MỤC LỤC
Trang
3
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC
TẬP CỦA HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
1.1. Các khái nhiệm cơ bản
1.2. Nội dung quản lý hoạt động học tập của học viên trường
cao đẳng
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động học tập của
học viên
13
13
22
31
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC
TẬP CỦA HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG AN
NINH NHÂN DÂN I
2.1. Khái quát về Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I
2.2. Thực trạng hoạt động học tập của học viên ở Trường Cao
đẳng An ninh nhân dân I
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động học tập của học viên ở
trường Cao đẳng An ninh nhân dân I
38
38
45
53
Chương 3. BIỆN PHÁP VÀ KHẢO NGHIỆM BIỆN PHÁP QUẢN
LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN Ở
TRƯỜNG CAO ĐẲNG AN NINH NHÂN DÂN I
71
3.1. Biện pháp quản lý hoạt động học tập của học viên ở
Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I
3.2. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
91
97
100
PHỤ LỤC
103
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã có nhiều chủ trương,
đường lối, chính sách phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, coi phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Với
mục tiêu: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn
diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn
minh”. [17]. Để đạt được mục đích trên, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng
giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức tốt hoạt động học
tập cho người học được xem là biện pháp hữu hiệu nhất, được xem là một nội
dung chủ yếu cần phải tập trung đột phá.
“Dạy học được xem là con đường giáo dục cơ bản nhất để thực hiện
mục đích của quá trình giáo dục tổng thể, trong đó tự học là phương thức cơ
bản để người học có được những hệ thống tri thức phong phú và thiết thực”
[3]. Điều 5 của Luật Giáo dục năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định:
“Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy
sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng
thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên...; đảm bảo thời gian tự học,
tự nghiên cứu cho học sinh, phát triển phong trào tự học, tự đào tạo…; tạo ra
năng lực tự học sáng tạo của mỗi học sinh" [30].
Chất lượng và sức mạnh của lực lượng Công an nhân dân (CAND) là
tổng hợp của nhiều yếu tố tạo thành, trong đó phẩm chất và năng lực của
người cán bộ là vô cùng quan trọng. Phẩm chất và năng lực của người
chiến sĩ công an được hình thành và phát triển trong quá trình đào tạo,
3
trong công tác và thực tiễn chiến đấu. Tính độc lập, sáng tạo, năng động,
thích ứng, thận trọng, khôn khéo, chính xác trong tư duy và hành động
nghề nghiệp là phẩm chất, năng lực trực tiếp quyết định đến khả năng hoàn
thành nhiệm vụ của người chiến sĩ công an. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ
với năng lực học tập của học viên ngay từ trong thời gian đào tạo tại các
trường trong ngành CAND.
Là một trường trong lực lượng CAND, Trường Cao đẳng An ninh nhân
dân I được Bộ Công an giao nhiệm vụ đào tạo cán bộ trinh sát có trình độ cao
đẳng, trung cấp ANND cho công an các tỉnh, thành phố phía bắc từ Quảng
Bình trở ra. Học viên trúng tuyển vào học đều đã qua sự tuyển chọn chặt chẽ từ
công an các đơn vị địa phương, đảm bảo các tiêu chuẩn về lý lịch, sức khỏe và
trình độ văn hóa theo quy định chung của Bộ giáo dục và đào tạo (GD&ĐT),
quy định riêng của Bộ Công an. Toàn bộ học viên phải ở nội trú trong ký túc xá
của nhà trường, các hoạt động học tập (HĐHT), sinh hoạt, vui chơi giải trí, ăn
ở được quản lý tập trung thống nhất theo chế độ điều lệnh CAND. Vì vậy, công
tác đào tạo của trường không chỉ trang bị cho học viên kiến thức nghiệp vụ mà
còn rèn luyện thói quen lao động trí óc, khả năng suy nghĩ, phán đoán độc lập,
rèn luyện phẩm chất tự giác, tự giáo dục, ý thức chấp hành nội quy, kỷ luật
nghiêm ngặt của ngành theo điều lệnh nội vụ, điều lệnh CAND, xây dựng thái
độ, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng tự hoàn thiện bản thân cho mỗi học viên.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của học tập trong việc nâng cao chất
lượng đào tạo, những năm qua nhà trường luôn quan tâm đến quản lý HĐHT
của học viên. Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả học tập của học viên còn hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội và của ngành Công
an. Nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng đầu vào không đồng đều, học viên
chưa có kỹ năng và phương pháp học tập khoa học, hợp lý. Trong khi đó, việc
đổi mới PPDH của giảng viên còn chậm, chủ yếu vẫn là truyền thụ nội dung,
kiến thức trong chương trình, chưa có nhiều nội dung thực tiễn, chưa tập
4
trung nhiều đến đổi mới nội dung và PPDH. Công tác quản lý, tổ chức HĐHT
chủ yếu vẫn là quản lý hành chính, chưa thực sự có hình thức tổ chức và biện
pháp quản lý phù hợp. Về phương diện quản lý HĐHT của học viên ở các
trường trong lực lượng Công an thh ì hiện nay chưa có tác giả nào đề cập đến,
thực trạng và các biện pháp quản lý HĐHT, trên cơ sở đó đề xuất các biện
pháp quản lý HĐHT hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng học tập của học viên
trong các trường CAND.
Vì vậy, việc tìm ra các biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng học tập
của học viên ở trong các nhà trường CAND nói chung và là nhiệm vụ hết sức
cấp thiết đối với Trường Cao đẳng ANND I nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tác giả lựa chọn vấn đề:"Quản lý
hoạt động học tập của học viên ở Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I”
làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong lịch sử phát triển nền giáo dục, học tập là vấn đề đã được quan
tâm nghiên cứu từ lâu cả về lý luận và thực tiễn, nhằm phát huy vai trò chủ
động, tích cực của người học, tức là quá trình tự học. Song ở từng giai đoạn
phát triển của lịch sử, vấn đề học tập đã được đề cập tới, dưới nhiều hình thức
khác nhau. Nó vẫn đang còn là vấn đề nóng bỏng cho các nhà nghiên cứu
giáo dục hiện tại và tương lai, bởi vì tự học có vai trò rất quan trọng, quyết
định mọi sự thành công trong học tập, là điều kiện đảm bảo cho hiệu quả, chất
lượng của quá trình giáo dục, đào tạo. Trước yêu cầu cấp bách của thực tiễn
cần phải đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục, HĐHT và quản lý
HĐHT của người học tiếp tục là vấn đề được quan tâm, bàn thảo sôi nổi cả ở
khía cạnh lý luận và thực tiễn. Theo các nghiên cứu giáo dục ở thế kỷ XXI đã
có những thay đổi lớn nhằm hướng tới mục tiêu đào tạo những con người có
năng lực tự quyết định. Trong tương lai gần, mỗi người học sẽ phải có đủ
5
phẩm chất: "Tự học (self learning), tự tổ chức (self organizing), tự quyết định
(self defining) và tự phát triển (self developing) " [35, tr.87].
Ở Việt Nam, HĐHT chỉ thực sự được chú ý và quan tâm dưới nền giáo
dục xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài và kính yêu
của dân tộc Việt Nam là một tấm gương sáng ngời về ý chí quyết tâm trong
học tập và rèn luyện. Bác đã động viên toàn dân: Phải tự nguyện, tự giác xem
công việc học tập là nhiệm vụ của người cách mạng, phải cố gắng hoàn thành
cho được do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập. Người còn
chỉ rõ: Về việc học phải lấy tự học làm cốt. Và để học tập đạt được kết quả,
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người học cần thực hiện đầy đủ 05 vấn đề:
Một là, trong việc tự học, điều quan trọng hàng đầu là xác định rõ mục
đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn, tức là phải hiểu "Học để
làm gì? - Học để sửa chữa tư tưởng - Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng Học để tin tưởng - Học để hành".
Hai là, phải tự mình lao động để tạo điều kiện cho việc tự học suốt đời.
Ba là, muốn tự học thành công, phải có kế hoạch sắp xếp thời gian học
tập, phải bền bỉ, kiên trì thực hiện kế hoạch đến cùng, không lùi bước trước
mọi khó khăn trở ngại.
Bốn là, phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi
hình thức để học tập.
Năm là, học đến đâu, ra sức luyện tập, thực hành đến đó...
Quán triệt, vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo, trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn đề cao vai trò của GD&ĐT đối với sự phát triển của xã
hội. Trong đó, phát huy vai trò chủ thể tích cực sáng tạo, nâng cao chất lượng
HĐHT của người học. Đặc biệt đổi mới mạnh mẽ và cơ bản phương pháp
giáo dục nhằm khắc phục kiểu truyền thụ một chiều, nặng lý thuyết, ít khuyến
khích tư duy sáng tạo; bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự giải quyết
6
vấn đề, phát triển năng lực thực hành sáng tạo cho người học, đặc biệt cho
sinh viên các trường đại học và cao đẳng. Tích cực áp dụng một cách sáng tạo
các phương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt
động dạy và học. Đổi mới chương trình, giáo trình, phương pháp dạy và học
trong các trường, khoa sư phạm và các trường cán bộ quản lý giáo dục nhằm
đáp ứng kịp thời những yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông và công tác
quản lý nhà nước về giáo dục.
Định hướng về vấn đề học tập được quy định trong luật Giáo dục 2005,
sửa đổi bổ sung năm 2009: "Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc
bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát
triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực
nghiệm, ứng dụng" [30]. Như vậy, vấn đề học tập của học sinh đã được nhiều
nhà giáo dục nghiên cứu từ lâu trong lịch sử giáo dục và vẫn còn là vấn đề
nóng bỏng cho các nhà nghiên cứu giáo dục hiện tại và tương lai.
Quá trình học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin để tự biến đổi
mình, làm phong phú tri thức cho bản thân. Trong điều kiện ngày nay, thông
tin là tài nguyên của sự học, trí tuệ con người trở thành tài nguyên quý giá
nhất của quốc gia, của dân tộc. Mặt bằng dân trí cao, cùng với những đỉnh cao
của trí tuệ là điều kiện tiên quyết để mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thắng lợi trong
cuộc cạnh tranh khốc liệt mang tính toàn cầu hiện nay. Dù ở bất kỳ xã hội
nào, học tập cũng luôn là hoạt động cơ bản của con người, như Lênin đã dạy
“Học! Học nữa! Học mãi!”. Vì vậy, nâng cao chất lượng học tập của học sinh
là mục đích, là nhiệm vụ chủ yếu của các trường học hiện nay. Quản lý hoạt
động dạy và học như thế nào để nâng cao chất lượng đào tạo là vấn đề đang
được các nhà giáo dục và quản lý giáo dục quan tâm.
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều hội thảo, nhiều ý kiến chuyên gia
đề cập đến vấn đề quản lý HĐHT của người học ở nhiều khía cạnh khác nhau
như các tác giả: Đặng Quốc Bảo, Trần Kiểm, Đặng Bá Lãm, Nguyễn Cảnh
7
Toàn... trong mỗi công trình của mình, các tác giả đã đề cập đến nhiều lĩnh
vực liên quan đến tổ chức hoạt động dạy và HĐHT cũng như cách thức, biện
pháp quản lý HĐHT của người học. Có thể khẳng định đây chính là những lí
luận, kinh nghiệm rất có giá trị đối với công tác quản lý dạy và học nói chung
và quản lý HĐHT của học sinh nói riêng.
Bàn về HĐHT, quản lý HĐHT của người học, đã có nhiều tác giả
nghiên cứu như:
Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Chí Cường với đề tài “Các biện
pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế – Tài
chính Thái Nguyên ” năm 2004. [13] Luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
nhưng mới chỉ nghiên cứu sâu về vấn đề tự học của sinh viên Trường Cao
đẳng Kinh tế - Tài chính Thái Nguyên.
Luận văn thạc sĩ KHGD của tác giả Bùi Thị Tuyết Hồng “Các biện
pháp quản lý hoạt động học tập của học sinh trung học phổ thông chuyên”,
Hà Nội năm 2003 [24]. Luận văn đã trình bày được cơ sở lý luận và thực tiễn,
các biện pháp quản lý hoạt động học tập đề xuất phù hợp với đối tượng
nghiên cứu, nhưng các biện pháp đó chỉ phù hợp với học sinh Trung học phổ
thông chuyên Hà Nội.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Lan với đề tài “Các biện pháp
quản lý hoạt động học tập của học sinh tại trường Trung học Kinh tế - Kỹ
thuật Quảng Nam” năm 2006 [27]. Luận văn đã trình bày và có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn, các biện pháp quản lý hoạt động học tập đề xuất phù hợp
với đối tượng nghiên cứu là học sinh Trung học Kinh tế - Kỹ thuật Quảng
Nam năm 2006.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Xuân Điệp với đề tài “Biện pháp
quản lý chất lượng học tập của học viên trường Sĩ quan Đặc công” năm 2008
[19]. Luận văn đã đánh giá được tình hình thực trạng chất lượng học tập của
8
học viên trường Sỹ quan Đặc công, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, các biện
pháp đề xuất phù hợp với đối tượng nghiên cứu, nếu vận dụng được đồng bộ
và có hiệu quả các biện pháp thì chất lượng học tập của học viên trường Sỹ
quan Đặc công sẽ được nâng lên.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Đỗ Ngọc Anh với đề tài “Quản lý hoạt
động học tập của học viên Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay” năm 2008 [1].
Luận văn đã đánh giá được thực trạng hoạt động học tập và các yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng học tập của học viên Trường Sĩ quan Chính trị năm
2008, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, các biện pháp đề xuất phù hợp với đối
tượng nghiên cứu, nếu vận dụng đồng bộ và có hiệu quả các biện pháp thì
chất lượng học tập của học viên ở trường Sỹ quan Chính trị sẽ đạt kết quả
cao.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Trung Kiên với đề tài “Quản lý
hoạt động học tập của học viên trường Trung cấp 24 Biên phòng hiện nay”
năm 2012. Luận văn đã đánh giá được tình hình thực trạng chất lượng học tập
của học viên trường Trung cấp 24 Biên phòng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn,
các biện pháp đề xuất phù hợp với đối tượng nghiên cứu.
Trên đây là một số công trình khoa học của các tác giả đã dày công
nghiên cứu những góc độ khác nhau, có liên quan đến vấn đề học tập và
quản lý HĐHT, tuy mỗi công trình nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ
khác nhau, song các tác giả đã chỉ ra vai trò, tầm quan trọng của HĐHT,
các kỹ năng tự học và một số biện pháp tổ chức HĐHT cho học sinh. Trong
đó chỉ ra được những hạn chế, nguyên nhân về thực trạng học tập, quản lý
HĐHT hiện nay của học sinh, sinh viên, học ở các cấp học, bậc học, trên cơ
sở đó đề xuất các biện pháp quản lý HĐHT, nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo hiện nay.
Tuy nhiên, về phương diện quản lý HĐHT của học viên trong lực
lượng Công an thh ì hiện nay chưa có tác giả nào đề cập đến. Do đó đề tài tập
9
trung nghiên cứu sâu về cơ sở lý luận của HĐHT, thực trạng các biện pháp
quản lý HĐHT, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp quản lý HĐHT hữu hiệu
nhằm nâng cao chất lượng học tập của học viên trường Cao đẳng ANND I.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn HĐHT, quản lý
HĐHT đề xuất các biện pháp quản lý HĐHT của học viên trường Cao đẳng
ANND I, nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập của học viên nói riêng,
chất lượng đào tạo của Nhà trường nói chung đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về quản lý HĐHT của học viên ở
trường cao đẳng.
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng quản lý HĐHT của học viên
trường Cao đẳng ANND I.
- Đề xuất các biện pháp quản lý HĐHT của học viên trường Cao đẳng
ANND I.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động dạy học ở trường Cao đẳng ANND I.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý HĐHT của học viên ở trường Cao đẳng ANND I hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và biện pháp quản lý
HĐHT của học viên (cao đẳng và trung cấp) ở trường Cao đẳng ANND I.
Các số liệu được lấy từ năm 2010 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
10
Quản lý hoạt động học tập học viên là trách nhiệm, chức năng, nhiệm
vụ của các chủ thể quản lý ở trường Cao đẳng An ninh nhân dân I. Nếu các
chủ thể quản lý thực hiện tốt các biện pháp như: Tổ chức giáo dục xây
dựng ý thức, mục đích, động cơ học tập đúng đắn cho học viên; tập huấn
cho giảng viên hướng dẫn học viên kỹ năng, phương pháp học tập; chỉ đạo
đổi mới phương pháp dạy học và hướng dẫn hoạt động tự học của học viên;
bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện thiết bị và các điều kiện cần thiết cho
học tập của học viên; đổi mới hình thức tổ chức kiểm tra đánh giá HĐHT
của học viên,... thì sẽ quản lý được HĐHT của học viên, góp phần nâng cao
chất lượng giáo duc, đào tạo của nhà trường, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
của Lực lượng CAND trong tình hình mới
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê nin, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm tư tưởng
về giáo dục - đào tạo của Đảng, Nhà nước và ngành giáo dục, nhất là chủ
trương đổi mới quản lý giáo dục, nâng cao chất lượng dạy học, giáo dục học
viên trong ngành Công an.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài quán triệt và vận dụng các quan
điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc, logic - lịch sử và quan điểm thực tiễn.
* Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Đọc tài liệu, thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, hệ
thống hoá các tài liệu và các văn bản; bao gồm một số tác phẩm kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị
của Đảng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công an về giáo dục và quản lý
GD&ĐT, Luật Giáo dục, giáo trình, sách tham khảo, các công trình nghiên cứu
11
về quản lý HĐHT, báo cáo khoa học, báo cáo tổng kết có liên quan đến đề tài đã
được công bố và đã được đăng tải trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử vấn đề, phát hiện và khai thác những
khía cạnh mà các công trình nghiên cứu trước đây chưa đề cập đến, làm cơ sở
cho việc nghiên cứu tiếp theo.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát, điều tra bằng ankét về thực trạng HĐHT và
quản lý HĐHT của học viên trường Cao đẳng ANND I, để làm cơ sở đánh giá
thực trạng, tìm ra nguyên nhân, để rút ra những kết luận, từ đó đề xuất các
biện pháp quản lý HĐHT của học viên.
Phương pháp xin ý kiến chuyên gia góp ý về cách xử lý kết quả điều
tra, các biện pháp quản lý.
Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu những vấn đề đã và đang
diễn ra nhằm đúc rút kinh nghiệm về quản lý HĐHT của học viên ở trường
Cao đẳng ANND I.
Trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm học tập hay của chính các học viên.
- Phương pháp bổ trợ
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý kết quả điều tra.
7. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận quản lý giáo dục từ thực tiễn quản
lý HĐHT của học viên ở trường Cao đẳng ANND I.
Góp phần cung cấp những luận cứ khoa học giúp cho các cấp quản
lý, nhất là Hiệu trưởng nhà trường đề ra các biện pháp quản lý hoạt động
học tập phù hợp ở trường Cao đẳng ANND I nói riêng và các trường
CAND nói chung.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu; 3 chương (8 tiết); kết luận và kiến nghị;
danh mục tài liệu tham khảo; phụ lục.
12
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
1.1. Các khái nhiệm cơ bản
1.1.1. Hoạt động học tập của học viên trường cao đẳng
Theo Phạm Minh Hạc “Hoạt động là quá trình tác động qua lại giữa
con người với thế giới xung quanh để tạo ra sản phẩm về phía thế giới và sản
phẩm về phía con người. Trong quá trình tác động qua lại đó, có hai chiều tác
động diễn ra đồng thời, thống nhất và bổ sung cho nhau”.
Như vậy, có thể hiểu hoạt động là sự tương tác tích cực giữa chủ thể và
đối tượng nhằm biến đổi đối tượng theo mục đích mà chủ thể tự giác đặt ra để
thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Hoạt động sinh ra từ nhu cầu nhưng lại được
điều chỉnh bởi mục tiêu mà chủ thể nhận thức được. Nhu cầu với tư cách là
động cơ, là nhân tố khởi phát của hoạt động nhưng lại chịu sự chi phối của
mục tiêu mà chủ thể nhận thức được.
Học tập là hoạt động cơ bản của con người nhằm hướng vào việc
nghiên cứu và tìm hiểu các quy luật của thế giới và lĩnh hội kinh nghiệm xã
hội - lịch sử. Bản chất của quá trình học tập là quá trình nhận thức độc đáo
của người học. Như vậy, học tập là một quá trình đưa đến những thành tựu và
những kết quả cho người học.
Học tập là một quá trình hướng đích, có giá trị. Giá trị của học tập là
làm cho kinh nghiệm của bản thân người học thay đổi một cách bền vững,
nhờ đó mà có được những thay đổi trong nhận thức về hiện thực, có được
những thay đổi trong phương thức hành vi và định hình những thái độ xác
định trong quan hệ với thế giới xung quanh. Những thay đổi này giúp người
học phát triển bản chất người vốn có của mình để thích ứng và hội nhập với
cộng đồng, với dân tộc, với nhân loại. Trong và bằng quá trình đó, người học
tự khẳng định chính mình. Như vậy, mục đích học tập của nhân loại, của dân
14
tộc, của cộng đồng và của mỗi cá nhân là để biết, để làm, để chung sống và
để tự khẳng định.
Hoạt động học tập có nhiều hình thức và hình thức chính thống là học
tập theo phương thức nhà trường dưới sự chỉ đạo của giáo viên. Dù dưới hình
thức nào người học cũng luôn là chủ thể của HĐHT. Người học là chủ thể của
hoạt động học tập, là chủ thể có ý thức chủ động, tích cực sáng tạo trong nhận
thức và rèn luyện nhân cách. Người học cũng là đối tượng giảng dạy và giáo
dục của thầy giáo. Người học quyết định chất lượng học tập của mình.
Khẳng định vai trò tích cực chủ động của người học không có nghĩa là
bỏ qua vai trò hết sức quan trọng của người dạy và các lực lượng giáo dục
khác trong đó phải đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của người thầy thể hiện ở
chức năng định hướng, điều khiển, điều chỉnh người học trong quá trình tiếp
thu tri thức. Quá trình học tập của người học có thể diễn ra dưới sự tác động
trực tiếp của người giáo viên như diễn ra trong tiết học, giờ hướng dẫn thực
hành, hoặc dưới sự tác động gián tiếp của giáo viên như việc tự học ở nhà của
học sinh, sinh viên. Khi có sự chỉ đạo của giáo viên, hoạt động tự giác, tích
cực, chủ động nhận thức học tập của học sinh thể hiện ở các mặt: tiếp nhận
những nhiệm vụ, kế hoạch học tập do giáo viên đề ra; tiến hành thực hiện
những hành động, thao tác nhận thức - học tập nhằm giải quyết những nhiệm
vụ học tập được đề ra; tự điều chỉnh hoạt động nhận thức - học tập của mình
dưới tác động kiểm tra, đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của bản thân;
phân tích những kết quả hoạt động nhận thức - học tập dưới tác động của giáo
viên, từ đó cải tiến hoạt động học tập.
Trường hợp quá trình hoạt động học tập thiếu sự chỉ đạo trực tiếp của
giáo viên hoạt động tự giác, tích cực, chủ động nhận thức học tập của học
sinh được thể hiện như sau: tự lập kế hoạch, cụ thể hoá các nhiệm vụ học tập
của mình; tự kiểm tra, tự đánh giá và tự điều chỉnh tiến trình hoạt động học
tập của mình; tự phân tích các kết quả hoạt động nhận thức - học tập mà cải
tiến hoạt động học tập của mình.
15
Theo Phan Trọng Ngọ thì “Học là quá trình tương tác giữa cá thể với
môi trường, kết quả là dẫn đến sự biến đổi bền vững về nhận thức, thái độ hay
hành vi của cá thể đó. Học tập là việc học có chủ ý, có mục đích trước, được
tiến hành bởi một hoạt động đặc thù - hoạt động học, nhằm thỏa mãn nhu cầu
học của cá nhân”.
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức, “Tự học là một hình thức tổ chức
dạy học cơ bản ở Đại học. Đó là một hình thức hoạt động nhận thức của cá
nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính bản thân người
học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình
và sách giáo khoa đã quy định”.
Qua những khái niệm trên đây, có thể hiểu rằng hoạt động học tập của
học viên là hoạt động có mục đích, có kế hoạch nhằm chiếm lĩnh văn hóa
nhân loại, chuyển thành tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ của bản thân để
chuẩn bị các điều kiện trở thành các chuyên gia - những người chủ tương lai
của đất nước, đáp ứng được các yêu cầu của nền sản xuất công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Hoạt động học tập bao giờ cũng nhằm thỏa mãn một nhu cầu
học nhất định, được kích thích bởi động cơ học và được thực hiện bởi một
hoạt động chuyên biệt - hoạt động học với nội dung, phương pháp, phương
tiện học tập.
Và “tự học” là bộ phận quan trọng nhất trong hoạt động học tập của
học viên, đó chính là sự tự ý thức về động cơ, mục đích, biện pháp học tập,
học viên phải giải quyết các nhiệm vụ học tập do cán bộ giảng dạy và do
chính người học đề ra. Tự học là “tự động học tập”, thể hiện tính tự lực, tự
giác, tích cực cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ năng. Vì
vậy, tự học mang đậm sắc thái cá nhân, biểu hiện ở tự xác định mục tiêu
chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kỹ năng, hoàn thành các nhiệm vụ tự học cụ thể
đặt ra trong từng giờ học, buổi học; tự xác định nội dung, nhiệm vụ, lựa chọn
phương pháp tự học, sử dụng phương tiện tự học hợp lý, phù hợp với bản
thân; tự kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh việc học của bản thân.
16
Trong HĐHT ở bậc cao đẳng, học viên không thể chỉ có năng lực nhận
thức thông thường mà cần phải tiến hành hoạt động nhận thức mang tính chất
nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, sáng tạo phát triển mức độ
cao. Dưới vai trò chủ đạo của giảng viên, học viên không nắm máy móc
những chân lý có sẵn mà họ có khả năng tiếp nhận những chân lý đó với óc
phê phán, có thể khẳng định, phủ định, hoài nghi khoa học, lật ngược vấn đề,
đào sâu, mở rộng... Hơn nữa, trong quá trình học ở bậc cao đẳng, học viên
còn tham gia tìm kiếm chân lý mới, đó là hoạt động nghiên cứu khoa học
được tiến hành ở các mức độ thấp đến cao tùy theo chương trình các bộ môn.
Từ những nhận định trên tác giả cho rằng: Hoạt động học tập của học
viên trường cao đẳng là những hoạt động học tập có tính tự giác, tích cực,
chiếm lĩnh các kiến thức khoa học, phát triển trí tuệ, rèn luyện các kỹ năng,
kỹ xảo về nghề nghiệp, hình thành và phát triển nhân cách của mình, dưới sự
chỉ đạo của người dạy và tổ chức quản lý trong môi trường sư phạm.
Thực chất, HĐHTcủa học viên là toàn bộ những hành động của người
học mang tính tự giác cao, có chủ đích, được điều khiển chỉ đạo của các chủ
thể quản lý theo một chương trình kế hoạch cụ thể, nhằm đạt được các yêu
cầu về lĩnh hội tri thức, rèn luyện phẩm chất nhân cách đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của nhà trường.
Ở trường cao đẳng nói chung, trường Cao đẳng ANND I nói riêng, các
HĐHT của học viên chủ yếu thông qua kỹ năng nhận biết, so sánh, phân tích,
phân loại, khái quát hóa, thực hành, thực tập. Thời gian học tập của học viên
bao gồm cả thời gian lên lớp chính khóa, thực hành, thực tập, tự học, thi, kiểm
tra,... Không gian HĐHT diễn ra ở trên lớp, đơn vị học viên, đơn vị thực
tập,... Phương tiện chủ yếu của HĐHT là giấy, bút, sách, giáo trình, máy tính,
phương tiện thực hành nghiệp vụ... Điều kiện HĐHT có sự tham gia của các
yếu tố bên ngoài (ngoại lực) như: có sự hướng dẫn của giảng viên, phương
tiện học tập... Và, điều kiện bên trong (nội lực) là sự vận động tự giác của
17
chính bản thân người học, trong đó, yếu tố nội lực đóng vai trò quan trọng,
quyết định.
Hoạt động học tập của học viên gồm: Hoạt động học tập trên lớp,
HĐHT tự học ở doanh trại và ở thư viện. Hoạt động học tập trên lớp đó là
việc tham gia đầy đủ các buổi học trên lớp; đi học đúng giờ; trong lớp tập
trung lắng nghe giảng viên giảng bài; tích cực tham gia phát biểu, trao đổi học
tập, nêu ý kiến; tham gia tích cực trong hoạt động thảo luận nhóm. Hoạt động
học tập tự học đó là việc xem lại bài giảng các môn vừa mới học trong ngày;
làm bài tập, thu hoạch, tiểu luận ở doanh trại; nghiên cứu bài mới sắp học; tìm
đọc sách, tài liệu tham khảo do giảng viên giới thiệu; đi học thêm để nâng cao
trình độ (ngoại ngữ, tin học, nghiệp vụ...).
Hoạt động học tập của học viên có đầy đủ những đặc điểm và bản chất
của quá trình học tập nói chung là: Đối tượng của HĐHT là những tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo tương ứng. Người học phải chiếm lĩnh được hệ thống kiến thức
trong chương trình học tập để sử dụng chúng trong thực tiễn cuộc sống. Mục
đích của HĐHT hướng vào làm thay đổi chính chủ thể của hoạt động. Hoạt động
học tập của học viên mang tính độc lập, trí tuệ, trong mối quan hệ chặt chẽ với
hoạt động tập thể, hoạt động thực tiễn, hoạt động tự rèn luyện của học viên trong
đó yếu tố quyết định kết quả học tập của học viên chính là động cơ học tập.
1.1.2. Quản lý hoạt động học tập của học viên trường cao đẳng
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý như: “Quản lý là
tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản
lý trong một tổ chức làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích của
tổ chức”[11]; “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách
vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo)
và kiểm tra”[26]...
Thực chất của hoạt động quản lý là việc giải quyết mối quan hệ giữa
chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Bản chất của hoạt động quản lý là việc
18
phát huy được nhân tố con người trong tổ chức. Mục đích quản lý là hoạch
định, tổ chức, bố trí nhân sự, kiểm soát công việc và những nỗ lực của con
người nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Quản lý HĐHT của học viên là một trong những nội dung chủ yếu của
quản lý nhà trường. Thực chất quản lý học tập của học viên là hệ thống những
tác động có ý thức của chủ thể quản lý trong nhà trường đến quá trình nhận
thức của học viên.
Theo Phạm Viết Vượng: “Quản lý HĐHT là quản lý học sinh thực hiện
các nhiệm vụ học tập, là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch
giúp học sinh học tập tốt nhất, rèn luyện tu dưỡng tốt nhất. Quản lý HĐHT
của học sinh bao hàm cả quản lý thời gian và chất lượng học tập, quản lý tinh
thần, thái độ và phương pháp học tập".
Mục đích của việc quản lý HĐHT là làm cho quá trình thực hiện các
nhiệm vụ học tập của học viên đạt tới kết quả mong muốn. Trước hết, chủ thể
quản lý phải theo dõi để nắm bắt được những biểu hiện tích cực và tiêu cực
trong nhận thức của học viên về tầm quan trọng của việc học tập, về thái độ,
động cơ, ý thức học tập… của học viên nói chung và của từng học viên nói
riêng để có biện pháp thúc đẩy, khuyến khích học viên phát huy các yếu tố
tích cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực phấn đấu vươn lên đạt kết quả học tập và
rèn luyện ngày càng cao.
Mặc dù cùng được tuyển chọn vào học ở trường cao đẳng theo một tiêu
chuẩn chung, nhưng các học viên cùng lớp, cùng khoá cũng có những khác
biệt về khía cạnh này hay khía cạnh khác trong nhân cách. Những khác biệt
đó làm cho quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập, rèn luyện cũng như kết
quả học tập, rèn luyện đạt được của các học viên khác nhau. Bên cạnh đó
chính bản thân học viên có những biến đổi do tác động của giáo dục và đào
tạo, môi trường học tập, xã hội làm cho sự cải biến nhân cách của họ trở nên
đa dạng, phức tạp. Do đó, quản lý HĐHT của học viên là nhằm:
19
Theo dõi, tìm hiểu để nắm được được những biểu hiện tích cực và tiêu
cực trong việc thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện cũng như những biến đổi
nhân cách của học viên nói chung và của từng học viên nói riêng.
Theo dõi, thúc đẩy, khuyến khích học viên phát huy các yếu tố tích
cực, khắc phục các yếu tố tiêu cực, phấn đấu vươn lên đạt kết quả học tập, rèn
luyện ngày càng cao.
Từ cách tiếp cận trên, chúng tôi cho rằng: Quản lý hoạt động học tập
của học viên trường cao đẳng là những tác động có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể quản lý đến hoạt động của tập thể học viên và từng học viên bằng
hệ thống những biện pháp quản lý, nhằm làm cho học viên đạt kết quả cao
nhất trong học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện theo mục tiêu, yêu cầu
đào tạo.
Thực chất, quản lý HĐHT của học viên trường cao đẳng nói chung,
trường Cao đẳng An ninh nhân dân I nói riêng là những tác động quản lý
nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác, sáng tạo của học viên để tìm
tòi, nghiên cứu, lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành, phát triển và
hoàn thiện phẩm chất nhân cách theo mục tiêu yêu cầu đào tạo. Quản lý
HĐHT của học viên trường cao đẳng nói chung, Trường Cao đẳng An ninh
nhân dân I nói riêng là một bộ phận hữu cơ trong hệ thống quản lý giáo dục đào tạo của nhà trường, có sự tham gia của các nhân tố:
Một là: chủ thể quản lý bao gồm nhiều lực lượng tham gia, trực tiếp
và chịu trách nhiệm chính là hiệu trưởng nhà trường, là người giữ vai trò
quan trọng nhất và chịu trách nhiệm chính đến chất lượng HĐHT và quản
lý hoạt động này. Giúp việc cho hiệu trưởng quản lý HĐHT của học viên
trường cao đẳng nói chung, trường Cao đẳng An ninh nhân dân I nói riêng là
các phó hiệu trưởng, lãnh đạo các cơ quan (Quản lý đào tạo, Khảo thí),
lãnh đạo và giảng viên ở các khoa giáo viên, chỉ huy các đơn vị quản lý
học viên,... và chính bản thân học viên.
20
Hai là, đối tượng quản quản lý HĐHT của học viên trường cao đẳng nói
chung, trường Cao đẳng An ninh nhân dân I nói riêng là học viên, tập thể học
viên cùng nội dung chương trình từng môn học, bài học theo chương trình khung
do Bộ GD&ĐT và Bộ Công an ban hành. Như vậy, học viên vừa là chủ thể vừa
là khách thể trong hệ thống quản lý HĐHT của học viên trường cao đẳng nói
chung, trường Cao đẳng An ninh nhân dân I nói riêng.
Ba là, mục đích quản lý HĐHT của học viên trường cao đẳng nói
chung, trường Cao đẳng An ninh nhân dân I nói riêng là nhằm bảo đảm cho
HĐHT của học viên đạt kết quả ngày càng cao, góp phần thực hiện tốt mục
tiêu quản lý và nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của nhà trường.
Bốn là, nội dung quản lý HĐHT của học viên trường cao đẳng nói
chung, trường Cao đẳng An ninh nhân dân I nói riêng thực chất là quản lý
việc thực hiện tốt các khâu, các bước trong quá trình học tập, các nhiệm vụ
quyết định đến chất lượng học tập của học viên; đó là việc cụ thể hoá mục
tiêu dạy học, thông qua: quản lý thực hiện tốt chương trình, nội dung, kế
hoạch học tập; quản lý các HĐHT của học viên theo đúng quy chế, các quy
định giáo dục - đào tạo của nhà trường; đồng thời quản lý tốt hoạt động kiểm
tra, đánh kết quả HĐHT của học viên; quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
cho hoạt động học tập... góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, đạt
được mục đích quản lý của nhà trường.
Năm là, phương pháp quản lý HĐHT của học viên trường cao đẳng
nói chung, trường Cao đẳng An ninh nhân dân I nói riêng rất phong phú, đa
dạng, bao gồm toàn bộ những cách thức, biện pháp tác động, điều khiển
của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng hệ thống công cụ, phương
tiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã xác định. Việc xác định phương
pháp quản lý HĐHT của học viên trường cao đẳng nói chung, trường Cao
đẳng An ninh nhân dân I nói riêng phải bảo đảm tính khoa học, thống nhất,
khả thi, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của giảng viên và học viên, tăng
21
cường hiệu quả quản lý nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, trong đó phương
pháp quản lý hành chính, phương pháp giáo dục - tâm lý, phương pháp kích
thích là những phương pháp chủ đạo, được sử dụng phổ biến. Hoạt động
học tập của học viên trường cao đẳng nói chung, trường Cao đẳng An ninh
nhân dân I nói riêng là hoạt động trí tuệ, hết sức căng thẳng, do đó nhà quản
lý cần lựa chọn và sử dụng các phương pháp quản lý phù hợp với đối tượng
quản lý là con người mới mang lại tác dụng, hiệu quả cao.
Quản lý HĐHT của học viên trường cao đẳng nói chung, trường Cao
đẳng An ninh nhân dân I nói riêng có vai trò rất quan trọng.
Thứ nhất, nó góp phần tăng cường sự thống nhất hoạt động giữa thầy
và trò. Khi xem xét quản lý HĐHT là sự tác động của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý giúp cho HĐHT đi đúng hướng và đạt hiệu quả tốt nhất. Khi đó
quản lý HĐHT đòi hỏi có sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng của mọi hoạt động
sư phạm trong nhà trường, trong đó quan trọng nhất là đội ngũ người dạy và
đội ngũ người học. Nếu một trong những nguyên tắc của dạy học là cần đảm
bảo sự thống nhất giữa vai trò tự giác, tích cực, độc lập của người học và vai
trò chủ động của người dạy thì nguyên tắc này đòi hỏi phải phát huy tính tự
giác, tích cực của người học dưới tác động chủ đạo của người dạy trong mọi
khâu của quá trình dạy học. Nếu nói rằng tự học là biểu hiện tập trung cao
nhất về tinh thần chủ động, ý thức tự giác học tập của người học thì hoạt động
quản lý cũng chính là hình thức giúp phát huy cao nhất những đặc điểm ấy
của người học.
Thứ hai, góp phần nâng cao hiệu quả HĐHT của người học. Trên thực
tế có một số vấn đề thường được xem xét đó là có quản lý không đối với một
hoạt động được xem là độc lập, riêng tư, có mâu thuẫn không khi đặt vấn đề
quản lý đối với một hoạt động độc lập là tự học; cần hiểu như thế nào về quản
lý đối với hoạt động tự học, làm thế nào để quản lý và quản lý mang lại hiệu
quả cao cho hoạt động này?
22
Sẽ không có gì là mâu thuẫn khi đặt vấn đề quản lý HĐHT của học viên
trong một nhà trường. Hoạt động này vốn là tự do, tự nguyện, độc lập của
người học nhưng nếu không được quản lý, hướng dẫn, thiếu sự hỗ trợ thì hoạt
động này cuối cùng cũng chỉ là hoạt động đơn thuần tự phát và hiệu quả không
cao. Ngày nay vấn đề tự học tập trở nên càng cần thiết hơn khi mà kiến thức
nhân loại tăng rất nhanh chóng. Do đó, việc học tập của người học cần được
nhà trường đặc biệt quan tâm, giúp đỡ từ việc định hướng đến thực hiện và
đảm bảo các điều kiện thực hiện, từ việc giúp cá nhân thực hiện hiệu quả đến
việc nhân rộng và phổ biến các điển hình tiên tiến về học tập.
Tóm lại, chất lượng, kết quả học tập có vai trò rất quan trọng, là yếu tố
nội lực quyết định đến chất lượng đào tạo. Nhưng nếu không có sự hướng
dẫn, định hướng thì HĐHT sẽ là quá trình mày mò khó khăn, may rủi, dễ thất
bại. Không có sự quản lý, giám sát, kiểm tra thì HĐHT sẽ thiếu tính tích cực
và HĐHT sẽ kém hiệu quả, thậm chí không thực hiện được mục tiêu đề ra. Vì
vậy, quản lý HĐHT của người học có vai trò rất quan trọng không thể thiếu
được. Nếu quản lý một cách khoa học, phù hợp với điều kiện thực tiễn của
nhà trường thì chắc chắn HĐHT sẽ đạt hiệu quả cao, góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo của nhà trường.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động học tập của học viên
trường cao đẳng
Quản lý hoạt động học tập trong nhà trường không chỉ trang bị cho
người học những kiến thức kỹ xảo, kỹ năng mà loài người đã tích luỹ được
qua bài giảng của thầy mà còn tác động trực tiếp vào người học giúp người
học tự làm giàu thêm hiểu biết, tự mình rèn luyện những kỹ năng cần thiết
cho cuộc sống và nghề nghiệp tương lai.
Để hoạt động học tập của học viên tiến triển tốt trong công tác quản lý
cần thực hiện các nội dung sau:
1.2.1. Quản lý động cơ, mục đích học tập của học viên
23
Mọi hoạt động của con người đều là hoạt động có mục đích, được thúc
đẩy bởi động cơ của hoạt động đó. Động cơ hoạt động là lực đẩy trực tiếp, là
nguyên nhân trực tiếp của hành động, duy trì hứng thú, tạo ra sự chú ý liên
tục, giúp chủ thể vượt qua mọi khó khăn, đạt mục đích đã định. Vì vậy, động
cơ của hoạt động quyết định đến kết quả của hoạt động đó. Động cơ học tập
của học viên là cái mà việc học của họ phải đạt được để thỏa mãn nhu cầu của
mình. Nói ngắn gọn, học viên học vì cái gì thì cái đó chính là động cơ học tập
của học viên. Như vậy, để có động cơ học tập, trước hết phải có đối tượng ở
bên ngoài chủ thể, có giá trị đối với chủ thể và làm nảy sinh ở chủ thể nhu cầu
cần chiếm lĩnh nó. Khi nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng đó được cá nhân ý thức,
sẽ trở thành động cơ thúc đẩy, định hướng và duy trì hành động. Động cơ
luôn gắn liền với nhu cầu, mong muốn của cá nhân, nói khác đi, nhu cầu,
mong muốn chính là những yếu tố bên trong, đó là điều quan trọng nhất để
hình thành động cơ.
Hoạt động học tập của học viên có tính độc lập cao và mang đậm sắc thái
cá nhân, điều này càng khẳng định nó phải được thúc đẩy bởi một hệ thống
động cơ học tập nói chung, động cơ tự học nói riêng. Động cơ học tập cũng có
nhiều cấp độ khác nhau, bắt đầu từ sự thỏa mãn nhu cầu phải hoàn thành nhiệm
vụ học tập, khẳng định mình, mong muốn thành thạo nghề nghiệp tương lai…
cho tới cấp độ cao là thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, lòng khát khao tri thức. Nguồn
gốc động cơ học tập của học viên có thể xuất phát từ bên ngoài, tức là do yêu
cầu của nhà trường, gia đình và xã hội. Đồng thời, có thể xuất phát từ bên trong,
tức là từ nhu cầu nhận thức, nhu cầu mong muốn có ích cho xã hội, từ xu
hướng, hứng thú, thế giới quan, niềm tin… của học viên.
Động cơ học tập của học viên được biểu hiện rõ nét thông qua các thái
độ trong học tập như: Tính tự giác trong học tập ở giờ học trên lớp, chăm chú
say mê khi nghe giảng; tính tự giác trong tự học, tự nghiên cứu; có ý chí
quyết tâm cao không chịu lùi bước trước những khó khăn trong học tập.
24
Như vậy, động cơ học tập có vai trò rất quan trọng trong quá trình học
tập của học viên. Do vậy, yêu cầu quản lý động cơ học tập của học viên phải
được tiến hành thường xuyên liên tục trong suốt quá trình học tập của họ; cán
bộ QLGD, giáo viên chủ nhiệm theo dõi sát sao diễn biến tâm lý, tình hình
học tập, sự chấp hành Điều lệnh CAND, nội quy, quy định của nhà trường
làm cơ sở để đánh giá, nhận xét sự tăng giảm động cơ học tập của học viên.
Trên cơ sở đánh giá đúng thì sẽ có những biện pháp khuyến khích các học
viên cùng nhau học tập, hay có các biện pháp tác động, tạo các nhu cầu học
tập tích cực cho học viên.
Do đó, công tác giáo dục mục đích, động cơ học tập cho học viên
trong nhà trường cần phải tập trung thực hiện tốt một số công việc như:
Nâng cao nhận thức của học viên về mục tiêu đào tạo của từng chuyên
ngành, phổ biến và hướng dẫn học viên về mục tiêu đào tạo, chương trình
đào tạo của ngành học ngay từ đầu khóa học. Tổ chức các hoạt động chính
khóa, ngoại khóa, tọa đàm…nhằm giáo dục nâng cao nhận thức về lý tưởng
sống và giáo dục đạo đức, truyền thống cách mạng, truyền thống và nghiệp
vụ ngành Công an cho học viên. Xây dựng môi trường học tập tích cực,
động viên, giúp đỡ nhau học tập.
1.2.2. Xây dựng và thực hiện kế hoạch học tập của học viên trường
cao đẳng
Kế hoạch là khâu đầu tiên của chu trình quản lý. Nội dung chủ yếu là:
Xác định và hình thành mục tiêu đối với HĐHT của của học viên, lựa chọn
các phương án, biện pháp tốt nhất phù hợp với điều kiện thực tế để tiến hành
HĐHT đạt kết quả tốt.
Kế hoạch học tập là việc làm rất quan trọng của nhà quản lý giáo dục
ở trường cao đẳng nhằm đạt tới các mục tiêu của hoạt động QLGD. Đồng
thời, còn là cơ sở cho các cấp kịp thời điều chỉnh thời lượng sau mỗi thời
điểm, nội dung huấn luyện, giảng dạy, chống tình trạng quá tải, dồn ép
25
chương trình dẫn đến hiệu quả dạy học không cao. Việc quản lý hoạt động
học tập của học viên dựa theo kế hoạch dạy học là thể hiện sự đề cao, tôn
trọng tính chủ động của học viên, thể hiện sự quản lý nghiêm túc của cán
bộ quản lý. Tuy nhiên, trong bản kế hoạch học tập cũng cần có sự điều
chỉnh linh hoạt khi hoàn cảnh thực tế thay đổi ảnh hưởng đến việc hoàn
thành kế hoạch.
Kế hoạch học tập là bảng phân chia nội dung học tập theo thời gian một
cách hợp lý, khoa học dựa trên yêu cầu, nhiệm vụ học tập và khả năng của
bản thân học viên nhằm đạt được các mục tiêu đào tạo hoặc các mục tiêu của
môn học. Việc xây dựng một kế hoach học tập đối với học viên có ý nghĩa rất
quan trọng, quyết định sự thành công hay thất bại của việc học. Xây dựng
được một kế hoạch học tập hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng
học tập của học viên.
Kỹ năng xây dựng kế hoạch học tập bao gồm các giai đoạn như sau:
Liệt kê và ghi ra những công việc cần làm; tự xây dựng kế hoạch học tập theo
từng tuần, tháng, học kỳ, năm học; sắp xếp, phân phối thời gian hợp lý cho
những nhiệm vụ học tập, ưu tiên cho những nhiệm vụ quan trọng; xác định
thời gian phải hoàn thành công việc; tự kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế
hoạch và rút kinh nghiệm.
Trên cơ sở yêu cầu chung công tác giáo dục và yêu cầu riêng của
từng đối tượng học viên, căn cứ vào hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm
học của các cấp quản lý và tình hình cụ thể của nhà trường, của đơn vị, của
từng cá nhân để đề ra kế hoạch phù hợp. Các chủ thể quản lý đứng đầu là
hiệu trưởng phải là người chỉ đạo cấp dưới hướng dẫn học viên quy trình
xây dựng kế hoạch, giúp họ biết xác định mục tiêu đúng đắn và biết tìm ra
các biện pháp để thực hiện các mục tiêu đó.
Quản lý việc xây dựng kế hoạch của các bộ phận cũng như của mỗi
giáo viên trong trường là việc làm đòi hỏi sự sâu sát của người Hiệu trưởng.
26