Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục đạo đức CHO học SINH các TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG, QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 122 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC
15
PHỔ THÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản
15
1.2. Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các
32
trường trung học phổ thông
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý giáo dục đạo đức cho học
sinh ở các trường trung học phổ thông, quận Thanh Xuân,
38
thành phố Hà Nội
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG, QUẬN THANH
45
XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung
45
học học phổ thông, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
2.2. Thực trạng quản lý và nguyên nhân thực trạng quản lý giáo dục
đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông, quận
50
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
Chương 3. BIỆN PHÁP VÀ KHẢO NGHIỆM BIỆN PHÁP
QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH


Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG,
67
QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các
trường trung học phổ thông, quận Thanh Xuân, thành phố
67
Hà Nội
3.2. Khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp
94
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
104
PHỤ LỤC
107


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là mặt cốt lõi của nhân cách con người, chi phối quan hệ con
người với con người ,con người với xã hội và thiên nhiên để hình thành và
phát triển nhân cách. Đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội và đời
sống của mỗi con người. Sự tiến bộ của xã hội, sự phát triển của xã hội không
thể thiếu vai trò của đạo đức. Đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời cũng là
động lực để phát triển xã hội. Sinh thời Hồ Chí Minh đã dạy: Có tài mà không
có đức thì vô dụng. Người nhấn mạnh: Đạo đức không phải “từ trên trời rơi
xuống”, mà đó là kết quả của quá trình rèn luyện kiên trì, bền bỉ hàng ngày
của mỗi người.
Giáo dục đạo đức là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó nhà trường
giữ vai trò quan trọng. Giáo dục đạo đức cho học sinh là một nội dung quan

trọng của các nhà trường, nhất là các trường trung học phổ thông. Điều 2,
Luật giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009) đã chỉ
rõ: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện
,có đức, có tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành và bồi
dưỡng nhân cách và phẩm chất năng lực công dân đáp ứng yêu cầu xây
dựng và b ảo vệ Tổ quốc” [26]. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay, đã và đang đòi hỏi phải có những con người phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, sức khoẻ, thẩm mỹ. Đảng ta đã nhấn mạnh: “Chú
trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức
công dân” [10].
Những năm qua, trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói chung và quận
Thanh Xuân nói riêng, công tác quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các
trường trung học phổ thông bước đầu đã đem lại những thành công, việc giáo
dục đạo đức và quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh các truờng trung học

3


phổ thông đã được các ngành, các cấp và các nhà trường đặc biệt quan tâm.
Nhìn chung, học sinh ở các trường trung học phổ thông quận Thanh Xuân có
phẩm chất đạo đức tốt, chăm ngoan, lễ phép, khiêm tốn, thật thà. Bên cạnh
những ưu điểm, các em còn nhiều hạn chế về sự hiểu biết, kinh nghiệm sống,
dễ bị lôi kéo trước những cám dỗ của cuộc sống. Số học sinh vi phạm về nhận
thức, thái độ và hành vi đạo đức, các chuẩn mục có chiều hướng gia tăng, tính
chất ngày một nghiêm trọng hơn. Trong khi đó, công tác quản lý giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học phổ thông, tuy đã thu được những kết quả quan
trọng, song vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, hạn chế. Hoạt động quản lý giáo
dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông còn chưa được quan tâm đúng
mức; nhận thức của chủ thể quản lý về vai trò mục tiêu, nội dung và các biện
pháp quản lý giáo dục đạo đức còn chưa đầy đủ, sâu sắc; đội ngũ cán bộ quản

lý các cấp chưa thực sự phát huy vai trò, trách nhiệm; sự phối hợp giữa nhà
trường với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường còn thiếu đồng
bộ, thiếu sự thường xuyên và nhất quán; các khâu, các bước, các hoạt động
của quy trình quản lý còn biểu hiện hình thức và mang tính chất đối phó. Vì
vậy, nghiên cứu và tìm ra các biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học
sinh ở các trường trung học phổ thông, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
là vấn đề có tính cấp thiết.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi chọn vấn đề: ‘‘Quản
lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông, quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội’’ làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
là vấn đề đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà giáo dục và quản lý giáo dục.
Do đó, nhiều công trình đã được công bố, đề cập những khía cạnh khác nhau,

4


với nội dung và cách tiếp cận phong phú, đa dạng. Trong đó có những công
trình tiêu biểu như:
- “Phát triển toàn diện con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”[20] của Phạm Minh Hạc. Trong đó, tác giả đã nêu lên các định
hướng giá trị đạo đức con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và nêu lên giải pháp cơ bản về giáo dục đạo đức cho
học sinh. “Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức giáo dục đạo đức trong các
trường học, củng cố ý tưởng giáo dục ở gia đình và cộng đồng, kết hợp chặt
chẽ với giáo dục nhà trường trong việc giáo dục đạo đức cho con người, kết
hợp chặt chẽ giáo dục đạo đức với việc thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp của
các cơ quan thi hành pháp luật; tổ chức thống nhất các phong trào thi đua yêu
nước và các phong trào rèn luyện đạo đức, lối sống cho toàn dân, trước hết

cho cán bộ Đảng viên, cho thầy cô các trường học; xây dựng một cơ chế tổ
chức và chỉ đạo thống nhất toàn xã hội, về giáo dục đạo đức, nâng cao nhận
thức cho mọi người.” [20, tr.171 - 172].
Trong cuốn sách Giáo dục học tập, của GS.TS Đặng Vũ Hoạt, khi
nghiên cứu về công tác quản lý trường học của người hiệu trưởng, tác giả
đã nhấn mạnh vai trò của hiệu trưởng trong quản lý giáo dục toàn diện cho
học sinh. Đặc biệt ông chỉ rõ đặc trưng, mục tiêu quản lý, nguyên tắc quản
lý, và những công tác hành chính mà người hiệu trưởng phải thực hiện tốt,
ông cho rằng: Trường học là cơ quan chuyên trách đào tạo con người mới
của xã hội, con người mới phát triển toàn diện cả về đức và tài, “giáo dục
phổ thông là giáo dục toàn diện về văn hóa - khoa học - kỹ thuật, về tư
tưởng - chính trị - đạo đức, về lao động - kỹ thuật tổng hợp và hướng
nghiệp, về thể chất - quốc phòng, về thẩm mỹ, kinh tế”. Người hiệu trưởng
đóng vai trò như người nhạc trưởng, chỉ huy, điều hành các hoạt động quản
lý, giáo dục phát triển nhân cách cho học sinh. Mặc dù, tác giả không đề

5


cập trực tiếp tới quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
nhưng đã đề cập tới vai trò, chức năng, nội dung nguyên tắc quản lý của
hiệu trưởng, người đứng đầu, chịu trách nhiệm quản lý giáo dục đạo đức
cho học sinh ở các nhà trường.
Tác giả Trần Thị Tuyết Oanh đã bàn về quản lý giáo dục trong nhà trường
đã đưa ra hệ thống các vấn đề về lý luận quản lý giáo dục trong nhà trường, các
nguồn lực, các bộ phận chức năng, các nội dung công tác quản lý hướng tới xây
dựng một môi trường sư phạm mẫu mực, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh. Theo tác giả, quản lý con người là việc
làm hết sức phức tạp, quản lý trong nhà trường phải hướng tới: “Động viên, giáo
dục tập thể sư phạm thành một tập thể đoàn kết nhất trí, gương mẫu và hợp tác,

tương trợ nhau trong mọi việc. Giáo dục học sinh phấn đấu học tập và tu dưỡng
trở thành những công dân ưu tú” [32, tr.142]. Mặc dù tác giả chưa đề cập trực
tiếp tới quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh nhưng đã nhấn mạnh các yếu tố
như: Xây dựng và phát triển các nguồn lực, tạo môi trường sư phạm, sự gương
mẫu của cán bộ quản lý… Đây là những yếu tố, biện pháp tác động trực tiếp tới
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
PGS.TS Trần Kiểm, khi nghiên cứu về các phương pháp quản lý đã nhấn
mạnh phương pháp giáo dục - tâm lý, đây là phương pháp hiệu quả trong quản lý
giáo dục đạo đức cho học sinh. “Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết
phục, làm cho con người hiểu rõ đúng - sai, phải - trái, tốt - xấu, lợi - hại, thiện ác, từ đó để nâng cao tính tự giác làm việc và sự gắn bó với tổ chức”. Đây không
chỉ là biện pháp giáo dục đạo đức mang lại hiệu quả trực tiếp, thiết thực cho học
sinh mà còn thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Thực tiễn công tác quản lý giáo dục
đạo đức cho học sinh hiện nay vẫn còn mệnh lệnh hóa và chưa gắn với thực tiễn,
chưa phù hợp với đặc điểm học sinh. Cho nên, kết quản của quản lý giáo dục
đạo đức cho học sinh vẫn chưa đạt được theo mong muốn.

6


Tác giả Bùi Minh Hiền, trong cuốn sách, Quản lý giáo dục [23] đã nhấn
mạnh, trong môi trường kinh tế tri thức, người quản lý, quản lý nhà trường
phải biết sử dụng tri thức là một trụ cột then chốt xây dựng được văn hóa
quản lý nhà trường. Tuy nhiên, tri thức mới chỉ là điều kiện cần; điều kiện đủ
của quản lý giáo dục phải biết dẫn dắt, duy trì, sự tin cậy, lòng trung thành và
sự tôn trọng người khác. Điều này đòi hỏi cá nhân người quản lý phải có nghị
lực, có lòng kiên trì và sự hi sinh cá nhân [23]. Đây không chỉ là yếu tố dẫn
tới thành công trong quản lý mà còn là điều kiện cần và đủ vô cùng quan
trọng của nhà quản lý khi thực hiện quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh,
một nhiệm vụ vô cùng nặng nề. Trong xu thế hội nhập, quản lý thực hiện các
nội dung giáo dục, trong đó có quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ngày

một nặng nề hơn, nhận thức được điều đó, tác giả đã đưa giải pháp cơ bản để
đổi mới quản lý giáo dục nói chung, quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
nói riêng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Tác giả Phạm Khắc Chương đã đi sâu bàn về giáo dục đạo đức trong
tác phẩm “Tri nam nhân cách học trò” (1992), Nxb Đại học Sư phạm Hà nội
(2000) và tác phẩm "Một số vấn đề giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức ở
trường phổ thông”, Nxb Giáo dục (1995).
Tác giả Đặng Vũ Hoạt (1992), trong công trình nghiên cứu “Đổi mới
hoạt động giáo viên chủ nhiệm lớp với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên”,
Tập san nghiên cứu giáo dục, số 8. Ông đã đi sâu nghiên cứu vai trò của giáo
viên chủ nhiệm trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh và đưa ra một
số định hướng cho giáo viên chủ nhiệm trong việc đổi mới nội dung, cải tiến
phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh ở nhà trường phổ thông.
Tác giả Nguyễn Kim Bôi (2012), trong đề tài nghiên cứu về “ Một số
giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông
Trần Đăng Ninh”. Từ thực trạng đạo đức của học sinh của nhiều trường ở

7


nông thôn Việt Nam, tác giả đã đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông.
Bên cạnh đó, có nhiều công trình bàn về chuẩn mực đạo đức của con
người Việt Nam, tiêu biểu là Nguyễn Viết Chức (chủ biên 2001), “Đạo đức,
lối sống và đời sống văn hóa Thủ đô trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội; Nguyễn Thanh
Duy (2004) “Văn hóa đạo đức, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội... Đặc biệt, trong 2 công trình nghiên cứu của tác giả
Huỳnh Khái Vinh, “Việt Nam tinh hoa đạo đức” (2001), Nxb Hà Nội và “Một
số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội” (2001), Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã đề cập đến vấn đề cơ bản của lối sống, đạo đức,
chuẩn mực, giá trị xã hội, mối quan hệ giữa lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã
hội truyền thống và cách mạng, những kinh nghiệm và bài học của một số
nước, thực trạng, phương hướng, quan điểm và giải pháp xây dựng lối sống
đạo đức, chuẩn giá trị trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Tác giả Đỗ Đình Dũng với đề tài "Hệ thống biện pháp giáo dục đạo đức
cho học viên đào tạo sĩ quan Phòng không - Không quân ở Học viện Phòng Không Không quân hiện nay”, Luận văn thạc sĩ giáo dục học năm 2006. Công
trình đã nghiên cứu đề xuất các biện pháp về đổi mới nhận thức về giáo dục
đạo đức; đổi mới về nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức; đa dạng hóa
hình thức tổ chức giáo dục đạo đức; xây dựng mội trường sư phạm thuận lợi
cho việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cho học viên.
Ngoài ra một số luận án tiến sĩ cũng trực tiếp bàn về vấn đề giáo dục
đạo đức như: "Những giải pháp giáo dục đạo đức cho sỹ quan Biên phòng ở
đơn vị cơ sở trong tình hình hiện nay”(2001), Luận án tiến sỹ giáo dục học
của tác giả Trần Ngọc Tuân; "Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên sư
phạm trong các nhà trường quân sự hiện nay” (2010), Luận án tiến sỹ giáo
dục học của tác giả Nguyễn Bá Hùng...

8


Về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho giáo viên, học sinh, sinh
viên, tiêu biểu có công trình của tác giả Lê Thị Thu (2005), “biện pháp quản
lý giáo dục đạo đức cho sình viên Trường Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Hải
Dương. Tác giả Đặng Văn Chiến với đề tài: "Quản lý hoạt động giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học phổ thông ở cụm trường Gia Lâm" (2006). Tác giả
Trần Thế Hùng (2006) với Đề tài: "Một số biện pháp đổi mới quản lý hoạt
động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông Quận 10 thành phố
Hồ Chí Minh". Tác giả Trần Văn Hy với đề tài: "Biện pháp quản lý hoạt động
giáo dục đạo đức học sinh Ttrung học phổ thông ở huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên

Giang" (2008). Tác giả Lê Quang Thà với công trình “Tổ chức phối hợp các
lực lượng giáo dục đạo đức cho học viên cấp phân đội ở Học viện Chính trị
quân sự”, Luận văn thạc sỹ quản lý giáo dục, năm 2008. Nội dung của những
công trình này đã đề cập những vấn đề cơ bản về quản lý, quản lý giáo dục
nhà trường, các tác giả đã chỉ ra những nội dung cơ bản của quản lý giáo dục
đạo đức cho học sinh, sinh viên; phân tích các yếu tố tác động đến công tác
quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên. Các công trình trên cũng đã
đề cập đến các giải pháp và đều nhấn mạnh cần phải nâng cao nhận thức cho
các đối tượng giáo dục; đổi mới nội dung, hình thức giáo dục đạo đức; xây
dựng môi trường giáo dục và phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội
trong giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên.
Từ góc độ của nhà quản lý, trong công trình “Biện pháp quản lý giáo
dục đạo đức truyền thống cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp của hiệu trưởng trường trung học phổ thông Thành phố Hà Nội”
(2010), tác giả Đỗ Thị Thanh Thủy đã đề xuất 7 biện pháp cụ thể nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh, tuy nhiên tác giả chỉ bàn đến
vấn đề quản lý giáo dục đạo đức thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp. Ngoài ra, còn nhiều công trình của các tác giả theo hướng này, tiêu biểu

9


có Tác giả Nguyễn Hữu Tân (2010), “Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
trong mối quan hệ phối giữa nhà trường, gia đình và xã hội ở Trường trung
học phổ thông Tân Yên 2 - Tỉnh Bắc Giang”; Luận văn thạc sĩ quản lý giáo
dục của tác giả Chu Mạnh Cường (2010), “Các biện pháp quản lý nhằm tăng
cường giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng
Kinh tế - Tài chính tỉnh Thái Nguyên”. Tác giả Phạm Thanh Bình với đề tài:
"Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông Quận
cầu Giấy thành phố Hà Nội" (2012)...

Tác giả Nguyễn Thế Vinh với đề tài ‘‘Quản lí quá trình giáo dục đạo
đức cho học viên Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay”(2012), luận văn thạc sỹ
quản lý giáo dục. Công trình nghiên cứu này đã nêu ra năm biện pháp tổ chức
một cách khoa học quá trình giáo dục đạo đức; kế hoạch hóa quá trình giáo
dục đạo đức phát huy vai trò của các tổ chức, các giáo dục; xây dựng môi
trường giáo dục, thường xuyên kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục đạo đức
cho học sinh.
Ngoài ra, khi nghiên cứu về quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông hiện nay có rất nhiều luận văn Thạc sĩ của các tác giả
như: Trần Thị Thanh Thủy (2010) Trần Gia Khánh (2011); Đặng Trần Hiếu
(2012); Lưu Hải Dương (2014)…Các công trình đã nghiên cứu quản lý giáo
dục đạo đức của học sinh thuộc các độ tuổi phổ thông khác nhau và với chủ
thể quản lý là hiệu trưởng, ở các vùng miền khác nhau của cả nước.
Đây là điều thuận lợi cho tác giả kế thừa khi nghiên cứu. Nhìn
chung, các đề tài nghiên cứu trên đi sâu vào việc xác định các nội dung
giáo dục đạo đức, định hướng các giá trị đạo đức, thực trạng và tìm ra giải
pháp cho công tác giáo dục đạo đức và nâng cao chất lượng giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học phổ thông. Mặc dù vậy vẫn chưa có đề tài nào
đi sâu trực tiếp nghiên cứu vấn đề quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở
các trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố

10


Hà Nội. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài này với mong muốn góp phần nhỏ bé
vào việc đưa ra các biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh ở
các trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Thanh Xuân, Thành phố
Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất các
biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ
thông, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, góp phần nâng cao chất lượng
dạy học, giáo dục ở các trường.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý giáo dục đạo đức cho
học sinh ở các trường trung học phổ thông.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra nguyên nhân thực trạng quản lý giáo
dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông, quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội.
Đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các
trường trung học phổ thông, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Khảo nghiệm các biện pháp quản lý đã đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý giáo dục các phẩm chất cho học sinh ở các trường trung học
phổ thông quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ
thông, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu

11


Đề tài tập trung nghiên cứu nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn
và biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học
phổ thông trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Các tư liệu, số liệu sử dụng từ năm 2010 đến nay.

5. Giả thuyết nghiên cứu
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của các trường trung học phổ thông, quận Thanh Xuân, thành
phố Hà Nội hiện nay. Nếu các chủ thể quản lý thực hiện tốt các biện pháp
quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh, như: Tổ chức giáo dục nâng cao
nhận thức, ý thức trách nhiệm của các chủ thể trong giáo dục đạo đức cho
học sinh; kế hoạch hóa hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh; tổ chức bồi
dưỡng năng lực giáo dục đạo đức học sinh cho đội ngũ giáo viên chủ nhiệm;
xây dựng cơ chế phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục
đạo đức cho học sinh; tăng cường kiểm tra, đánh giá công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông,... thì sẽ quản lý giáo dục
đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội tốt hơn, đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện, góp phần
thiết thực vào nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học - giáo dục ở bậc trung
học phổ thông hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng ta về giáo dục và đào tạo, quản lý giáo dục. Trong
quá trình nghiên cứu, tác giả tiếp cận vấn đề theo quan điểm hệ thống cấu trúc; quan điểm phức hợp: hoạt động - giá trị - nhân cách; quan điểm
lịch sử - lô gíc; quan điểm thực tiễn.

12


* Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng kết hợp
các phương pháp sau:
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết là phân tích các tài liệu, văn

bản để tìm hiểu các khái niệm, thuật ngữ, vấn đề lý luận liên quan đến quản lý
giáo dục đạo đức học sinh, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu lý luận
chuyên ngành, liên ngành và nghiên cứu các tài liệu kinh điển, các văn kiện,
Nghị quyết, chỉ thị, quy chế của Đảng các cấp; các văn bản pháp luật, chính
sách của Đảng, Nhà nước để xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn như:
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Nhằm tổng kết các kinh nghiệm
quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh cho học sinh trung học phổ thông trên
địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội những năm gần đây.
+ Phương pháp điều tra khảo sát bằng phiếu hỏi: Nhằm thu thập
thông tin từ đội ngũ cán bộ quản lý, các giáo viên và học sinh của các
trường trung học phổ thông về thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho
học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia được sử dụng để tham khảo ý
kiến của một số nhà khoa học, nhà sư phạm, nhà quản lý để thu thập các
thông tin cần thiết liên quan đến đề tài, xem xét thực trạng các biện pháp
được đề xuất.
- Phương pháp toạ đàm, phỏng vấn, trò chuyện, hội thảo, phương pháp
xử lý số liệu bằng thống kê toán học và khảo nghiệm được sử dụng để xác
định tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp được đưa ra.
7. Ý nghĩa của đề tài

13


Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể cung cấp những cứ liệu, luận cứ
khoa học giúp các cấp quản lý, nhất là ban giám hiệu các trường trung học
phổ thông ở quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội trong chỉ đạo, thực hiện
quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông đáp ứng yêu cầu

chuẩn mục xã hội.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo của các thầy cô
giảng dạy các môn học có liên quan đến giáo dục chính trị, giáo dục đạo đức,
giáo dục công dân cho học sinh phổ thông
8. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận và kiến nghị, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.

\

14


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
* Đạo đức
Đạo đức là một phạm trù khoa học, được xem xét trên nhiều phương diện,
góc độ khác nhau. Dưới góc độ xã hội, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội
được phản ánh dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực, quy tắc điều
chỉnh (hoặc chi phối) hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con
người với con người, con người với tự nhiên và với chính bản thân mình. Mỗi
hình thái kinh tế hay mỗi giai đoạn đều có quy tắc sống không ghi thành văn bản
nhưng có vị trí to lớn trong đời sống của cộng đồng. Đạo đức là văn hóa của
cuộc sống, là biểu hiện của trình độ nhận thức của cá nhân và cũng là trình độ
dân trí xã hội; định hướng giá trị cuộc sống của mỗi cá nhân và điều chỉnh các
hành vi xã hội, đạo đức thúc đẩy xã hội tiến đến trình độ văn minh.
Theo quan điểm Mác - Lênin thì đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,

có nguồn gốc từ lao động, từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống cộng đồng xã
hội. Đạo đức phản ánh và chị sự chi phối của tồn tại xã hội. Mỗi phương thức
sản xuất lại làm nảy sinh một dạng đạo đức tương ứng và do vậy đạo đức có
tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế, thì khái
niệm "Đạo đức" cũng có thay đổi theo tư duy và nhận thức mới. Tuy nhiên,
không có nghĩa là các giá trị đạo đức cũ hoàn toàn mất đi, thay vào đó là các
giá trị đạo đức mới. Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, các giá trị đạo
đức hiện nay là sự kết hợp sâu sắc truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc
với xu hướng tiến bộ của thời đại, của nhân loại. Đó là tinh thần cần cù lao

15


động, sáng tạo, tình yêu quê hương đất nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có nếp sống văn minh lành
mạnh, có tinh thần nhân đạo và tinh thần quốc tế cao cả. Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội, chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế vật chất xã hội, đồng
thời nó cũng có quan hệ tương tác với các hình thái ý thức xã hội khác như
pháp luật, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục, khoa học…
Dưới góc độ của khoa học giáo dục, xem xét dưới phương diện cá
nhân, đạo đức là những phẩm chất nhân cách của con người gồm hai mặt:
"Đức" và "Tài", trong đó "Đức" được coi là cái gốc của các giá trị khác, phản
ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ trong
các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân họ với
người khác và với chính bản thân mình; là hệ thống thái độ ứng xử và thói
quen hành vi tốt đẹp của con người phù hợp với chuẩn mực giá trị của xã hội.
Về phương diện xã hội, đạo đức là hệ thống chuẩn mực giá trị quy định các
mối quan hệ của cá nhân với những người khác. Chuẩn mực đạo đức là những
yêu cầu khách quan của xã hội nhưng được cá nhân ý thức và chiếm lĩnh nó,

chuyển hoá thành hệ thống thái độ, hành vi của bản thân. Con người sinh ra
không phải đã có đạo đức mà thông qua giáo dục, thông qua các hoạt động,
giao lưu làm cho những quy định của xã hội thâm nhập vào mỗi cá nhân và
trở thành phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân.

16


Các quan niệm về đạo đức kể trên tuy có cách hiểu khác nhau tùy
theo góc độ tiếp cận, nhưng về mặt tổng quát đều có những điểm cơ bản
thống nhất như sau: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn
tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống xã hội. Đây là một phương thức
điều chỉnh hành vi của con người, giúp con người ngày càng hoàn thiện
hơn theo tiểu chuẩn của xã hội, giúp xã hội ngày càng phát triển hơn. Đạo
đức là một hệ các giá trị, các quy tắc, các chuẩn mực mà mọi người phải
tuân thủ theo trong mối quan hệ giữa cá nhân với các nhân, giữa cá nhân
với tập thể, với xã hội.
Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực do xã hội đề ra nhằm mục đích đánh giá và
điều chỉnh hành vi của cá nhâu trong quan hệ xã hội, với người khác, với bản
thân, làm cho hành động của cá nhân phù hợp với lợi ích xã hội.
* Học sinh trung học phổ thông và giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông
Học sinh trung học phổ thông là độ tuổi đang trong giai đoạn phát triển
mạnh mẽ về thể lực, tâm lý, sinh lý; tích cực tham gia vào đời sống xã hội và
hình thành cơ sở nhân cách của người công dân trong tương lai; là lứa tuổi
giàu ước mơ hoài bão, có khát vọng được cống hiến, mong muốn được xã hội
ghi nhận, thể hiện lý tưởng sống cao đẹp; các em có ý thức rèn luyện phẩm
chất đạo đức, có ý chí vươn lên trong học tập, chiếm lĩnh tri thức khoa học để
“lập thân”, “lập nghiệp”. Là giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh xuân nên học

sinh trung học phổ thông cần phải được giáo dục đạo đức, ý thức, tinh thần tự
tôn dân tộc của người công dân, hình thành thế giới quan, nhân sinh quan
khoa học cho các em.
Là lứa tuổi dồi dào về thể lực, trí tuệ, cảm xúc, nhạy bén, thích tìm tòi
cái mới, thông minh, năng động, sáng tạo, học sinh trung học phổ thông luôn

17


có ý thức học hỏi, có khát vọng tìm đến cái “chân, thiện, mỹ”; mong muốn tự
khẳng định bản thân với gia đình và xã hội, các em rất hứng thú khi tham gia
vào các hoạt động xã hội. Lứa tuổi này cũng nhận thức được các quy tắc, các
chuẩn mực đạo đức xã hội, có ý thức chính trị rõ nét, có lý tưởng và lẽ sống
đúng đắn, có ý thức tự học và tu dưỡng phẩm chất đạo đức. Các em có những
tình cảm lớn đối với dân tộc, quốc gia, nhân loại; có lòng nhân ái, biết sống
có nghĩa tình, có ý thức làm việc thiện; tình bạn phát triển mạnh mẽ, tình yêu
nam nữ nảy nở, có khả năng giao lưu phong phú, tự tôn, phóng khoáng, hào
hiệp, nhiệt tình, hăng hái trước những khó khăn, thử thách của cuộc sống. Cho
nên, đây là giai đoạn “nhạy cảm” trong việc giáo dục nâng cao nhận thức và
hành vi về các quan hệ xã hội, giao tiếp xã hội theo đúng chuẩn mực xã hội.
Tuy nhiên, do tác động của mặt trái kinh tế thị trường, xu thế hội nhập,
sự du nhập của các luồng văn hóa, tư tưởng ngoại lai dẫn đến: Một bộ phận
học sinh có biểu hiện định hướng chính trị - xã hội còn mờ nhạt; lý tưởng,
niềm tin chưa vững chắc; ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm công dân chưa
cao, mơ hồ; có xu hướng thực dụng, đua đòi chạy theo cái mới, chạy theo thị
hiếu tầm thường, dễ sa ngã, bị cuốn vào những tiêu cực về đạo đức của xã
hội, nhìn nhận và đánh giá con người, xã hội hay siêu hình, cực đoan. Ở lứa
thanh niên, kinh nghiệm sống còn hạn chế nên học sinh phổ thông trung học
đôi khi nhận thức và hành động không đi liền với nhau; tính tình hay nông
nổi, nóng vội, hấp tấp, có những hành vi thiếu suy nghĩ, bồng bột.

Nhận thức được đặc điểm này giúp cho nhà giáo dục lường trước được
các thuận lợi và khó khăn khi tổ chức các hoạt động giáo dục. Đồng thời có
sự thông cảm và chia sẻ với các em trong quá trình giáo dục, đặc biệt khi sử
dụng các phương pháp giáo dục. Do đó, giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông ngoài việc phải căn cứ vào các đặc điểm tâm, sinh lý và đặc
điểm đạo đức của họ để xác định phương châm giáo dục phù hợp còn phải

18


quan tâm, chú ý tới môi trường sống đang thay đổi quanh các em để xây dựng
và phát triển các phẩm chất đạo đức một cách bền vững.
Giáo dục đạo đức là một quá trình lâu dài, liên tục và phải được sự ủng
hộ, phối hợp không những giữa các lực lượng giáo dục trong nhà trường mà
còn giữa nhà trường với gia đình, các lực lượng ngoài xã hội cũng như sự tự
giác rèn luyện của bản thân học sinh. Giáo dục đạo đức có ý nghĩa quan trọng
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân.
Theo giáo sư Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt “Giáo dục đạo đức là quá
trình biến các chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối
với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu
cầu, thói quen của người được giáo dục”.
Theo cách tiếp cận giáo dục đạo đức ở nghĩa rộng, tác giả Phạm Minh
Hạc đã định nghĩa: “Giáo dục đạo đức là một quá trình kết hợp nâng cao nhận
thức với hình thành thái độ, cảm xúc, tình cảm, niềm tin và hành vi, thói quen
đạo đức”. Tác giả Hà Nhật Thăng cho rằng: “Giáo dục đạo đức là hình thành
ở mọi công dân thái độ đúng đắn, tình cảm niềm tin đạo đức trong sáng đối
với bản thân, mọi người, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc và với
mọi hiện tượng xảy ra xung quanh”. Như vậy, giáo dục đạo đức là lĩnh vực
hoạt động xã hội nhằm truyền đạt những kinh nghiệm xã hội lịch sử, chuẩn bị
cho thế hệ trẻ trở thành lực lượng nối tiếp sự phát triển xã hội, kế thừa và phát

triển nền văn hóa của loài người và của dân tộc.
Theo các tiếp cận ở nghĩa hẹp, tác giả Phạm Viết Vượng đã định nghĩa:
“Giáo dục đạo đức là quá trình tác động tới học sinh để hình thành cho họ ý
thức, tình cảm và niềm tin đạo đức và mục đích cuối cùng là tạo lập được
những thói quen hành vi đạo đức”. Và như vậy, giáo dục đạo đức là quá trình
tác động có mục đích, có kế hoạch, có quy trình chặt chẽ nhằm hình thành

19


thái độ, hành vi đạo đức cho thanh, thiếu niên theo mô hình nhân cách mà xã
hội mong muốn.
Mặc dù cách tiếp cận khác nhau, nhưng các khái niệm đều cho thấy,
bản chất của giáo dục đạo đức là quá trình biến hệ thống các nguyên tắc,
chuẩn mực xã đạo đức từ bên ngoài xã hội thành những đòi hỏi bên trong cá
nhân. Đó là quá trình khách thể hóa chủ thể, được chủ thể tiếp nhận một cách
tích cực nhằm đáp ứng các yêu cầu về đạo đức mà xã hội mong muốn. Qua
đó, hình thành và phát triển ý thức, tình cảm, niềm tin và thói quen hành vi
đạo đức cho đối tượng giáo dục. Quá trình giáo dục đạo đức có mối quan hệ
chặt chẽ với giáo dục chính trị tư tưởng, gắn bó chặt chẽ với giáo dục pháp
luật, những quy tắc, chuẩn mực về quyền lợi và nghĩa vụ của người công dân
xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục đạo đức là quá trình hai mặt, mặt tác động của nhà sư phạm
và mặt tiếp nhận tích cực của người được giáo dục, đó là sự chuyển hoá
những nhu cầu của xã hội thành những phẩm chất bên trong của cá nhân. giáo
dục đạo đức được thực hiện trong gia đình, nhà trường và trong môi trường xã
hội, với những hình thức đa dạng và những phương pháp phong phú, trong đó
giáo dục trong nhà trường có một vị trí đặc biệt quan trọng.
Đạo đức là kết quả của quá trình rèn luyện kiên trì, bền bỉ hàng ngày
của mỗi người. Đạo đức học sinh được hình thành và phát triển trong quá

trình giáo dục, có mục đích, có tổ chức, có sự quản lý, điều khiển của các nhà
quản lý giáo dục. Nhà quản lý tổ chức, điều khiển quá trình giáo dục, xác định
mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục phù hợp với sự
phát triển nhân cách học sinh, phù hợp với mục tiêu yêu cầu giáo dục chung
của nhà trường.
Dưới góc độ hoạt động nhân cách, giáo dục đạo đức là sự tác động qua
lại giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục, thông qua các hoạt động có tổ

20


chức, có mục đinh, nội dung, hình thức, phương pháp…nhằm nâng cao nhận
thức, hình thành tình cảm, thái độ, niềm tin, rèn luyện thói quen hành vi đạo
đức tốt đẹp theo mục tiêu giáo dục của nhà trường và phù hợp với chuẩn mực
giá trị của xã hội. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Hiền giữ đâu phải là tính sẵn,
phần nhiều do giáo dục mà nên”. Giáo dục tổ chức cho học sinh tham gia các
loại hình hoạt động phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và điều kiện sư phạm cụ thể;
tổ chức xây dựng, cải tạo môi trường và tạo môi trường thuận lợi cho sự phát
triển đạo đức, nhân cách của học sinh; phát hiện những ưu điểm, nhược điểm
về nhân cách của học sinh để có những biện pháp tác động sư phạm nhằm kích
thích, phát triển những tố chất tốt đẹp và khắc phục những tố chất xấu, làm cho
đạo đức, nhân cách học sinh ngày càng hoàn thiện.
Ngày nay, giáo dục đạo đức cho học sinh là giáo dục đạo đức xã hội
chủ nghĩa. Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức, pháp luật, làm
cho học sinh có tinh thần yêu nước, thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa,
thật sự say mê học tập, có ý thức tổ chức kỷ luật, kính thầy, yêu bạn, có nếp
sống lành mạnh, biết tôn trọng pháp luật. Đó là quá trình lâu dài, liên tục về
thời gian, không gian, từ mọi phương diện, mọi lực lượng trong xã hội. Trong
đó, nhà trường đóng vai trò hết sức quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến đạo
đức học sinh; Là một quá trình hình thành và phát triển các phẩm chất đạo

đức của nhân cách dưới tác động, ảnh hưởng có mục đích, có tổ chức, có kế
hoạch, có sự lựa chọn về nội dung, phương pháp, hình thức.
Giáo dục đạo đức trong trường phổ thông là một bộ phận của của quá
trình giáo dục tổng thể có quan hệ biện chứng với các quá trình giáo dục khác
như giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động
và giáo dục hướng nghiệp nhằm hình thành cho học sinh niềm tin, thói quen,
hành vi, chuẩn mực về đạo đức. Giáo dục đạo đức học sinh là quá trình tác
động tới học sinh của nhà trường, gia đình và xã hội, nhằm hình thành cho

21


học sinh ý thức, tình cảm, niềm tin đạo đức và xây dựng thể hiện được những
thói quen, hành vi đạo đức trong đời sống xã hội. Song giáo dục trong nhà
trường giữ vai trò chủ đạo định hướng.
Từ cách hiểu trên, có thể quan niệm, Giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông là quá trình tác động liên tục có mục đích, có kế hoạch
của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường đến học sinh nhằm
hình thành và phát triển ở các em ý thức, tình cảm, niềm tin đạo đức và rèn
luyện thói quen, hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội.
Bản chất giáo dục đạo đức là chuỗi tác động có định hướng của chủ thể
giáo dục và yếu tố tự giáo dục của học sinh, giúp học sinh nhận thức đúng,
tạo lập tình cảm và thái độ đúng, hình thành những thói quen, hành vi văn
minh trong cuộc sống, phù hợp với chuẩn mực xã hội.
Trong quá trình giáo dục nhà giáo dục và đối tượng giáo dục có quan
hệ tương tác; những tác động của nhà giáo dục đóng vai trò định hướng, sự
tiếp nhận và chuyển hoá có ý thức các giá trị của đối tượng giáo dục đóng
vai trò quyết định sự thành công của quá trình giáo dục. Ở nhà trường phổ
thông, giáo dục đạo đức là nhiệm vụ, trách nhiệm của các cấp uỷ, ban giám
hiệu nhà trường, mà trực tiếp là của cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà

trường và của các lực lượng giáo dục khác để nhằm hình thành cho học
sinh những tri thức đạo đức, chuẩn mực đạo đức, quy tắc đạo đức, tình cảm
đạo đức, sự đánh giá về đạo đức, từ đó góp phần hình thành ở ngư ời học
các quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức đúng đắn, tạo nên nền tảng vững
chắc cho sự phát triển toàn diện nhân cách.
Mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông. Mục
tiêu của giáo dục đạo đức là quá trình chuyển hoá những nguyên tắc, chuẩn
mực đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức nhân cách cho học
sinh, hình thành ở học sinh thái độ dúng đắn trong giao tiếp, ý thức tự

22


giác thực hiện các chuẩn mực của xã hội, thói quen chấp hành các quy
định của pháp luật.
Nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông: Giáo
dục cho học sinh nhận thức đúng đắn các chuẩn mực đạo đức, những giá trị chân
chính của các chuẩn mực đó. Đồng thời, khơi dậy ở học sinh những rung động,
những tình cảm đối với hiện thực xung quanh, có thái độ rõ ràng với những
hành vi đạo đức của bản thân và của mọi người trong xã hội. Qua đó, rèn
luyện thói quen, hành vi đạo đức đúng đắn cho học sinh.
Nội dung giáo dục đạo đức. Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh
thể hiện trong hệ thống những giá trị đạo đức nhân văn, có ý nghĩa rất quan
trọng trong quá trình giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách cho học
sinh. Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh bao gồm các chuẩn mực và qui
tắc đạo đức về mục đích cuộc sống bản thân, về lối sống cá nhân, về các mối
quan hệ trong gia đình, trong tập thể và ngoài xã hội, về cuộc sống lao động
sáng tạo, về nghĩa vụ lao động và bảo vệ Tổ quốc.
Phương pháp giáo dục đạo đức, là cách thức tác động của các nhà
giáo dục lên đối tượng giáo dục những chuẩn mực đạo đức cần thiết, phù

hợp với nền đạo đức xã hội. Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông rất đa dạng và phong phú. Các nhà giáo dục và quản lý
giáo dục phải vận dụng linh hoạt cho phù hợp với mục đích, đối tượng và
tình huống cụ thể như thuyết phục; nêu gương; đối thoại, tranh luận; tổ chức
rèn luyện, hình thành thói quen hành vi tốt đẹp, tạo tình huống giáo dục; đòi
hỏi sư phạm; phương pháp thi đua, khen thưởng, trách phạt…
Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông bao
gồm 3 nhóm cơ bản. Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cá nhân. Bao
gồm các phương pháp cụ thể: Phương pháp thuyết phục; phương pháp đàm
thoại; phương pháp tranh luận; phương pháp nêu gương. Nhóm các phương

23


pháp tổ chức hoạt động xã hội và hình thành kinh nghiệm ứng xử. Bao gồm
các phương pháp cụ thể như: Đòi hỏi sư phạm; phương pháp luyện tập;
phương pháp rèn luyện; phương pháp giao công việc; phương pháp tạo dư
luận xã hội; phương pháp tạo tình huống giáo dục. Nhóm các phương pháp
kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử của học sinh. Bao gồm:
Phương pháp thi đua; phương pháp khen thưởng; phương pháp trách phạt.
Hình thức giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, nó được
tiến hành thông qua các hình thức như: Thông qua giảng dạy học tập môn
giáo dục công dân và các bộ môn khác theo chương trình; thông qua việc
tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khoá, tham quan
dã ngoại; thông qua các buổi sinh hoạt truyền thống, sinh hoạt dưới cờ
vào thứ hai hàng tuần; thông qua các phong trào thi đua của Đội Thiếu
niên tiền phong Hồ Chí Minh; qua hoạt động văn hoá, văn nghệ; qua hoạt
động từ thiện, đền ơn đáp nghĩa và giáo dục đạo đức bằng cách “củng cố
tăng cường giáo dục ở gia đình và cộng đồng, kết hợp chặt chẽ với giáo

dục nhà trường”....
Hiện nay, giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông thông
qua các hình thức cơ bản: Qua dạy học các môn khoa học xã hội và các môn
khoa học tự nhiên, đặc biệt là các môn Văn học, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục
công dân... nhằm trang bị cho học sinh kiến thức của các môn học có liên
quan đến giá trị, thái độ và cách cư xử, hành vi đạo đức trong xã hội, giúp họ
có nhận thức, thái độ và hành vi đúng trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức bản
thân, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Qua lao động, giáo dục cho học sinh nhận
thức đúng về mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi trong lao động, quý
trọng sức lao động, biết làm các công việc phục vụ bản thân và giúp đỡ mọi
người xung quanh… qua đó có thái độ đúng với lao động, yêu lao động, biết

24


bảo vệ, trân trọng thành quả lao động của mình và người khác. Thông qua tổ
chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Các hoạt động ngoại khoá tương ứng
sẽ giúp học sinh hình thành niềm tin, rèn luyện kỹ năng và thói quen hành vi
ứng xử, giao tiếp có văn hoá, phù hợp với các chuẩn mực. Hoạt động ngoại
khoá giúp các em có cuộc sống lành mạnh, vui tươi, sôi nổi, gắn bó và đoàn
kết với nhau. Thông qua hình thức tự rèn, tự tu dưỡng, tự hoàn thiện nhân
cách. Đây là hình thức giáo dục cơ bản, quan trọng nhất, học sinh vừa là
khách thể nhưng lại là chủ thể của quá trình tự giáo dục, trình độ đạo đức
của học sinh phải do chính họ quyết định. Thông qua tự học, tự rèn, tự hoàn
thiện nhằm phát huy yếu tố nội lực giúp các em tự tạo hàng rào miễn dịch,
biết tự lựa chọn cách hành vi, thái độ ứng xử đạo đức phù hợp. Giáo dục đạo
đức cho học sinh bằng sự gương mẫu của người thầy. Giáo dục đạo đức là
quá trình dùng nhân cách để giáo dục nhân cách. Sự gương mẫu, mô phạm
của người thầy là tấm gương trực tiếp và hiệu quả nhất trong giáo dục đạo
đức cho học sinh.

1.1.2. Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường
trung học phổ thông
Quản lý là một khái niệm rộng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do
đó, khái niệm quản lý luôn gắn với các loại hình quản lý cụ thể. Trong mỗi
cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những khái niệm
khác nhau:
Theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con người. Quản
lý chính là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động của
những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn . Quản lý còn được hiểu
là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng
bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định.
Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý để chỉ huy, điều khiển hướng dẫn các

25


quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích,
đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với quy luật khách quan.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Ngọc Quang và Trần Khánh
Đức cho rằng, quản lý là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ
thể quản nhằm định hướng, tổ chức các hoạt động của khách thể quản lý hay các
nguồn nhân lực để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
Ở góc độ khác, tác giả Trần Kiểm cho rằng Quản lý là nhằm phát huy
sự nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành
những thành tựu của xã hội. Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục
đích đến tập thể người - thành viên của hệ - nhằm làm cho hệ vận hành thuận
lợi và đạt tới mục đích dự kiến.
Mặc dù có rất nhiều cách tiếp cận và khái niệm khác nhau về quản
lý, song nhìn chung các định nghĩa đều thể hiện: Quản lý là một hoạt động
luôn có trong quá trình lao động xã hội. Lao động quản lý là điều kiện

quan trọng làm cho xã hội loài người tồn tại và phát triển. Nó được tiến
hành trong một tổ chức hay một hệ thống xã hội. Đó là sự tác động có tổ
chức, có hướng đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt
được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường. Quản lý
vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Bởi thế, trong quá trình thực hiện hoạt
động quản lý, người cán bộ quản lý phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo, sáng
tạo để chỉ đạo hoạt động của tổ chức một cách khoa học nhằm đạt được mục
đích đề ra của tổ chức.
Như vậy, quản lý là quá trình chủ thể quản lý tác động vào đối tượng
quản lý nhằm huy động, sử dụng, điều chỉnh các nguồn lực (nhân lực, tài lực,
vật lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt
được mục tiêu của tổ chức với hiệu quả cao nhất.

26


×