Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý đổi mới PHƯƠNG PHÁP dạy học môn NGỮ văn ở các TRƯỜNG TRUNG học cơ sở QUẬN hà ĐÔNG, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.48 KB, 109 trang )

MỤC LỤC
MỞ ÐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ ĐỔI MỚI PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG
HỌC CƠ SỞ
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2. Nội dung quản lý đổi mới phương pháp dạy học môn
Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý đổi mới phương pháp
dạy học ở các trường trung học cơ sở ở quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ ĐỔI MỚI PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở CÁC
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN HÀ
ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát giáo dục ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
2.2. Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn
ở các trường trung học cơ sở quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội
2.3. Thực trạng quản lý đổi mới phương pháp dạy học môn
Ngữ văn ở các trường trung cơ sở quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội
Chương 3. YÊU CẦU, BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN HÀ
ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Yêu cầu quản lý đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ
văn ở các trường trung cơ sở quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội
3.2. Biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học môn
Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở quận Hà Đông,


thành phố Hà Nội
3.3. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

3
11
11
19
24

28
28
33
51

66
66
69
85
93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

96

PHỤ LỤC

99



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phương pháp dạy học là một trong những thành tố quan trọng của quá
trình dạy học, có vai trò quyết định đối với chất lượng, hiệu quả quá trình dạy
học. Trong nhà trường hiện đại, phương pháp dạy học có sứ mạng tạo ra môi
trường, điều kiện và các cơ hội để người học hoạt động, nhận thức, trải
nghiệm, giao tiếp, làm việc hợp tác, cảm nhận và tư duy chủ động trước
những vấn đề học tập để đạt được hiệu quả nhất mục tiêu dạy học.
Hiện nay, trong xu thế đổi mới giáo dục, đổi mới PPDH là đòi hỏi
khách quan, là một nội dung chủ yếu trong đổi mới “căn bản, toàn diện về
giáo dục” ở các nhà trường. Nghị quyết Đại hội XII đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh
mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp, bậc
học” [8, tr.131]. “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học hình
thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo
đảm trung thực, khách quan” [9, tr.117].
Đổi mới PPDH không phải chỉ là hoạt động của giáo viên và học sinh,
mà hiệu quả của nó phụ thuộc rất nhiều vào công tác quản lý. Các nhà quản
lý có vai trò quan trọng việc lập kế hoạch, triển khai thực thi, kiểm tra đánh
giá hoạt động đổi mới PPDH trong nhà trường. Những hoạt động chỉ từ phía
các nhà quản lý như: quản lý hoạt động dạy học của giáo viên và học sinh, tổ
chức viết sáng kiến kinh nghiệm; quản lý sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học;
tổ chức các hội giảng, thi giáo viên giỏi, học sinh giỏi,… có ảnh hưởng trực
tiếp đến đổi mới PPDH trong nhà trường.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, trung học cơ sở có vị trí quan
trọng, là cơ sở nền tảng vững chắc cho việc hình thành và phát triển toàn diện
nhân cách học sinh cả về kiến thức, kỹ năng và thái độ để học tiếp bậc học
cao hơn và hòa nhập xã hội hiện đại. Để đáp ứng mục tiêu giáo dục của trung
học cơ sở cần phải đổi mới toàn diện quá trình dạy học trong đó đổi mới
PPDH được xem là vấn đề cốt lõi.

3


Trong chương trình giáo dục ở bậc trung học cơ sở, môn Ngữ văn có
vị trí rất quan trọng, là môn học chủ yếu, chiếm nhiều thời lượng trong
chương trình giáo dục. Dạy học môn Ngữ văn có mục đích giúp người học
có kĩ năng giao tiếp với việc sử dụng thành thạo 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói,
đọc, viết. Môn Ngữ văn ở trường THCS trang bị những kiến thức phổ thông,
cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ (trọng tâm là tiếng Việt) và
văn học (trọng tâm là văn học Việt Nam), phù hợp với trình độ phát triển của
lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”. Hình thành và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt,
tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ…. Bồi dưỡng tinh thần, tình cảm như
tình yêu tiếng Việt, yêu thiên nhiên, gia đình, lòng tự hào dân tộc…
Nhận thức về vị trí, vai trò của PPDH và sự cần thiết đổi mới PPDH nói
chung, đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng; những năm qua
Phòng Giáo dục - Đào tạo quận Hà Đông và các trường THCS trên địa bàn
Quận luôn quan tâm đến đổi mới PPDH môn Ngữ văn và đã thu được những
kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở các
trường THCS trên địa bàn Quận hiệu quả chưa cao, chưa tạo ra những chuyển
biến căn bản về cách dạy, cách học của giáo viên và học sinh. Những hạn chế
trong đổi mới PPDH nói trên do nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên
nhân cơ bản là công tác quản lý đổi mới PPDH còn tồn tại những hạn chế bất
cập. Biểu hiện: Nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số giáo viên và cán
bộ quản lý giáo dục chưa thực sự tốt; một số trường chưa có kế hoạch khoa
học chặt chẽ trong đổi mới PPDH; việc chỉ đạo đổi mới PPDH và kiểm tra,
đánh giá đổi mới PPDH của các nhà trường chưa thường xuyên. Điều này đòi
hỏi cần phải có những biện pháp đồng bộ trong quản lý đổi mới PPDH dạy
học nói chung, dạy học môn Ngữ văn nói riêng, nhằm mang lại hiệu quả đổi
mới PPDH ở các trường THCS trên địa bàn quận Hà Đông.

4


Đổi mới PPDH và quản lý đổi mới PPDH đã thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, quản lý đổi mới
PPDH môn Ngữ văn ở các trường THCS quận Hà Đông chưa có công trình
nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể.
Xuất phát từ những lý do cơ bản trên đây, chúng tôi chọn: “Quản lý
đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu của luận văn tốt
nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện nay, có rất nhiều các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
về đổi mới PPDH và quản lý đổi mới PPDH.
Các tác giả: Nguyễn Cảnh Toàn, Trần Đình Kiểm, Đặng Thành Hưng,
Phan Trọng Luận, Hồ Ngọc Đại,… đã nhiều công trình nghiên cứu về đổi mới
PPDH. Các công trình đã làm rõ sự cần thiết phải đổi mới PPDH trong xu thế
đổi mới giáo dục; làm rõ các mô hình lý thuyết về các PPDH cụ thể, đặc biệt
là các PPDH hiện đại và cách thức sử dụng các PPDH trong quá trình dạy học
nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
Tác giả Đặng Thành Hưng (2002), với cuốn sách: “Dạy học hiện đại –
Lý luận – Biện pháp – Kỹ thuật” đã đề cập đến nhiều vấn đề về lý luận dạy
học trong đó có phương pháp dạy học. Tác giả đã đề cập đến những vấn đề cơ
bản về lý thuyết của các phương pháp dạy học; làm rõ mô hình các phương
pháp dạy học truyền thống và hiện đại.
Tác giả Thái Duy Tuyên (2008) với cuốn sách: “PPDH truyền thống
và đổi mới” đã đề cập đến nhiều vấn đề về đổi mới PPDH trong các nhà
trường hiện nay, đề cập đến vấn đề tái hiện và sáng tạo trong dạy học, tích
cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh,… Đặc biệt, ở chương 16, tác giả
đã đi sâu nghiên cứu làm rõ vai trò của hiệu trưởng về đổi mới PPDH ở các

nhà trường. Cụ thể, tác giả đã làm rõ sự cần thiết cần phải quản lý hoạt động
5


đổi mới PPDH trong các trường; bản chất, nội dung quản lý đổi mới PPDH
trong nhà trường và vai trò của hiệu trưởng trong quản lý đổi mới PPDH
trong các nhà trường.
Trong cuốn sách “Lý thuyết phương pháp dạy học” (2012), các tác giả
Đặng Thành Hưng – Trịnh Thị Hồng Hà – Nguyễn Khải Hoàn – Trần Vũ
Khánh đã đề cập đến nhiều vần đề về lý thuyết phương pháp dạy học. Các tác
giả đã đi sâu nghiên cứu làm rõ các vấn đề như: khái niệm, cấu trúc chung của
phương pháp dạy học; các kiểu và mô hình phương pháp dạy học phổ biến;
xét theo phương pháp học tập; các chiến lược học tập và dạy học hiệu quả.
Các tác giả Nguyễn Văn Cường - Bernd Meier (2012), với cuốn sách:
“Một số vấn đề chung về phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông
đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của đổi mới phương pháp dạy học ở trung
học phổ thông; một số quan điểm, phương pháp, kỹ thuật dạy học phát huy
tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Tác giả Phạm Quang Huân với bài viết: “Giải pháp quản lý nhằm nâng
cao chất lượng đổi mới PPDH ở trường phổ thông hiện nay”, đăng trên Tạp
chí Dạy và Học ngày nay (Số 2/2007) đã làm rõ sự cần thiết phải đổi mới
PPDH và sự cần thiết phải đổi mới PPDH ở trường phổ thông. Theo tác giả:
“Có rất nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan. Song nguyên nhân quan
trọng nhất là: công tác quản lý, từ cấp quản lý hệ thống tới quản lý ở các cơ sở
trường học còn nhiều bất cập. Phần đông các chủ thể quản lý (nhất là hiệu
trưởng nhà trường) chưa thực sự vào cuộc, thậm chí chưa được quan tâm
trong công tác chỉ đạo, quản lý”. Đồng thời, tác giả đã phân tích những khó
khăn ảnh hưởng tới quá trình đổi mới PPDH và đề xuất các giải pháp tổ chức,
quản lý nhằm nâng cao chất lượng quá trình đổi mới PPDH ở trường phổ
thông hiện nay.

Cùng với các công trình nghiên cứu của các tác giả trên, còn nhiều luận
văn, luận án đề cập đến vấn đề quản lý đổi mới PPDH. Chẳng hạn như: Luận
6


văn với đề tài “Những biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm đổi mới
PPDH ở các trường THPT tại Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh”
của tác giả Lê Thành Hiếu, năm 2006; “Những biện pháp cải tiến quản lý hoạt
động dạy học của Hiệu trưởng trường tiểu học quận Tân Phú, Thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn phát triển hiện nay” của tác giả Trần Thị Nga, năm
2006; “Những biện pháp quản lý đổi mới hoạt động dạy học của Hiệu trưởng
các trường THCS huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ” của tác giả Ngô Hoàng
Gia, năm 2007; “Biện pháp quản lý đổi mới PPDH của hiệu trưởng ở Trường
Trung cấp Kinh tế - Công nghệ Cai Lậy” của tác giả Nguyễn Văn Khởi
năm 2010, “Quản lý đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn của các
trường THCS thuộc Nam Từ Liêm, Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thị Phương
Thảo năm 2015,…
Những công trình nghiên cứu trên của các tác giả đã đề cập PPDH qua
từng giai đoạn và thời kỳ phát triển đất nước. Tiếp nhận, củng cố và hoàn
thiện đổi mới PPDH nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, trình độ giảng dạy
của GV và hiệu quả tiếp thu kiến thức của HS. Các công trình của các tác giả
trên, ít nhiều có liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài; tuy nhiên chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu quản lý đổi mới phương pháp dạy học môn
Ngữ văn ở các THCS quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Đề tài “Quản lý đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở các
trường trung học cơ sở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội” đi sâu phân tích,
đánh giá các đặc điểm, nội dung quản lý đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở các
trường THCS, thực trạng quản lý đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở các trường
THCS và đề xuất các biện pháp quản lý đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở các
trường THCS quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn; đề xuất các
7


biện pháp quản lý, nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động đổi mới PPDH,
nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở các trường THCS quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý đổi mới PPDH ở bậc THCS.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở
các trường THCS quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất các biện pháp quản lý đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở các
trường THCS quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở các trường THCS quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở các trường THCS quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu quản lý đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở các trường THCS
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Phạm vi điều tra, khảo sát là các cán bộ quản lý giáo dục, các giáo viên
và học sinh ở các trường THCS quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Các số liệu được sử dụng từ năm 2011 – 2016.
5. Giả thuyết khoa học
Đổi mới PPDH là một nội dung cơ bản trong đổi mới quá trình dạy học

ở các trường THCS. Hiệu quả đổi mới PPDH nói chung, đổi mới PPDH môn
Ngữ văn ở các trường THCS quận Hà Đông, thành phố Hà Nội nói riêng phụ
thuộc vào nhiều yếu tố; trong đó phụ thuộc rất lớn vào công tác quản lý. Nếu
trong quá trình quản lý, các chủ thể thực hiện tốt các vấn đề như: nâng cao
8


nhận thức, ý thức trách nhiệm cho các chủ thể; kế hoạch hóa hoạt động đổi
mới phương pháp; quan tâm bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên; kiểm tra, đánh giá hoạt động đổi mới phương pháp; thường xuyên sơ
tổng kết rút kinh nghiệm thì hiệu quả đổi mới PPDH sẽ được nâng cao.
6. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về giáo dục. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng
các cách tiếp cận: Hệ thống - Cấu trúc, Lịch sử - Lôgic và quan điểm thực tiễn
trong nghiên cứu khoa học giáo dục.
* Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu lý luận
chuyên ngành, liên ngành và nghiên cứu các tài liệu kinh điển; các văn kiện
nghị quyết, chỉ thị, quy chế của Đảng các cấp; các văn bản pháp luật, chính
sách của Đảng, Nhà nước; phân tích các văn bản, báo cáo, tổng kết về giáo
dục THCS của Phòng Giáo dục - Đào tạo quận Hà Đông; các trường THCS
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội để xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề
nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Quan sát tiếp cận và xem xét hoạt động quản lý dạy học môn Ngữ văn
ở các trường THCS trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; khảo sát,

xin ý kiến chuyên gia với mục đích tìm hiểu thực trạng quản lý đổi mới PPDH
môn Ngữ văn ở các trường THCS quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; đồng
thời xem xét mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp quản lý.
Đối tượng khảo sát: Cán bộ quản lý thuộc Phòng Giáo dục – Đào tạo;
cán bộ quản lý các trường THCS; giáo viên, học sinh các trường THCS quận
9


Hà Đông, thành phố Hà Nội. Ngoài ra, tác giả tiến hành trao đổi ý kiến với
các hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, giáo viên lâu năm có kinh nghiệm trong đổi
mới PPDH ở các trường THCS quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
* Các phương pháp bổ trợ khác
Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê, phần mềm tin học để xử
lý, phân tích kết quả điều tra, phân tích kết quả nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn đã khái quát và hệ thống được những vấn đề cơ bản về lý
luận quản lý đổi mới PPDH ở các trường phổ thông; đánh giá, phát hiện
những kết quả, hạn chế và nguyên nhân về thực trạng PPDH và quản lý đổi
mới PPDH ở trường THCS quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Đặc biệt, luận
văn đề xuất được các biện pháp quản lý đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở các
trường THCS quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận
văn là cơ sở cho Phòng Giáo dục – Đào tạo; các nhà trường tham khảo để
quản lý đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở các trường THCS quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương, kết luận, kiến nghị, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.

10



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Phương pháp dạy học môn Ngữ văn
Hiện nay còn có nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học.
Tựu chung lại có thể hiểu phương pháp dạy học như sau:
Phương pháp dạy học là tổng hợp cách thức phối hợp, tác động qua lại
lẫn nhau giữa giáo viên và học sinh; nhằm trang bị kiến thức; phát triển kỹ
năng, kỹ xảo và giáo dục nhân cách cho học sinh.
Môn Ngữ văn là môn học được tổ chức từ các bộ môn Văn học, Tiếng
Việt, Tập làm văn theo tư tưởng tích hợp. Tích hợp đây hiểu theo nghĩa là liên
kết tri thức để chúng thúc đẩy nhau tạo thành tri thức mới. Tích hợp ngôn ngữ
với văn tự (chữ viết), ngôn ngữ với bài văn (văn bản), ngôn ngữ với văn học,
ngôn ngữ với văn hoá, ngôn ngữ nói với ngôn ngữ viết, ngôn ngữ với lời nói.
Tích hợp các phương diện ấy mới nâng cao năng lực ngôn ngữ và văn học cho
học sinh. Hai tính chất của Ngữ văn: tính công cụ, tính nhân văn. Tính công
cụ thể hiện ở yêu cầu dạy cho học sinh năng lực sử dụng Ngữ văn như một
công cụ giao tiếp, bao gồm các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Nghe gồm năng
lực chú ý, nghe hiểu bài giảng, lời phát biểu, lời thảo luận... Nói gồm năng lực
phát biểu trên lớp, thảo luận, phỏng vấn, trả lời câu hỏi, kể chuyện thuyết
minh vấn đề… Đọc bao gồm đọc văn học và đọc các loại văn khác. Viết bao
gồm năng lực viết các văn bản nghị luận xã hội, nghị luận văn học, viết bản
tóm tắt, văn bản thuyết minh… Các tính chất khác của môn Ngữ văn: tính
tổng hợp, tính thực tiễn, tính tri thức, tính thẩm mĩ, tính xã hội. Ngữ văn là
một môn học trong chương trình giáo dục phổ thông.
Nội dung mang tính tích hợp Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn và các
môn học khác như môn Sử, Giáo dục công dân…. Ngoài ra phương pháp dạy
11



học Ngữ văn mang tính nhân văn vì “Văn học là nhân học”, học văn là học
cách làm người.
Mục tiêu dạy học môn Ngữ văn gồm:
Thứ nhất, hình thành và phát triển năng lực giao tiếp bằng tiếng mẹ
đẻ cho học sinh, rèn luyện cho trẻ em kỹ năng đọc hiểu và viết đúng tiếng
Việt, khả năng diễn đạt – cả viết và nói – những điều mình muốn thể hiện.
Dạy Văn phải bắt đầu bằng dạy Tiếng và dạy Tiếng phải đi từ dạy đọc hiểu
những văn bản dễ đến những văn bản khó, từ viết đúng đến viết hay, làm sao
cho học sinh hết THCS phải đảm bảo không còn viết sai chính tả, sai câu,
diễn đạt thiếu mạch lạc, rồi tiến dần lên, thông qua kết hợp với học tác phẩm
văn chương, thấy được cái hay cái đẹp của tiếng Việt, biết diễn tả những điều
phức tạp hơn trong tình cảm và suy nghĩ của mình, có khả năng giao tiếp, hòa
nhập với thế giới xung quanh. Trong dạy Tiếng cần chú ý rèn luyện kỹ năng
cả viết và nói, cho học sinh tiếp xúc với nhiều loại văn bản khác nhau, không
chỉ tác phẩm văn chương mà bao gồm cả các văn bản lịch sử, xã hội…v..v..
đồng thời tránh nhồi nhét các kiến thức về ngôn ngữ học, dẫn đến tình trạng
học sinh không tiếp thu được và chán học.
Thứ hai, bồi dưỡng và phát triển năng lực thẩm mỹ cho học sinh. Nhiều
người nhầm tưởng đây là giúp học sinh thấy cái hay cái đẹp của tác phẩm văn
chương. Đó không phải là cái chính. Cái chính là hình thành ở trẻ em một
kiểu cảm nhận đặc thù về thế giới, một cách nhìn về sự vật và con người thấm
nhuần cảm xúc, đầy chất tưởng tượng, bay bổng, huyễn hoặc. Đó không hẳn
là cách tư duy hay là một tình cảm mà là một cái gì đó pha trộn cả hai, vừa là
kiểu nghĩ, kiểu nhìn, vừa là kiểu rung động – rung động thẩm mỹ. Với mục
tiêu đó, dạy Văn chủ yếu không phải là dạy lịch sử văn học, dạy ghi nhớ về
tác giả, tác phẩm, dạy về cách cấu tạo và phân tích tác phẩm, mà là khơi dậy
những rung động thẩm mỹ, hình thành thói quen về cách tiếp cận với thế giới
nghệ thuật không có thực do nhà văn tạo ra, từ đó phát triển ở trẻ em khả năng

12


tưởng tượng, khả năng nhập vai, khả năng sống trong một thế giới khác, một
cuộc đời khác, một sự sống khác dù đó là con người hay con vật, cây cỏ. Hình
thành năng lực thẩm mỹ là sứ mạng đặc thù của môn Văn, trước hết là của
việc dạy văn chương. Dĩ nhiên trong quá trình giảng dạy và tùy từng cấp học
– phổ thông hay phân ban, THCS hay THPT – dạy Văn vẫn cung cấp những
kiến thức về lịch sử văn học, nhà văn và các thể loại, nhưng cũng giống như
việc không được biến dạy tiếng Việt thành dạy ngôn ngữ học tiếng Việt, trong
việc dạy Văn cũng không được biến dạy văn chương thành dạy khoa học về
văn chương, dạy về nghiên cứu văn học. Đây cũng chính là một nguyên nhân
giải thích vì sao môn Văn trong nhà trường hiện nay quá nặng và học sinh
không thích học. Dạy Văn trong nhà trường phổ thông chủ yếu là dạy tác
phẩm. Tác phẩm, văn bản là nguyên liệu chính để hình thành năng lực thẩm
mỹ ở học sinh. Tuy cũng là những loại hình nghệ thuật, nhưng sỡ dĩ văn học
được đưa vào giảng dạy ở nhà trường như một môn học chính chứ không phải
hội họa hay âm nhạc một phần vì do nó gắn với ngôn ngữ (tiếng Việt), một
phần vì nó là loại hình nghệ thuật vừa tiêu biểu vừa phổ biến, gần gũi, có thể
đại diện cho kiểu sáng tạo đặc biệt của con người – sáng tạo nghệ thuật. Bởi
vậy dạy Văn chủ yếu không phải là trang bị những tri thức về văn mà dùng
việc dạy Văn, trước hết là dạy tác phẩm văn chương, như một phương tiện,
một cách thức để đạt đến một mục đích lớn hơn là phát triển năng lực thẩm
mỹ của học sinh, hình thành ở học sinh một cách cảm, cách nghĩ mang đậm
tính sáng tạo, tính cá nhân và thiên về hướng nội. Ở đây văn chỉ là chất liệu,
là một trường hợp cụ thể. Nếu hiểu như vậy, từ cách dạy đến cách ra đề thi,
kiểm tra sẽ hoàn toàn khác và lúc đó chắc chắn việc dạy Văn sẽ khắc phục
được tình trạng nhàm chán khá phổ biến như hiện nay.
Thứ ba, bồi dưỡng tâm hồn và phát triển nhân cách cho học sinh. Tác
phẩm văn chương là kết quả của sự sáng tạo đặc sắc, chứa đựng các giá trị

Chân, Thiện, Mỹ. Văn gắn với chữ, chữ gẵn với nghĩa, tác phẩm văn mang
13


nhiều giá trị, nội dung ý nghĩa khác nhau, vô cùng phong phú. Thông qua việc
giảng dạy tác phẩm, người giáo viên có thể khơi dậy ở học sinh tình yêu đối
với cái đẹp, lòng nhân ái, khát khao lý tưởng cũng như những hiểu biết về thế
giới, về xã hội và nhất là về con người. Không phải tác phẩm nào cũng có đầy
đủ những giá trị ấy và cũng không phải giờ dạy Văn nào cũng phải đáp ứng
tất cả những yêu cầu ấy, nhưng mục tiêu chung mà việc dạy Văn cần hướng
tới là kích thích ở trẻ tình cảm hướng thiện và tư duy phê phán, giúp trẻ có
khả năng tự định hướng và lựa chọn một lối sống tích cực. Lâu nay chúng ta
thường nói về giáo dục đạo đức, dạy làm người. Môn Văn là môn có điều
kiện thuận lợi nhất để thực hiện nhiệm vụ này. Dạy Văn không phải là để dạy
đạo đức, nhưng dạy Văn cũng không xa lạ với dạy đạo đức, giống như dạy
Văn không xa lạ với dạy cái hay cái đẹp, dạy những hiểu biết về cuộc sống.
Giáo dục về giá trị không phải là nội dung trực tiếp và đặc thù của môn Văn,
nhưng nó là một yêu cầu quan trọng và không thể thiếu của dạy Văn.
Việc xác định và làm đúng mục tiêu dạy học Ngữ văn sẽ góp phần
tránh được tình trạng hiện nay khi thì biến dạy Văn thành phương tiện giáo
dục tư tưởng, giáo dục đạo đức, khi thì đổi sang thiên về cung cấp những tri
thức về văn học, thi pháp, còn dạy tiếng thì nặng về giảng giải những kiến
thức có tính chất ngôn ngữ học mà coi thường việc rèn luyện kỹ năng nói và
viết cho học sinh.
Môn Ngữ văn là một trong hai môn chính ở trường phổ thông. Đổi
mới dạy Văn có vị trí quan trọng trong đổi mới Chương trình và Sách giáo
khoa cũng như đối với việc nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường
nói chung.
Theo đặc trưng bộ môn Ngữ văn thì các hoạt động của nó chủ yếu chủ
thể học sinh phải thực hiện để có được tri thức và năng lực tương ứng là nghe,

nói, đọc, viết, mà chủ yếu là đọc (nghe) và viết (nói), cụ thể là đọc (nghe) văn

14


và làm văn (viết và nói). Hoạt động giảng của thầy là một phương tiện dạy
học, nhưng không phải là phương pháp cơ bản của việc dạy học Ngữ văn.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu:
Phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở các trường THCS là tổng hợp
cách thức phối hợp, tác động qua lại lẫn nhau giữa giáo viên và học sinh
trong quá trình dạy học môn Ngữ văn; nhằm thực hiện tốt các mục tiêu dạy
học môn Ngữ văn ở bậc học THCS.
Đặc điểm phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở các trường THCS là
tổng hợp các cách thức biện pháp phối hợp giữa hoạt động của giáo viên và
học sinh trong quá trình dạy và học môn Ngữ văn.
Cách thức dạy của giáo viên và cách thức học của học sinh quan hệ
chặt chẽ biện chứng. Chính sự thống nhất biện chứng giữa dạy và học là một
trong những quy luật của quá trình dạy học. Nó phản ánh mối quan hệ gắn
kết, mối quan hệ giữa thầy với tư cách người tự tổ chức tự điều khiển, lãnh
đạo và trò với tư cách người tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức, ta
có thể biểu diễn mối quan hệ thầy - trò trong quá trình dạy học theo sơ đồ sau:

15


Trong quá trình dạy học giáo viên không giới thiệu toàn bộ tri thức
ngay lập tức, mà thường chỉ giới thiệu những vấn đề cơ bản để học sinh nắm
vững. Sau đó củng cố và bổ sung mở rộng khối lượng tri thức. Quá trình dạy
học diễn ra “sự tương tác” trên lớp giữa hoạt động dạy của giáo viên và hoạt
động học của học sinh. Như vậy, việc dạy và học mới mang lại kết quả, bổ

ích, đáp ứng yêu cầu của giờ học Ngữ văn, của xã hội.
Phương pháp dạy học Ngữ văn ở các trường THCS gắn chặt với
nội dung và hướng vào thực hiện các mục tiêu dạy học môn Ngữ văn ở
bậc THCS.
1.1.2. Khái niệm đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở các
trường trung học cơ sở
Hiện nay, đổi mới PPDH đang là trung tâm chú ý của các cấp quản lý
cũng như của các nhà trường. Muốn đổi mới và quản lý được việc đổi mới
PPDH, giáo viên và các nhà quản lý phải nắm được những kiến thức và
nghiệp vụ sư phạm, nghĩa là nắm được nội dung và thống nhất về quan niệm
về đổi mới PPDH.
Theo từ điển tiếng Việt, đổi mới là “thay đổi cho khác hẳn với trước,
tiến bộ hơn, khắc phục tình trạng lạc hậu, trì trệ và đáp ứng với yêu cầu đổi
phát triển”[28, tr.337].
Từ những phân tích trên đây, có thể quan niệm đổi mới PPDH môn
Ngữ văn ở các trường THCS như sau:
Đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở các trường THCS là quá trình tác động
làm thay đổi, chuyển biến PPDH môn Ngữ văn theo chiều hướng tiến bộ;
khắc phục tình trạng lạc hậu về cách dạy và cách học; đáp ứng với yêu cầu
đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở các trường THCS.
Mục tiêu của đổi mới PPDH môn Ngữ văn là làm thay đổi cách dạy và
cách học theo chiều hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học
sinh. Mục tiêu cuối cùng của đổi mới PPDH là đảm bảo cho PPDH đáp ứng
16


yêu cầu của đổi mới dạy học và nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học môn
Ngữ văn ở bậc THCS.
Chủ thể đổi mới PPDH bao gồm: Các nhà khoa học, giáo viên và học
sinh; trong đó chủ yếu là hoạt động của giáo viên và học sinh. Hoạt động đổi

mới PPDH môn Ngữ văn ở THCS diễn ra lâu dài, là hoạt động sáng tạo hàng
ngày của cả giáo viên và học sinh.
Nội dung đổi mới PPDH môn Ngữ văn bao gồm:
Một là, đổi mới về cách dạy của giáo viên cần hướng đến làm thay đổi
tính chất hoạt động nhận thức của học sinh.
Hai là, đổi mới cách học của học sinh, bằng việc tăng cường hoạt động
tự học, tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động.
Ba là, tăng cường thực hành, tăng cường rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức để giải quyết những vấn đề của thực tế đời sống; tăng cường sử
dụng các PTKT hiện đại vào dạy học.
Bốn là, tăng cường mối quan hệ giữa trí tuệ và tâm hồn, giữa tư duy và
cảm xúc: dạy học phải tác động vào tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh.
Biện pháp đổi mới PPDH được thực hiện theo hai hướng cơ bản: cải
tiến, hoàn thiện các PPDH truyền thống và nghiên cứu, vận dụng các PPDH
tiên tiến, hiện đại vào thực tiễn quá trình dạy học.
1.1.3. Khái niệm quản lý đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn
ở các trường trung học cơ sở
Quản lý là một hoạt động phổ biến trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Theo nghĩa chung nhất, quản lý là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức
của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý bằng việc vận dụng các chức năng
và phương tiện quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng và cơ
hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra.

17


Giáo dục là một lĩnh vực hoạt động cơ bản trong toàn bộ các lĩnh vực
đời sống xã hội. Để hoạt động giáo dục có chất lượng và hiệu quả cần thiết
phải quản lý. Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động tự giác của chủ thể

quản lý đến khách thể quản lý là quá trình giáo dục nhằm thực hiện có chất
lượng, hiệu quả quá trình giáo dục.
Quản lý giáo dục được xem xét ở hai góc độ: quản lý vĩ mô và quản
lý vi mô. Quản lý vĩ mô được hiểu là những tác động tự giác của các chủ
thể quản lý đến các yếu tố trong hệ thống giáo dục quốc dân, để hệ thống
giáo dục vận hành có hiệu quả trong thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục.
Quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô là những tác động của chủ thể quản lý đến
quá trình giáo dục trong các nhà trường, các cơ sở giáo dục; nhằm thực
hiện có chất lượng, hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường, của cơ sở
giáo dục.
Quản lý đổi mới PPDH là một nội dung chủ yếu trong quản lý nhà
trường. Quản lý đổi mới PPDH là tổng hợp các tác động của chủ thể quản lý
đến hoạt động đổi mới PPDH, nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động đổi mới
PPDH và nâng cao chất lượng dạy học.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu:
Quản lý đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở các trường THCS là tổng hợp
các tác động có mục đích, có tổ chức, của các chủ thể quản lý đến hoạt động
đổi mới PPDH; làm thay đổi cách thức dạy - học của giáo viên và học sinh
theo chiều hướng tiến bộ và thực hiện có hiệu quả mục đích, nhiệm vụ dạy
học môn Ngữ văn ở bậc THCS.
Mục tiêu quản lý hoạt động đổi mới PPDH nhằm đảm bảo cho hoạt
động đổi mới PPDH được thực hiện đúng hướng, chặt chẽ khoa học; tạo được
thay đổi căn bản về cách dạy và cách học của giáo viên và học sinh theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh và nâng cao
chất lượng, hiệu quả dạy học môn Ngữ văn ở các trường THCS.
18


Chủ thể quản lý hoạt động đổi mới PPDH ở THCS, bao gồm: các cán
bộ thuộc các Phòng Giáo dục – Đào tạo; các cán bộ, giáo viên, học sinh ở các

trường THCS. Trong đó, chủ thể trực tiếp có vai trò quan trọng nhất là hiệu
trưởng, các phó hiệu trưởng, tổ trưởng tổ chuyên môn, giáo viên và học sinh.
Nội dung quản lý hoạt động đổi mới PPDH ở THCS bao gồm: quản lý
xây dựng kế hoạch đổi mới PPDH; quản lý tổ chức thực hiện hoạt động đổi
mới PPDH; quản lý hoạt động đổi mới PPDH của tổ chuyên môn; kiểm tra
hoạt động đổi mới PPDH; kích thích tạo động lực trong đổi mới PPDH.
Phương pháp quản lý đổi mới PPDH bao gồm các phương pháp quản
lý: các phương pháp tâm lý - giáo dục; các phương pháp hành chính; các
phương pháp kích thích tạo động lực.
Các phương tiện quản lý đổi mới PPDH bao gồm: Chế định giáo dục đào tạo, bộ máy tổ chức và nhân lực dạy học, nguồn tài lực - vật lực dạy học,
hệ thống thông tin và môi trường dạy học... trong các trường THCS.
1.2. Nội dung quản lý đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở
các trường trung học cơ sở
1.2.1. Xây dựng ý thức, trách nhiệm của các chủ thể trong thực hiện
đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn
Nhận thức và thái độ, ý thức trách nhiệm của các chủ thể có vị trí quan
trọng trong đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở các trường THCS; do vậy, để quản
lý đổi mới PPDH ở THCS, trước hết các chủ thể quản lý phải quản lý về nhận
thức và thái độ, ý thức trách nhiệm của các chủ thể thực hiện đổi mới PPDH.
Trong thực hiện đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở các trường THCS,
giáo viên và học sinh là chủ thể trực tiếp thực hiện; do vậy, các chủ thể quản
lý cần quan tâm quản lý về nhận thức, thái độ của giáo viên và học sinh trong
đổi mới PPDH.
Với giáo viên, các chủ thể quản lý cần quản lý nhận thức của họ trên
những nội dung như: sự cần thiết đổi mới PPDH; nhận thức về lý thuyết và
19


cách thức tiến hành các PPDH; nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới PPDH
với các thành tố khác của quá trình dạy học. Các chủ thể quản lý cần tác động

đến nhu cầu được tôn trọng, được tự khẳng định mình, đồng thời có sự động
viên về tinh thần và bồi dưỡng bằng vật chất thích đáng, tương xứng với khả
năng và sự cống hiến của mỗi người.
Với học sinh, để xây dựng thái độ, động cơ học tập theo phương pháp
mới, trước hết cần xây dựng nhu cầu, hứng thú học tập và xa hơn là ước mơ,
hoài bão... Hứng thú học tập có thể được hình thành từ nội dung, phương
pháp phương tiện và hình thức tổ chức dạy học, từ truyền thống hiếu học của
gia đình dòng họ, từ phong trào học tập của địa phương,... Tuy nhiên, PPDH
và mối quan hệ thầy trò có ảnh hưởng trực tiếp đến hứng thú và quan trọng
hơn là nó nằm trong tầm tay điều khiển của người thầy. Vì vậy việc xây dựng
động cơ học tập có mối quan hệ biện chứng với đổi mới PPDH.
1.2.2. Xây dựng kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn
Xây dựng kế hoạch hoạt động đổi mới PPDH môn Ngữ văn là việc đưa
toàn bộ hoạt động đổi mới PPDH vào kế hoạch, trong đó chỉ rõ các bước đi,
các biện pháp thực hiện và đảm bảo các nguồn lực để đạt được các mục tiêu
đã đề ra. Kế hoạch đổi mới PPDH có thể tách riêng hoặc nằm trong kế hoạch
tổng thể của nhà trường, được xây dựng theo từng năm học, mang tính pháp
quy, tức là được Hội đồng sư phạm nhà trường thông qua và quản lý cấp trên
trực tiếp phê duyệt.
Kế hoạch đổi mới PPDH đảm bảo cho hoạt động đổi mới PPDH được
thực hiện có cơ sở khoa học; huy động tối đa và hiệu quả các nguồn lực, phối
hợp chặt chẽ các lực lượng trong nhà trường để thực hiện hiệu quả hoạt động
đổi mới PPDH. Đây là một nội dung quan trọng, các chủ thể quản lý cần phải
quan tâm trong quản lý đổi mới PPDH ở các trường trung học cơ sở thuộc
quận Hà Đông, Hà Nội.
Các chủ thể quản lý phải đảm bảo cho việc quản lý đổi mới PPDH
20


được dựa những định hướng lớn về đổi mới PPDH của Đảng, các văn bản

hướng dẫn thực hiện của các cấp quản lý giáo dục và căn cứ vào điều kiện
thực tế của nhà trường về tổ chức bộ máy, về nguồn lực và các điều kiện
khác, để xây dựng kế hoạch hoạt động đổi PPDH. Kế hoạch phải mang tính
cụ thể, tức là xác định được mục tiêu cần đạt, dự kiến được nguồn lực để thực
hiện (nhân lực, tài lực, vật lực), phân bố thời gian hợp lý và quyết định những
biện pháp có tính khả thi để thực hiện.
1.2.3. Tổ chức, chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn
Tổ chức hoạt động đổi mới PPDH môn Ngữ văn là quá trình phân phối
và sắp xếp nguồn lực theo những cách thức nhất định để đảm bảo thực hiện
tốt các mục tiêu về đổi mới PPDH đã đề ra. Chỉ đạo hoạt động đổi mới PPDH
môn Ngữ văn là quá trình tác động cụ thể của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng
phụ trách môn xã hội, tổ trưởng tổ Xã hội tới các thành viên của nhà trường,
nhằm biến những nhiệm vụ chung về đổi mới PPDH của nhà trường thành
hoạt động thực tiễn của từng người.
Chức năng tổ chức, chỉ đạo có vai trò định hướng và hiện thực hóa mục
tiêu kế hoạch và tạo nên sức mạnh của tập thể, nếu việc phân phối và sắp xếp
các nguồn lực được tổ chức một cách khoa học và hợp lý. Do vậy, trong quản
lý đổi mới PPDH Ngữ văn ở các trường THCS các chủ thể quản lý cần phải
quản lý tốt việc tổ chức, chỉ đạo hoạt động đổi mới PPDH Ngữ văn.
Để quản lý tổ chức, chỉ đạo hoạt động đổi mới PPDH Ngữ văn, các chủ
thể cần quản lý các nội dung cụ thể như: sự phân quyền và phân nhiệm cho
phó hiệu trưởng và tổ chuyên môn; quản lý việc xây dựng và phát triển đội
ngũ nhân sự; quản lý những quy định về cơ chế hoạt động phối hợp giữa
chuyên môn với các đoàn thể trong nhà trường, cùng bảo đảm thực hiện mục
tiêu đã đề ra; quản lý sự phân bổ nguồn lực và quy định thời gian cho các bộ
phận nhằm thực hiện đúng kế hoạch đã định.
Trong quá trình hoạt động của nhà trường, các chủ thể quản lý cần phải
21



xác lập được một mạng lưới các mối quan hệ tổ chức và giải quyết tốt các mối
quan hệ giữa các bộ phận bên trong nhà trường, cũng như mối quan hệ giữa
nhà trường với cộng đồng xã hội.
Các chủ thể quản lý thực hiện chức năng chỉ đạo là thực hiện quyền chỉ
huy và hướng dẫn triển khai việc đổi mới PPDH Ngữ văn; thường xuyên điều
chỉnh, sắp xếp, phối hợp và giám sát mọi người và các bộ phận thực hiện tốt
kế hoạch theo sự bố trí đã xác định trong bước tổ chức.
1.2.4. Quản lý đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn của tổ
chuyên môn, của giáo viên và học sinh
Tổ chuyên môn là tế bào cơ bản giữ vị trí quan trọng nhất trong việc
triển khai công tác quản lý đổi mới PPDH; là đầu mối để thực hiện các quyết
định, các chủ trương của nhà trường; là nơi tổ chức học tập, ứng dụng, thể
nghiệm những lý luận về PPDH mới thông qua việc học tập các chuyên đề,
tổng kết kinh nghiệm dạy học, tổ chức thực tập, kiến tập, hội thảo,... Vì vậy,
quản lý hoạt động của tổ chuyên môn là nội dung quan trọng nhất của quản lý
đổi mới PPDH Ngữ văn.
Quản lý hoạt động của tổ chuyên môn trong đổi mới PPDH môn Ngữ
văn, bao gồm: quản lý sự cụ thể hoá các chủ trương về đổi mới PPDH của các
cấp quản lý thành quy định nội bộ để tổ chức thực hiện; quản lý xây dựng kế
hoạch đổi mới PPDH của tổ chuyên môn; quản lý bồi dưỡng cho giáo viên
những vấn đề cụ thể của môn học; kiểm tra tất cả các khâu, từ xây dựng kế
hoạch đến tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch và tự kiểm tra, đánh giá
của tổ chuyên môn.
Quản lý hoạt động đổi mới PPDH Ngữ văn của giáo viên, bao gồm:
quản lý việc soạn bài, quản lý giờ lên lớp, quản lý việc dự giờ, đánh giá giờ
dạy, quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng
đổi mới PPDH. Đây là những nội dung cơ bản về quản lý hoạt động của giáo
viên mà các chủ thể quản lý cần quan tâm.
22



Quản lý đổi mới phương pháp học tập của học sinh, bao gồm: quản lý
động cơ, thái độ học tập, quản lý phương pháp học tập ở trường cũng như ở
nhà. Quản lý đổi mới phương pháp học tập của học sinh cần tạo điều kiện để
hình thành phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng tự học, bồi dưỡng thói
quen, ý chí tự học của học sinh thông qua cách tổ chức hoạt động trong giờ
học, từ đó hình thành, rèn luyện cho học sinh ý thức chủ động, sáng tạo trong
học tập cùng phương pháp tự nghiên cứu, phương pháp đọc sách, đọc tài
liệu,... khơi dậy lòng say mê học tập, làm bộc lộ và phát triển năng lực tiềm
tàng trong mỗi học sinh.
1.2.5. Kiểm tra, đánh giá đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ
văn
Kiểm tra, đánh giá hoạt động đổi mới PPDH Ngữ văn là quá trình xem
xét thực tiễn, để phát hiện đánh giá thực trạng về đổi mới PPDH, khuyến
khích những nhân tố tích cực, phê phán những lệch lạc và đưa ra quyết định
điều chỉnh kịp thời, nhằm giúp các bộ phận và các cá nhân đạt được các mục
tiêu về đổi mới PPDH Ngữ văn đã đề ra. Kiểm tra, đánh giá có vai trò rất
quan trọng trong quản lý đổi mới PPDH Ngữ văn ở các trường THCS; do vậy
các chủ thể quản lý cần phải hết sức quan tâm đến nội dung này.
Kiểm tra, đánh giá hoạt động đổi mới PPDH Ngữ văn được thực hiện
trên các nội dung: kiểm tra việc xây dựng và thực hiện kế hoạch đổi mới
PPDH của môn Ngữ văn; kiểm tra, đánh giá hoạt động của tổ chuyên môn và
giáo viên trong đổi mới PPDH; kiểm tra, đánh giá bồi dưỡng năng lực sử
dụng PPDH, kỹ thuật dạy học hiện đại của giáo viên và kiểm tra, đánh giá kết
quả đổi mới PPDH Ngữ văn.
Trong quá trình thực hiện kiểm tra, đánh giá hoạt động đổi mới PPDH
Ngữ văn ở THCS, các chủ thể quản lý cần phải xác định được chuẩn kiểm tra,
đo lường việc thực thi nhiệm vụ, so sánh, đối chiếu với mục tiêu đã đề ra và
đưa ra quyết định điều chỉnh cần thiết. Cần thường xuyên đánh giá, sơ kết
23



những thay đổi có được, mà không phải đợi đến cuối kỳ hay cả năm học. Trên
cơ sở kết quả kiểm tra, đánh giá có định hướng phù hợp cho đổi mới PPDH
Ngữ văn ở những kỳ và những năm học tiếp theo.
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý đổi mới phương pháp dạy học
Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
1.3.1. Các yếu tố chủ quan tác động đến quản lý đổi mới phương
pháp dạy học Ngữ văn ở trường trung học cơ sở ở quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội
* Trình độ, năng lực, phẩm chất của các chủ thể quản lý
Các chủ thể quản lý là những người chịu trách nhiệm về chất lượng và
hiệu quả mọi hoạt động của trường thuộc quyền quản lý. Sự đổi mới PPDH
Ngữ văn có thành hiện thực hay không, đầu tiên phụ thuộc vào nhận thức,
trình độ tổ chức và năng lực triển khai trong thực tiễn của các chủ thể quản lý.
Sự am hiểu sâu sắc về đổi mới PPDH, ít nhất trong lĩnh vực chuyên
môn của các chủ thể quản lý, để có thể làm mẫu, hướng dẫn người dưới quyền
thực hiện có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động đổi mới PPDH. Các chủ thể
quản lý là những người có trình độ tổ chức và năng lực triển khai ứng dụng
những vấn để lý luận dạy học mới vào thực tiễn trường mình, biết tổ chức học
tập và tổng kết kinh nghiệm để nhân ra diện rộng, là cơ sở cho thực hiện tốt
các hoạt động quản lý đổi mới PPDH.
Ngoài ra, uy tín của các chủ thể quản lý trong tập thể sư phạm có tác
dụng như chất xúc tác thúc đẩy sự phát triển của nhà trường nói chung và đổi
mới PPDH nói riêng.
* Trình độ, năng lực, phẩm chất của giáo viên
Giáo viên là lực lượng chủ yếu thực hiện đổi mới PPDH Ngữ văn ở các
trường THCS. Trình độ, năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm, phẩm chất
của người giáo viên có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy học Ngữ văn.
Những năng lực sư phạm cơ bản của giáo viên có ảnh hưởng đến đổi mới

24


PPDH, bao gồm: năng lực chẩn đoán nhu cầu và đặc điểm đối tượng dạy học,
giáo dục; năng lực thiết kế kế hoạch dạy học, giáo dục; năng lực tổ chức thực
hiện kế hoạch dạy học, giáo dục; năng lực giám sát, đánh giá kết quả hoạt
động dạy học, giáo dục; năng lực giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn dạy học, giáo dục.
Đây là những năng lực cơ bản của người giáo viên có ảnh hưởng rất lớn
đến đổi mới PPDH; trong đó, năng lực chuẩn bị giáo án, lên lớp, giảng bài, tổ
chức hoạt động trên lớp và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh là
những năng lực quan trọng nhất.
* Phẩm chất và năng lực của học sinh
Phẩm chất và năng lực học sinh có ảnh hưởng quan trọng đến việc
quản lý PPDH Ngữ văn. Nếu học sinh chăm, ngoan, có động cơ và ý chí học
tập tốt, lại thông minh, sắc sảo và được lựa chọn cẩn thận về trình độ học vấn
như các trường chuyên, lớp chọn thì cách tổ chức, quản lý đổi mới PPDH
được diễn ra thuận lợi. Ngược lại, học sinh thiếu thái độ, động cơ học tập
tốt… thì sẽ rất khó khăn trong quản lý đổi mới PPDH Ngữ văn ở THCS.
Việc xác định phẩm chất và năng lực học sinh là một công việc phức
tạp, vì nó phụ thuộc rất nhiều yếu tố: mặt sinh học, mặt xã hội, thành phần
dân cư, bản sắc văn hoá địa phương... Vì vậy, các chủ thể quản lý cần tiến
hành điều tra khảo sát khá cẩn thận để nắm vững đối tượng các lớp đầu cấp
học, đầu năm học, nhằm xây dựng kế hoạch dạy học được sát đúng.
1.3.2. Các yếu tố khách quan tác động đến quản lý đổi mới phương
pháp dạy học ở trường trung học cơ sở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Có nhiều yếu tố khách quan ảnh hưởng đến quá trình quản lý đổi mới
PPDH ngữ văn ở trường THCS. Sau đây là một số yếu tố cơ bản:
* Chính sách, chủ trương về đổi mới phương pháp dạy học
Nghị quyết của các đại hội Đảng toàn quốc đã định hướng cho việc đổi

mới PPDH; các văn bản, chỉ thị của ngành GD - ĐT đã được các cấp quản lý
25


cụ thể hoá và hướng dẫn thực hiện; đặc biệt là các chỉ thị, hướng dẫn của Sở
GD - ĐT thành phố Hà Nội… là môi trường pháp lý thuận lợi cho việc đổi
mới PPDH ở các trường THCS của quận Hà Đông hiện nay.
* Điều kiện dạy học thực tế của nhà trường
Đổi mới PPDH gắn liền với những yêu cầu về thiết bị dạy học, về thư
viện, về các phương tiện kỹ thuật hiện đại, về cơ sở vật chất nói chung, nhằm
tạo điều kiện thuận tiện cho việc hoạt động độc lập hoặc theo nhóm của học
sinh. Vì vậy, điều kiện dạy học thực tế của từng nhà trường có ảnh hưởng rất
lớn đến quản lý đổi mới PPDH của nhà trường đó.
Các chủ thể quản lý cần có kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị
dạy học, có biện pháp huy động lực lượng hỗ trợ kinh phí để trang bị đồng bộ,
từng bước chuẩn hoá, hiện đại hoá hệ thống cơ sở vật chất, thiết bị dạy học
theo hướng đổi mới PPDH.
Các yếu tố khách quan và chủ quan có sự tác động qua lại lẫn nhau
và cùng tác động đến đổi mới PPDH ở các trường THCS của quận Hà
Đông. Trong quá trình quản lý đổi mới PPDH, thì các yếu tố chủ quan
được xem là nội lực, còn các yếu tố khách quan được xem là ngoại lực.
Như vậy, yếu tố nội lực là nhân tố quyết định quản lý đổi mới PPDH.
Trong quản lý, các chủ thể cần tận dụng tối đa các yếu tốt khách quan, phát
huy vai trò các yếu tố chủ quan để quản lý đổi mới PPDH ở THCS của
quận Hà Đông đạt hiệu quả cao nhất.
*

*
*


Trong xu thế đổi mới giáo dục, đổi mới PPDH là đòi hỏi khách quan ở
các nhà trường nói chung, các trường THCS nói riêng. Đổi mới PPDH ở các
trường trung học cơ sở là quá trình tác động làm thay đổi, chuyển biến PPDH
theo chiều hướng tiến bộ; khắc phục tình trạng lạc hậu về cách dạy và cách
học; đáp ứng với yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học ở các
trường THCS.
26


×