Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN đội NGŨ cán bộ QUẢN lý ở các TRƯỜNG TRUNG học cơ sở THÀNH PHỐ THANH hóa, TỈNH THANH hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 102 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thế giới đang phát triển mạnh mẽ, sâu sắc trên nhiều lĩnh vực. Sự phát triển ấy
tạo ra những tiền đề, những khả năng để nhân loại vững tin bước vào tương lai,
nhưng đồng thời cùng với quá trình phát triển nhân loại cũng đang gặp phải
những thách thức mới trong các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội. Trong cuộc đấu
tranh tự khẳng định để phát triển kể trên, giáo dục giữ vai trò vô cùng to lớn,
"Giáo dục có thể đóng một vai trò năng động và xây dựng". Giáo dục được các
quốc gia trên thế giới coi như chìa khoá để mở cửa tương lai. Trong báo cáo
"Học tập của cải nội sinh" của UNESCO nêu lên các nguyên tắc để xác định nội
dung của GD-ĐT, đã chỉ rõ 4 trụ cột của giáo dục: học để biết, học để làm, học
để sống chung với nhau, học để tự khẳng định mình.
Nghị Quyết TW 8, khoá XI đã khẳng định “Giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu
tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. Cùng với khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, giáo dục phải đi trước một bước làm
tiền đề cho CNH, HĐH đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới GD & ĐT, đổi
mới quản lý GD & ĐT đặt ra như một yêu cầu cấp bách hàng đầu của việc
tiếp tục triển khai, điều chỉnh và nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay,
Trong đó phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt.
Giáo dục trung học cơ sở (THCS) thành phố Thanh Hoá nói riêng và
tỉnh Thanh Hoá nói chung, trong những năm gần đây đã có những bước phát
triển cả về quy mô và chất lượng, đội ngũ cán bộ quản lý ở các trường
THCS thành phố Thanh Hoá đã đáp ứng được những yêu cầu cơ bản về
công tác quản lý giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở địa
phương, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
3



thúc đẩy sự phát triển KT-XH của thành phố. Tuy nhiên, trước xu thế hội
nhập của nước ta, thời kỳ CNH, HĐH, thời kỳ phát triển công nghệ thông
tin, kinh tế tri thức thì giáo dục ở thành phố Thanh Hoá nói chung và
giáo dục Trung học cơ sở nói riêng vẫn còn những hạn chế, bất cập.
Có nhiều nguyên nhân gây nên những hạn chế, bất cập nêu trên, một
trong những nguyên nhân chủ yếu và quan trọng là công tác quản lý
giáo dục nói chung và quản lý cấp Trung học cơ sở nói riêng còn bộc lộ
những yếu kém, đội ngũ cán bộ quản lý chưa đồng bộ, còn hạn chế trong
việc tiếp cận khoa học công nghệ hiện đại như ứng dụng công nghệ thông
tin vào quản lý trường học. Công tác quy hoạch CBQL giáo dục, CBQL
trường THCS đã được xây dựng, trên cơ sở đó có bước chủ động hơn trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng và bổ nhiệm cán bộ quản lý giáo dục nhưng
vẫn còn bộc lộ những thiếu sót như: quy hoạch còn thụ động, chưa có tính
kế thừa và phát triển, chưa có hiệu quả thiết thực, chất lượng thấp, chưa xác
định rõ mục tiêu, yêu cầu về xây dựng quy hoạch CBQL.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, cần thiết phải có những biện
pháp và biện pháp cụ thể để phát triển đội ngũ CBQL trường THCS của
thành phố tạo ra đội ngũ cán bộ quản lý trường THCS phát triển đồng bộ, có
chất lượng góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục, nâng cao
chất lượng giáo dục THCS nói riêng và chất lượng giáo dục của thành phố
Thanh Hoá nói chung.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn đó, học viên chọn đề tài
“Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý ở các trường trung học cơ sở thành
phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá” làm Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành
Quản lý Giáo dục.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Quản lý là một hoạt động mang tính lịch sử xã hội, nhờ có hoạt động
quản lý mà xã hội loài người không ngừng vận động và phát triển. Mác4



Ănghen trong quá trình nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã rút ra kết
luận, một trong những yếu tố quyết định đối với sự phát triển của nền sản xuất
tư bản là nhờ có vai trò của hoạt động quản lý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê
Nin về vai trò của hoạt động quản lý, Người đã khẳng định: “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”, cán bộ cách mạng phải
là người “vừa hồng, vừa chuyên”, đó chính là mối quan hệ giữa tài và đức
trong nhân cách người cán bộ quản lý, trong đó đức là gốc, còn năng lực của
con người không phải tự nhiên mà có mà phần lớn là do qua quá trình công
tác, rèn luyện mà nên.
Xuất phát từ quan điểm “Coi con người là động lực trực tiếp của sự
phát triển, cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Ngày nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập mạnh mẽ và sâu rộng
trên tất cả các lĩnh vực trong đó giáo dục có vai trò quyết định đối với sự tồn
tại và phát triển của quốc gia.
Triển khai các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đối với sự phát triển giáo
dục, đã có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu về lý luận quản lý giáo dục và công
tác phát triển đội ngũ CBQL giáo dục.
Thuật ngữ “Quản lý” (tiếng Việt gốc Hán) lột tả được bản chất hoạt
động này trong thực tiễn. Nó gồm hai quá trình tích hợp vào nhau: Quá
trình “Quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ thống ở trạng thái “ổn
định”; quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ thống vào
thế “phát triển”.
Các tư tưởng quản lý sơ khai xuất phát từ các tư tưởng triết học cổ Hy
Lạp và cổ Trung Hoa. Sự đóng góp của các nhà triết học cổ Hy Lạp tuy
còn ít ỏi nhưng đáng ghi nhận: Đó là các tư tưởng của Xôcrát (469-399
TCN), Platôn (427-347 TCN) và Arixtôt (384-322 TCN). Thời Trung Hoa
cổ đại đã công nhận các chức năng quản lý đó là: Kế hoạch hoá, tổ chức, tác
5



động, kiểm tra. Các nhà hiền triết của Trung Hoa trước công nguyên đã có
những đóng góp lớn về tư tưởng quản lý quan trọng về tư tưởng quản lý vĩ
mô, quản lý toàn xã hội. Các nhà tư tưởng và chính trị lớn đó là Khổng Tử
(551- 478 TCN), Mạnh Tử (372- 289 TCN) đã nêu lên tư tưởng uản lý “Đức
trị, Lễ trị” lấy chữ tín làm đầu. Những tư tưởng quản lý trên vẫn có ảnh
hưởng khá sâu sắc đến các nước phương đông ngày nay.
Ở Việt Nam, khoa học quản lý tuy còn non trẻ, song nó đã có
những thành tựu đáng kể, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý xã hội trong
những điều kiện cụ thể tương ứng với tình hình phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Trong lĩnh vực quản lý giáo dục ở Việt Nam những năm qua đã
có nhiều công trình nghiên cứu về lý luận cũng như đề ra được các giải pháp
quản lý có hiệu quả trong việc phát triển giáo dục và đào tạo ví dụ như:
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý và tổ chức công tác văn hoá,
giáo dục với đề tài "Một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý trường
trung học phổ thông tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn đổi mới" của tác giả
Hoàng Đức Hùng (1998). Tác giả đã phân tích làm rõ thực trạng đội ngũ cán
bộ quản lý trường trung học phổ thông tỉnh Quảng Trị, đề xuất các biện pháp
quản lý nhằm pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học phổ
thông tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục về đề tài: "Thực trạng, phương
hướng và những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý
giáo dục trường trung học cơ sở tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Nguyễn Công
Duật (2000). Đề tài đã phân tích làm rõ thực trạng chất lượng đội ngũ
quản lý giáo dục trường trung học cơ sở tỉnh Bắc Ninh; đề xuất phương
hướng và những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý
giáo dục trường trung học cơ sở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục về đề tài: “Quy hoạch xây dựng và
phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trường trung học cơ sở huyện Yên Sơn

tình Tuyên quang’’ của tác giả Lưu Bích Thuận (2005). Luận văn thạc sĩ
6


Quản lý giáo dục về đề tài: “Giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
trường trung học phổ thông tỉnh Phú Thọ đến năm 2020” của tác giả Phùng
Quốc Lập (2010). Luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục về đề tài: "Biện pháp
phát triển đội ngũ hiệu trương trường trung học cơ sở huyện Phù Ninh tỉnh
Phú Thọ theo quy định chuẩn hiệu trưởng” của tác giả Phạm Thị Hồng
Loan(2012). Luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục về đề tài: “Phát triển đội ngũ
gIảng viên chuyên ngành ở trường đại học Văn hoá nghệ thuật Quân đội
hiện nay” của tác giả Dương Thị Bích Liên (2014). Luận văn thạc sĩ Quản lý
giáo dục về đề tài: “ Quản lý phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở
trường đại học Luật Hà Nội” của tác giả Nguyễn Hoài Thương (2014).
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến các giải pháp xây dựng
hoặc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục các trường trung
học phổ thông, THCS hoặc các trường đại học nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục trong các nhà trường. Mỗi đề tài nghiên cứu trên một phạm vi, thời
gian khác nhau, đối tượng cán bộ quản lý ở các cấp học khác nhau. Kết quả
nghiên cứu của các luận văn trên đã gợi ý, định hướng tạo nên nền tảng lý
luận về phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trường THCS, tác giả luận
văn sẽ kế thừa, phát triển kết quả nghiên cứu đó để xây dựng cơ sở lý luận
cho đề tài của mình. Bên cạnh đó các đề tài còn chưa đi sâu vào nghiên cứu
thực trạng về số lượng, cơ cấu và xây dựng đội ngũ CBQL trường trung
học cơ sở trên địa bàn của một địa phương cụ thể, chưa đề cập đến việc
phát triển đội ngũ CBQL trường THCS một cách đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo
về phẩm chất và năng lực đáp ứng được những đổi mới về giáo dục và đào
tạo trong giai đoạn hiện nay là vấn đề rất cần thiết ở mỗi địa phương.
Ở thành phố Thanh Hoá chưa có đề tài nghiên cứu khoa học nào đề
cập đến vấn đề phát triển đội ngũ CBQL giáo dục ở các trường THCS

của thành phố. Chính vì lẽ đó, việc đề ra các biện pháp khoa học để phát
triển đội ngũ CBQL giáo dục ở các trường THCS trên địa bàn thành phố
7


Thanh Hoá là những nội dung nghiên cứu cần được tiếp tục quan tâm và rất
cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng đội ngũ CBQL
giáo dục,đề tài đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ CBQL giáo dục ở
các trường THCS của thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá đáp ứng yêu cầu
nâng cao chất lượng giáo dục THCS trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ CBQL giáo dục ở các
trường THCS
- Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục giáo dục ở các
trường THCS trên địa bàn thành phố Thanh Hoá.
- Đề xuất biện pháp có tính khả thi phát triển đội ngũ CBQL giáo dục ở các
trường THCS thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quá trình xây dựng, phát triển đội ngũ CBQL giáo dục các trường
THCS thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
* Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở các trường THCS
thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Những vấn đề lý luận, thực trạng và biện pháp phát triển
đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục các trường THCS trên địa bàn thành phố

Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá
- Về không gian: Khảo sát và nghiên cứu các trường THCS trên địa bàn
thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
8


- Về thời gian: Từ năm 2013 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở các trường THCS thành phố
Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá có đủ số lượng, đạt chuẩn về chất lượng, phù hợp về cơ
cấu là sản phẩm tổng hợp của nhiều yếu tố, nhiều hoạt động. Trong đó việc nghiên
cứu tìm ra các biện pháp phát triển đội ngũ CBQL giáo dục một cách khoa học,
thiết thực có vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp quyết định đến sự thành
công của sự phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục THCS. Công tác phát
triển đội ngũ CBQL giáo dục hiện nay còn nhiều hạn chế và bất cập. Nếu các
chủ thể quản lý vận dụng linh hoạt các biện pháp quản lý như: Nâng cao trách
nhiệm của các cấp quản lý trong xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển
đội ngũ CBQL; tổ chức bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL và
các giáo viên quy hoạch dự nguồn; thực hiện hiệu quả công tác tuyến chọn,
bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển; tăng cường kiểm tra, đánh giá hoạt
động quản lý nhà trường của đội ngũ CBQL…thì sẽ phát triển được đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục ở các trường THCS, góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng
giáo dục THCS ở thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin, nghiên cứu công tác phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở các
trường THCS nằm trong mối quan hệ biện chứng các mặt, các lực lượng cùng
tham gia nhằm bảo đảm tính khách quan.
Quá trình nghiên cứu luôn quán triệt và hướng tới thực hiện tốt đường
lối, quan điểm của của Đảng Cộng sản Việt Nam về nâng cao chất lượng giáo

dục đào tạo, trong đó phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở các trường
THCS là một nội dung quan trọng. Vận dụng linh hoạt, phù hợp với đặc điểm,
điều kiện hoàn cảnh thực tế của các trường THCS ở thành phố Thanh Hoá,
9


tỉnh Thanh Hoá. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu tiếp cận theo các quan
điểm: hệ thống - cấu trúc, lịch sử - lôgic và thực tiễn để nghiên cứu đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được dùng chủ yếu để đánh giá thực trạng đội ngũ
CBQL giáo dục ở các trường THCS thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá là:
- Phương pháp quan sát
Tiếp cận và xem xét chất lượng và cơ cấu của đội ngũ CBQL giáo dục
trường THCS. Mục đích chính của việc sử dụng phương pháp này là tìm hiểu
thực trạng của đội ngũ CBQL giáo dục trường THCS trên địa bàn thành phố
Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá theo chức năng và nhiệm vụ, đồng thời nhờ
phương pháp này, người nghiên cứu có thể khẳng định thực trạng việc phát
triển đội ngũ CBQL các trường THCS thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
- Phương pháp điều tra
Bằng việc xây dựng hệ thống câu hỏi điều tra theo những nguyên tắc và
nội dung chủ định của người nghiên cứu; phương pháp này được sử dụng với
mục đích chủ yếu thu thập số liệu để làm rõ thực trạng đội ngũ CBQL giáo
dục các trường THCS trên địa bàn thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
Nội dung khảo sát: tập trong làm rõ nhận thức của cán bộ, giáo viên về
vai trò của việc phát triển đội ngũ CBQL các trường THCS; thực trạng phát
triển đội ngũ CBQL các trường THCS thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá và
sự cần thiết, tính khả thi của các biện pháp đề xuất.
Số lượng khách thể khảo sát: 200 giáo viên và 50 cán bộ quản lý của 37
trường THCS trên địa bàn thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
Kết quả khảo sát được tính tần suất %; gán điểm lượng hoá để phân

tích, minh hoạ cho thực trạng và rút ra kết luận cần thiết.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Bằng việc soạn thảo hệ thống các câu hỏi về tính hợp lý và khả thi của
các biện pháp quản lý gửi tới các chuyên gia (CBQL các trường THCS, lãnh
10


đạo các tổ chức đoàn thể của trường THCS, CBQL và chuyên viên làm công
tác quản lý cán bộ của Sở GD & ĐT và các nhà quản lý giáo dục, lãnh đạo
phòng GD & ĐT...) phương pháp này được sử dụng với mục đích xin ý kiến
của các chuyên gia về tính hợp lý và khả thi của các biện pháp được đề xuất.
- Phương pháp phỏng vấn
Hỗ trợ cho phương pháp điều tra viết, phương pháp lấy ý kiến chuyên
gia, đồng thời kiểm tra độ tin cậy của kết quả nghiên cứu. Bằng việc trao đổi
ý kiến với đội ngũ các cán bộ, giáo viên lâu năm có kinh nghiệm, có uy tín.
- Các phương pháp hỗ trợ khác
Bằng việc sử dụng một số phương pháp toán học, một số tiện ích của
tin học. Phương pháp này được sử dụng để xử lý các số liệu.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ CBQL
giáo dục ở các trường THCS. Đề xuất các biện pháp có tính khả thi để phát
triển đội ngũ CBQL giáo dục các trường THCS thành phố Thanh Hoá, tỉnh
Thanh Hoá.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo cho các cơ quan
chức năng, Sở giáo dục & đào tạo Thanh Hoá, Phòng GD & ĐT thành phố,
các trường THCS trên địa bàn thành phố Thanh Hoá trong việc chỉ đạo, quản
lý, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBQL giáo dục.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.


11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
QUẢN LÝ GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Cán bộ quản lý giáo dục trường trung học cơ sở
1.1.

* Quản lý
Khái niệm quản lý đã được phát hiện từ mấy ngàn năm trước công
nguyên, lúc đó quản lý còn là một thuật ngữ triết học. Quản lý thực sự bắt đầu
đóng vai trò đáng kể từ cuộc cách mạng công nghiệp khởi đầu ở Anh vào thế
kỷ XVIII và sau đó lan sang Mỹ vào thế kỷ XIX, khi mà máy móc đã thay thế
lao động thủ công và sản xuất theo dây chuyền xuất hiện và chính từ đó quản
lý đã trở thành một khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học có rất nhiều quan niệm về quản lý, theo
những cách tiếp cận khác nhau. Quản lý là cai quản, chỉ huy, lãnh đạo, chỉ
đạo kiểm tra theo góc độ tổ chức. Theo góc độ điều khiển thì quản lý là lái, là
điều khiển, điều chỉnh. Theo cách tiếp cận hệ thống thì quản lý là sự tác động
của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm tổ chức, phối hợp hoạt động
của con người trong quá trình sản xuất để đạt được mục đích đã định.
Quản lý là một hoạt động thiết yếu, đảm bảo phối hợp nỗ lực hoạt động
của cá nhân nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội con người muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa vào nỗ lực của
mỗi cá nhân, mỗi tổ chức. Các Mác viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực
tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều
cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực

hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản
xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc
tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có một
nhạc trưởng” [5, tr.12]. Theo quan điểm này thì trong quá trình lao động con
12


người phải có sự phân công, hợp tác với nhau, sự tổ chức phân công lao động
đó chính là một chức năng quản lý, như vậy quản lý là một chức năng xã hội,
xuất hiện và phát triển cùng với xã hội.
- Theo Bách khoa toàn thư (Liên Xô cũ): “Quản lý là chức năng của
những hệ thống có tổ chức với những bản chất khác nhau, nó bảo toàn cấu
trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động. Quản lý bao gồm những
công việc chỉ huy và tạo điều kiện cho những người khác thực hiện công việc
và đạt được mục đích”.
- Theo Từ điển Tiếng Việt 1998: “Quản lý là trông coi và giữ gìn theo
những yêu cầu nhất định”.
- Henri Fayol (người Pháp), người đặt nền móng cho lý luận tổ chức cổ
điển: “Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”.
- Theo Taylor F.W (người Mỹ), “Quản lý là biết được chính xác điều
bạn muốn người khác làm và sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công
việc một cách tốt và rẻ nhất”.
Có nhiều cách khác nhau định nghĩa về quản lý, theo nghĩa rộng thì
quản lý là hoạt động có mục đích của con người, nếu xét quản lý với tư cách
là một hành động, các tác giả Đặng Quốc Bảo định nghĩa: “Quản lý là sự tác
động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý
nhằm đạt được mục tiêu đề ra”. [27, tr.12]
Quản lý là sự cộng tác có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý
đến khách thể quản lý trong mỗi tổ chức nhằm làm cho tổ chức hoạt động và
đạt được mục tiêu đặt ra. Quản lý là sự tác động, điều khiển, chỉ huy, hướng

dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt được
mục đích đề ra. Quản lý còn là một quá trình tác động có mục đích vào hệ
thống nhằm làm thay đổi hệ thống, thông qua các chức năng kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo và kiểm tra để thực hiện hoạt động quản lý.
13


Trong các định nghĩa trên, tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng đều chứa
đựng những dấu hiệu chung:
Quản lý là thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình, mọi hoạt động
xã hội loài người. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội
loài người tồn tại và phát triển.
* Cán bộ quản lý
Theo Điều 1, Chương 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức, được Uỷ ban
thường vụ Quốc hội khoá XI, thông qua ngày 29/4/2003: Cán bộ, công chức
quy định tại pháp lệnh này gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm
hoặc giao giữ một công việc thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào
tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào ngạch hành chính, sự nghiệp trong các
cơ quan Nhà nước. Mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn, nghiệp
vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng.
Luật Công chức (2008) đã xác định: Cán bộ là công dân Việt Nam, được
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ
quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở
trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp
tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [34, tr.126].
CBQL có thể là cấp trưởng hoặc cấp phó của một tổ chức được cơ quan
cấp trên bổ nhiệm bằng quyết định hành chính nhà nước. Cấp phó giúp việc
cho cấp trưởng, chịu trách nhiệm trước cấp trưởng và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về công việc được phân công. CBQL là lực lượng rất quan trọng

trong cơ quan, đơn vị. Với tầm quan trọng của người CBQL, đòi hỏi người
CBQL phải có những phẩm chất và năng lực điển hình.
* Cán bộ quản lý giáo dục trường THCS
Theo Từ điển Tiếng Việt, CBQL là: "Người làm công tác có chức vụ trong
một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ" [22, tr. 45].
14


Chúng tôi đồng tình với khái niệm trong Giáo trình “Khoa học quản
lý”: CBQL là các cá nhân thực hiện những chức năng và nhiệm vụ quản lý
nhất định của bộ máy quản lý. Mỗi CBQL nhận trách nhiệm trong bộ máy
quản lý bằng một trong hai hình thức tuyển cử và bổ nhiệm.
CBQL là chủ thể quản lý, gồm những người giữ vai trò tác động, ra
lệnh, kiểm tra đối tượng quản lý. CBQL là người chỉ huy, lãnh đạo, tổ chức
thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ của tổ chức. Người quản lý vừa là người
lãnh đạo, quản lý cơ quan đó vừa chịu sự lãnh đạo, quản lý của cấp trên.
Cán bộ quản lý là những người đứng đầu của một cơ quan, tổ chức, đơn
vị được giao chức trách quản lý, tổ chức điều hành hoạt động của đơn vị. Cán
bộ quản lý giáo dục trường THCS là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt
động của trường THCS.
1.1.2. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trường trung học cơ sở
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, đội ngũ là “khối
đông người được tổ chức và tập hợp thành lực lượng”, “tập hợp số đông
người cùng chức năng, nghề nghiệp” [22, tr.33]. Ví dụ: Đội ngũ tri thức, đội
ngũ nhà giáo, đội ngũ CBQL,…
Đội ngũ được hiểu là khối đông người được tập hợp và tổ chức thành
lực lượng, cũng có thể hiểu là tập hợp một số đông người cùng chức năng
hoặc nghề nghiệp thành một lực lượng. Do đó, đội ngũ cán bộ quản lý trường
THCS bao gồm Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng; các tổ trưởng, tổ phó
chuyên môn; các cán bộ của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể.

Theo Luật Giáo dục tại Điều 54 quy định: Hiệu trưởng là người chịu trách
nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
bổ nhiệm, công nhận. Hiệu trưởng các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân
phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý trường học [45, tr.35].
Đội ngũ CBQL giáo dục trường THCS bao gồm tất cả những người có
chức vụ trong các trường THCS được Trưởng phòng GD&ĐT quận (huyện)
15


bổ nhiệm đối với trường công lập hoặc công nhận đối với trường ngoài công
lập cùng thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý các trường THCS theo
quy định của pháp luật.
1.1.3. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
trường trung học cơ sở
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học: “Phát triển là sự vận
động, tiến triển theo chiều hướng tăng lên. Phát triển là quá trình biến đổi từ ít
đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp” [50].
Theo quan điểm này thì tất cả sự vật, hiện tượng, con người và xã hội hoặc tự
bản thân biến đổi hoặc do bên ngoài làm cho biến đổi tăng lên cả về số lượng
và chất lượng. Đó chính là sự phát triển. Như vậy “Phát triển” là một khái
niệm rất rộng, nói đến “Phát triển” là người ta nghĩ ngay đến sự đi lên của sự
vật, hiện tượng, con người trong xã hội. Sự đi lên đó thể hiện việc tăng lên về
số lượng và chất lượng, thay đổi về nội dung và hình thức.
Khái niệm “phát triển” theo từ điển tiếng Việt là “Biến đổi hoặc làm
cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức
tạp” [50]. Do đó, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường THCS là một sự
vận động, biến đổi về số lượng, cơ cấu cũng như chất lượng của đội ngũ cán
bộ quản lý trường THCS theo hướng đi lên.
Phát triển đội ngũ CBQL giáo dục không chỉ là nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ mà còn là sự đáp ứng quyền lợi cá nhân, sự trung

thành tận tuỵ của người CBQL giáo dục đối với nhà trường và xã hội.
Chất lượng đội ngũ CBQL giáo dục được thể hiện trước hết là chất
lượng của từng cá nhân. Đó là phẩm chất chính trị, tư tưởng đạo đức; xu
hương nghề nghiệp, năng lực quản lý… Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ CBQL
giáo dục không chỉ là sự cộng lại thuần tuý các phẩm chất cá nhân của giáo
viên mà là sự tổng hoà các phẩm chất ấy thể hiện ở những đặc trưng của một
tập thể sư phạm, khoa học tích cực, lành mạnh.
Để có một đội ngũ CBQL giáo dục đồng bộ phải một cơ cấu hợp lý,
16


bao gồm cơ cấu về độ tuổi, thâm niên công tác, trình độ đào tạo, giới tính….
Đây là một nội dung quan trọng trong xác định biện pháp phát triển đội ngũ
CBQL giáo dục THCS.
Từ những cách tiếp cận trên, chúng tôi cho rằng: “Phát triển đội ngũ
CBQL giáo dục ở các trường THCS là hệ thống những tác động có mục đích,
có kế hoạch của các chủ thể quản lý đến đội ngũ CBQL giáo dục THCS nhằm
đảm bảo cho đội ngũ này có đủ số lượng, đạt chuẩn về chất lượng, có cơ cấu
hợp lý, đáp ứng yêu cầu giáo dục của bậc THCS.
Phát triển đội ngũ CBQL giáo dục ở các trường THCS là phát triển
nguồn nhân lực quan trọng nhất của nhà trường THCS. Việc phát triển đội
ngũ CBQL giáo dục THCS nằm trong phạm trù quản lý nhân lực giáo dục của
các trường - là một khâu, một nội dung trọng yếu trong quá trình quản lý
nguồn nhân lực giáo dục.
Chủ thể tiến hành phát triển đội ngũ CBQL giáo dục ở các trường
THCS là tập thể, cá nhân theo chức trách, nhiệm vụ và phân cấp nhất định.
Trong đó, Phòng Giáo dục là chủ thể chỉ đạo, điều hành; Ban giám hiệu các
trường là chủ thể trực tiếp tiến hành các hoạt động phát triển đội ngũ CBQL
giáo dục ở trường mình.
Đối tượng phát triển đội ngũ CBQL giáo dục ở các trường THCS là

bản thân các cán bộ quản lý và các đối tượng nguồn. Họ vừa là đối tượng, vừa
là chủ thể trong quá trình phát triển.
1.2. Nội dung và các yếu tố tác động đến phát triển đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục các trường trung học cơ sở
1.2.1. Nội dung phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở các
trường trung học cơ sở
Những năm qua, chúng ta đã xây dựng được đội ngũ nhà giáo ngày
càng đông đảo, phần lớn có phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị tốt, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu cơ bản về nâng cao
17


dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng vào
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của sự phát
triển giáo dục trong thời kỳ CNH, HĐH, đội ngũ CBQL giáo dục các cấp học,
bậc học hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Số lượng CBQL giáo dục
còn thiếu nhiều. Cơ cấu, chất lượng CBQL giáo dục đang mất cân đối giữa
các vùng, miền, khu vực. Chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, trình độ quản lý
của đội ngũ CBQL giáo dục có mặt chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
và phát triển KT-XH. Riêng đối với giáo dục phổ thông:“Yếu kém lớn nhất
của đội ngũ CBQL giáo dục phổ thông hiện nay vẫn là phương pháp quản lý,
trình độ quản lý, việc quản lý nhà trường chưa đảm bảo yêu cầu mục tiêu
ngày càng cao của giáo dục đề ra, trình độ về công nghệ thông tin, ngoại ngữ
của đội ngũ CBQL giáo dục trong các trường phổ thông còn rất yếu và thiếu
về số lượng, về năng lực quản lý.
Vì lẽ đó, việc xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL giáo dục ở trường
THCS một cách toàn diện, chuẩn hoá: đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu, chất
lượng chuyên môn cao, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống,
lương tâm nghề nghiệp tốt để thực hiện trọng trách lớn mà Đảng và nhân dân
giao phó là công việc có ý nghĩa, tầm quan trọng và tính cấp bách đặc biệt.

Phát triển đội ngũ CBQL giáo dục là nhằm phát triển đội ngũ đảm bảo
đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu, đạt chuẩn và trên chuẩn, chất lượng đáp
ứng nhu cầu vừa tăng quy mô, vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục,
đáp ứng yêu cầu đặt ra của địa phương. Vì vậy, những nội dung quan trọng
cần phải thực hiện là:
* Phát triển về số lượng
Số lượng CBQL giáo dục nhìn trên sự điều hành vĩ mô phải cân đối với
số lượng đội ngũ giáo viên trong toàn tỉnh, trong mỗi nhà trường và đáp ứng
những yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục đặt ra.
18


Số lượng CBQL giáo dục nhìn trên sự điều hành vi mô (trong một nhà
trường) được tính trên số lớp của trường đó. Như vậy, phát triển về số lượng
đối với CBQL giáo dục trường THCS cần phải nhìn trên tổng thể cả trên sự
điều hành vĩ mô và điều hành vi mô, cần phải đảm bảo số lượng CBQL giáo
dục theo quy định của Nhà nước để bộ máy của nhà trường hoạt động có hiệu
quả. Tuy nhiên, Nhà nước cũng cần có quy định mở, cho phép các tỉnh căn cứ
vào đặc điểm địa lý, phân bố dân cư của các vùng sâu, vùng xa để có thể quyết
định bổ sung cho các trường có nhiều điểm trường thêm Phó hiệu trưởng.
* Nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL giáo dục trường THCS
Theo khái niệm triết học, chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị
của một người, một sự vật, sự việc. Đó là hệ thống những thuộc tính cơ bản,
khẳng định sự tồn tại của một người, một sự vật và phân biệt nó với người và
sự vật khác. Đồng thời, chất lượng là mục tiêu của hoạt động, trong đó có
giáo dục; nó có yếu tố cạnh tranh trong đời sống
Theo quan điểm của các nhà giáo dục Việt Nam, chất lượng là cái tạo
nên phẩm chất giá trị một con người, với tư cách một nhân cách, một chủ thể
có trình độ phát triển về phẩm chất, năng lực. Chất lượng của mỗi CBQL giáo
dục thể hiện bởi trình độ, phẩm chất, năng lực của bản thân họ thông qua hoạt

động quản lý. Như vậy, mỗi CBQL giáo dục có chất lượng của cá nhân họ như
những điểm mạnh của bản thân. Đồng thời chất lượng của cả đội ngũ CBQL
giáo dục sẽ được thể hiện qua hoạt động quản lý của mỗi cấp học và muốn
phát triển đội ngũ CBQL giáo dục thì phải nâng cao chất lượng của đội ngũ.
* Hoàn thiện đồng bộ về cơ cấu đội ngũ CBQL giáo dục trường THCS
Phát triển đội ngũ CBQL giáo dục đồng bộ về cơ cấu tức là cân đối về
độ tuổi, giới tính, dân tộc, thâm niên quản lý, bộ môn chuyên môn, vùng
miền. Mục tiêu của phát triển đội ngũ CBQL giáo dục đồng bộ về cơ cấu là
tạo ra sự hợp lý, sự đồng bộ của đội ngũ. Một cơ cấu hợp lý sẽ tạo cho từng
thành viên trong cơ cấu đó được tương tác với nhau một cách thuận lợi nhất,
nhờ đó mà phát huy tiềm năng của mình, tạo ra sức mạnh chung của bộ máy.
19


* Tạo sự đồng thuận của đội ngũ CBQL giáo dục trong
cùng một trường
Mỗi cá nhân lại có sự khác nhau về nguyện vọng, sở trường, thể lực,
địa vị xã hội, hoàn cảnh gia đình. Vì vậy, khi tập hợp lại trong cùng một tổ
chức nhà trường để dung hợp, đồng thuận với nhau là việc làm cần thiết và
khá khó khăn Tính đồng thuận của đội ngũ CBQL giáo dục trong cùng một
nhà trường có ý nghĩa rất quan trọng, bởi lẽ sự đồng thuận giúp cho việc thực
hiện các mục tiêu giáo dục trong nhà trường
1.2.2. Các yếu tố tác động đến phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục các trường trung học cơ sở
* Sự quan tâm của hệ thống chính trị và cơ quan quản lý giáo dục các
cấp đối với chất lượng giáo dục trường trung học cơ sở
Theo chức năng quản lý nhà nước, các bộ phận cấu thành hệ thống
chính trị và cơ quan quản lý giáo dục các cấp có trách nhiệm tham gia vào xây
dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống giáo dục; lãnh đạo,
chỉ đạo công tác bảo đảm và kiểm soát chất lượng giáo dục; sử dụng các công

cụ quản lý để tạo nên những nguồn lực cho giáo dục, vì thế hệ thống chính trị
và cơ quan quản lý giáo dục các cấp có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục trường THCS.
Thực tế cho thấy, khi hệ thống chính trị, trước hết là tổ chức đảng, bộ
máy chính quyền các cấp thực sự chăm lo tới giáo dục THCS, thì sẽ có những
chủ trương, biện pháp thích hợp nhằm phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục ở cấp học này; đồng thời huy động sức mạnh của hệ thống chính trị vào
lãnh đạo, chỉ đạo và giám sát việc đào tạo, tuyển chọn, bố trí sử dụng đội ngũ
cán bộ quản lý giáo dục trường THCS. Để tăng cường sự quan tâm của hệ
thống chính trị đối với sự nghiệp giáo dục nói chung, phát triển đội ngũ cán
bộ quản lý giáo dục trường THCS nói riêng, thì cần thống nhất nhận thức,
nâng cao trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, của người đứng đầu tổ chức chính
20


quyền các cấp đối với phát triển đội ngũ này. Thành công hay hạn chế trong
giải quyết vấn đề nhận thức trách nhiệm của chủ thể có trách nhiệm trong hệ
thống chính trị xét cho cùng cũng là nguyên nhân của thực trạng phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục trường THCS hiện nay.
Chủ thể quản lý trực tiếp quá trình phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục trường THCS, chính là các cơ quan quản lý giáo dục; do đó sự quan tâm
của các cơ quan này đến chất lượng giáo dục THCS có mối quan hệ biện chứng
với phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trường THCS. Điều đó thể hiện
ở chỗ, để đáp úng đòi hỏi nâng cao chất lượng giáo dục trường THCS, các cơ
quan giáo dục phải quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục theo
hướng bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng theo chuẩn Hiệu trưởng và
điều chỉnh cơ cấu hợp lý. Đồng thời tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực qua hoạt động thực tiễn. Do
đó để tác động có hiệu quả tới phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
trường THCS, không thể xem nhẹ việc nâng cao trách nhiệm và trình độ

chuyên môn của các cơ quan quản lý giáo dục.
* Chất lượng nguồn nhân lực bổ sung vào đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục trường trung học cơ sở
Mục tiêu phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục hiện nay, là bảo
đảm đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu. Để đạt
được mục tiêu đó, các cơ quan quản lý giáo dục trường THCS một mặt phải
thường xuyên quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục,
mặt khác thực hiện tốt việc tuyển chọn nguồn bổ sung vào đội ngũ này từ đội
ngũ giáo viên để đáp ứng yêu cầu phát triển chất lượng giáo dục trường
THCS. Công tác tuyển chọn chỉ có thể đạt được kết quả mong muốn khi
nguồn tuyển chọn dồi dào, có chất lượng cao và phù hợp với chính sách, chế
độ tuyển dụng của Nhà nước; vì vậy nguồn tuyển chọn cũng là một trong
những yếu tố tác động tới phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trường
21


THCS hiện nay.
Khi nguồn nhân lực bổ sung tuyển chọn cán bộ quản lý giáo dục trường
THCS dồi dào là cần thiết, nhưng không đồng nghĩa với dư thừa quá mức
nguồn nhân lực cần tuyển chọn sẽ gây nên sự lãng phí. Quan trọng nhất là
chất lượng của người dự tuyển nguồn cán bộ quản lý giáo dục trường THCS,
vì chất lượng nguồn tuyển chọn tác động rất lớn đến phát triển đội ngũ này.
Bởi vì, chuẩn Hiệu trưởng là hệ thống các yêu cầu cơ bản về phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống; kiến thức; năng lực quản lý trường học mà cán bộ quản
lý giáo dục cần phải đạt được nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục của nhà
trường. Nếu các đối tượng dự nguồn không đủ phẩm chất, năng lực phù hợp
với chuẩn đó thì sẽ dẫn đến hậu quả là: các trường THCS không đáp ứng yêu
cầu nguồn cán bộ phát triển trường, hoặc buộc phải đưa vào nguồn những
người chưa đạt chuẩn cán bộ quản lý giáo dục trường THCS; cả hai tình
huống này đều cản trở đối với phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục

trường THCS trong tình hình hiện nay.
* Tinh thần tích cực, chủ động tự học tập, rèn luyện của đội ngũ cán
bộ quản lý giáo dục trường trung học cơ sở
Cán bộ quản lý giáo dục trường THCS là đối tượng phát triển, nhưng
chính họ lại là chủ thể của sự phát triển theo quy định của chuẩn Hiệu
trưởng; vì vậy kết quả phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trường
THCS tuỳ thuộc không nhỏ vào tinh thần tích cực, chủ động tự học tập, rèn
luyện của chính đội ngũ cán bộ này.
Sự nỗ lực của từng cán bộ quản lý giáo dục trường THCS trong tự học
tập, tự rèn luyện bắt nguồn từ sự tự đánh giá mình theo chuẩn một cách chính
xác, trên cơ sở đó xác định động cơ phấn đấu vươn lên trong công tác để đạt
và vượt chuẩn. Động lực thúc đẩy bên trong đó phải được hiện thực hoá thành
mục tiêu, kế hoạch phấn đấu rèn luyện về phẩm chất, năng lực của mỗi cán
bộ. Nếu cấp uỷ các trường THCS và cơ quan quản lý giáo dục có biện pháp
thích hợp nhằm nắm và điều chỉnh mục tiêu, kế hoạch tự học tập, tự bồi
22


dưỡng của từng cán bộ, thì quá trình phát triển của cả đội ngũ sẽ được quản lý
chặt chẽ và đạt được hiệu quả cao. Ngược lại, không chăm lo nâng cao tính
tích cực, chủ động của từng cán bộ thuộc quyền trong tự học tập, tự sửa chữa,
khắc phục những hạn chế, thiếu sót so với chức năng, nhiệm vụ thì cấp uỷ các
trường THCS và cơ quan quản lý giáo dục không thể hoàn thành mục tiêu, kế
hoạch phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trường THCS.
Vai trò nỗ lực tích cực vươn lên của từng cá nhân cán bộ trong phát
triển đội ngũ là rất lớn; do đó khi phân tích nguyên nhân của thành công hay
hạn chế trong phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trường THCS phải
xem xét sự tận tâm, cố gắng vươn lên, tính nghiêm khắc, tự đòi hỏi cao trong
tự đánh giá, tự phê bình, nội dung và phương pháp rèn luyện, tu dưỡng các
phẩm chất, năng lực của mỗi cán bộ; đây cũng chính là một hướng tiếp cận

các yếu tố tác động tới quá trình phát triển độ , ngũ cán bộ quản lý giáo dục
trường THCS ở từng địa bàn
* Tác động của các chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục
Đây là phương pháp đặc thù của công tác quản lý, thông qua các chế độ
và chính sách về quyền lợi vật chất, tinh thần sẽ tác động vào đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục để họ yên tâm, phấn khởi làm việc. Công tác này vừa đảm
bảo tính giáo dục vừa tạo ra động lực cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
trường THCS; nó sẽ tạo ra bầu không khí vui tươi phấn khởi và tinh thần
trách nhiệm với mọi thành viên, tạo điều kiện thu hút nhân tài phát huy khả
năng sáng tạo của họ; từ đó sẽ thu được kết quả tốt đối với công việc được
giao. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trường THCS, trước hết là
trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước thể hiện ở việc hoạch định
chiến lược phát triển giáo dục THCS; xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ
cán bộ quản lý giáo dục; tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, tuyển
chọn, thanh lọc cán bộ; ban hành và sử dụng các công cụ quản lý (cơ chế,
23


chính sách...) nhằm bảo đảm số lượng, chất lượng, cơ cấu của đội ngũ này
biến đổi tích cực, đáp ứng đòi hỏi của tình hình thực tiễn Hiện nay, chính
sách, chế độ đối với cán bộ quản lý giáo dục trường THCS được quy định bởi
nhiều văn bản quy phạm pháp luật, nhưng cán bộ quản lý giáo dục thường
quan tâm đến chính sách tiền lương, phụ cấp trách nhiệm; những quy định về
khen thưởng, kỷ luật... Khi những chính sách, chế độ này bảo đảm sự công
bằng và thể hiện được sự quan tâm của xã hội đối với cán bộ quản lý giáo
dục, thì sẽ tạo được động lực phấn đấu, tiến bộ của họ; đây thực sự là nguyên
nhân đưa tới những thành công trong phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục trường THCS trong giai đoạn hiện nay.
*

*

*

Để làm rõ cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ CBQL giáo dục ở các
trường THCS thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá, Luận văn đã phân tích
một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài như: Khái niệm về quản lý,
khái niệm về quản lý giáo dục, quản lý trường học, khái niệm về đội ngũ,
trong đó làm rõ khái niệm phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
trường THCS, đó chính là quá trình quy hoạch, xây dựng, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục của cấp uỷ, cơ quan chức năng và người lãnh
đạo, cán bộ giáo viên trường THCS, làm cho đội ngũ này tăng tiến cả số
lượng lẫn chất lượng và có cơ cấu hợp lý, để họ thực hiện có chất lượng
hoạt động quản lý giáo dục trường THCS, đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới giáo
dục trong các nhà trường hiện nay. Đồng thời chỉ rõ nội dung và các nhân
tố tác động đến sự phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trường
THCS, làm cơ sở cho việc khảo sát, đánh giá thực trạng đội ngũ CBQL giáo
dục ở các trường THCS thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá trong chương
2 của đề tài.
24


Chương 2
CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
QUẢN LÝ GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, và giáo dục
của thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá
2.1.1. Điều kiện kinh tế- xã hội của thành phố Thanh Hoá
Thành phố Thanh Hoá có địa giới: Phía tây và tây bắc giáp hai huyện

Đông Sơn và Thiệu Hoá; phía bắc và đông bắc giáp với huyện Hoằng Hoá; phía
đông giáp với thị xã Sầm Sơn; phía đông nam và phía nam giáp huyện Quảng
Xương. Cách thủ đô Hà Nội 160 km về phía nam; cách bờ biển Sầm Sơn 16 km
về phía tây và cách biên giới Việt Lào (thuộc địa phận huyện Quan Hoá) 135 km
về phía đông.
Thực hiện Nghị quyết số 05/NQ-CP ngày 29/2/2012 của Thủ tướng
Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính các huyện Hoằng Hoá, Thiệu
Hoá, Đông Sơn và Quảng Xương để mở rộng địa giới hành chính thành phố
Thanh Hoá và thành lập các phường thuộc thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh
Hoá (thành phố đã tiến hành sáp nhập thêm 19 xã, phường của 4 huyện Đông
Sơn, Quảng Xương, Thiệu Hoá, Hoằng Hoá kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2012).
Thành phố Thanh Hoá có diện tích 146,77 km 2, với số dân là 406.550 người
hiện cư trú tại 37 đơn vị hành chính xã, phường (có 20 phường và 17 xã) bao
gồm 419 phố, thôn. Trên địa bàn thành phố có 400 cơ quan của trung ương và
địa phương là đầu mối giao lưu với 26 huyện còn lại của tỉnh và các tỉnh bạn.
Cùng với nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững
quốc phòng - an ninh, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố luôn chủ
động trong việc đổi mới cơ chế, tăng cường các nguồn lực đầu tư cho giáo dục
nhằm thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, xây
25


dựng hệ thống giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông tăng cả về quy mô và
chất lượng, luôn giữ vững vị trí nằm trong tốp đầu của cả tỉnh, từng bước tiếp
cận nền giáo dục tiên tiến của các nước trong khu vực và thế giới, góp phần
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, xây dựng xã hội học
tập, tạo điều kiện phát triển kinh tế tri thức, phục vụ thiết thực yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương, đất nước.
Trong 5 năm qua, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, HĐND,
UBND tỉnh, sự quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện về mọi mặt của các Bộ,

ngành Trung ương và tỉnh Thanh Hoá, thành phố Thanh Hoá đã triển khai
thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIX thắng lợi toàn diện các
mục tiêu đề ra. Ngày 29/4/2014, thành phố Thanh Hoá trở thành đô thị loại I,
theo nghị quyết của Chính phủ. Đây là bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử đối với
Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân thành phố Thanh Hoá, tạo khí
thế và động lực để cho thành phố Thanh Hoá phát triển đi lên nhanh chóng và
bền vững.
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khoá
XIX tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XX, nhiệm kỳ 20152020) nêu rõ: “Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2011-2015 ước
đạt 17,8%, cao gấp hơn 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của tỉnh. Năm
2015, GRDP theo giá thực tế ước đạt 32.579 tỷ đồng, chiếm 28% GRDP của
toàn tỉnh. GRDP bình quân đầu người đến năm 2015 ước đạt 6.350 USD,
vượt chỉ tiêu đề ra (4.500 USD), tăng bình quân 23,2%, gấp 2,8 lần so với
năm 2010. Tổng huy động vốn đầu tư phát triển 5 năm ước đạt 58.291 tỷ
đồng. Đối với 37 phường, xã, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn
2011-2015 ước đạt 15,5%, chiếm 37,3% GRDP toàn tỉnh. Tổng vốn đầu tư
phát triển năm 2015 ước đạt 17.000 tỷ đồng, cao gấp 2,5 lần so với năm 2010,
tốc độ tăng bình quân thời kỳ đạt 20,6%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân giai đoạn 2011-2015 theo GRDP ước đạt 13,5%, GRDP bình quân đầu
26


người năm 2015 ước đạt 5.200 USD (giảm 400 USD so với phương pháp cũ).
Tổng thu ngân sách giai đoạn 2011-2015 ước đạt 11.164,7 tỷ đồng; thu ngân
sách trên địa bàn năm sau cao hơn năm trước.
Hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị từng bước được đầu tư xây dựng, nâng
cấp, gắn với đẩy mạnh đô thị hoá, tỷ lệ đô thị hoá đạt 100% (18 phường, xã
cũ), 72% (37 phường, xã). Kết cấu hạ tầng đô thị đang được đầu tư theo
hướng đồng bộ, hiện đại; hoàn thành cơ bản xây dựng mới và cải tạo nâng cấp
hệ thống giao thông, điện chiếu sáng của 8 xã lên phường; chỉnh trang một số

tuyến đường phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Thành phố đã quy hoạch và
giao đất cho đồng bào sinh sống trên sông, hỗ trợ kinh phí xây dựng nhà ở và
tạo việc làm mới; các khu nhà ở xã hội như khu thu nhập thấp Đông Phát, khu
nhà ở xã hội Phú Sơn ngày càng phát huy tác dụng. Thành phố Thanh Hoá
được Hiệp hội Đô thị Việt Nam công nhận là đô thị “Sáng, xanh, sạch, đẹp”
2.1.2. Tình hình Giáo dục - Đào tạo của thành phố Thanh Hoá
Mạng lưới qui mô trường lớp hiện nay trên địa bàn thành phố Thanh
Hoá được phát triển đa dạng đáp ứng nhu cầu học tập của các tầng lớp
nhân dân: Từ bậc học mầm non đến đại học; từ các trường công lập đến
dân lập, tư thục; từ hệ thống giáo dục chính qui đến hệ thống giáo dục
không chính qui đủ cho mọi người dân trong thành phố được học mọi lúc,
mọi nơi, mọi lứa tuổi. Đội ngũ cán bộ giáo viên đủ về số lượng, 100% đạt
chuẩn; có phẩm chất chính trị và đạo đức; vững vàng về chuyên môn, nghiệp
vụ đáp ứng đổi mới giáo dục và yêu cầu xã hội. Năm 2001 thành phố Thanh
Hoá được công nhận đạt chuẩn Quốc gia về xoá mù chữ và đúng độ tuổi của
phổ cập giáo dục tiểu học. Năm 2007 được công nhận hoàn thành phổ cập
giáo dục THCS.
Chất lượng giáo dục thành phố trong những năm qua được đánh giá là
đơn vị dẫn đầu tỉnh, đó là: tỉ lệ tốt nghiệp THPT trên 99%; tỉ lệ vào đại học, cao
đẳng hàng năm chiếm 70% số học sinh tốt nghiệp, học sinh giỏi đạt giải Tỉnh,
Quốc gia, Quốc tế liên tục được duy trì và tăng về số lượng, chất lượng giải.
27


×