Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO NĂNG lực LÃNH đạo của ĐẢNG bộ sở THÔNG TIN và TRUYỀN THÔNG TỈNH bạc LIÊU GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.26 KB, 99 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA

Trang
3

ĐẢNG BỘ SỞ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN
THÔNG TỈNH BẠC LIÊU - NHỮNG VẤN ĐỀ
CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN
1.1. Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông và những vấn

11

đề cơ bản nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở
Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu
1.2. Thực trạng và một số kinh nghiệm nâng cao năng lực

11

lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông
tỉnh Bạc Liêu
Chương 2 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN

30

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG BỘ SỞ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN
THÔNG TỈNH BẠC LIÊU HIỆN NAY
2.1. Sự phát triển của tình hình nhiệm vụ và yêu cầu nâng


55

cao năng lực lãnh đạo của đảng bộ Sở Thông tin và
Truyền thông tỉnh Bạc Liêu hiện nay
2.2. Những giải pháp cơ bản nâng cao năng lực lãnh đạo

55

của đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc
Liêu hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

63
83
85
90


MỞ ĐẦU
1. Lí do của đề tài
Năng lực lãnh đạo có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng, quyết định đến
hiệu lực lãnh đạo của Đảng. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam từ khi thành lập đến nay, để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo Đảng ta luôn coi
trọng tự đổi mới, tự chỉnh đốn nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của mình.
Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu là tổ chức đảng
trực thuộc Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh, có nhiệm vụ lãnh đạo cơ quan thực
hiện tốt chức năng tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh quản lý nhà nước

về: báo chí; xuất bản; bưu chính; viễn thông; tần số vô tuyến điện; công nghệ
thông tin; điện tử; phát thanh và truyền hình; thông tin đối ngoại; bản tin
thông tấn; thông tin cơ sở; hạ tầng thông tin truyền thông; quảng cáo trên báo
chí, trên môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích hợp trên các
sản phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin. Xây dựng
Đảng bộ TSVM, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng bộ.
Trong những năm qua Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông lãnh đạo
cơ quan thực hiện ngày càng có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, góp phần phát
triển ngành thông tin và truyền thông, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của tỉnh hiện nay, năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền
thông còn bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập, nhất là hạn chế trong nhận thức
về vai trò lãnh đạo, tổ chức sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với ngành Thông tin
và truyền thông trong tỉnh, do đó, hiệu quả quản lý về báo chí, xuất bản phẩm,
viễn thông, điện tử và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin tại nhiều cơ
quan vẫn chưa được khai thác, phát huy tốt vai trò, tiềm năng, thế mạnh thực
sự của nó. Để Sở Thông tin và Truyền thông thực hiện tốt chức năng, nhiệm
3


vụ theo đúng định hướng mà Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đã đề
ra, đòi hỏi Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh cần phải có những
bước đổi mới để nâng cao năng lực lãnh đạo của mình. Vì vậy, tác giả luận
văn lựa chọn vấn đề: "Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông
tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.
2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Năng lực lãnh đạo và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là một vấn
đề lớn, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng và

công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, nghiên cứu
về năng lực lãnh đạo và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng luôn được sự
quan tâm của Đảng, của các nhà khoa học và các đồng chí lãnh đạo cao cấp
của Đảng. Trong những năm vừa qua đã có khá nhiều các Văn kiện Nghị
quyết của Đảng, các công trình khoa học, các bài viết đăng tải trên các tạp chí
khoa học bàn về năng lực lãnh đạo và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng,
của các tổ chức cơ sở đảng. Tiêu biểu có một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu như:
* Các đề tài khoa học, luận văn, luận án:
Lê Văn Lý (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002. Trong cuốn sách, tác giả khẳng định Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tiếp thu, kế thừa và phát triển nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, xây dựng Đảng ta ngày càng vững mạnh, Người khẳng định vai trò
có ý nghĩa quyết định của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Đồng thời Người cũng chỉ rõ những căn bệnh dễ mắc phải của Đảng cầm
quyền, nếu không nhận thức đầy đủ những căn bệnh đó, không có biện pháp
kiên quyết, triệt để đấu tranh ngăn chặn thì Đảng sẽ bị suy yếu, không làm
4


tròn vai trò lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân và của cả
dân tộc.
Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt - đồng chủ biên
(2004), Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đã khái quát và hệ thống
những vấn đề cơ bản về đảng cầm quyền, tình hình đổi mới, chỉnh đốn Đảng
những năm vừa qua; luận giải chất lượng của tổ chức cơ sở đảng, đề xuất và
các giải pháp cấp bách để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến

đấu của Đảng nói chung, của tổ chức cơ sở đảng nói riêng.
Hoàng Minh Tiến (2001), Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ học
viên đào tạo cán bộ chính trị cấp chiến thuật, chiến dịch ở Học viện Chính trị
quân sự hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị
quân sự, Hà Nội. Dương Quang Bích (2003), Nâng cao chất lượng lãnh đạo
của chi bộ Học viện thuộc Đảng bộ Hệ đào tạo Sau đại học ở Học viện
Chính trị quân sự hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp hệ, Học viện
Chính trị quân sự, Hà Nội. Các tác giả đã luận giải làm rõ cơ sở lý luận, thực
tiễn; đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao nâng
cao chất lượng lãnh đạo của chi bộ Học viện thuộc Đảng bộ Học viện Chính
trị quân sự, Bộ Quốc phòng.
Nguyễn Văn Dũng (2000), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Long An hiện nay, Luận văn
thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nguyễn
Đức Ái (2001), Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh. Nguyễn Ngọc Phương (2007), Những nhân tố bảo đảm sự
lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan dân chính
Đảng ở Quảng Bình, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị
5


quốc gia Hồ Chí Minh. Các công trình này đã luận giải làm rõ năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của loại hình tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn và khẳng
định rõ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là một trong những yếu tố để đánh
giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng.
Vũ Cao Hội (2007), Biện pháp xây dựng chi bộ trong sạch, vững
mạnh, Tạp chí Kiểm tra, 2/2007. Tác giả đã đề xuất những biện pháp xây
dựng chi bộ trong sạch vững mạnh bao gồm các vấn đề xây dựng đội ngũ

đảng viên, cấp uỷ viên, cán bộ chủ trì, chấp hành nguyên tắc tổ chức sinh
hoạt Đảng; phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng xây dựng chi bộ trong
sạch, vững mạnh.
Trương Thị Mỹ Trang (2007), Để nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, Tạp chí Xây dựng Đảng,
2+3/2007. Tác giả đã phân tích làm rõ những vấn đề cơ bản năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới. Đề xuất các giải pháp
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới
báo gồm các vấn đề nâng cao trình độ tư duy lý luận, trình độ trí tuệ, năng
lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xây dựng cấp uỷ các
cấp trong sạch, vững mạnh
Nguyễn Trần Phương Trân (2013), Công tác phát triển đảng viên của
tổ chức đảng ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện chính trị,
Hà Nội. Luận văn đã làm rõ những vấn đề cơ bản về công tác phát triển đảng
viên của tổ chức đảng ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh. Đáng giá thực trạng rút ra một số kinh nghiệm và đề xuất
các giải pháp tăng cường công tác phát triển đảng viên của tổ chức đảng ở các
doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh bao gồm
những vấn đề về giáo dục nâng cao nhận thức, đẩy mạnh việc tạo nguồn; chấp
hành đúng quy trình, thủ tục kết nạp đảng viên.
6


Lê Quốc Lý (2013), Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng,
Tạp chí Lý luận chính trị, 11/2013. Tác giả coi sức chiến đấu là biểu hiện tính
đảng, tính tiền phong của Đảng; biểu hiện năng lực lãnh đạo của Đảng. Sức
chiến đấu là một căn cứ đánh giá chất lượng của tổ chức cơ sở đảng.
Lê Thanh Hà (2013), Đẩy mạnh công tác phát triển đảng trong công
nhân, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 18/9/2013. Tác giả đã luận giải làm rõ

tính cấp thiết đẩy mạnh công tác phát triển đảng trong công nhân. Chỉ ra
những thuận lợi, khó khăn và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh công tác phát
triển đảng trong công nhân bao gồm các vấn đề về công tác tư tưởng, công tác
tổ chức, công tác chính sách ,
Nguyễn Ngọc Lâm (2015), Tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng tổ
chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, Tạp chí Xây dựng Đảng, số
2+3/2015. Tác giả đã phân tích làm rõ quan điểm, chủ trương, giải pháp của
Đảng về nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội
ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay bao gồm tiếp tục quán triệt và thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khoá XII; xây dựng cấp uỷ, cán bộ chủ trì; ngăn chặn đẩy
lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay
Các công trình khoa học trên đã đi sâu nghiên cứu có hệ thống về
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức cơ sở
đảng. Các tác giả đã đi sâu phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn
đề nghiên cứu, trong đó đã khái quát, luận giải làm rõ một số vấn đề về quan
niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm, yêu cầu của nâng cao năng lực lãnh đạo toàn
diện của các tổ chức đảng ở một số loại hình đơn vị quân đội và một số doanh
nghiệp cụ thể; trên cơ sở đó xác định phương hướng, yêu cầu, những vấn đề
có tính nguyên tắc và đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực lãnh
7


đạo của các tổ chức đảng. Đây có thể xem là những tài liệu tham khảo bổ ích
đối với luận văn khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về năng lực lãnh đạo và
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh
Bạc Liêu.
* Một số sách tham khảo và bài báo khoa học:

Giáo trình tham khảo, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng trong thời kỳ mới Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; PGS Lê Văn
Dương (chủ biên); Nguyễn Văn Giang, Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng - thực trạng và giải pháp, Học viện Chính trị quốc
gia, Hà Nội, Thông tin chuyên đề 2007. Nguyễn Phi Long, Góp phần nâng cao
chất lượng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở các chi bộ, đảng bộ cơ sở,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 3 - 2009.
Các tài liệu tham khảo trên đã phân tích làm rõ đặc điểm, kinh nghiệm,
những yếu tố tác động đến hoạt động lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện
nay, đề xuất một số giải pháp có tính định hướng, nhằm từng bước nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của của Đảng, của các tổ chức cơ sở đảng,
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đản, hoàn
thành tốt vai trò lãnh đạo của mình. Từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các bài
báo khoa học đã nghiên cứu làm rõ vị trí, vai trò, yêu cầu có tính nguyên tắc và
một số giải pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Đó là những cứ liệu quan trọng
mà tác giả có thể kế thừa phát triển trong quá trình thực hiện đề tài luận văn.
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu, thấy rằng đã có những công trình
khoa học nghiên cứu về năng lực lãnh đạo và nâng cao năng lực của một số
loại hình tổ chức đảng. Tuy nhiên, với loại hình tổ chức đảng ở cơ quan Sở Thông tin và Truyền thông cấp tỉnh, cho đến nay chưa có công trình nào
đề cập một cách cơ bản, có hệ thống về nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu hiện nay với tư cách là
một đề tài nghiên cứu độc lập. Vì vậy, vấn đề mà tác giả lựa chọn nghiên
8


cứu trong luận văn không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải
pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông

tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về năng lực lãnh đạo và
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông
tỉnh Bạc Liêu.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, và rút ra một số kinh
nghiệm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền
thông tỉnh Bạc Liêu.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở
Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu năng lực lãnh đạo và nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông đối với ngành thông tin
và truyền thông của tỉnh Bạc Liêu. Các tư liệu, số liệu điều tra, khảo sát chủ
yếu từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng; các nghị quyết của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị về xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng.
9


* Cơ sở thực tiễn: Là hiện thực năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở
Thông tin và Truyền thông, thông qua nghiên cứu các văn kiện, nghị quyết
của Tỉnh uỷ Bạc Liêu, Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh Bạc Liêu; các báo cáo
tổng kết của tỉnh, huyện về phát triển thông tin và truyền thông và điều tra,

khảo sát thực tế của tác giả luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
của khoa học chuyên ngành và liên ngành, coi trọng các phương pháp: phân
tích, tổng hợp, logic, lịch sử, điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn, so sánh và
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân, Sở Thông tin và Truyền thông và các đoàn thể
chính trị của tỉnh, huyện uỷ, uỷ ban nhân dân huyện, các đoàn thể chính trị
cấp huyện trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển ngành thông tin và
truyền thông. Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy, học tập môn xây dựng Đảng trong các trường chính trị tỉnh,
thành phố và trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết) kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục.

10


Chương 1
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
SỞ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG TỈNH BẠC LIÊU NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN
1.1. Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông và những vấn đề cơ bản
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và truyền thông
tỉnh Bạc Liêu
1.1.1. Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông và năng lực lãnh đạo
của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu
* Khái quát về tỉnh Bạc Liêu

Bạc Liêu là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, diện tích tự
nhiên là 2.585 km2, có bờ biển dài 56 km; tỉnh có 7 đơn vị hành chính gồm 6
huyện và 01 thành phố trực thuộc tỉnh; 64 xã, phường, thị trấn. Dân số gần
900.000 người, gồm 3 dân tộc chính là dân tộc Kinh, chiếm 89,45% dân số,
dân tộc Khơmer, chiếm 7,97% dân số, dân tộc Hoa, chiếm 2,52% dân số. Về
mặt lịch sử, vùng đất Bạc Liêu mới hình thành trên 200 năm. Do điều kiện đất
đai và cấu tạo dân cư buổi đầu, Bạc Liêu không giống các tỉnh miền Trung,
miền Bắc. Dân cư không hình thành từ “luỹ tre làng”, “cha truyền con nối”.
Dân cư Bạc Liêu đa số là dân “xiêu tán”, nghèo khổ “tha phương cầu thực”.
Họ định cư rải rác trên các gò đất cao, trên các bờ sông, các kinh xáng. Người
Kinh, người Khơ-me, người Hoa sống đan xen nhau, luôn tương trợ, đoàn kết
khi hoạn nạn, chân thành cởi mở, thích “làm ăn lớn”. Phong cách ứng xử
người dân Bạc Liêu mang tính cách nông dân thôn dã, chất phác, bộc trực,
dám phản kháng mạnh mẽ trước bất công xã hội.
Bạc Liêu là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Địa hình của
tỉnh Bạc Liêu tương đối bằng phẳng, có đất nông nghiệp và biển; chịu ảnh
hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa khô và mùa mưa rõ rệt. Bạc
11


Liêu có diện tích đất tự nhiên 257.094ha với 56km bờ biển và một ngư trường
rộng lớn có trữ lượng tôm, cua, cá khá dồi dào. Nhiều cửa sông, kênh rạch
thông ra biển, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển. Ở Bạc Liêu,
có 3 dòng văn hoá đan xen nhau đó là: văn hoá Kinh, văn hoá Khơ-me, văn
hoá người Hoa. Hàng năm trên vùng đất Bạc Liêu có rất nhiều lễ hội.
Hệ thống chính trị tỉnh Bạc Liêu được thành lập theo quy định của Hiến
pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, bao gồm: Tổ chức đảng, chính quyền
địa phương, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội…hoạt động theo
cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Những năm đất
nước đổi mới, hệ thống chính trị tỉnh, huyện, xã ở tỉnh Bạc Liêu được xây

dựng ngày càng vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả là nhân tố quyết
định những thành tựu phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, xây dựng địa phương giàu đẹp, đảm bảo công bằng xã hội. Trong
những năm đất nước đổi mới, cấp uỷ, chính quyền tỉnh Bạc Liêu đã nhận thức
đúng vị trí, vai trò nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và sự lãnh đạo của Đảng đối
với xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Đề cao trách
nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nên
nhiệm vụ này đã đạt được kết quả khá tốt, góp phần vào bảo đảm sự ổn định
chính trị, phát triển kinh tế văn hoá, xã hội của tỉnh.
* Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu
Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu được thành lập từ năm
2008 trên cơ sở ngành Bưu chính, Viễn thông, thực hiện quản lý nhà nước các
lĩnh vực Bưu chính, Viễn thông, Báo chí xuất bản và Công nghệ thông tin.
Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu có chức năng:
Sở Thông tin và Truyền thông là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban
nhân dân tỉnh có chức năng tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý
nhà nước về: báo chí; xuất bản; bưu chính; viễn thông; tần số vô tuyến điện;
công nghệ thông tin; điện tử; phát thanh và truyền hình; thông tin đối ngoại;

12


bản tin thông tấn; thông tin cơ sở; hạ tầng thông tin truyền thông; quảng cáo
trên báo chí, trên môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích hợp
trên các sản phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin. Sở
Thông tin và Truyền thông có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản
riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Uỷ ban
nhân dân tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn,
nghiệp vụ của Bộ Thông tin và Truyền thông.

Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu có các nhiệm vụ:
Trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh: Dự thảo quyết định, chỉ thị; quy
hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, 05 năm và hàng năm, chương trình, đề án,
dự án về thông tin và truyền thông; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện
nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước, phân cấp quản lý, xã hội hoá về các
lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước được giao;
Trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh: Dự thảo quyết định thành lập, sáp
nhập, giải thể các đơn vị thuộc Sở theo quy định của pháp luật; Dự thảo quyết
định, chỉ thị thuộc thẩm quyền ban hành của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh
về lĩnh vực thông tin và truyền thông. Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực
hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch phát triển, các
chương trình, đề án, dự án, quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn quốc gia, định mức
kinh tế - kỹ thuật về thông tin và truyền thông đã được phê duyệt; tổ chức
thực hiện công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các
lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Sở.
Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt
động báo chí trên địa bàn tỉnh (bao gồm báo chí in, báo điện tử, phát thanh,
truyền hình, bản tin thông tấn).
Xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển hoạt động thông tin cơ sở;
các quy định về hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động phục vụ các nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của Đảng và Nhà nước trên địa bàn tỉnh.
13


Tiếp nhận, thẩm định và cấp, thu hồi, sửa đổi, bổ sung, gia hạn giấy phép thiết
lập trang thông tin điện tử tổng hợp cho các tổ chức, doanh nghiệp trên địa
bàn. Hướng dẫn, kiểm tra, chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông triển khai
công tác bảo đảm an toàn và an ninh thông tin trên địa bàn theo quy định của
pháp luật. Chỉ đạo các Phòng Văn hoá và Thông tin việc thanh tra, kiểm tra
hoạt động và xử lý vi phạm của đại lý và người sử dụng dịch vụ viễn thông,

Internet trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án
về công nghệ thông tin, điện tử; Xây dựng quy chế quản lý, vận hành, đảm
bảo kỹ thuật, an toàn thông tin; hướng dẫn sử dụng cơ sở hạ tầng thông tin
phục vụ hoạt động chỉ đạo, điều hành, tác nghiệp của Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan quản lý, duy trì, nâng cấp,
đảm bảo kỹ thuật, an toàn thông tin cho hoạt động Cổng thông tin điện
tử/trang thông tin điện tử (website) của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; hướng dẫn
các đơn vị trong tỉnh thống nhất kết nối theo sự phân công của Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh. Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước đối
với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, các hội và các
tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực thông tin và truyền thông trên
địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật.
Giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc tổ chức công tác thông tin
liên lạc phục vụ các cơ quan Đảng, Nhà nước, phục vụ quốc phòng, an ninh,
đối ngoại; thông tin phòng chống giảm nhẹ thiên tai; thông tin về an toàn cứu
nạn, cứu hộ và các thông tin khẩn cấp khác trên địa bàn tỉnh theo quy định
của pháp luật.
Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư chuyên
ngành về thông tin và truyền thông ở địa phương theo các quy định của pháp
luật về đầu tư, xây dựng và theo phân công, phân cấp của Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh.
14


Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất tình hình thực hiện
nhiệm vụ được giao theo quy định của Uỷ ban nhân cấp tỉnh và của Bộ Thông
tin và Truyền thông; Thực hiện các nhiệm vụ khác do Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh giao và theo quy định của pháp luật.
Bộ máy tổ chức của Sở Thông tin và Truyền thông có Giám đốc, ba

phó giám đốc Sở. Các đơn vị trực thuộc Sở gồm: Văn Phòng Sở; Thanh Tra
Sở; Phòng Bưu chính, viễn thông; Phòng Công nghệ thông tin; Phòng Báo
chí, Xuất bản; Phòng Kế hoạch Tài chính; Tung tâm Công nghệ thông tin và
Truyền thông (đơn vị sự nghiệp).
* Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu
Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu được thành lập
theo quy định của Điều lệ Đảng và hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương.
Đảng bộ Sở được thành lập vào ngày 01/8/2008, trực thuộc Đảng uỷ Khối các
cơ quan tỉnh Bạc Liêu bao gồm 3 chi bộ trực thuộc: Chi bộ 1, Chi bộ 2, Chi
bộ 3. Chi bộ 1 bao gồm: Văn phòng Sở, Phòng Bưu chính Viễn thông. Chi bộ
2 bao gồm: Phòng CNTT, Phòng Kế hoạch Tài chính, Phòng Báo chí Xuất
bản, Thanh tra Sở. Chi bộ 3: Trung tâm CNTT và TT. Ban chấp hành Đảng
bộ Sở (Đảng uỷ) có 7 đồng chí. Ban Thường vụ Đảng uỷ có 3 đồng chí.
Theo Quy định số 98-QĐ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2004 của Ban Bí
Thư về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở cơ quan, Đảng bộ Sở
Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu có chức năng là hạt nhân chính trị:
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ, công tác của Sở; xây dựng đảng bộ và xây dựng
Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu vững mạnh.
Đảng bộ Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu có các
nhiệm vụ:
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, an ninh quốc phòng. Lãnh đạo,
giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao, không ngừng cải tiến nâng cao hiệu quả, hiệu suất công tác; theo
15


dõi, góp ý kiến với lãnh đạo cơ quan những vấn đề theo chức năng, nhiệm vụ
để thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan. Lãnh đạo cơ
quan thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, bảo đảm đoàn kết nội bộ, đề cao cảnh giác, giữ gìn bí mật của Đảng,

Nhà nước.
Lãnh đạo công tác tư tưởng. Lãnh đạo làm tốt công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và công chức quán triệt và chấp hành chủ
trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật Nhà nước, nhiệm vụ của cơ
quan, nâng cao kiến thức, năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng viên.
Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ. Cấp uỷ tham gia xây dựng và lãnh
đạo thực hiện chủ trương về kiện toàn tổ chức, sắp xếp bộ máy và quy chế
hoạt động của cơ quan. Tham gia ý kiến với ban cán sự đảng, đoàn và lãnh
đạo cơ quan về đề bạt, bổ nhiệm, điều động, khen thưởng, kỷ luật đối với cán
bộ, đảng viên thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan. Thực hiện công tác bảo
vệ chính trị nội bộ theo phân cấp quản lý cán bộ của mình.
Lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội trong cơ quan xây dựng tổ
chức vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều
lệ của mỗi đoàn thể.
Xây dựng đảng bộ, chi bộ đảng trong sạch, vững mạnh, thực hiện đúng
Điều lệ Đảng và các quy định của Trung ương về nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt đảng; bồi dưỡng cấp uỷ viên bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực
lãnh đạo tổ chức cơ sở đảng; chăm lo công tác phát triển Đảng; nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thường xuyên kiểm tra, giữ gìn kỷ luật
đảng, phát hiện vi phạm, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện về tư tưởng và
việc làm trái với đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, chống tác phong quan liêu, tư tưởng cục bộ, gia trưởng, vô tổ
chức, vô kỷ luật, suy thoái về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, lãng phí và các
tệ nạn tiêu cực khác của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
16


* Đặc điểm Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh
Một là, Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu là loại
hình tổ chức đảng trực thuộc Đảng uỷ Khối các cơ quan. Sở Thông tin và

Truyền thông là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh có chức
năng tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: báo chí;
xuất bản; bưu chính; viễn thông; tần số vô tuyến điện; công nghệ thông tin;
điện tử; phát thanh và truyền hình; thông tin đối ngoại; bản tin thông tấn;
thông tin cơ sở; hạ tầng thông tin truyền thông; quảng cáo trên báo chí, trên
môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích hợp trên các sản
phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin theo đúng pháp luật
của Nhà nước. Vì vậy việc thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển ngành thông tin và truyền
thông tỉnh Bạc Liêu.. Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm
lãnh đạo cơ quan thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ; giáo dục, rèn luyện cán
bộ, đảng viên, phát huy quyền làm chủ của quần chúng, tích cực, chủ động
đóng góp ý kiến vào xác định và tổ chức thực hiện các chủ trương, kế hoạch
công tác của cơ quan; tham gia xây dựng, cải tiến lề lối làm việc, đấu tranh
chống tệ quan liêu, giấy tờ, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên là thủ trưởng
cơ quan chấp hành đường lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, công
tác tổ chức và cán bộ theo quyền hạn.
Hai là, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền
thông đa dạng về cương vị công tác, chuyên môn nghiệp vụ. Nhìn chung đội
ngũ cán bộ, đảng viên Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông có phẩm chất
chính trị vững vàng, có trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, kinh
nghiệm và vốn sống. Tuy nhiên giữa họ có sự khác nhau về cương vị công
tác. Một bộ phận lớn đảm nhiệm các chức danh cán bộ, công chức, chuyên
môn nghiệp vụ ở các tổ chức trong cơ quan. Có người giữ cương vị là cán bộ
chủ chốt về đảng, các cơ quan Sở; có người là công chức chuyên môn. Đặc
17


điểm này đòi hỏi việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin
và Truyền thông phải hết sức cụ thể, phải xuất phát từ chức trách, nhiệm vụ,

chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, đảng viên để xác định đúng các giải pháp,
biện pháp nâng cao năng lực của các bộ phận cho phù hợp.
Ba là, về trình độ học vấn, bản lĩnh chính trị, về kinh nghiệm và vốn
sống, tuổi đời của đội ngũ đảng viên của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền
thông tương đối đa dạng. Số cán bộ, đảng viên đã qua các cương vị lãnh đạo,
quản lý, được tu dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn hoạt động chính trị - xã hội,
nên ở họ có khả năng tự ý thức được về bản thân. Tuy nhiên, ở đội ngũ này dễ
nảy sinh tư tưởng công thần, chủ quan. Nhìn nhận cấp dưới đôi khi mang theo
lề thói gia trưởng, độc đoán, dựa vào kinh nghiệm cũ, thiếu phương pháp tiếp
cận thế hệ. Những cán bộ, đảng viên trẻ, họ chưa trải qua thử thách nhiều trong
thực tiễn chính trị - xã hội, tính kỷ luật, tính tự kiềm chế, khả năng làm chủ bản
thân, ý thức tự phê bình và phê bình, kỹ năng đánh giá hành vi, mặt mạnh, mặt
yếu của bản thân còn nhiều mặt hạn chế. Trong cách tư duy thiếu biện chứng,
mềm dẻo. Trong giao tiếp, đánh giá thiếu tế nhị hoặc theo cảm tính, che giấu
khuyết điểm cho nhau.
Bốn là, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên Đảng bộ Sở Thông tin và
Truyền thông có gia đình cư trú tại địa phương, là địa bàn sông nước miền
Tây, trình độ dân trí thập, nhiều vùng đặc biệt khó khăn, đã và đang đặt ra
nhiều vần đề đối với sự lãnh đạo của đảng bộ sở. Điều này một mặt tạo điều
kiện thuận lợi cho việc nhận xét, đánh giá, học tập lẫn nhau; nhưng cũng gây
trở ngại, do những thói quen tập tục lạc hậu. Trong một số cán bộ còn tàn dư
của quan điểm cũ, của thế giới quan, phương pháp xem xét đánh giá không
khoa học. Đó là, trong quan hệ ứng xử, nhận xét đánh giá thường bị chi phối
bởi quan hệ đồng hương, gia đình, họ hàng, biểu hiện thành bệnh cục bộ địa
phương. Trong tự phê bình và phê bình dễ mang theo tâm lý “không vạch áo
cho người xem lưng”, do đó trong nhận xét đánh giá thường có hiện tượng
18


thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh, thực hiện phương

châm “dĩ hoà vi quý”, “chín bỏ làm mười”, không đụng đến người khác, nếu
người khác không đụng đến mình. Đây là một trong những nguyên nhân gây
nên tình trạng mất đoàn kết ở một số đơn vị. Vì vậy, Đảng bộ Sở Thông tin và
Truyền thông cần thực hiện nghiêm Quy định 76 của Bộ Chính trị, thực hiện
tốt việc phối hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương nơi gia đình cán bộ,
đảng viên cư trú trong ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
* Quan niệm năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền
thông tỉnh Bạc Liêu
Năng lực hiểu theo nghĩa chung nhất đó là "khả năng, điều kiện chủ
quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó” [47,tr.687].
Năng lực lãnh đạo của Đảng là tổng hợp những khả năng, điều kiện chủ quan
của Đảng được tạo nên từ những yếu tố nội sinh, từ sự phấn đấu của bản thân
Đảng cũng như mỗi tổ chức đảng để thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ
lãnh đạo. Thực chất hoạt động lãnh đạo là hoạt động nghiên cứu vận dụng lý
luận, quan điểm vào thực tiễn, đề ra chủ trương, đường lối, tuyên truyền vận
động, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện đường lối đã đề ra. Hoạt
động lãnh đạo của tổ chức đảng diễn ra theo một quy trình thống nhất, chặt
chẽ, liên hoàn. Năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng chính là khả năng, điều
kiện của tổ chức đảng (trình độ tri thức, kinh nghiệm, năng lực vận dụng, tổ
chức hoạt động thực tiễn...) trong việc thực hiện các khâu, các bước của quy
trình lãnh đạo nhằm đạt được kết quả cao trong thực tiễn.
Từ quan điểm và phương pháp tiếp cận trên có thể quan niệm: Năng lực
lãnh đạo Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu là trình độ,
khả năng, sức chiến đấu của đảng bộ có thể huy động để quán triệt, vận dụng
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp

19



trên để đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo của Đảng bộ, nhằm lãnh đạo
thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng bộ đối với ngành thông tin và
truyền thông trong toàn tỉnh; xây dựng đảng bộ TSVM, xây dựng cơ quan
VMTD, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc
Liêu được cấu thành bởi các yếu tố cơ bản dưới đây:
Thứ nhất, trình độ, khả năng của cấp uỷ, cấp uỷ viên các cấp trong thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Đây là là yếu tố cơ bản quan trọng hàng
đầu có ý nghĩa quyết định tạo nên năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông
tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu. Đội ngũ bí thư, cấp uỷ là những người chủ
trì, là lực lượng nòng cốt trong xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết là
trung tâm đoàn kết, tiêu biểu cho trí tuệ và sức mạnh của đảng bộ. Mọi hoạt
động xây dựng đảng bộ, các khâu, các bước trong tiến trình lãnh đạo của đảng
bộ đều có sự đề xuất chỉ đạo, tổ chức điều hành, quản lý, kiểm tra của cấp uỷ.
Các cấp uỷ là người trực tiếp dự thảo, hoàn chỉnh nghị quyết, quán triệt, tổ
chức thực hiện nghị quyết, nắm tình hình, kết quả, sơ kết, tổng kết rút kinh
nghiệm, duy trì các nguyên tắc tổ chức, chế độ sinh hoạt đảng, xây dựng đội
ngũ cán bộ đảng viên, giải quyết các mối quan hệ công tác. Nếu cấp uỷ thường
xuyên được kiện toàn về số lượng, cơ cấu, có sự đoàn kết thống nhất vững
chắc, các cấp uỷ viên có phẩm chất, năng lực tốt, có uy tín và sức chiến đấu cao
sẽ là tiền đề, điều kiện tiên quyết để xây dựng đảng bộ TSVM, nhân tố quyết
định tạo nên năng lực lãnh đạo của đảng bộ.
Thứ hai, trình độ, khả năng của đội ngũ đảng viên. Đội ngũ đảng viên
trong đảng bộ có trình độ, khả năng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình là cơ
sở trực tiếp nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng bộ. Ngược lại, đảng bộ
TSVM là cái nôi để xây dựng đội ngũ đảng viên có chất lượng cao. Theo đó,
đội ngũ đảng viên là lực lượng tạo lên sức mạnh cho Đảng, quyết định sự
thắng lợi của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đảng mạnh là do chi
20



bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt" [27, tr.96]. Năng lực lãnh đạo
của đảng bộ suy cho cùng là do chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên tạo nên.
Phẩm chất, năng lực của đội ngũ đảng viên có vai trò rất quan trọng tạo nên
năng lực lãnh đạo của đảng bộ. Vì vậy, trong quá trình nâng cao năng lực lãnh
đạo của chi bộ nhất thiết phải coi trọng nâng cao phẩm chất, năng lực toàn
diện, nhất là bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy lý luận và tổ chức hoạt động
thực tiễn cho đội ngũ đảng viên. Cùng với phẩm chất, năng lực người đảng
viên, số lượng và cơ cấu đội ngũ đảng viên cũng góp phần quan trọng tạo nên
năng lực lãnh đạo của đảng bộ. Nếu đảng bộ có số lượng cơ cấu đội ngũ đảng
viên thích hợp, bố trí, sắp xếp hợp lý, đây là yếu tố quan trọng để tạo nên
năng lực lãnh đạo của đảng bộ.
Thứ ba, việc duy trì và thực hiện có chất lượng, hiệu quả nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng trong đảng bộ và các chi bộ. Chấp hành nghiêm túc, duy
trì chặt chẽ, và nâng cao hiệu quả thực hiện các nguyên tắc, tổ chức sinh hoạt
đảng sẽ đảm bảo đảng bộ có sự đoàn kết, thống nhất cao, phát huy dân chủ, tăng
cường kỷ luật, kỷ cương làm trong sạch nội bộ; tập trung và phát huy được trí
tuệ của tập thể chi bộ, vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nâng
cao chất lượng sinh hoạt, đảm bảo cho đảng bộ thực sự trở thành "pháo đài chiến
đấu của Đảng cơ sở”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng Đảng phải được tổ chức
chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh, thống nhất về ý chí và hành động. Đây là
nguồn gốc tạo lên sức mạnh vô địch của Đảng.
Chấp hành nghiêm nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng là động lực thúc
đẩy cấp uỷ, cán bộ, đảng viên nâng cao ý thức trách nhiệm, phát huy tốt vai
trò trong xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng bộ; đấu tranh kiên
quyết với những hiện tượng buông lỏng, vi phạm nguyên tắc, chế độ. Khi các
nguyên tắc, chế độ sinh hoạt đảng được duy trì chặt chẽ thực hiện nghiêm
chỉnh, có nền nếp, sẽ tạo tiền đề giữ vững, và không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo của đảng bộ.

21


* Biểu hiện cụ thể năng lực lãnh đạo Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền
thông tỉnh Bạc Liêu
Năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc
Liêu biểu hiện cụ thể ở khả năng quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên để vận dụng, cụ thể hoá đề
ra nghị quyết chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát, trúng với thực tiễn nhiệm vụ
của sở.
Năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc
Liêu được biểu hiện trực tiếp trong tổ chức thực hiện nghị quyết của đảng bộ,
đảng uỷ hàng tháng, từng năm. Đây là biểu hiện rất rõ khả năng, năng lực lãnh
đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu. Cho dù có nghị
quyết lãnh đạo có sát đúng, nhưng tổ chức thực hiện không tốt thì nghị quyết
lãnh đạo cũng không trở thành hiện thực. Do đó năng lực lãnh đạo của Đảng bộ
Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu phải được thể hiện ở tổ chức thực
hiện thắng lợi nghị quyết. Phải thông qua lãnh đạo công tác chính trị tư tưởng, sử
dụng các hình thức, phương pháp thích hợp để phổ biến, quán triệt nghị quyết,
phát huy tốt vai trò của đội ngũ cán bộ đảng viên, bảo đảm thực hiện thắng lợi
nghị quyết. Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, công tác sơ kết, tổng kết,
rút kinh nghiệm lãnh đạo.
Năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc
Liêu biểu hiện trong xây dựng xây dựng đảng bộ TSVM, xây dựng Sở
VMTD. Năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh
Bạc Liêu được thể hiện trước hết ở trình độ hiểu biết những vấn đề cơ bản về
Đảng, công tác xây dựng, đổi mới chỉnh đốn Đảng; ở khả năng quán triệt nghị
quyết, chỉ thị hướng dẫn của cấp trên và liên hệ, vận dụng vào xây dựng đảng
bộ; ở xây dựng, kiện toàn cấp uỷ, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên, xây

dựng chi bộ TSVM với xây dựng cơ quan VMTD.

22


1.1.2. Những vấn đề cơ bản về nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu
* Quan niệm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và
Truyền thông tỉnh Bạc Liêu
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông
tỉnh Bạc Liêu là tổng thể hoạt động của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp, cơ
quan ban đảng của tỉnh, đội ngũ đảng viên và các lực lượng tham gia tác
động vào các yếu tố cấu thành năng lực lãnh đạo, làm cho các yếu tố ấy có
sự chuyển biến về chất, tạo nên bước phát triển mới về năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu
Quan niệm trên đã chỉ rõ:
Mục đích của nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và
Truyền thông tỉnh Bạc Liêu là góp phần xây dựng đảng bộ sở vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng; bảo
đảm cho Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu thực sự là hạt
nhân chính trị, lãnh đạo cơ quan hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Chủ thể nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và
Truyền thông tỉnh Bạc Liêu là đảng uỷ khối cơ quan tỉnh, đảng uỷ, cấp uỷ, tổ
chi bộ, đảng viên của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông.
Đối tượng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và
Truyền thông tỉnh Bạc Liêu bao gồm đảng uỷ, cấp uỷ, chi bộ, đảng viên của
Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông
Nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và
Truyền thông tỉnh Bạc Liêu là nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng
lực của cấp uỷ, đội ngũ cấp uỷ viên, cán bộ, đảng viên; củng cố kiện toàn tổ

chức, xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết; thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; duy trì nền nếp chế độ sinh

23


hoạt đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; phát
triển đảng viên mới.
Lực lượng tham gia Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông là các tổ
chức quần chúng tham gia xây dựng Đảng theo đúng quy định của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
Hình thức, biện pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông
tin và Truyền thông là tổng thể các hình thức, biện pháp và sự kết hợp chặt
chẽ công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác chính sách nhằm thực
hiện mục đích, nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông
tin và Truyền thông đã xác định.
Các hình thức, biện pháp công tác tư tưởng bao gồm tổ chức cho
đảng viên nghiên cứu, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, các nghị
quyết, chỉ thị quy định, hướng dẫn của cấp trên về công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng. Tổ chức bồi dưỡng cho cấp uỷ viên, bí thư chi bộ, các lớp
đảng viên mới, đối tượng Đảng, đoàn viên thanh niên, đoàn viên công đoàn
ưu tú. Nắm bắt tâm tư, tình cảm tình hình nhận thức của đảng viên và quần
chúng để có biện pháp giải quyết kịp thời. Thu thập ý kiến đóng góp của
cán bộ, đảng viên và quần chúng từ đó bổ sung vào chủ trương, nghị quyết
lãnh đạo; đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch bảo
vệ nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng ; kết hợp công tác tư tưởng với công
tác tổ chức, hướng dẫn hành động của đảng viên; kết hợp việc giáo dục rèn
luyện, quản lý đảng viên của tổ chức đảng với tự giáo dục của đảng viên.
Các hình thức, biện pháp công tác tổ chức bao gồm củng cố kiện
toàn cấp uỷ; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, các chế độ

quy định về tự phê bình và phê bình; nâng cao chất lượng sinh hoạt; giáo
dục, quản lý, rèn luyện đảng viên; phát triển đảng viên; tiến hành công tác
cán bộ; tiến hành công tác kiểm tra, giám sát; công tác bảo vệ chính trị nội
bộ; công tác vận động quần chúng, đổi mới phương thức lãnh đạo.
24


Các hình thức, biện pháp công tác chính sách là quán triệt và thực
hiện Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của trên về khen thưởng đối
với tổ chức đảng và đảng viên như thực hiện các hình thức khen thưởng;
thẩm quyền khen thưởng; tiêu chuẩn, đối tượng và thủ tục khen thưởng...
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng uỷ khối cơ quan tỉnh. Đảng uỷ
khối cơ quan là cấp trên trực tiếp có vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn,
giám sát, kiểm tra, giúp đỡ Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông kiện toàn,
bồi dưỡng nâng cao chất lượng cấp uỷ đảng, đội ngũ cán bộ đảng viên, hướng
dẫn, giám sát, kiểm tra việc chấp hành các nguyên tắc tổ chức, chế độ sinh
hoạt đảng. Vì vậy, trong quá trình nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ
Sở Thông tin và Truyền thông cần coi trọng phát huy vai trò, trách nhiệm của
đảng uỷ cấp trên, tranh thủ sự chỉ đạo, giúp đỡ để không ngừng củng cố, nâng
cao năng lực lãnh đạo của đảng bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
* Những vấn đề có tính nguyên tắc nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ sở Thông tin và Truyền thông
tỉnh Bạc liệu cần quán triệt những vấn đề có tính nguyên tắc sau:
Một là, quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng vào nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền
thông tỉnh Bạc Liêu.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng kim chỉ nam cho hành động; tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và

nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra
Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo phù hợp với
yêu cầu nguyện vọng của nhân dân. Đó chính là bản chất cách mạng và khoa
học của Đảng ta, đồng thời cũng là phương hướng chính trị chỉ đạo nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông.
25


Nội dung vấn đề có tính nguyên tắc này chỉ rõ, nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông lấy học thuyết Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng Đảng
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho các chủ trương, giải pháp nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông. Nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông phải nhằm bảo đảm
cho tổ đảng bộ là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức
chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất, xây dựng Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền
thông vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức không ngừng
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu.
Hai là, gắn nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở với nâng cao
năng lực quản lý điều hành của thủ trưởng cơ quan và xây dựng các tổ chức
chính trị - xã hội ở Sở Thông tin và Truyền thông vững mạnh.
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có chức năng lãnh đạo Nhà nước
và các tổ chức chính trị - xã hội. Theo đó, Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền
thông là người trực tiếp lãnh đạo bộ máy quản lý, điều hành, thủ trưởng cơ
quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan. Thực tiễn cho thấy, năng
lực của bộ máy quản lý điều hành ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực lãnh đạo
của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông. Nếu bộ máy quản lý điều hành
yếu kém thì không thể hiện thực hoá chủ trương, giải pháp lãnh đạo của Đảng
bộ Sở Thông tin và Truyền thông. Vì vậy phải gắn chặt việc nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông với nâng cvao năng

lực quản lý, điều hành của thủ trưởng cơ quan. Ở Sở Thông tin và Truyền
thông có các tổ chức quần chúng: Đoàn thanh niên, Công đoàn, phụ nữ hoạt
động theo pháp luật và Điều lệ của mỗi tổ chức. Những tổ chức này có vai trò
quan trọng trong tổ chức thực hiện nghị quyết của cấp uỷ, tổ chức đảng, tham
gia xây dựng Đảng. Vì vậy nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Sở phải

26


×