MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức nghề nghiệp là phẩm chất quan trọng của nhân cách; là nền
tảng, là động lực thôi thúc, khơi dậy lòng nhiệt huyết, trách nhiệm của cá
nhân đối với nghề nghiệp. Việc giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo
đức nghề nghiệp nói riêng là trung tâm chú ý của các cơ sở giáo dục, các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp và của toàn xã hội. Nghiên cứu về đạo đức nghề
nghiệp, phát huy ý thức đạo đức nghề nghiệp là góp phần làm rõ được vai trò
của ý thức xã hội đối với sự phát triển của tồn tại xã hội.
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp có vai trò quan trọng trong việc hình thành
và phát triển nhân cách, là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng của hệ thống giáo dục và
của các học viện, trường đại học, cao đẳng, dạy nghề. Văn kiện Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám khóa XI khẳng định: “Đào tạo con
người Việt Nam, phát triển toàn diện, có đạo đức tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [16, tr. 79].
Trong những năm gần đây, lực lượng CAND luôn thường xuyên quan
tâm đến công tác xây dựng lực lượng. Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh
đạo Bộ Công an đã tổ chức quán triệt và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các chỉ
thị, nghị quyết của Đảng, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong
thực hiện công tác xây dựng lực lượng CAND vững mạnh, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Bộ Công an ban hành nhiều chủ
trương, biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên, cán bộ, chiến sĩ,
lấy việc xây dựng phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị, lòng
trung thành với Đảng làm mục tiêu giáo dục, rèn luyện; tổ chức thực hiện có
hiệu quả Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh - CAND vì nước quân thân, vì dân phục vụ", phong trào "Học tập và
3
thực hiện nghiêm túc 6 điều Bác Hồ dạy CAND" gắn với việc thực hiện
phong trào thi đua "Vì an ninh Tổ quốc", tổ chức tốt cuộc vận động: "CAND
chấp hành nghiêm điều lệnh; Xây dựng nếp sống văn hóa, vì nhân dân phục
vụ" tạo khí thế thi đua sôi nổi trong toàn lực lượng.
Là một trong các trường trực thuộc Bộ Công an, Trường Cao đẳng
ANND I có nhiệm vụ đào tạo cán bộ có trình độ cao đẳng và trung cấp chính
quy. Trải qua 48 năm xây dựng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của Đảng ủy, BGH nhà trường và sự quan tâm chỉ đạo của Đảng ủy Công an
Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an, lãnh đạo Tổng cục Chính trị CAND, sự
phối hợp giúp đỡ của các cơ quan đơn vị trong và ngoài ngành, của cấp ủy,
chính quyền và nhân dân các địa phương nơi trường đóng quân, các thế hệ
cán bộ được đào tạo tại Trường Cao đẳng ANNDI luôn phấn đấu hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được Bộ Công an giao.
Hiện nay Trường Cao đẳng ANND I đang đào tạo đồng thời 2 hệ học
cao đẳng và trung cấp, đối tượng học viên chính quy tập trung tại trường gồm:
Học viên tốt nghiệp phổ thông trung học, học viên là hạ sĩ quan, chiến sĩ phục
vụ có thời hạn trong CAND, học viên hệ cử tuyển gồm: học viên là cán bộ
công an từ các địa phương cử đi học và học viên là học viên tốt nghiệp
Trường Văn hóa I - Bộ Công An. Tuy nhiên qua tổng kết đánh giá, bên cạnh
những thành công vượt bậc đã đạt được còn một số hạn chế, đó là vẫn còn
một bộ phận học viên mắc khuyết điểm, tình trạng học viên vi phạm kỷ luật
vẫn còn xảy ra. Một bộ phận học viên tốt nghiệp ra trường, trở thành cán bộ
an ninh công tác trong ngành có dấu hiệu suy thoái về đạo đức nghề nghiệp,
lối sống, kém rèn luyện bộc lộ những biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật,
gây phiền hà sách nhiễu nhân dân ảnh hưởng nghiêm trọng tới uy tín của lực
lượng CAND, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Đứng trước thực tế đó, để tiếp tục đảm bảo chất lượng giáo dục, đào tạo
của các trường CAND nói chung, Trường Cao đẳng ANND I nói riêng, góp
4
phần đào tạo nguồn nhân lực là những cán bộ chiến sĩ CAND vừa "hồng" vừa
"chuyên", cần có những biện pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: "Quản lý giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho học viên ở Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I"
làm đề tài luận văn thạc sĩ, với mong muốn tìm ra lời giải cho bài toán thực tiễn trên
.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Một số quan điểm, tư tưởng tiêu biểu về đạo đức nghề nghiệp, giáo
dục đạo đức nghề nghiệp
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo
đức đã xuất hiện cách đây hơn 2600 năm trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ
và Hy Lạp cổ đại. Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người
Trung Quốc cổ đại xuất hiện sớm, trong đó những quan niệm về đạo và đức
của họ được biểu hiện khá rõ nét. Đạo đức là một trong những phạm trù quan
trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Còn ở phương Tây, vấn đề đạo
đức từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà tư tưởng. Cho đến nay, người
ta vẫn coi Xôcrat (469-399 TCN) là người đầu tiên đặt nền móng cho khoa
học đạo đức. Còn Arixtốt (384-322 TCN) đã viết bộ sách Đạo đức học với 10
cuốn, trong đó ông đặc biệt quan tâm đến phẩm hạnh con người.
Khi nghiên cứu về sự phát triển của xã hội loài người, trên cơ sở thế
giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các nhà kinh điển Mac Lênin đã chỉ ra sự tất yếu xuất hiện của một kiểu đạo đức mới trong lịch sử đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân. Theo Ph. Ăngghen, đây là nền
đạo đức “đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của tương
lai, tức là đạo đức vô sản, là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những
nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài”. V.I. Lênin đã chỉ ra thực chất cách
mạng của nội dung đạo đức mới đó là: “Những gì góp phần phá hủy xã hội cũ
5
của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung
quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng
sản". Luận điểm này đã đặt cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu quản
lý giáo dục phẩm chất nhân cách trong đó có giáo dục đạo đức nhằm đảm bảo
cho con nguời phát triển một cách toàn diện.
Hồ Chí Minh (1890 - 1969), vừa là nhà giáo dục vừa là nhà tổ chức
thực tiễn về quản lý giáo dục và coi giáo dục là một nhiệm vụ trọng tâm của
cách mạng. Người coi trọng cả đức và tài trong nhân cách người cán bộ, đảng
viên, nhưng trong đó đức phải là gốc, đức phải có trước tài. Người nói: “Cũng
như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đức, không có
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [24, tr.252 253]. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến ĐĐNN, coi đó là một trong những yếu tố
quyết định thành công trong lao động nghề nghiệp. Người chỉ yêu cầu về
ĐĐNN ở một số lĩnh vực như nghề y, nghề giáo, nghề làm báo, kinh doanh,
cán bộ chiến sĩ quân dội, công an... Bàn về quản lý giáo dục Người rất coi
trọng nguyên tắc khoa học trong quá trình kế hoạch hóa. Người căn dặn, khi
lập kế hoạch giảng dạy, học tập đều cần phải tuân theo nhu cầu của dân tộc,
của Nhà nước; chớ đặt những chương trình kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được. Người nhấn mạnh, một chương trình
nhỏ mà thực hiện được hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm
không được. Như vậy, theo Người, tính thiết thực và công tác quản lý phải
xuyên suốt trong tất cả các khâu, các bước của quá trình giáo dục.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức nghề nghiệp; về quản lý; về giáo dục và quản lý giáo dục là cơ sở lý luận
khoa học, là những luận điểm sư phạm định hướng quá trình giáo dục đạo
đức, đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên, đội ngũ cán bộ, đảng viên.
* Một số công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục
đạo đức nghề nghiệp
6
Về quản lý giáo dục có các công trình như: “Một số khái niệm về quản
lý giáo dục” của Đặng Quốc Bảo (1997); “Khoa học quản lý giáo dục - một
số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Kiểm (2004); “Quản lý Nhà nước về
giáo dục, lý luận và thực tiễn” của Đặng Bá Lãm (2005).
Khi nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức các tác giả đã đề cập
đến mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức. Tiêu biểu phải kể
đến công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước được tổng kết trong tác
phẩm “ Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” - do Phạm Minh Hạc chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia, 2001).
Lần đầu tiên trong lịch sử, khái niệm đạo đức được thoát khỏi tư duy sao
chép, xác định chuẩn mực giá trị đạo đức không chỉ là quan hệ con người
với con người mà trên 5 quan hệ (với bản thân, với người khác, với công
việc, với môi sinh và lý tưởng của cộng đồng).
Về mục tiêu giáo dục đạo đức, tác giả Phạm Minh Hạc đã nêu rõ:
“Trang bị cho mọi người những tri thức cần thiết về tư tưởng chính trị, đạo
đức nhân văn, kiến thức pháp luật và văn hoá xã hội... Tổ chức tốt giáo dục
giới trẻ; rèn luyện để mọi người tự giác thực hiện những chuẩn mực đạo đức
xã hội, có thói quen chấp hành quy định của pháp luật, nỗ lực học tập và rèn
luyện, tích cực cống hiến sức lực, trí tuệ vào sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước”. Ông đã nêu lên sáu giải pháp giáo dục đạo đức con
người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước,
trong đó có: “Tiếp tục đổi mới nội dung hình thức giáo dục đạo đức trong
các trường học, cũng cố ý tưởng giáo dục đạo đức ở nhà trường trong việc
giáo dục đạo đức cho mọi người. Kết hợp chặt chẽ với giáo dục đạo đức
với việc thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp của cơ quan thi hành pháp luật.
Tổ chức thống nhất các phong trào thi đua yêu nước và các phong trào rèn
luyện đạo đức, lối sống cho toàn dân, trước hết là cán bộ, đảng viên, cho
thầy trò các trường học...”.
7
Tác giả Hà Nhật Thăng với nghiên cứu “Giáo dục hệ thống giá trị đạo
đức nhân văn (1998). Cuốn tài liệu được nhiều người biết đến bởi tác giả đã
nêu lên được hệ thống giá trị đạo đức nhân văn của con người Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Tác giả Phạm Khắc Chương đã đi sâu bàn về giáo dục đạo đức trong
tác phẩm “Chi nam nhân cách học trò” (1992), Nxb Đại học Sư phạm Hà nội
(2000) và tác phẩm "Một số vấn đề giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức ở
trường phổ thông”, Nxb Giáo dục (1995).
Tác giả Đặng Vũ Hoạt (1992), trong công trình nghiên cứu “Đổi mới
hoạt động giáo viên chủ nhiệm lớp với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên”,
Tập san nghiên cứu giáo dục, số 8. Ông đã đi sâu nghiên cứu vai trò của giáo
viên chủ nhiệm trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh và đưa ra một
số định hướng cho giáo viên chủ nhiệm trong việc đổi mới nội dung, cải tiến
phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh ở nhà trường phổ thông.
Tác giả Nguyễn Kim Bôi (2012) nghiên cứu về “ Một số giải pháp
nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông Trần
Đăng Ninh - Hà Tây”. Từ thực trạng đạo đức của học sinh của nhà trường mà
tác giả coi là tiêu biểu cho đặc điểm của nhiều trường ở nông thôn Việt Nam,
tác giả đã đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
cho học sinh trung học phổ thông.
Bên cạnh đó, có nhiều công trình bàn về chuẩn mực đạo đức của con
người Việt Nam, tiêu biểu là Nguyễn Viết Chức (chủ biên 2001), “Đạo đức,
lối sống và đời sống văn hóa Thủ đô trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội; Nguyễn Thanh
Duy (2004) “Văn hóa đạo đức, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội...
Đặc biệt, trong 2 công trình nghiên cứu của tác giả Huỳnh Khái Vinh,
“Việt Nam tinh hoa đạo đức” (2001), Nxb Hà Nội và “Một số vấn đề về lối
8
sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội” (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tác giả đã đề cập đến vấn đề cơ bản của lối sống, đạo đức, chuẩn mực, giá trị
xã hội, mối quan hệ giữa lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội truyền thống
và cách mạng, những kinh nghiệm và bài học của một số nước, thực trạng,
phương hướng, quan điểm và giải pháp xây dựng lối sống đạo đức, chuẩn giá
trị trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Tác giả Đỗ Đình Dũng với đề tài "Hệ thống biện pháp giáo dục đạo
đức cho học sinh đào tạo sĩ quan Phòng không - Không quân ở Học viện
Phòng - Không Không quân hiện nay”, Luận văn thạc sĩ giáo dục học năm
2006. Công trình đã nghiên cứu đề xuất các biện pháp về đổi mới nhận thức
về giáo dục đạo đức; đổi mới về nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức;
đa dạng hóa hình thức tổ chức giáo dục đạo đức; xây dựng mội trường sư
phạm thuận lợi cho việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cho học viên.
Về đạo đức nghề nghiệp, văn hoá đạo đức nghề nghiệp có các công
trình:“Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức nghề nghiệp trong nền kinh tế thị
trường với việc xây dựng đạo đức nghề nghiệp mới cho cán bộ quản lý ở
nước ta hiện nay” của Nguyễn Chí Mỳ (1999); “Văn hoá đạo đức nghề
nghiệp, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Thành Duy (2004).
Tác giả của các công trình trên tìm hiểu tác động của cơ chế thị trường
đến đời sống văn hoá đạo đức nghề nghiệp và đều thống nhất cho rằng, sự
biến đổi của hệ thống giá trị đạo đức nghề nghiệp, văn hoá đạo đức nghề
nghiệp ở nước ta hiện nay là một tất yếu; đề cập đến thực trạng đạo đức nghề
nghiệp và đưa ra một số giải pháp khắc phục tình trạng xuống cấp về đạo đức
nghề nghiệp ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước.
Về giáo dục đạo đức nghề nghiệp có các công trình như: "Những giải
pháp giáo dục đạo đức cho sỹ quan Biên phòng ở đơn vị cơ sở trong tình
hình hiện nay”(2001), Luận án tiến sỹ giáo dục học của tác giả Trần Ngọc
Tuân; tác giả Nguyễn Bá Hùng (2010), luận án tiến sĩ "Giáo dục đạo đức
9
nghề nghiệp cho học viên sư phạm trong nhà trường quân sự hiện nay";
Nguyễn Thanh Phú (2014), luận án tiến sĩ "Quản lý giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm Miền Đông nam bộ". Trần
Xuân Thọ (2012) “Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên
Trường Cao đẳng Nghề Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay”; Nguyễn Quốc
Tuấn (2014), "Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
trường cao đẳng sư phạm Quảng Ninh"
Tuy tiếp cận vấn đề quản lý giáo dục và quản lý giáo dục trong các giai
đoạn lịch sử ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau nhưng nhìn chung các tác
giả đều đi đến thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của quản
lý, quản lý giáo dục và xem đây là một quá trình, một khâu quan trọng quyết
định đến việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo.
Tóm lại, cho đến nay có một số nghiên cứu có liên quan đến vấn đề
quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp . Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào đề
cập trực tiếp về quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên Trường
Cao đẳng ANND I. Song, những nghiên cứu trên có thể được chúng tôi kế
thừa, vận dụng trong nghiên cứu đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên, từ đó đề xuất biện
pháp quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên ở Trường Cao
đẳng ANND I nhằm nâng cao lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho học viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
của Nhà trường.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về giáo dục đạo đức nghề nghiệp và
quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên các trường cao đẳng.
10
Khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp và quản lý
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên ở Trường Cao đẳng ANND I.
Đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học
viên ở Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu: Quản lý giáo dục phẩm chất nhân cách học
viên ở Trường Cao đẳng ANND I.
* Đối tượng nghiên cứu: Quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
học viên ở Trường Cao đẳng ANND I.
* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các biện pháp
quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên ở Trường Cao đẳng
ANND I, với đối tượng học viên được đào tạo chính quy tập trung tại trường.
Các số liệu điều tra, khảo sát, báo cáo, tổng kết sử dụng trong đề tài được lấy
từ năm 2012 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý giáo dục nói chung, quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
học viên ở Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I nói riêng là chức năng,
nhiệm vụ chính của các cán bộ quản lý, đứng đầu là hiệu trưởng. Nếu các chủ
thể quản lý thực hiện khoa học, chặt chẽ các biện pháp, như: Tổ chức giáo
dục nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các chủ thể trong giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho cho học viên; kiện toàn bộ máy quản lý giáo dục
học viên đáp ứng mục tiêu đào tạo của nhà trường; kế hoạch hóa công tác giáo
dục đạo đức nghề nghiệp; phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã
hội trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên; tăng cường kiểm tra,
đánh giá kết quả giáo dục, thì sẽ quản lý được công tác giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho học viên trường Cao đẳng ANND I, góp phần trực tiếp
vào nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường trong tình hình mới."
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
* Phương pháp luận nghiên cứu
11
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt và cụ thể hóa các quan
điểm của Đảng về giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện trong
điều kiện CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Đồng thời, luận văn sử
dụng các quan điểm hệ thống - cấu trúc, lịch sử - lôgic và quan điểm thực tiễn
để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đã xác định.
* Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các tài liệu liên quan và đưa ra các
nhận định độc lập về giáo dục đạo đức nghề nghiệp và quản lý giáo dục đạo
đức nghề nghiệp; chủ trương, đường lối, nghị quyết, chính sách của Đảng và
nhà nước, các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công an về giáo dục
đạo đức nghề nghiệp và quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp để luận giải
làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp quan sát: Thực hiện quan sát hoạt động giáo dục đạo
đức nghề nghiệp và quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên để
đưa ra đánh giá, kết luận về thực trạng và đề xuất các biện pháp có tính khả
thi cho việc quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên Trường Cao
đẳng ANND I.
+ Phương pháp điều tra: Điều tra 125 cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên
và 180 học viên đào tạo chính quy tại trường, nhằm thu thập thông tin, số liệu
minh chứng cho những nhận định, phân tích, đánh giá về thực trạng quản lý giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên Trường Cao đẳng ANND I, xác định
nguyên nhân, tìm ra các yếu tố tác động đến quản lý giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho học viên một cách phù hợp, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp quản
lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên Nhà trường trong thời gian tới.
12
+ Phương pháp tọa đàm, trao đổi: Thực hiện phỏng vấn, lấy ý kiến của
giảng viên, cán bộ quản lý, học viên; tọa đàm, trao đổi để nắm được những đề
xuất, kiến nghị liên quan đến nhu cầu bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng giáo dục
đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn: Nghiên cứu các văn bản,
báo cáo tổng kết về quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu bổ trợ:
+ Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Xin ý kiến chuyên gia về những
vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến quản lý giáo dục đạo đức cho học
viên để rút ra những kết luận về vấn đề nghiên cứu.
+ Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng toán thống kê để xử lý
các số liệu, kết quả khảo sát thực trạng và khảo nghiệm.
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần cung cấp những luận cứ khoa học để cán bộ quản lý
giáo dục và giảng viên Trường Cao đẳng ANNDI vận dụng vào quá trình giáo
dục, quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên. Luận văn có thể làm
tài liệu phục vụ quá trình giáo dục ở các trường cao đẳng của Bộ Công an.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn có kết cấu bao gồm: Phần mở đầu; 3 chương (8 tiết); Kết luận
và kiến nghị; Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG AN NINH NHÂN DÂN
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Đạo đức nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp của người công
an nhân dân
* Đạo đức và đạo đức nghề nghiệp
Đạo đức là một phạm trù được rất nhiều lĩnh vực khoa học nghiên cứu
như: triết học, đạo đức học, giáo dục học, xã hội học, tâm lý học, giá trị học…
mỗi lĩnh vực có một cách tiếp cận riêng và đã tạo ra một hệ thống lý luận rất
phong phú và sâu sắc.
Dưới góc độ Triết học: "đạo đức là một trong những hình thái sớm
nhất của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực điều
tiết hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng.
Căn cứ vào những quy tắc ấy, người ta đánh giá hành vi, phẩm giá của mọi
người bằng các quan niệm về thiện ác, chính nghĩa và phi nghĩa, nghĩa vụ
và danh dự".
Dưới góc độ Đạo đức học: "đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội".
Dưới góc độ Giáo dục học: "'đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt bao gồm một hệ thống các quan niệm về cái thực, cái có trong mối quan
hệ của con người với con người".
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì đạo đức: "là phép tắc về quan hệ giữa
người với người, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội".
Theo quan điểm Mác - Lênin thì đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
có nguồn gốc từ lao động, từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống cộng đồng xã
hội. Đạo đức phản ánh và chị sự chi phối của tồn tại xã hội. Mỗi phương thức
14
sản xuất lại làm nảy sinh một dạng đạo đức tương ứng và do vậy đạo đức có
tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế, thì khái
niệm "Đạo đức" cũng có thay đổi theo tư duy và nhận thức mới. Tuy nhiên,
không có nghĩa là các giá trị đạo đức cũ hoàn toàn mất đi, thay vào đó là các
giá trị đạo đức mới. Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, các giá trị đạo
đức hiện nay là sự kết hợp sâu sắc truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc
với xu hướng tiến bộ của thời đại, của nhân loại. Đó là tinh thần cần cù lao
động, sáng tạo, tình yêu quê hương đất nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có nếp sống văn minh lành
mạnh, có tinh thần nhân đạo và tinh thần quốc tế cao cả. Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội, chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế vật chất xã hội, đồng
thời nó cũng có quan hệ tương tác với các hình thái ý thức xã hội khác như
pháp luật, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục, khoa học…
Các quan niệm về đạo đức kể trên tuy có cách hiểu khác nhau tùy theo
góc độ tiếp cận, nhưng về mặt tổng quát đều có những điểm cơ bản thống
nhất như sau: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội,
phản ánh hiện thực đời sống xã hội. Đây là một phương thức điều chỉnh hành
vi của con người, giúp con người ngày càng hoàn thiện hơn theo tiểu chuẩn
của xã hội, giúp xã hội ngày càng phát triển hơn. Đạo đức là một hệ các giá
trị, các quy tắc, các chuẩn mực mà mọi người phải tuân thủ theo trong mối
quan hệ giữa cá nhân với các nhân, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội.
Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực do xã hội đề ra nhằm mục đích đánh giá và
điều chỉnh hành vi của cá nhâu trong quan hệ xã hội, với người khác, với bản
thân, làm cho hành động của cá nhân phù hợp với lợi ích xã hội. Nói cách
khác, đạo đức là những quy tắc, chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được hình
thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận và tự giác thực
15
hiện, phản ánh những quan hệ xã hội hiện thực, được dựa trên cơ sở kinh tế,
chính trị - xã hội nhất định.
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử đều có những
nguyên tắc hay chuẩn mực đạo đức tương ứng gắn liền với hành vi, thói quen,
tập quán sống, nên đạo đức thường xuyên biến đổi theo tiến trình phát triển của
nhân loại; nghĩa là, có những giá trị đạo đức của ngày hôm qua, nhưng hôm nay
không còn phù hợp; hay có những giá trị đạo đức của dân tộc này, nhưng ở dân
tộc khác, giai cấp khác lại không được thừa nhận. Do đó, đạo đức mang tính giai
cấp, tính dân tộc và tính thời đại sâu sắc.
Đạo đức nghề nghiệp là một nhánh trong hệ thống đạo đức xã hội, là
một loại đạo đức đã được thực tiễn hoá. Trong xã hội có bao nhiêu nghề thì có
bấy nhiêu thứ ĐĐNN. Nó là đạo đức được thể hiện một cách đặc thù, cụ thể
trong các hoạt động nghề nghiệp. ĐĐNN cũng có những nguyên tắc, chuẩn
mực được dư luận xã hội thừa nhận và quy định những hành vi ứng xử trong
mối quan hệ xã hội. Đó là những qui tắc, chuẩn mực của một nghề nghiệp
hoặc một nhóm nghề nghiệp nào đó, nó qui định những hành vi ứng xử của
những cá nhân khi hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp đó. Với tính cách là
một dạng của đạo đức xã hội, ĐĐNN có quan hệ chặt chẽ với đạo đức cá
nhân và thể hiện thông qua đạo đức cá nhân.
C.Mác đã thể hiện bản lĩnh của mình khi viết rằng, “Nếu ta chọn một
nghề trong đó ta có thể làm việc được nhiều hơn cho nhân loại, thì ta không
còng lưng dưới gánh nặng của nó, bởi vì đó là sự hy sinh vì mọi người.
Những việc làm của ta sẽ sống một cuộc sống âm thầm nhưng mãi mãi có
hiệu quả, và trên thi hài của chúng ta sẽ nhỏ xuống những giọt nước mắt nóng
bỏng của những con người cao quý”.
Từ phân tích trên, đề tài quan niệm: Đạo đức nghề nghiệp là hệ thống
các nguyên tắc ứng xử, các chuẩn mực hành vi đòi hỏi phải tuân theo trong
hoạt động nghề nghiệp, đáp ứng đòi hỏi có tính đặc trưng của lĩnh vực nghề
nghiệp đó.
16
Đặc trưng của ĐĐNN được biểu hiện ở các yêu cầu, đòi hỏi, chuẩn mực
nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi con người trong lao động nghề nghiệp.
Mỗi một lĩnh vực nghề nghiệp đều có chuẩn mực ĐĐNN chung: Ví dụ
khi nói đến đạo đức của ngành y thì đó là: “lương y như từ mẫu”.Với những
người làm công tác dịch vụ xã hội thì: “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách
đi”. Đối với ngành giáo dục, một khẩu hiệu chung cho các cấp học là: “Tất cả
vì học sinh thân yêu”. Đó chính là ĐĐNN của người thầy giáo.
* Đạo đức nghề nghiệp của người Công an nhân dân
Đạo đức nghề nghiệp của người CAND là hệ thống các nguyên tắc ứng
xử, chuẩn mực hành vi đòi hỏi người công an phải tuân theo trong hoạt động
nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi đặc trưng của nhiệm vụ bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
ĐĐNN của người CAND là phẩm chất nhân cách quan trọng hàng đầu,
có ý nghĩa quyết định việc hoàn thành chức trách, nhiệm vụ, giữ gìn uy tín,
danh dự người CAND.
Các học viện, trường đại học, cao đẳng và trung cấp CAND làm nhiệm vụ
đào tạo đội ngũ sĩ quan, hạ sĩ quan đảm nhiệm nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc
gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, ĐĐNN của cán bộ, chiến sĩ CAND
ngoài những yêu cầu về ĐĐNN của người cán bộ, đảng viên nói chung, còn phải
có những yêu cầu riêng của Ngành công an.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt tới việc xây
dựng nhân cách người công an cách mạng. Bác dạy “công việc của công an
âm thầm nhưng rất quan trọng”, “CAND phải kiểu mẫu, phải là người chuyên
trách thi hành chính sách, phương châm của Đảng và Chính phủ cho tốt”,
“Phải là người chiến sỹ đánh địch thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc
hoà bình lại càng nhiều việc". Vì vậy với lực lượng CAND thì phẩm chất đạo
đức phải đạt chuẩn theo 6 điều Bác Hồ dạy:
“Với tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính.
17
Với đồng sự phải thân ái giúp đỡ.
Với chính phủ phải tuyệt đối trung thành.
Với nhân dân phải kính trọng lễ phép.
Với công việc phải tận tuỵ.
Đối với địch phải cương quyết khôn khéo.” [24, tr.498-499]
“Tư cách người Công an cách mệnh” đã trở thành di sản tinh thần
thiêng liêng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của lực lượng CAND; là
chuẩn mực đạo đức, lối sống, mục tiêu phấn đấu, rèn luyện, phương châm
hành động, biện pháp công tác của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ công an; là
nguồn gốc, động lực, cội nguồn sức mạnh để lực lượng CAND vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Nội dung Sáu điều Bác Hồ dạy là sự khái quát hình mẫu người cán bộ,
chiến sĩ CAND với những phẩm chất quan trọng: Có lập trường tư tưởng vững
vàng, kiên định, có ý chí tiến công cách mạng, tuyệt đối trung thành với sự
nghiệp cách mạng do Đảng và Bác Hồ lựa chọn; sẵn sàng hy sinh để bảo vệ
Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, chế độ xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp đổi mới
đất nước và hội nhập quốc tế; hết lòng vì nhân dân phục vụ, lấy niềm vui và
hạnh phúc của nhân dân làm niềm vui, lẽ sống của mình. Học tập và thực hiện
Sáu điều Bác Hồ dạy CAND đã trở thành phong trào thi đua rộng lớn, liên tục
trong 70 năm qua, luôn là nội dung trọng tâm công tác chính trị, tư tưởng của lực
lượng CAND trong các giai đoạn cách mạng trước đây, cũng như trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế.
1.1.2. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên ở trường cao đẳng
an ninh nhân dân
Giáo dục đạo đức là một nhiệm vụ, nội dung quan trọng của quá trình
giáo dục. Nếu hiểu giáo dục là "Tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần,
thể chất của con người, để họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực
như yêu cầu đề ra". Như vậy thì giáo dục ĐĐNN cho học viên là một bộ phận
của quá trình giáo dục ấy.
18
Theo tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt:“Giáo dục đạo đức là quá
trình biến đổi hệ thống các chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi bên ngoài,
bên trong của cá nhân thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được
giáo dục”. Giáo dục đạo đức là bộ phận của nội dung giáo dục toàn diện con
người, là quá trình kết hợp nâng cao nhận thức với hình thành thái độ, xúc
cảm, tình cảm, niềm tin và hành vi thói quen đạo đức.
Đối với học viên CAND, giáo dục đạo đức có quan hệ chặt chẽ với
giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm xây dựng cho người học viên có nhận thức
đầy đủ về thế giới quan Mác - Lênin và định hướng chính trị - xã hội theo
quan điểm đường lối của Đảng. Ngoài ra, giáo dục ĐĐNN cho học viên còn
gắn chặt với giáo dục pháp luật nhằm giúp cho mọi học viên nắm vững các
nội dung về pháp luật Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân Việt
Nam nói chung, của người cán bộ, chiến sĩ CAND nói riêng. Giáo dục pháp
luật có tác dụng củng cố và thúc đẩy việc thực hiện các yêu cầu đạo đức.
Giáo dục ĐĐNN cho học viên công an xét về bản chất, là quá trình
biến hệ thống các chuẩn mực đạo đức từ đòi hỏi của xã hội, của Ngành Công
an, các trường CAND thành những đòi hỏi bên trong của mỗi cá nhân và trở
thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người học viên.
Quá trình giáo dục ĐĐNN cho học viên các trường cao đẳng ANND cũng
phải được thực hiện và tuân theo quy luật khách quan trong tất cả các giai đoạn,
các khâu, các bước, các mối quan hệ hữu cơ với hoạt động lực lượng vũ trang và
đời sống xã hội, chịu sự chi phối của những tác động khách quan và chủ quan,
như nền tảng chính trị, tinh thần, phong tục tập quán, đạo đức xã hội.
Từ cách tiếp cận trên, tác giả quan niệm: Giáo dục ĐĐNN cho học viên
ở trường cao đẳng ANND là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức của
các chủ thể giáo dục đối với học viên nhằm hình thành những phẩm chất
phù hợp với giá trị, chuẩn mực ĐĐNN người CAND đáp ứng mục tiêu, yêu
cầu đào tạo. Giáo dục ĐĐNN cho học viên trường cao đẳng ANND là quá
19
trình tác động có hệ thống đến người học viên nhằm hình thành, phát triển
những chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, chiến sĩ CAND. Đó là quá
trình chuyển hóa những chuẩn mực, giá trị đạo đức của người công an trở
thành nhu cầu bên trong của mỗi học viên.
* Mục tiêu giáo dục ĐĐNN cho học viênở trường cao đẳng ANND:
Là trang bị cho học viên những tri thức, chuẩn mực, sự đánh giá về
đạo đức, hình thành thái độ đúng đắn, tình cảm, niềm tin đạo đức trong sáng
với bản thân, với mọi người, với nghề nghiệp. Rèn luyện cho mỗi học viên tự
giác thực hiện những chuẩn mực đạo đức của người chiến sĩ CAND, tích cực
cống hiến sức lực, trí tuệ cho sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật
tự an toàn xã hội, xứng đáng là người chiến sĩ công an cách mệnh theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh.
* Nội dung giáo dục ĐĐNN cho học viên ở trường cao đẳng ANND:
. Giáo dục ĐĐNN cho học viên trường cao đẳng ANND là tiến hành
giáo dục hệ thống những giá trị, chuẩn mực đạo đức của người công an;
Giáo ý thức, thái độ, hành vi, rèn luyện những thói quen cho bản thân cả về
trí tuệ, tâm hồn lẫn nhân cách của học viên trong học tập, công tác. Cụ thể,
với học viên trường cao đẳng CAND, giáo dục ĐĐNN tập trung vào một số
nội dung sau:
Thứ nhất, giáo dục lòng yêu nước, lòng trung thành, tận tâm, tận lực
phục vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Luôn nêu cao tinh thần yêu nước và hành động yêu nước, lòng tự hào
dân tộc; tận trung với nước, tận hiếu với dân. Thực hiện nghiêm 6 điều Chủ
tịch Hồ Chí Minh dạy CAND; Có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tuyệt đối tin
tưởng vào con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa
chọn; Kiên định và quyết tâm thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, ra sức phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
20
Giáo dục lòng dũng cảm, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm
vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Nêu cao tính chiến đấu, quyết tâm bảo vệ
Đảng, bảo vệ sự nghiệp của Đảng và Nhà nước, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ
nhân dân.
Thứ hai, giáo dục ý thức tự giác, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện
phẩm chất đạo đức, lối sống.
Có lối sống giản dị, trong sáng và đức tính cần cù, trung thực, khiêm
tốn; tinh thần cảnh giác cách mạng; có ý thức đấu tranh chống suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; kiên quyết chống các hành vi vi phạm đạo
đức nghề nghiệp, sách nhiễu nhân dân, các tệ nạn xã hội như đánh bạc, lô đề,
cá độ, vay tiền, cắm quán và các biểu hiện tiêu cực khác.
Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, rèn
luyện phẩm chất: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, luôn ưu tiên đặt lợi
ích của Tổ quốc, của nhân dân, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Tích cực
học tập, rèn luyện với tinh thần sáng tạo, có chất lượng hiệu quả cao; kiên
quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, bệnh lười biếng và tư
tưởng trung bình chủ nghĩa trong học tập, rèn luyện, công tác.
Thứ ba, giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật Ngành công an
Luôn ý thức đầy đủ, rõ ràng về nghĩa vụ, trách nhiệm của người cán bộ,
chiến sĩ CAND; đề cao ý thức trách nhiệm với công việc chuyên môn, giữ gìn
uy tín của Ngành Công an trong xã hội.
Gương mẫu nghiêm chỉnh chấp hành tốt đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước; Chỉ thị, nghị quyết và điều lệnh
CAND; chấp hành tốt nội qui, kỷ luật của Ngành và của nhà trường, quy chế
quản lý giáo dục học viên.
..Giáo dục chủ nghĩa tập thể, mình vì mọi người, đặt lợi ích cộng đồng
lên trên lợi ích cá nhân, tôn trọng các nguyên tắc và chuẩn mực do tập thể đề
21
ra, có tinh thần đoàn kết, hợp tác giúp đỡ nhau trong thực hiện công việc
chung; có ý thức xây dựng tập thể, tự phê bình và phê bình trong học tập,
công tác.
Thứ tư, giáo dục giá trị lao động, lòng yêu Ngành, yêu nghề; giáo dục
nghĩa vụ đạo đức và lương tâm nghề nghiệp..
.......Giáo dục để học viên nhận thức rõ ý nghĩa và giá trị to lớn của lao
động, giáo dục nâng cao tình yêu lao động, lòng tin vào sức sáng tạo của con
người và những thành quả to lớn mà lao động mang lại, có tinh thần nhiệt
tình, hăng say, cần cù trong lao động.
Có tình yêu nghề, say mê và gắn bó về nghề, khiêm tốn, giản dị, trung
thực, tận tuỵ với công việc chuyên môn. Có ý trí vươn lên, khắc phục mọi khó
khăn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
......Giáo dục nghĩa vụ đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, ý thức trách
nhiệm đối với hành vi của mình trong hoạt động nghề nghiệp, là thái độ và
cách ứng xử của người làm nghề trước lợi ích của người khác, của xã hội; là
sự tự phán xử về các hoạt động, các hành vi nghề nghiệp của mình. Giáo dục
ý thức về nghĩa vụ ĐĐNN để làm nền tảng, là cơ sở để hình thành lương tâm
nghề nghiệp của mỗi người.
* Phương pháp giáo dục ĐĐNN cho học viên ở trường cao đẳng ANND:
Giáo dục ĐĐNN là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể. Giáo
dục ĐĐNN cho học viên trường cao đẳng ANND được tiến hành với những
nhóm phương pháp sau:
Thứ nhất, nhóm phương pháp thuyết phục:
Là nhóm các phương pháp tác động vào mặt nhận thức và tình cảm của
con người để hình thành ý thức, thái độ tốt đẹp đối với cuộc sống. Nhóm
phương pháp này đòi hỏi nhà giáo dục phải có uy tín, được mọi người mến
phục; sử dụng các phương pháp chủ yếu là khuyên giải, tranh luận, nêu
gương, có khả năng dẫn giải, định hướng, thuyết phục đối tượng giáo dục.
22
Thứ hai, nhóm phương pháp tổ chức hoạt động:
. Là nhóm phương pháp đưa con người vào hoạt động thực tiễn, tập dượt,
rèn luyện tạo nên những hành vi, thói quen; bằng cách tổ chức các hoạt động tập
thể phong phú, đa dạng, lôi cuốn học viên tham gia. Từ đó hướng dẫn hoạt động,
rèn luyện trở thành nhu cầu, thói quen trong hành vi hàng ngày. Điều này phù
hợp với nguyên tắc hình thành và phát triển tâm lý cá nhân, muốn hình thành và
phát triển tâm lý của con người nói chung và thế hệ trẻ nói riêng thì phải tổ chức
các hoạt động và đưa người học tham gia các hoạt động.
Thứ ba, nhóm phương pháp kích thích hành vi:
........Đây là nhóm phương pháp tác động vào mặt tình cảm của các đối
tượng giáo dục nhằm tạo ra động cơ thúc đẩy tính tích cực của hành vi. Nhóm
phương pháp này bằng cách sử dụng các phương pháp chính như thi đua,
khen thưởng, trách phạt đồng thời cũng giúp cho người có khuyết điểm nhận
ra và khắc phục những sai lầm.
Phương pháp giáo dục ĐĐNN cho học viên rất đa dạng. Vì vậy, nhà
giáo dục và quản lý giáo dục cần phải vận dụng một cách linh hoạt sao cho
phù hợp với mục đích, đối tượng và điều kiện cụ thể của nhà trường.
1.1.3. Quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên ở trường
cao đẳng an ninh nhân dân
Theo nghĩa rộng, “quản lý là hoạt động có mục đích của con người. Quản
lý chính là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động của
những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn” . Quản lý còn được hiểu
là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng
bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định.
Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý để chỉ huy, điều khiển hướng dẫn các
quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích,
đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với quy luật khách quan.
Ở góc độ khác, tác giả Trần Kiểm cho rằng Quản lý là nhằm phát huy
sự nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành
23
những thành tựu của xã hội. Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục
đích đến tập thể người - thành viên của hệ - nhằm làm cho hệ vận hành thuận
lợi và đạt tới mục đích dự kiến.
Mặc dù có rất nhiều cách tiếp cận và khái niệm khác nhau về quản lý,
song nhìn chung các định nghĩa đều thể hiện: Quản lý là một hoạt động luôn
có trong quá trình lao động xã hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng
làm cho xã hội loài người tồn tại và phát triển. Nó được tiến hành trong một
tổ chức hay một hệ thống xã hội. Đó là sự tác động có tổ chức, có hướng đích
của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra
trong điều kiện biến động của môi trường. Quản lý vừa là khoa học, vừa là
nghệ thuật. Bởi thế, trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý, người cán bộ
quản lý phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo để chỉ đạo hoạt động của tổ
chức một cách khoa học nhằm đạt được mục đích đề ra của tổ chức.
Như vậy, quản lý là quá trình chủ thể quản lý tác động vào đối tượng
quản lý nhằm huy động, sử dụng, điều chỉnh các nguồn lực (nhân lực, tài lực,
vật lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt
được mục tiêu của tổ chức với hiệu quả cao nhất.
Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác, có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ thể quản lý quản lý
đến tất cả mắt xích của hệ thống từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục nhà
trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục.
Ở các cơ sở giáo dục, thì “quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự
giác, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ thể
quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và
các giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và có hiệu
quả mục tiêu giáo dục của nhà trường”. Tiêu điểm của nhà trường là quá trình
giáo dục nên cũng có thể hiểu quản lý giáo dục thực chất là những tác động của
24
chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học
sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các xã hội nhằm hình thành và phát triển toàn diện
nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Giáo dục đạo đức là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể của
nhà trường. Đây cũng là một trong những nội dung quản lý quan trọng đặc
biệt của Hiệu trưởng ở các trường phổ thông hiện nay.
Quản lý giáo dục đạo đức là quá trình tác động có định hướng của chủ
thể giáo dục lên đối tượng giáo dục nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã đề
ra. Đây là quá trình chủ đạo, điều hành hoạt động giáo dục đạo đức của chủ
thể giáo dục tác động đến đối tượng giáo dục để hình thành những phẩm chất
đạo đức của học sinh, đảm bảo quá trình giáo dục đạo đức đúng hướng, phù
hợp với những chuẩn mực, quy tắc đạo đức được xã hội thừa nhận.
Quản lý giáo dục đạo đức cho người học còn là một quá trình huy động
các lực lượng giáo dục, các điều kiện phương tiện giáo dục, phù hợp các môi
trường giáo dục, giúp học sinh có được tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức và
hình thành hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Quản lý giáo dục ĐĐNN cho học sinh, sinh viên các trường đại học,
cao đẳng hiện nay là một nội dung bộ phận của khoa học quản lý giáo dục,
một khâu quan trọng trong quy trình quản lý giáo dục - đào tạo, là sự tác động
có ý thức nhằm điều khiển, hướng dẫn những hành vi, thói quen nghề nghiệp
theo chuẩn mực đạo đức, phù hợp với quy luật khách quan và làm cho tổ chức
vận hành đạt hiệu quả mong muốn.
Từ sự luận giải trên, theo tác giả: Quản lý giáo dục ĐĐNN cho học
viên ở trường cao đẳng ANND là sự tổ chức, điều khiển của chủ thể quản lý
đối với toàn bộ quá trình giáo dục ĐĐNN cho học viên, nhằm đảm bảo cho
quá trình giáo dục ĐĐNN diễn ra theo đúng yêu cầu nội dung và đạt được
hiệu quả đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục của Nhà trường.
Về bản chất, quản lý giáo dục ĐĐNN cho học viên là quá trình tác động
có định hướng của chủ thể quản lý lên các thành tố tham gia vào quá trình giáo
25
dục ĐĐNN nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục ĐĐNN đề ra. Như
vậy, Quản lý giáo dục ĐĐNN cho học viên ANND là những tác động có tính
hướng đích, không bó hẹp trong quá trình dạy học, mà là tổng hợp các hoạt động
sư phạm, đồng thời quản lý quá trình giáo dục ĐĐNN cũng không tách rời quản
lý các nội dung học tập khác như văn hoá, chính trị, pháp luật, kỷ luật... mà
chúng đan xen vào nhau, quy định lẫn nhau, bổ sung cho nhau nhằm giáo dục
phẩm chất nhân cách toàn diện cho học sinh.
Mục tiêu quản lý giáo dục ĐĐNN cho học viên: Là những kết quả dự
kiến sẽ đạt được do quá trình vận động của đối tượng quản lý dưới sự tác
động của chủ thể quản lý; sự thống nhất trong nhận thức tư tưởng và hành
động của chủ thể và đối tượng quản lý. Mục tiêu của quản lý giáo dục ĐĐNN
cho học viên là làm cho quá trình giáo dục ĐĐNN vận hành đồng bộ, hiệu quả
để nâng cao chất lượng giáo dục ĐĐNN. Qua đó, giúp cho lực lượng sư phạm
nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác quản lý giáo dục ĐĐNN,
nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề phát triển con người toàn diện, có thái độ, hành vi phù hợp đối với
công tác quản lý giáo dục ĐĐNN. Điều quan trọng nhất của việc quản lý giáo
dục ĐĐNN cho học viên ANND là làm cho quá trình giáo dục ĐĐNN tác
động đến học viên để hình thành cho các ý thức, tình cảm và niềm tin đạo
đức, tạo lập những thói quen, hành vi đạo đức thể hiện thường xuyên trong
cuộc sống hàng ngày.
Chủ thể quản lý giáo dục ĐĐNN cho học viên: Chủ thể quản lý là tập
thể, cá nhân được tổ chức giao nhiệm vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc gián tiếp
trong lãnh đạo, quản lý giáo dục, rèn luyện học viên trong suốt quá trình dạy
học - giáo dục ở trường cao đẳng ANND. Do đó, chủ thể quản lý giáo dục
ĐĐNN cho học viên là: các cấp uỷ, BGH nhà trường; các cơ quan chức năng,
khoa, tổ bộ môn; đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục trong nhà
trường; các tổ chức đoàn thể; gia đình học viên; các tập thể học viên, tự quản
26
lý của học viên. Trong những chủ thể quản lý nói trên thì cấp ủy, Ban giám
hiệu nhà trường, đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, nhân viên trong nhà
trường là chủ thể trực tiếp, thường xuyên và quan trong nhất.
Khách thể quản lý giáo dục ĐĐNN: Là học viên, tập thể học viên
ANND chịu sự tác động, điều khiển, quản lý của chủ thể lãnh đạo, quản lý trong
suốt quá trình học tập, rèn luyên ở nhà trường. Như vậy, học viên và tập thể học
viên vừa là khách thể (đối tượng chịu sự quản lý của chủ thể) vừa là chủ thể
trong quá trình tổ chức tự quản lý, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân.
Nội dung quản lý giáo dục ĐĐNN: Bao gồm quản lý việc xây dựng kế
hoạch giáo dục ĐĐNN; thực hiện nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục
ĐĐNN; quản lý; quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục ĐĐNN; quản lý
sự phối hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường trong giáo dục ĐĐNN
cho học viên; quản lý quá trình tự tu dưỡng, tự rèn luyện của học viên; quản
lý các điều kiện đảm bảo cho quá trình giáo dục ĐĐNN...
Phương pháp quản lý giáo dục ĐĐNN: bao gồm toàn bộ những cách
thức, biện pháp tác động, điều khiển của chủ thể quản lý đến đối tượng quản
lý bằng hệ thống công cụ, phương tiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã
xác định. Hệ thống công cụ quản lý gồm: các chỉ thị, nghị quyết của các tổ
chức đảng; pháp luật của Nhà nước; Điều lệ CAND; những quy định của Bộ
Công an; Điều lệ Trường ANND; quy chế giáo dục và đào tạo và chương
trình, kế hoạch, mệnh lệnh của chỉ huy các cấp. Sử dụng đồng bộ nhiều
phương pháp quản lý, song cần tập trung vào ba phương pháp chủ yếu, đó là:
phương pháp hành chính; phương pháp tâm lý xã hội; phương pháp kích thích
bằng vật chất, tinh thần...
Như vậy, thực chất, quản lý giáo dục ĐĐNN cho học viên là những tác
động quản lý có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản
lý nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác rèn luyện kỹ năng, các thói
quen, hành vi đạo đức để hình thành, phát triển, hoàn thiện phẩm chất nhân
27