp huyện
là từ 35 - 45 tuổi. Tuy nhiên, độ tuổi bình quân là 40 tuổi, nhưng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện số trẻ tuổi ít, số còn lại có nhiều người có độ
tuổi khá cao. Ở lứa tuổi này, họ là những người có nhiều kinh nghiệm sống,
kinh nghiệm công tác, đảm bảo sự lãnh đạo chắc chắn, đúng hướng. Nhưng
đây cũng là giai đoạn mà năng lực của họ không còn được khả năng phát huy
đến đỉnh điểm, độ nhạy bén, phản xạ không còn nhanh trong các tình huống
chính trị, khả năng tiếp thu và xử lý thông tin thiếu chính xác. Lúc này cũng
là lúc mà chủ nghĩa kinh nghiệm bắt đầu lấn át và tác động, ảnh hưởng đến
năng lực lãnh đạo của người cán bộ. Thiếu sức bật trong tư duy, tất yếu sẽ dẫn
đến sự thiếu quyết đoán trong công tác, trong lãnh đạo và chỉ đạo trong thực
tiễn. Và như vậy, hiệu quả công việc sẽ không được cao, khả năng tạo thời cơ
để phát triển cho huyện, thành phố là vấn đề hết sức khó khăn.
Cà Mau là tỉnh cuối cùng cực Nam Tổ quốc, sông ngòi chằng chịt, có
nhiều dân tộc anh em cùng chung sống, nhưng số cán bộ là người dân tộc
thiểu số còn ít, tỷ lệ cán bộ nữ không cao, cán bộ trẻ còn ít. Một số đồng chí

còn chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng phong kiến lạc hậu tư tưởng tiểu nông, sản
xuất nhỏ, biểu hiện ra thành những bệnh cá nhân chủ nghĩa như: hẹp hòi,
ích kỷ, gia trưởng, trọng nam khinh nữ, kinh nghiệm, cục bộ, địa
phương...Trong cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh uỷ Cà Mau quản lý nhiều
đồng chí đã tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc hoặc các cuộc chiến
tranh bảo vệ tổ quốc nên ít có điều kiện học tập chính quy có hệ thống tại
các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, mà chủ yếu là học tập các hệ
đào tạo bồi dưỡng không chính quy, trong thời gian tại chức sau này và
tích luỹ kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn; trình độ ngoại ngữ, tin học

19


của đội ngũ cán bộ này cũng còn bất cập trước yêu cầu nhiệm vụ trong thời
kỳ hội nhập. Điều đó đòi hỏi trong những năm tới phải tăng cường công tác
quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nhất là bồi dưỡng NLCT, từng bước
bố trí xắp xếp, đội ngũ cán bộ hợp lý hơn.
* Quan niệm năng lực công tác của cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh
ủy Cà Mau quản lý
- Quan niệm chung về năng lực công tác
Về năng lực, theo Từ điển tiếng việt: là khả năng làm việc tốt, nhờ có
phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn, “năng lực là khả năng, điều kiện
chủ quan sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó” [77, tr.362].
Theo nhà Tâm lý học người Nga Cơvaliốp: Năng lực là một tập hợp
hoặc tổng hợp những thuộc tính cá nhân con người đáp ứng những nhu cầu
của hoạt động và bảo đảm cho hoạt động có kết quả cao…
Năng lực nói chung của mỗi người chính là trình độ và những điều kiện cần
thiết để tiến hành và hoàn thành tốt công việc nhất định; cá nhân khác nhau, năng
lực có sự khác nhau; các lĩnh vực khác nhau thì yêu cầu năng lực cũng khác nhau.
Trong cùng một lĩnh vực, yêu cầu chung về năng lực là thống nhất, nhưng không

đồng nhất, vì trình độ, khả năng của từng người luôn có sự khác biệt.
Như vậy, nói đến năng lực là nói đến khả năng đạt được kết quả hoạt
động nào đó. Năng lực không phải là những thuộc tính cá nhân riêng lẽ mà là
một tổ hợp các thuộc tính cá nhân đáp ứng yêu cầu cao của hoạt động. Các
thuộc tính ấy có quan hệ tác động lẫn nhau, thống nhất với nhau trong một
chỉnh thể. Mỗi con người có thể tích hợp nhiều năng lực tiềm ẩn, những năng
lực đó được bộc lộ ra hay không tùy thuộc vào những điều kiện chủ quan hay
khách quan. Đối với những người có tài năng đặc biệt và thiên tài, năng lực
của họ được phát triển và bộc lộ mạnh mẽ khiến họ đạt đến đỉnh cao ở nhiều
lĩnh vực khác nhau. Năng lực vừa mang tính bẩm sinh, vừa là kết quả của quá
trình học tập, rèn luyện, hoạt động thực tiễn của con người.

20


Theo Hồ Chí Minh: năng lực con người không phải hoàn toàn do tự
nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có. Vì thế, năng
lực không chỉ là tư chất bẩm sinh thuần tuý vốn có của con người, mà là kết
quả của sự phối hợp những tư chất bẩm sinh vốn có với sự rèn luyện, tu
dưỡng, học tập thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Người cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ cấp huyện nói riêng dù ở cấp
nào cũng phải có năng lực nhất định. Trong đó, năng lực tư duy lý luận và
năng lực công tác thực tiễn là hai nhân tố quan trọng nhất. Hai yếu tố này có
quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, cái này hỗ trợ cái kia phát
triển. Không có năng lực tư duy lý luận thì không có khả năng khái quát, sáng
tạo và vận dụng đúng đắn linh hoạt các quy luật khách quan. Ngược lại không
có năng lực công tác thực tiễn thì sa vào bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí,
quan liêu, mệnh lệnh xa rời thực tiễn, thoát ly cuộc sống đầy sôi động đang
cuộn chảy. Cán bộ cấp huyện phải có năng lực toàn diện, nhất định trên nhiều
lĩnh vực mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, cán bộ cấp

huyện còn phải có năng lực sáng tạo, tính quyết đoán và khả năng làm việc
với con người.
Từ những phân tích như trên có thể hiểu: năng lực của cán bộ cấp
huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý là tổng hợp khả năng lãnh đạo,
quản lý điều hành hoạt động với chất lượng và hiệu quả cao.
Mỗi lĩnh vực hoạt động đều đòi hỏi mỗi người với tư cách là chủ thể
hoạt động, bên cạnh phẩm chất, phải có năng lực để đảm trách một phần
việc, hay một công việc cụ thể, gọi chung là năng lực công tác. Đó là trình
độ, điều kiện cần thiết phải có của mỗi người để tiến hành các mặt hoạt động
theo chức trách, nhiệm vụ được phân công, bảo đảm cho hoạt động đó được
tiến hành nhanh chóng và đạt hiệu quả.
- Quan niệm năng lực công tác của cán bộ cấp huyện
Cấp huyện là cấp trung gian, là cầu nối giữa tỉnh và địa phương cơ sở

21


trong việc triển khai, tổ chức, vận động nhân dân thực thi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đòi hỏi đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt phải có năng lực toàn diện, nhất định trên nhiều lĩnh vực
mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Từ những vấn đề trên, có thể quan niệm: Năng lực công tác của cán bộ
cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý được biểu hiện ở trình độ và
khả năng thực tế của các cán bộ lãnh đạo, quản lý điều hành trên các mặt
công tác, các lĩnh vực, các nhiệm vụ ở địa phương, góp phần xây dựng các
đảng bộ cấp huyện trong sạch, vững mạnh, xây dựng huyện, thành phố vững
mạnh toàn diện, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ của địa phương.
* Những yếu tố cấu thành năng lực công tác của cán bộ cấp huyện
diện BTV Tỉnh ủy Cà Mau quản lý
Xét theo hệ thống cấu trúc: góc độ tâm lý học phân chia năng lực gồm:

tri thức, kĩ năng và kĩ xảo.
- Tri thức: là nền tảng, là cơ sở của năng lực, là hệ thống những
kiến thức mà Cán bộ cấp huyện đã tích lũy được, trong đó, cốt lõi là kiến
thức về năng lực công tác. Phạm vi hiểu biết rộng và sâu sắc là nguồn gốc
trí tuệ của CBCC. Tri thức lý luận là thế giới quan, phương pháp luận đúng
đắn cho CBCC trong lãnh đạo, điều hành. Trí tuệ có phát triển, Cán bộ cấp
huyện mới có khả năng nhận thức nhanh nhạy, xem xét toàn diện, đánh giá
chính xác sự vật, hiện tượng, giải quyết đúng đắn những vấn đề nảy sinh
mang lại hiệu quả hoạt động cao. Tri thức của Cán bộ cấp huyện bao gồm: tri
thức lý luận, tri thức thực tiễn và kinh nghiệm về năng lực công tác.
Tri thức lý luận: là hệ thống những quan điểm, tư tưởng, nguyên lý,
luận điểm, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của
Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, về năng lực công tác của CBCC cấp
huyện nói riêng. Hệ thống tri thức lý luận của CBCC cấp huyện được trang
bị trong quá trình học tập ở các trường Đại học, học viện, trường chính trị

22


tỉnh, trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thành phố và được củng cố, mở
rộng trong quá trình được bồi dưỡng và tự học tập, tự bồi dưỡng trong thực
tiễn công tác.
Tri thức thực tiễn và kinh nghiệm về năng lực công tác: được khái quát
từ hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng của con người, của xã hội, phản ánh
trình độ vận dụng tri thức lý luận vào thực tiễn. Tri thức thực tiễn, kinh nghiệm
về năng lực công tác của CBCC cấp huyện một phần được truyền thụ trong
quá trình học tập tại các nhà trường, trung tâm bồi dưỡng tại chức, tập huấn
nghiệp vụ, một phần do học tập kinh nghiệm của các bật lãnh đạo tiền bối đi
trước, trong đó, có vai trò của Cán bộ cấp huyện tự tích lũy, thu thập được qua
quan sát, tham gia hoặc trực tiếp tổ chức tiến hành các hoạt động trong lĩnh vực

phụ trách. Thực tiễn, kinh nghiệm thực tiễn càng nhiều, càng phong phú sẽ
giúp Cán bộ cấp huyện trong chỉ đạo, diều hành càng hiệu quả.
- Kỹ xảo, kỹ năng công tác: là khả năng thực hiện có kết quả tốt các hoạt động
chuyên môn, thực tiễn theo cương vị, chức trách của CBCC trong các điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể trên cơ sở vận dụng thành thạo kiến thức, kinh nghiệm, phương
pháp, hình thức, phương tiện công tác. Kỹ xảo, kỹ năng là những bộ phận hợp thành
năng lực công tác của Cán bộ cấp huyện, trong đó có các nhóm kỹ xảo, kỹ năng của
cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý và cán bộ chuyên môn nghiệp vụ. Cụ thể:
Kỹ xảo, kỹ năng của cán bộ lãnh đạo là hệ thống những kỹ xảo, kỹ năng
mà Cán bộ cấp huyện thường xuyên tiến hành trong công tác tư tưởng, tổ chức
và chính sách đối với đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân.
Nhóm kỹ xảo, kỹ năng này trong hoạt động phổ biến, quán triệt nhiệm vụ cho
các ban, ngành đia phương, cơ sở; giáo dục, bồi dưỡng các phẩm chất nhân cách
cho đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động và công tác
tuyên truyền, cổ động, thi đua khen thưởng, xây dựng môi trường văn hóa, kỹ
năng quản lý tư tưởng và kỹ năng giải quyết các tình huống tư tưởng. Hoạt động
của cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong chỉ đạo và tiến hành các hoạt động xây dựng,

23


củng cố, kiện toàn tổ chức đảng, tổ chức chính quyền, tổ chức quần chúng và
hướng dẫn, tổ chức các mặt hoạt động trong cơ quan, đơn vị và cơ sở; nắm vững
quan điểm của Đảng về công tác chính sách của Đảng và Nhà nước và yêu cầu
nhiệm vụ chính trị về công tác chính sách, cán bộ; khả năng tuyên truyền, giáo
dục nâng cao nhận thức trách nhiệm của HTCT, trong đảng viên, cán bộ công
chức, viên chức và nhân dân trong thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước;
khả năng phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi nguồn lực, khai thác mọi tiềm
năng trong xã hội để thực hiện chính sách…
Biểu hiện năng lực công tác của cán bộ cấp huyện diện BTV Tỉnh ủy

Cà Mau quản lý, bao gồm:
- Năng lực nghiên cứu, quán triệt, tham mưu, đề xuất, đây là năng lực quan
trọng trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ, thể hiện khả năng của Cán
bộ cấp huyện trong nghiên cứu, trình độ nhận biết, phân tích, tổng hợp, khái quát,
đánh giá tình hình thực tiễn để tham mưu đề xuất với cấp uỷ, chính quyền, cơ
quan, tổ chức. Tuỳ từng cương vị chức trách, Cán bộ cấp huyện phải nắm vững và
thực hiện nghiêm túc nguyên tắc lãnh đạo của Đảng để chủ động tham mưu đề
xuất với cấp uỷ chính quyền, ban, ngành, tổ chức đoàn thể trong lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý điều hành, tổ chức thực hiện…. Qua đó, giúp cấp uỷ, chính quyền kịp thời
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện kế hoạch.
- Năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, đây là bộ phận
trung tâm trong năng lực công tác là yếu tố căn bản bảo đảm cho CBCC hoàn
thành chức trách, nhiệm vụ là người đứng đầu, trực tiếp tiến hành và chỉ đạo hoạt
động của cơ quan, đơn vị. Năng lực chỉ đạo, tổ chức thực hiện chức trách, nhiệm
vụ biểu hiện ở khả năng chủ trì tiến hành công tác tư tưởng, công tác tổ chức,
công tác cán bộ, công tác dân vận, bảo vệ chính trị nội bộ, tuyên truyền, đặc biệt
và khả năng tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ trong mọi hoạt động của cơ
quan, đơn vị.
- Năng lực chỉ đạo, quản lý, điều hành, thể hiện ở trình độ kiến thức, khả
năng lãnh đạo, quản lý của cán bộ cấp huyện . Vì vậy, cán bộ cấp huyện vừa phải
24


có năng lực lãnh đạo, quản lý, có chuyên môn, nghiệp vụ sâu, vừa phải có năng
lực chỉ đạo, quản lý tốt nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo, xây dựng kế hoạch
chung của cơ quan, đơn vị. Năng lực lãnh đao, quản lý của của cán bộ cấp huyện
được hình thành trong quá trình đào tạo tại trường, được rèn luyện, tích luỹ qua
các cương vị công tác. Vì vậy, cán bộ cấp huyện có cơ sở để lựa chọn, vận dụng
linh hoạt phương pháp lãnh đạo, quản lý thích hợp, có thể bằng các chỉ thị, nghị
quyết, bằng mệnh lệnh hành chính có tính chất cưỡng chế, hoặc bằng giáo dục,

thuyết phục, hướng dẫn và nêu gương theo chức trách, quyền hạn và phạm vi quy
định của tổ chức.
- Năng lực tiến hành các mặt công tác:
Năng lực tiến hành công tác cán bộ, là năng lực nắm, quán triệt sâu sắc
các quan điểm, tư tưởng của Đảng về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ
cán bộ; năng lực nâng cao chất lượng toàn diện, trước hết là xây dựng đội ngũ
cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiền phong về trí tuệ, có cơ cấu cân
đối, đồng bộ, đủ số lượng và chất lượng cao, vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trước mắt, vừa có nguồn kế cận lâu dài.
Năng lực tiến hành công tác bảo vệ chính trị nội bộ, là năng lực chỉ đạo
và trực tiếp giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng và trách nhiệm
chính trị cho cán bộ, đảng viên trong bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân;
năng lực quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, củng cố và nâng cao chất
lượng chính trị của cán bộ làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ và chính trị hiện
nay; năng lực duy trì tổ chức thực hiện tốt các chế độ quy định về phòng gian, giữ
bí mật; năng lực điều tra, truy xét, giải quyết những vụ việc phức tạp xảy ra ở địa
phương, đơn vị.
Năng lực tiến hành công tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật, là năng lực
nắm vững các quan điểm của Đảng về công tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật;
năng lực giáo dục xây dựng động cơ và quyết tâm cho cán bộ, đảng viên; năng lực
phát huy vai trò của các tổ chức, của HTCT trong phong trào thi đua; năng lực

25


phát hiện, bồi dưỡng và nhân điển hình tiên tiến; năng lực chỉ đạo, tổ chức sơ kết,
tổng kết, bình chọn khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích trong phong
trào thi đua; năng lực quán triệt, giáo dục, duy trì nghiêm việc chấp hành đường
lối, quan điểm của Đảng, pháp luật Nhà nước trong cơ quan, đơn vị.
Năng lực tiến hành công tác vận động quần chúng, chính sách, là năng

lực nắm vững chủ trương, biện pháp, cách thức tiến hành công tác quần chúng,
chính sách; năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và trực tiếp tuyên truyền, vận
động nhân dân, các tổ chức quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; năng lực tổ chức giúp đỡ nhân dân phát
triển kinh tế, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh. Năng lực xây dựng,
củng cố, phát huy vai trò, chức năng các tổ chức quần chúng; năng lực đổi mới
nội dung, hình thức công tác quần chúng. Năng lực nghiên cứu, tổ chức thực hiện
tốt các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước ở địa phương, cơ quan, đơn vị.
Năng lực hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, đây là năng lực đặc trưng của
CBCC , thể hiện khả năng hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc quán triệt và
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên và của các cấp uỷ, chính quyền địa
phương đối với các cơ quan, đơn vị thuộc quyền, các ban, ngành, đoàn thể địa
phương… Trên cơ sở đó tổng hợp tình hình phản ánh với cấp uỷ, chính quyền
để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời.
Năng lực phối hợp công tác, đây là năng lực được sử dụng thường xuyên
hàng ngày trong hoạt động thực tiễn thực hiện chức trách của của CBCC cấp
huyện. Bởi vì, các chủ thể và lực lượng tham gia là rất phong phú, đa dạng, các
hoạt động này thường xuyên liên quan đến nhiều tổ chức, lực lượng ở các cấp,
các ban, ngành; được tiến hành cùng với các hoạt động của cơ quan, đơn vị,…
Do đó không làm tốt công tác phối hợp sẽ dẫn đến chồng chéo kế hoạch, bỏ sót
công việc, gây lãng phí thời gian và tiền bạc của cơ quan, đơn vị và của nhân
dân. Vì vậy, việc bồi dưỡng năng lực này là hết sức cần thiết.

26


×