Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG đổi mới PHƯƠNG PHÁP dạy học ở các TRƯỜNG TRUNG học cơ sở, QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.2 KB, 116 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1.C Các khái niệm cơ bản
1.2. Nội dung quản lý ứng dụng công nghệ thông tin
trong đổi mới phương pháp dạy học ở các trường
trung học cơ sở
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý ứng dụng công nghệ
thông tin trong đổi mới phương pháp dạy học ở các
trường trung học cơ sở
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN LONG BIÊN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát về giáo dục trung học cơ sở của quận
Long Biên, thành phố Hà Nội
2.2. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi
mới phương pháp dạy học ở các trường trung học
cơ sở quận Long Biên, thành phố Hà Nội
2.3. Thực trạng quản lý ứng dụng công nghệ thông tin
trong đổi mới phương pháp dạy học ở các trường
trung học cơ sở quận Long Biên, thành phố Hà Nội
Chương 3. BIỆN PHÁP VÀ KHẢO NGHIỆM CÁC BIỆN
PHÁP QUẢN LÝ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ


THÔNG TIN TRONG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ
SỞ QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Biện pháp quản lý ứng dụng công nghệ thông tin
trong đổi mới phương pháp dạy học ở các
trường trung học cơ sở quận Long Biên, thành
phố Hà Nội
3.2. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
KỂT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Tran
g
3

13
13
22
30

37
37
41
46

59

59
85

93
96
100


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh nhân loại đã và đang bước vào kỷ nguyên của công nghệ
thông tin cùng với nền kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hoá mạnh mẽ,
GD&ĐT đang diễn ra những biến đổi sâu sắc trên quy mô toàn cầu. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X đã quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Đối với nước ta, phát triển nguồn nhân lực để thực hiện công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước đang là nhu cầu cấp bách, đòi hỏi chất lượng
nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá. Trong xu thế
toàn cầu hoá kinh tế, vấn đề phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng xu thế
chuyển dần sang nền kinh tế tri thức đang được các nước ưu tiên.
Dạy học được xem là con đường giáo dục cơ bản nhất để thực hiện
mục đích của quá trình giáo dục tổng thể, trong đó học tập là phương thức
cơ bản để người học có được những hệ thống tri thức phong phú và thiết
thực. Học tập là con đường phát triển suốt đời của mỗi người, đó cũng là
truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, được thể hiện qua các câu
thành ngữ, tục ngữ "Học một, biết mười", "Đi một ngày đàng, học một
sàng khôn", "Học thầy không tày học bạn".... Chất lượng và hiệu quả giáo
dục được nâng lên khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi
biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục.
Việc phát huy vai trò năng động chủ quan, chú trọng bồi dưỡng năng
lực học tập, tự nghiên cứu của người học đang là một nội dung quan trọng
của đổi mới giáo dục, đào tạo trong nhà trường hiện nay, đây được xem như

một hướng đột phá, được sự quan tâm của toàn xã hội. Chính vì vậy, trong
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khóa XI), Đảng ta
tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại... Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích học
tập, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển
3


năng lực”. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng của giáo dục, nhằm biến
quá trình đào tạo của nhà trường thành quá trình tự đào tạo của mỗi cá nhân.
Một trong những con đường để nâng cao chất lượng đào tạo là đổi
mới phương thức dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học
sinh. Đối với học sinh ở các trường THCS Quận Long Biên, Thành phố Hà
Nội, nâng cao chất lượng học tập có ý nghĩa rất quan trọng, trực tiếp quyết
định đến chất lượng dạy và học. Học tập không chỉ giúp học sinh nắm vững
tri thức, kỹ xảo, kỹ năng mà còn là một trong những yếu tố quan trọng để
biến nhận thức thành niềm tin, xây dựng và phát triển tư duy độc lập sáng
tạo, làm cho người học có thể biết phát hiện và phân tích được những vấn đề
phức tạp của thực tiễn xã hội, cũng như trong đời sống hàng ngày để tìm ra
hướng giải quyết đúng đắn. Vì vậy, tổ chức các HĐHT một cách hợp lý,
khoa học, có chất lượng, hiệu quả là vấn đề có tính cấp thiết hiện nay.
Đa số các trường THCS Quận Long Biên, Thành phố Hà Nội đã tiến
hành đổi mới đồng bộ nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục theo
hướng dân chủ hoá, tích cực hoá nhằm hướng tới mục tiêu đào tạo những
học sinh trở thành những con người hoạt động thực tiễn tự chủ, năng động
và sáng tạo. Vai trò tích cực, chủ động trong học tập rèn luyện của học sinh
đã được đề cao.
Tuy nhiên, việc tích cực hóa hoạt động của học sinh trong học
tập còn nhiều hạn chế, ở một bộ phận học sinh việc quán triệt mục tiêu,
yêu cầu đào tạo chưa sâu sắc, ý thức tự giác trong học tập, tự rèn luyện

chưa thường xuyên, liên tục, học sinh chưa có kỹ năng và PPHT khoa
học, hợp lý. Bên cạnh đó, việc ĐMPPDH của giáo viên còn chậm, chủ
yếu vẫn là truyền thụ kiến thức trong chương trình, chưa tập trung
nhiều đến ĐMPPDH. Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học
sinh vẫn chưa được chú trọng theo hướng phát triển năng lực và phẩm
chất của người học.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng đó là một số nhà
trường chưa chú ý làm tốt công tác quản lý HĐHT của học sinh. Quản lý
4


HĐHT của học sinh, chủ yếu vẫn là quản lý hành chính, chưa thực sự có
hình thức tổ chức và biện pháp quản lý phù hợp... Những hạn chế đó đã
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo dục của nhà trường.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Quản lý
ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy học ở
các trường trung học cơ sở, quận Long Biên, thành phố Hà Nội ” làm đề tài

luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm qua việc ứng dụng CNTT trong quản lý và tổ chức
hoạt động dạy học đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Các hội nghị, hội thảo khoa học nghiên cứu về CNTT đã đề cập nhiều
đến vấn đề quản lý ứng dụng CNTT trong giáo dục và khả năng áp dụng vào
môi trường GD&ĐT ở Việt Nam như:
Hội thảo khoa học “Nghiên cứu và triển khai E-Learning” do Viện Công nghệ
Thông tin (Đại học Quốc gia Hà Nội) và Khoa Công nghệ Thông tin (Đại học Bách
khoa Hà Nội) phối hợp tổ chức đầu tháng 3/2005 là hội thảo khoa học về ứng dụng
CNTT trong hệ thống giáo dục, lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam.
Hội thảo khoa học toàn quốc về CNTT: “Các giải pháp công nghệ và

quản lý trong ứng dụng CNTT vào đổi mới phương pháp dạy học” do
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội phối hợp với dự án Giáo dục đại học tổ
chức từ 9-10/12/2006. Nội dung hội thảo gồm các chủ đề chính sau:
+ Các giải pháp về công nghệ trong đổi mới phương pháp dạy (phổ
thông, đại học và trên đại học) : công nghệ tri thức, công nghệ mã nguồn
mở, các hệ nền và công cụ tạo nội dung trong E-Learning, các chuẩn trao
đổi nội dung bài giảng, công nghệ trong kiểm tra đánh giá,...
+ Các giải pháp, chiến lược phát triển ứng dụng CNTT vào đổi mới
phương pháp dạy học: chiến lược phát triển, kinh nghiệm quản lý, mô hình
tổ chức trường học điện tử, mô hình dạy học điện tử,...
+ Các kết quả và kinh nghiệm của việc ứng dụng CNTT trong dạy
học: xây dựng và sử dụng phần mềm dạy học, kho học liệu điện tử, ...
5


Trong các hội thảo, các nhà khoa học, các nhà quản lý đã mạnh dạn
đưa ra các vấn đề nghiên cứu vị trí tầm quan trọng, ứng dụng và phát triển
CNTT đặc biệt là các giải pháp thúc đẩy ứng dụng CNTT trong giáo dục.
Do đó, mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học là nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh,
tạo ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao, học sinh được
khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý
quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình.
Làm thế nào để giáo viên mạnh dạn hơn, không ngại khó, tự thiết kế
và sử dụng bài giảng điện tử của mình nhằm rèn luyện được nhiều kỹ năng
và phối hợp tốt các phương pháp dạy học tích cực khác.
Vì nội dung bài giảng điện tử cần cô đọng, xúc tích, các mô phỏng
cần sát chủ đề, những nội dung học sinh ghi bài có qui ước nên khi thiết kế,
xây dựng bài giảng cần phải tuân theo những quy chuẩn nhất định.
Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu về

ứng dụng CNTT trong lĩnh vực giáo dục ở nước ta, chẳng hạn như:
Tác giả Trần Thị Đản (2006) nghiên cứu: “Một số biện pháp tổ chức
triển khai việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy của hiệu trưởng trường THCS
Văn Lang thành phố Việt Trì - tỉnh Phú Thọ”. Đây là công trình nghiên cứu
hướng vào phát huy vai trò của hiệu trưởng nhà trưởng với trách nhiệm là người
quản lý cao nhất thực hiện tổ chức ứng dụng CNTT trong một nhà trường cụ thể.
Tác giả Đỗ Kinh Thành (2006) trong luận văn thạc sĩ quản lý giáo
dục: “Các biện pháp quản lý quá trình đào tạo ngành tin học - Hệ trung
cấp chuyên nghiệp tại trường trung cấp kỹ thuật nghiệp vụ Phú Lâm - thành
phố Hồ Chí Minh” đã đề xuất các biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng
đào tạo nhân lực ngành tin học có trình độ trung cấp, góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của quốc gia.
Tác giả Nguyễn Văn Tuấn (2006) nghiên cứu “Một số biện pháp chỉ
đạo việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác quản lý dạy học tại các
trường THPT”.
6


Cùng với hướng nghiên cứu trên, tác giả Nguyễn Xuân Cảnh (2008)
nghiên cứu: “Biện pháp ứng dụng CNTT trong quản lý dạy học ở các
trường THPT tỉnh Ninh Bình”.
Ở hai công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã tập trung làm rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp ứng dụng CNTT trong
quản lý dạy học tại các trường THPT. Mặc dù được tiếp cận dưới góc độ
khoa học quản lý giáo dục nhưng những công trình đó chưa đề cập nhiều
đến vấn đề quản lý ứng dụng CNTT trong quản lý dạy học.
Một trong số các công trình khoa học nghiên cứu tương đối toàn
diện về ứng dụng CNTT vào dạy học là đề tài khoa học cấp Bộ “Ứng
dụng CNTT trong dạy học ở trường phổ thông Việt Nam” do tác giả Đào
Thái Lai làm chủ nhiệm. Các tác giả đã chỉ ra những phương pháp tiếp

cận mới về hình thức tổ chức dạy học có ứng dụng CNTT, đồng thời đề
xuất những biện pháp tận dụng tối đa các tiện ích mà CNTT mang lại
trong quá trình dạy học.
Gần đây, có một số công trình khoa học đi sâu nghiên cứu về sử dụng
bài giảng điện tử trong đổi mới phương pháp dạy học, như:
Đề tài khoa học cấp học viện "Ứng dụng bài giảng điện tử trong thực
hiện phương pháp dạy học tích cực ở Học viện Chính trị" do tác giả Phan
Văn Tỵ (2013) làm chủ nhiệm.
Tác giả Bùi Đức Dũng (2013) nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ Giáo
dục học: “Xây dựng và sử dụng bài giảng điện tử các môn khoa học xã hội
nhân văn ở nhà trường quân đội”. Trong các công trình trên, các tác giả đã đi
sâu phân tích và chỉ ra cách thức ứng dụng CNTT, kỹ thuật sử dụng các phần
mềm phù hợp với từng môn học để làm thay đổi cách dạy và học nhằm đạt
hiệu quả cao trong dạy học.
Việc ứng dụng CNTT để đổi mới PPDH trong từng bộ môn cụ thể ở
trường phổ thông cũng đã được nhiều tác giả nghiên cứu và viết trên các tạp
chí khoa học như: Nguyễn Mạnh Hưởng, Nguyễn Thị Ban, Trần Hoài
Phương, Nguyễn Thanh Cảnh, Đặng Thị Hồng Đào, Trịnh Đình Tùng. Đặc
7


biệt, trong đó có phần mềm dạy học Violet của Công ty cổ phần tin học Bạch
Kim cũng được khai thác và sử dụng nhiều.
Thành phố Hà Nội đã quan tâm đến ứng dụng CNTT vào đổi mới, nâng
cao chất lượng giáo dục. Uỷ ban nhân dân Thành phố đã ban hành Kế hoạch
"Về việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong ngành Giáo dục và Đào tạo Hà Nội
đến 2015" trong đó chỉ rõ: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào đổi mới phương
pháp dạy và học, đổi mới phương thức quản lý, điều hành hệ thống giáo dục,
nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô và đất

nước”.
Tóm lại, từ sự tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề
tài luận văn chúng tôi nhận thấy:
Một là, việc nghiên cứu để ứng dụng CNTT trong dạy học và quản lý
giáo dục ở các nhà trường, các cơ sở giáo dục đã được quan tâm nghiên cứu
ở các khía cạnh và phạm vi khác nhau. Hầu hết các công trình nghiên cứu
đều cho rằng ứng dụng CNTT trong dạy học và quản lý giáo dục có vai trò
quan trong đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và đổi mới
PPDH nói riêng.
Hai là, ứng dụng CNTT trong dạy học và quản lý giáo dục đã được
nghiên cứu về lý luận và triển khai thực hiện trong thực tế. Tuy nhiên, một
số công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc khai thác và phát huy hiệu quả
các tiện ích của CNTT vào dạy học có những mặt còn hạn chế. Đặc biệt
công tác quản lý ứng dụng CNTT vào dạy học chưa được thực hiện đồng bộ,
từ việc xây dựng kế hoạch tới việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện cũng như kiểm
tra đánh giá. Qua nghiên cứu và khảo sát thực trạng, các tác giả đề xuất một
số kiến nghị với cấp trên một số biện pháp quản lý ứng dụng CNTT vào dạy
học tại các trường trên địa bàn thuộc phạm vi quản lý.
Ba là, quản lý ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học ở
trường THCS là một vấn đề cần thiết nhưng chỉ được nghiên cứu dưới góc
độ hẹp. Hiện nay, các luận văn thường tập trung nghiên cứu ở cấp Trung
học phổ thông và Tiểu học nhưng cấp THCS hầu như không có và việc quản
8


lý ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH ở trường THCS chưa sâu.
Bốn là, thực tế cho thấy, việc ứng dụng CNTT trong đổi mới phương
pháp dạy học còn tồn tại nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết.
Tuy nhiên, hiện nay có rất ít các công trình nghiên cứu về vấn đề này một
cách có hệ thống. Để góp phần đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong đổi mới

phương pháp dạy học cần phải đảm bảo các yếu tố về cơ sở hạ tầng CNTT,
về nhân lực, vật lực và tài lực; trong đó công tác quản lý vấn đề này có vai
trò rất quan trọng. Vì thế tác giả lựa chọn vấn đề nghiên cứu trên đây trong
phạm vi các trường THCS thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội là cần
thiết và không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý ứng dụng CNTT trong đổi mới
PPDH ở các trường THCS, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý ứng dụng CNTT
trong đổi mới PPDH ở các trường THCS quận Long Biên, thành phố Hà Nội,
góp phần nâng cao chất lượng đổi mới PPDH ở nhà trường.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý ứng dụng CNTT trong đổi mới
PPDH ở các trường THCS.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân thực trạng quản lý
ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH ở các trường THCS quận Long Biên,
thành phố Hà Nội.
- Đề xuất các biện pháp quản lý ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH
ở các trường THCS quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Khảo nghiệm các biện pháp quản lý đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu:
Hoạt động đổi mới PPDH ở các trường THCS quận Long Biên, thành
phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu:
9


Quản lý ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH ở các trường THCS
quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

* Phạm vi, giới hạn nghiên cứu:
Về phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp quản
lý quản lý ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH ở các trường THCS công
lập quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Về phạm vi đối tượng nghiên cứu, khảo sát: Cán bộ QLGD, giáo viên,
học sinh ở các trường THCS công lập quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Phạm vi, giới hạn thời gian nghiên cứu: Các số liệu điều tra, khảo sát
tính từ năm 2013 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH là xu thế của dạy học hiện đại
nhằm tạo sự chuyển biến về chất lượng. Trong quản lý ứng dụng CNTT ở
các trường THCS, nếu các chủ thể quản lý đề xuất và tổ chức thực hiện tốt
các biện pháp như: tổ chức nâng cao cao nhận thức, trách nhiệm cho các lực
lượng giáo dục; xác định rõ kế hoạch thực hiện với lộ trình thích hợp, kết
hợp với tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ sử dụng CNTT cho đội ngũ
giáo viên; tạo môi trường thuận lợi cho việc ứng dụng CNTT vào dạy học;
hiện đại hoá phương tiện kỹ thuật dạy học trong đổi mới PPDH thì sẽ quản
lý tốt việc ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học của các trường THCS quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
các quan điểm, chủ trương, của Đảng về ứng dụng CNTT trong dạy học và
quản lý giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Đồng thời, đề
tài còn tiếp cận vấn đề nghiên cứu dựa trên các quan điểm cơ bản như: quan
điểm hệ thống - cấu trúc; quan điểm thực tiễn; quan điểm lịch sử - lôgic và
quan điểm phát triển.
10



* Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của
đề tài, tác giả sử dụng sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu của
khoa học chuyên ngành; bao gồm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết,
nghiên cứu thực tiễn và phương pháp hỗ trợ… Cụ thể là:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá… các tài liệu, các văn bản có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu như sách, tài liệu về giáo dục, về quản lý giáo
dục, về CNTT và ứng dụng CNTT; chủ trương đường lối, nghị quyết, chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, các văn bản của Bộ GD&ĐT, Sở
GD&ĐT Hà Nội về CNTT và quản lý việc ứng dụng CNTT nhằm xây dựng
cơ sở lý luận của đề tài.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát sư phạm
Quan sát các hoạt động ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH ở các
trường THCS quận Long Biên, thành phố Hà Nội để đánh giá, kết luận về
thực trạng và đề xuất các biện pháp có tính hiệu quả về quản lý ứng dụng
CNTT trong đổi mới PPDH ở các trường THCS.
Phương pháp điều tra xã hội học
Sử dụng phương pháp trưng cầu ý kiến của 39 CBQL và 150 GV để
thu thập ý kiến về ứng dụng CNTT và quản lý việc ứng dụng CNTT trong
đổi mới PPDH ở các trường THCS trên địa bàn Quận.
Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý ứng dụng CNTT trong đổi mới
PPDH ở các trường THCS trên địa bàn Quận để tìm ra những ưu, nhược
điểm và nguyên nhân.
Kết quả điều tra, khảo sát được phân tích, so sánh, đối chiếu để tìm ra
những thông tin đảm bảo tính khách quan, tin cậy.
Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành trao đổi, phỏng vấn hiệu trưởng và giáo viên để tìm hiểu

nhận thức, đánh giá của họ về ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH ở các
trường THCS hiện nay.
Phương pháp chuyên gia
11


Tham khảo ý kiến của các chuyên gia; các nhà khoa học về giáo dục
học, quản lý giáo dục; các nhà giáo có chuyên môn sâu và có kinh nghiệm
về ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH ở các trường THCS để làm rõ các
nhiệm vụ của đề tài.
Phương pháp hỗ trợ
Sử dụng toán thống kê để xử lý các số liệu thu thập được trong quá
trình điều tra thực trạng ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH ở các trường
THCS quận Long Biên, thành phố Hà Nội dưới dạng: Bảng số liệu, biểu
đồ... giúp cho các kết quả nghiên cứu chính xác và đảm bảo độ tin cậy.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn nghiên cứu thành công góp phần phát triển hệ thống lý luận
về quản lý ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH ở các trường THCS. Đề
xuất biện pháp quản lý ứng dụng CNTT vào dạy học nhằm nâng cao chất
lượng dạy học ở các trường THCS quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu, quản lý giáo dục, đồng thời
cung cấp những cơ sở khoa học để CBQL các cấp tăng cường chỉ đạo, tổ
chức thực hiện các khâu, các bước quản lý ứng dụng CNTT trong đổi mới
PPDH ở các trường THCS.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần Mở đầu, 3 chương (8 tiết), Kết luận và kiến nghị,
Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.

12



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới
phương pháp dạy học ở các trường trung học cơ sở
* Công nghệ thông tin
Thuật ngữ công nghệ thông tin xuất hiện lần đầu vào năm 1958 trong
bài viết của các tác giả Leavitt và Whisler trên tạp chí Harvard Business
Review. Hai tác giả của bài viết, cho rằng: "Công nghệ mới chưa thiết lập
một tên riêng. Chúng ta sẽ gọi là Information Technology - IT".
CNTT (Information Technology hay là IT) là một nhánh ngành kỹ
thuật sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo
vệ, xử lý, truyền tải và thu thập thông tin.
Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được sử dụng phổ biến theo Nghị định
49/CP của Chính phủ: "CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, các
phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại - chủ yếu là kỹ thuật máy tính và
viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động
của con người và xã hội".
Các lĩnh vực chính của CNTT bao gồm quá trình tiếp thu, xử lý, lưu
trữ và phổ biến hoá âm thanh, phim ảnh, văn bản và thông tin số bởi các vi
điện tử dựa trên sự kết hợp giữa máy tính và truyền thông. Một vài lĩnh vực
hiện đại và nổi bật của CNTT như: các tiêu chuẩn Web thế hệ tiếp theo, sinh
tin, điện toán đám mây, hệ thống thông tin toàn cầu, tri thức quy mô lớn và
nhiều lĩnh vực khác; các nghiên cứu phát triển chủ yếu trong ngành khoa học
máy tính.

Công nghệ thông tin là một tập hợp các phương pháp khoa học, các
phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại - chủ yếu là kỹ thuật máy tính và
viễn thông nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên
13


thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con
người và xã hội.
Như vậy, có thể hiểu: CNTT là thuật ngữ bao gồm tất cả những dạng
công nghệ được dùng để xây dựng, sắp xếp, biến đổi, và sử dụng thông tin
trong các hình thức đa dạng của nó.
Trong một chừng mực nào đó có thể coi CNTT là sự giao nhau của 3
ngành Điện tử + Tin học + Viễn thông. Khi thông tin, dữ liệu còn ít con người
có thể tự mình xử lý và họ cảm thấy không có vấn đề gì. Song ngày nay, mọi
mặt của đời sống xã hội đều phát triển nhanh chóng kéo theo sự bùng nổ của
thông tin làm con người lúng túng, thậm chí nhiều lúc không thể xử lý nổi. Máy
tính điện tử đã giúp con người xử lý thông tin một cách tự động và nhanh
chóng, điều đó đã tiết kiệm rất nhiều thời gian và công sức của con người.
Toàn bộ các thiết bị điện tử và cơ khí của máy tính được gọi chung là
phần cứng. Các chương trình chạy trên máy tính được gọi là phần mềm.
* Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
Ứng dụng CNTT trong dạy học là sử dụng các phương tiện để
khuyếch đại, mở rộng khả năng nghe nhìn và trao cho máy các thao tác
truyền đạt, xử lý thông tin. Các phương tiện đó được xem như các công cụ
lao động trí tuệ mới bao gồm: MVT, video, máy chiếu qua đầu (over head),
máy chiếu tinh thể lỏng (LCD-Projector), máy quay kỹ thuật số, các phần
mềm cơ bản: xây dựng thí nghiệm ảo, thí nghiệm mô phỏng, CD-ROM,…
đặc biệt là mạng Internet. Trong đó máy vi tính đóng vai trò là trung tâm
phối hợp, xử lý mọi hình thức thể hiện và thao tác truyền đạt thông tin. Máy
vi tính kết hợp với một số phần mềm tạo nên một công cụ hỗ trợ có nhiều

chức năng to lớn như: có thể tạo nên, lưu giữ, sắp xếp, sửa đổi, hiển thị lại,
… một khối lượng thông tin vô cùng lớn một cách nhanh chóng, dễ thực
hiện. Do vậy, máy vi tính được xem như là một công cụ dạy học không thể
thiếu trong một xã hội hiện đại.
Từ cách tiếp cận trên đây cho thấy, Ứng dụng CNTT vào dạy học là
khả năng sử dụng những tiện ích của CNTT trong các hoạt động dạy học
14


một cách hợp lý nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của người học,
đồng thời nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình dạy học.
Ứng dụng CNTT trong dạy học được biểu hiện rất đa dạng, với nhiều
hình thức khác nhau, với những mức độ cụ thể như sau:
Mức 1: Ứng dụng CNTT để thiết kế kế hoạch dạy học, trợ giúp giáo viên
một số thao tác nghề nghiệp như soạn giáo án, in ấn tài liệu... Đây là mức độ ứng
dụng CNTT phổ biến nhất của giáo viên ở các cơ sở giáo dục và các nhà trường
hiện nay.
Mức 2: Ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp và kỹ năng dạy
học của giáo viên. Đây là mức ứng dụng CNTT để hỗ trợ một khâu, một
hoạt động trong toàn bộ quá trình dạy học. giáo viên sử dụng tiện ích của
một số phần mềm như MS.PowerPoint hoặc Violet để thiết kế giáo án có
ứng dụng CNTT hỗ trợ đổi mới phương pháp và kỹ năng dạy học của giáo
viên nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
Mức 3: Ứng dụng CNTT trong quản lý để hỗ trợ và khuyến khích học
tập, giáo viên sử dụng phần mềm dạy học chuyên dùng để tổ chức dạy học
cho từng bộ môn như sử dụng phần mềm dạy học dành cho đồ họa trắc địa,
hoặc dùng để vẽ như Autocard; phần mềm Total Video Converter 3.12 để
thiết kế các đoạn Video…
Mức 4: Ứng dụng CNTT để khai thác các tiện ích nhằm tích hợp
CNTT vào quá trình dạy học, hướng tới việc ứng dụng CNTT trong tất cả

các khâu của quá trình dạy học, từ việc xây dựng kế hoạch dạy học, tổ chức
thực hiện và kiểm tra đánh giá...
* Đổi mới phương pháp dạy học
Quá trình dạy học là một chỉnh thể thống nhất bao gồm nhiều nhân tố,
các nhân tố của quá trình dạy học quy định, chế ước lẫn nhau, như: Mục
đích dạy học quy định nội dung dạy học, nội dung dạy học quy định PPDH,
đến lượt mình PPDH lại quy định các hình thức tổ chức và các phương tiện
dạy học… Vì vậy khi tiến hành đổi mới PPDH cần phải đặt trong mối quan
hệ biện chứng với các nhân tố của quá trình dạy học.
15


Mục đích đổi mới PPDH đó là hướng tới hoạt động chủ động, chống
lại thói quen dạy thụ động của giáo viên và học thụ động học sinh. Tăng
cường dạy cách tự học, tự tìm tòi sáng tạo cho học sinh.
Theo quan điểm chung, đổi mới PPDH là đưa các PPDH mới vào
trong nhà trường để phát huy tính sáng tạo, tích cực và tự giác học tập của
học sinh, giúp học sinh nâng cao khả năng tự học và biết cách vận dụng
những tri thức đã lĩnh hội được vào trong thực tiễn cuộc sống. Đổi mới
PPDH không phải là thay đổi hoàn toàn PPDH cũ bởi những PPDH mới mà
đó là sự thay đổi trên cơ sở có chọn lọc, kế thừa và phát huy các ưu điểm
của PPDH trước đây.
* Ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy học
Ứng dụng CNTT nhằm đổi mới PPDH là một chủ đề lớn được
UNESCO chính thức đưa ra thành chương trình trước ngưỡng cửa của thế kỉ
XXI và UNESCO dự đoán sẽ có sự thay đổi nền giáo dục một cách căn bản
vào đầu thế kỉ XXI do ảnh hưởng của nền kinh tế kỹ thuật số.
Trong thời đại CNTT với sự chuyển mình nhanh chóng của nền kinh tế
tri thức, KH&CN phát triển như vũ bão và sự bùng nổ thông tin thì các bài
giảng có nội dung phong phú mới đáp ứng mục tiêu đặt ra. Với PPDH truyền

thống độc thoại với mối tương tác chủ yếu một chiều, học sinh sẽ mất dần khả
năng làm việc theo nhóm, tính thích nghi kém, vì vậy tính tích cực chủ động
tiếp nhận tri thức giảm sút, không đáp ứng được yêu cầu truyền tải nội dung
kiến thức bài giảng có tính cập nhật và thời sự, không đưa người học tiếp cận
được tới KH&CN hiện đại. Trong bối cảnh đó, nền giáo dục của các nước phát
triển trên thế giới đã ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học một
cách phổ biến và đã đạt được những kết quả mong muốn.
Ở Việt Nam, từ những năm 90 của thế kỷ XX Đảng và Chính phủ đã rất
quan tâm đến ứng dụng CNTT vào các lĩnh vực cuộc sống nhằm đẩy mạnh công
nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước. Các quyết sách của Đảng, Chính phủ về
ứng dụng CNTT vào quá trình dạy học đã định hướng quan trọng giúp các
trường THCS xây dựng kế hoạch, tăng kinh phí đầu tư CSVC, chỉ đạo, triển
16


khai thực hiện việc ứng dụng và phát triển ứng dụng CNTT trong đổi mới
phương pháp dạy học.
Ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao
chất lượng giáo dục vừa là nhu cầu vừa là động lực phát triển của giáo dục.
Nó đòi hỏi phải có sự định hướng chiến lược và sự chỉ đạo thống nhất của
các nhà quản lý các cấp từ Trung ương đến các cơ sở giáo dục.
Hiện nay, quá trình đổi mới phương pháp dạy học được tiếp cận theo
các quan điểm khác nhau. Theo tác giả Thái Duy Tuyên có 3 cách tiếp cận:
- Quá trình đổi mới phương pháp dạy học được tiếp cận theo quan
điểm tâm lý – giáo dục.
- Quá trình đổi mới phương pháp dạy học được tiếp cận theo quan
điểm điều khiển học.
- Quá trình đổi mới phương pháp dạy học được tiếp cận theo quan
điểm công nghệ (trong đó có CNTT) [52, tr.9-10].
Đổi mới phương pháp dạy học được tiếp cận theo quan điểm CNTT

chính là cách thức đưa những phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại vào nhà
trường nhằm cung cấp cho giáo viên và học sinh những công cụ lao động
mới, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Từ những luận giải trên có thể đưa ra khái niệm ứng dụng CNTT
trong đổi mới phương pháp dạy học ở các trường THCS như sau: Ứng dụng
CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học ở các trường THCS là những
cách thức mà giáo viên và học sinh sử dụng những thành tựu của CNTT vào
các hoạt động dạy học nhằm tối ưu hóa việc truyền thụ và lĩnh hội nội dung
dạy học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở các nhà trường.
Chủ thể ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học ở các
trường THCS:
Chủ thể trực tiếp ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy
học ở các trường THCS là đội ngũ giáo viên của nhà trường.
Chủ thể chỉ đạo, tổ chức ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp
dạy học ở các trường THCS là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng bộ môn.
17


Học sinh ở các trường THCS là đối tượng của quá trình dạy học, họ là
những người thụ hưởng các thành tựu, kết quả của ứng dụng CNTT trong đổi
mới phương pháp dạy học, đồng thời họ cũng chính là những chủ thể tham gia
trực tiếp vào quá trình ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học.
1.1.2. Khái niệm quản lý ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi
mới phương pháp dạy học ở các trường trung học cơ sở
Khái niệm “quản lý” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau dựa
trên cơ sở những cách tiếp cận khác nhau.
Có thể tiếp cận khái niệm “quản lý” theo các nhà nghiên cứu sau:
Tác giả F.W.Tay lor (nhà quản lý người Mỹ 1856 - 1915) cho rằng
“Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó
bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”.[4]

Tác giả H.Fayol (kỹ sư người Pháp 1841-1925), quan niệm: “Quản lý
hành chính là kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”[4]. Trong
học thuyết quản lý của mình H. Fayol đưa ra 5 chức năng cần thiết của một nhà
quản lý là:
Dự báo và lập kế hoạch - Tổ chức - Chỉ huy - Phối hợp - Kiểm tra và
sau này được kết hợp thành 4 chức năng: Lập kế hoạch - Tổ chức - Chỉ đạo Kiểm tra.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang :“Quản lý là sự tác động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (khách thể
quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến.” [18, tr. 14]
Với khái niệm trên, quản lý bao gồm các điều kiện sau:
- Phải có một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động, và một đối
tượng bị quản lý phải tiếp nhận các tác động của chủ thể quản lý tạo ra. Tác
động có thể chỉ là một lần mà cũng có thể là liên tục nhiều lần.
- Phải có một mục tiêu đặt ra cho cả đối tượng và chủ thể, mục tiêu
này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động.
- Chủ thể có thể là một người, nhiều người, một thiết bị. Còn đối
tượng có thể là con người (một hoặc nhiều người) hoặc máy móc, thiết bị,
đất đai, thông tin, hầm mỏ, vật nuôi, cây trồng...
18


Bất cứ một tổ chức nào, cho dù cơ cấu và quy mô hoạt động ra sao
đều phải có sự quản lý và có người quản lý thì mới đạt được mục đích tồn
tại và phát triển của tổ chức đó. Vậy hoạt động quản lý là gì?
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc: Đó là tác động có
định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản
lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt
được mục đích của tổ chức.
Nói cách khác hoạt động quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức
bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo

(lãnh đạo) và kiểm tra. Người quản lý là nhân vật có trách nhiệm phân bố nhân
lực và các nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận hay toàn bộ tổ
chức để tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt đến mục đích.
Cũng theo tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì quản lý có
bốn chức năng chủ yếu, cơ bản: Kế hoạch hóa, Tổ chức , Chỉ đạo - Lãnh đạo và
Kiểm tra
Kế hoạch hóa: Đó là xác định mục tiêu, mục đích cho những hoạt động
trong tương lai của tổ chức và xác định các biện pháp, cách thức để đạt được
mục đích đó.
Tổ chức: Khi người quản lý đã lập xong kế hoạch, họ cần phải chuyển
hóa những ý tưởng ấy thành những hoạt động hiện thực.Tổ chức là quá trình
hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong
một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được
mục tiêu tổng thể của tổ chức. Người quản lý phải phối hợp, điều phối tốt các
nguồn nhân lực của tổ chức.
Lãnh đạo (Chỉ đạo): Sau khi kế hoạch đã được lập, cơ cấu bộ máy đã hình
thành, nhân sự đã được tuyển dụng thì phải có người đứng ra lãnh đạo, dẫn dắt
tổ chức. Đó là quá trình liên kết, liên hệ với người khác, hướng dẫn và động viên
họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Tất
nhiên việc lãnh đạo không chỉ bắt đầu sau khi việc lập kế hoạch và thiết kế bộ
máy đã hoàn tất, mà nó xuyên suốt trong hoạt động quản lý.
19


Kiểm tra: Đây là hoạt động theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động và
tiến hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết.
Trường học là hình thức thể hiện của hệ thống giáo dục trên qui mô
toàn xã hội, là nơi diễn ra hầu hết các hoạt động giáo dục của hệ thống giáo
dục quốc dân.
Trong các nhà trường, dạy học là hoạt động cơ bản và trọng tâm. Dạy

học bao gồm hai hoạt động thống nhất biện chứng: hoạt động dạy của giáo
viên và hoạt động học của học sinh. Trong đó dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều
khiển của giáo viên, người học tự giác, tích cực tự tổ chức, tự điều khiển hoạt
động học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học. Trong hoạt
động dạy học, hoạt động dạy của giáo viên có vai trò chỉ đạo, hướng dẫn,
hoạt động học của học sinh có vai trò tự giác, chủ động, tích cực. Hoạt động
dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh có liên hệ, tác động lẫn
nhau. Nếu thiếu một trong hai hoạt động đó việc dạy học không diễn ra.
Quản lý dạy học là một nhiệm vụ trung tâm rất quan trọng của người
quản lý. Huy động và tạo điều kiện thuận tiện để cho hoạt động dạy học đạt
hiệu quả và chất lượng cao nhất. Quản lý dạy học chính là quản lý hoạt động
dạy của giáo viên, quản lý hoạt động học của học sinh, quản lý đổi mới
phương pháp dạy học và quản lý các điều kiện, phương tiện hỗ trợ cho hoạt
động dạy học. Đó là những tác động có tổ chức, có hướng đích của người
quản lý đến các nhà trường, tập thể giáo viên, học sinh và CBQL để huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực thúc đẩy quá trình
dạy học của nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu
dạy học.
Trong thời đại hiện nay, CNTT đã thâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực
trong đời sống xã hội. Nó được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực đã
thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của xã hội và làm thay đổi căn bản cách
quản lý, học tập và làm việc của con người. Đối với các trường học CNTT
là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và hỗ trợ
đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng
20


giáo dục. Thông qua ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học
nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh, nâng cao chất lượng
và hiệu quả của quá trình dạy học.

Từ cách tiếp cận trên đây có thể hiểu: Quản lý ứng dụng CNTT trong
đổi mới phương pháp dạy học ở các trường trung học cơ sở là những tác
động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý nhằm thúc đẩy, tạo điều
kiện cho việc sử dụng CNTT vào hoạt động dạy học góp phần thực hiện có
chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục đã xác định.
Mục đích quản lý ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy
học là tổng thể những tác động của chủ thể quản lý đến đội ngũ giáo viên và
học sinh để sử dụng những tiện ích của CNTT trong truyền thụ và lĩnh hội
nội dung dạy học, góp phần nâng cao chất lượng quá trình dạy học.
Chủ thể quản lý ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học
ở các trường THCS, bao gồm:
Chủ thể chỉ đạo là trưởng phòng, phó trưởng phòng GD&ĐT Quận.
Chủ thể quản lý trực tiếp là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng
chuyên môn của các trường THCS.
Quản lý ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học ở các
trường THCS không chỉ là nhiệm vụ của các nhà quản lý, của các cấp lãnh
đạo, đây còn là nhiệm vụ của tất cả các giáo viên của nhà trường. Họ vừa là
đối tượng vừa là chủ thể của quá trình ứng dụng CNTT trong đổi mới
phương pháp dạy học.
Đối tượng quản lý ứng dụng CNTT ứng dụng CNTT trong đổi mới
phương pháp dạy học là năng lực, kỹ năng sử dụng CNTT, hoạt động của
giáo viên, học sinh khai thác những tiện ích của CNTT và đầu tư, quản lý
CSVC, phương tiện kỹ thuật bảo đảm cho việc ứng dụng CNTT trong đổi
mới phương pháp dạy học nhằm đạt kết quả tối ưu.
Nội dung quản lý ứng dụng CNTT vào dạy học bao gồm: Xây dựng
kế hoạch ứng dụng CNTT vào dạy học; bồi dưỡng nâng cao trình độ CNTT
cho GV; tổ chức thực hiện ứng dụng CNTT vào dạy học; chỉ đạo ứng dụng
CNTT vào dạy học và quản lý kết quả ứng dụng CNTT vào dạy học ở các
trường THCS trên địa bàn Quận.
21



1.2. Nội dung quản lý ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới
phương pháp dạy học ở các trường trung học cơ sở
1.2.1. Xây dựng kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi
mới phương pháp dạy học
Trên cơ sở mục tiêu, kế hoạch năm học đã được xác định, các nhà
trường lập kế hoạch ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học.
Việc xây dựng kế hoạch ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy
học phải phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của đội ngũ CBQL, GV
ở mỗi nhà trường, gắn với từng chủ đề, từng bài cụ thể. Sử dụng hiệu quả
phương tiện dạy học hiện đại, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh ở
mỗi nhà trường, mỗi lớp học.
Căn cứ kế hoạch ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy
học của trường, các tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch của tổ của. Kế hoạch
ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học của tổ chuyên môn
phải xác định được mục tiêu cần đạt, các việc làm cụ thể của tổ. Phân bố
thời gian để giáo viên trong tổ dự giờ đóng góp ý kiến, chia sẻ kinh nghiệm
ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học.
Căn cứ vào kế hoạch hoạch ứng dụng CNTT trong đổi mới phương
pháp dạy học của tổ chuyên môn, từng giáo viên phải xây dựng kế hoạch
riêng của mình. Kế hoạch phải thể hiện rõ các nội dung, công việc mà giáo
viên ứng dụng CNTT phục vụ cho đổi mới phương pháp dạy học. Giáo viên
phải xác định cụ thể bài học, nội dung học và thời điểm thực hiện giảng dạy
có ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học.
1.2.2. Tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ công nghệ thông tin
cho cán bộ quản lý và giáo viên
Đội ngũ giáo viên chính là lực lượng chủ yếu, quyết định chất lượng,
hiệu quả ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường.
Vì vậy, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nói chung, trình độ về

CNTT nói riêng cho giáo viên là nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản
lý chuyên môn của hiệu trưởng nhà trường.
22


Bồi dưỡng, nâng cao trình độ về CNTT cho giáo viên tập trung vào
các kiến thức cơ bản về tin học và những kỹ năng về CNTT như: Kỹ năng
sử dụng máy tính, máy in, máy chiếu Projecter,… Kỹ năng khai thác và sử
dụng các tiện ích trên mạng, kỹ năng thiết kế và sử dụng giáo án có ứng
dụng CNTT, kỹ năng khai thác và sử dụng phần mềm dạy học, kỹ năng sử
dụng và xử lý các tình huống khi sử dụng các thiết bị CNTT vào giờ giảng,
vào từng bài cụ thể. Việc quan tâm đúng mức của đội ngũ CBQL nhất là
ban giám hiệu nhà trường đến bồi dưỡng giáo viên sẽ góp phần nâng cao
trình độ về CNTT cho giáo viên, làm cho việc ứng dụng CNTT trong đổi
mới phương pháp dạy học trở thành một nhu cầu của giáo viên. Từ đó tạo
tiền đề và điều kiện thuận lợi thúc đẩy cho đội ngũ giáo viên tích cực ứng
dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học.
Nội dung quản lý bồi dưỡng, nâng cao trình độ về CNTT cho giáo
viên bao gồm: đánh giá trình độ CNTT và khả năng ứng dụng CNTT trong dạy
học của giáo viên; xác định mục tiêu, định hướng, lập kế hoạch bồi dưỡng; tổ
chức đào tạo, tập huấn, kiểm tra, giám sát việc tự bồi dưỡng, tự nghiên cứu
nâng cao trình độ ứng dụng CNTT cho đội ngũ giáo viên.
1.2.3. Tổ chức thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
ở các nhà trường
1.2.3.1. Xây dựng kế hoạch đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại
Điều kiện cần thiết tối thiểu để đảm bảo cho việc ứng dụng CNTT
trong đổi mới phương pháp dạy học là phải có CSVC, trang thiết bị hiện đại
và đồng bộ. Các trường phải được đầu tư trang bị máy tính nối mạng
internet và mạng nội bộ, phấn đấu tối thiểu dưới 20 học sinh/máy tính. Bảo

đảm mỗi trường đều có phòng học đa phương tiện với các thiết bị: máy tính,
Projecter, máy in, webcam, điện thoại và kết nối intenet tốc độ cao phục vụ
giảng dạy. Xây dựng kế hoạch cung cấp các phần mềm dạy học hỗ trợ việc
soạn giảng cho các nhà trường với từng môn học.
Công tác quản lý điều kiện CSVC, thiết bị về CNTT phải được thực
hiện đồng bộ từ việc xây dựng, sử dụng đến bảo quản. Cần có kế hoạch xây
23


dựng và bổ sung trước mắt và lâu dài để CSVC, thiết bị CNTT ngày càng đầy
đủ, hoàn chỉnh hơn.
1.2.3.2. Quản lý việc xây dựng và sử dụng phòng học đa phương tiện
nhằm tích cực hóa quá trình nhận thức của học sinh
* Quản lý xây dựng phòng học đa phương tiện
Để tiến hành quản lý việc xây dựng phòng học đa phương tiện, CBQL
nhà trường cần phải lưu ý những điểm sau:
Phòng học đa phương tiện, trước hết phải là một phòng học với đầy
đủ các chức năng của một phòng học truyền thống đồng thời có tích hợp
thêm các TBDH đa phương tiện (TBDH hiện đại) như: máy chiếu bóng,
máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa năng, màn chiếu, bản trong, bảng kỹ thuật
số, hệ thống loa, tai nghe, máy ghi âm, máy quay phim, bảng cảm ứng... và
đặc biệt là không thể thiếu các giàn máy vi tính có kết nối mạng Internet, và
kết nối mạng Lan với nhau.
Phòng học đa phương tiện được xây dựng phải đảm bảo có sự kết hợp
hài hòa giữa yếu tố sư phạm và yếu tố công nghệ một cách khoa học. Đồng
thời các phòng học đa phương tiện phải phù hợp với việc tổ chức hoạt động
dạy học cho hầu hết các môn học hiện có trong các nhà trường phổ thông
hiện nay.
Để xây dựng được một phòng học đa phương tiện là hết sức tốn kém,
với khả năng tài chính của các trường THCS thì khó có thể xây dựng được

một phòng học đa phương tiện và cành khó khăn trong việc xây dựng cả hệ
thống các phòng học đa phương tiện cho nhà trường. Điều này đòi hỏi ban
giám hiệu nhà trường, đặc biệt là hiệu trưởng phải hết sức năng động. Một
mặt tranh thủ sự giúp đỡ của các cấp chính quyền, các ban ngành đoàn thể,
mặt khác cũng phải khéo léo tuyên truyền, vận động để nhận được sự đồng
tình ủng hộ của gia đình các em học sinh. Tức là hiệu trưởng cần phải làm
tốt công tác xã hội hóa giáo dục để tranh thủ tối đa sự đồng tình ủng hộ cả
về tinh thần lẫn CSVC cho nhà trường.
Tìm các đối tác chuyên nghiệp và có uy tín trong lĩnh vực cung cấp
các TBDH hiện đại (các phương tiện truyền thông). Tiến hành đấu thầu rộng
24


rãi và công khai gói thầu cung cấp hệ thống TBDH hiện đại cho các phòng
học đa phương tiện của nhà trường.
Khi tiến hành xây dựng phòng học đa phương tiện cho nhà trường,
CBQL cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình thực tế của nhà trường về
CSVC hiện có, nhu cầu thực tế về TBDH hiện đại cho nhà trường (có tính
đến tiến trình phát triển của nhà trường và sự lạc hậu của các TBDH hiện
đại trong 3 đến 6 năm tới). Trên cơ sở thực tế của nhà trường, hiệu trưởng
mới lập kế hoạch cho tiến hành xây dựng phòng học đa phương tiện sao cho
tránh được những lãng phí không cần thiết và phục vụ tốt cho nhu cầu dạy
học của nhà trường.
* Quản lý việc sử dụng phòng học đa phương tiện nhằm tích cực hóa
quá trình nhận thức của học sinh
Ngay sau khi quản lý thành công việc xây dựng các phòng học đa
phương tiện thì Hiệu trưởng phải tiến hành quản lý đưa các phòng học này
vào sử dụng sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Muốn các phòng học đa phương
tiện hoạt động có hiệu quả, Hiệu trưởng nhà trường cần phải làm tốt những
công việc sau:

- Lên kế hoạch cho toàn bộ cán bộ giáo viên, nhân viên của nhà
trường tham gia lớp tập huấn về cách sử dụng hiệu quả các TBDH hiện đại
được trang bị trong phòng học đa phương tiện.
- Cử một giáo viên có trình độ tin học của nhà trường như giáo viên
tin học làm nhân viên phòng học đa phương tiện để hỗ trợ giáo viên về mặt
kỹ thuật trong quá trình giáo viên sử dụng phòng học đa phương tiện tổ chức
hoạt động dạy học.
- Nghiên cứu đề ra nội quy của phòng học đa phương tiện một cách
chặt chẽ để cho tất cả mọi người đều có ý thức bảo vệ các thiết bị có trong
phòng học đa phương tiện. Để bảo vệ các phương tiện truyền thông hiện đại
có trong phòng học đa phương tiện, nếu chỉ dựa vào ý thức sử dụng của giáo
viên và học sinh không thôi thì chưa đủ mà còn cần phải có kế hoạch bảo
dưỡng định kỳ những phương tiện này.
25


- Phải thường xuyên quan tâm đến chất lượng dạy học của giáo viên
và học sinh khi họ tham gia giảng dạy và học tập trong phòng học đa
phương tiện. Nếu kết quả diễn ra theo ý muốn của mình thì tìm cách phát
huy, tiến hành áp dụng cho toàn trường. Ngược lại kết quả không được như
ý muốn thì nhanh chóng tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Phải
làm sao đó để giáo viên và học sinh thấy thực sự hứng thú và mong muốn
được giảng dạy và học tập trong phòng học đa phương tiện, chứ không phải
là thực hiện một cách miễn cưỡng.
1.2.4. Quản lý việc thiết kế và sử dụng giáo án dạy học tích cực có
ứng dụng công nghệ thông tin
Lập kế hoạch thiết kế GADHTC có ứng dụng CNTT:
Trong kế hoạch thiết kế GADHTC có ứng dụng CNTT phải đảm bảo
mục tiêu, kế hoạch năm học của nhà trường, trên cơ sở kế hoạch chung ấy,
CBQL chỉ đạo cho các tổ chuyên môn lập kế hoạch thực hiện và đẩy mạnh

việc thiết kế GADHTC có ứng dụng CNTT. Khi lập kế hoạch thiết kế
GADHTC có ứng dụng CNTT, CBQL cần dựa trên các nguyên tắc sau:
- Phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của đội ngũ CBQL, giáo
viên nhà trường.
- Gắn với từng chủ đề, từng bài cụ thể.
- Sử dụng hiệu quả PTDH hiện đại.
- Phù hợp với trình độ nhận thức của đối tượng HS nhà trường.
Mỗi tổ chuyên môn tiến hành các hoạt động có liên quan chặt chẽ tới
việc thực hiện các mục tiêu thiết kế GADHTC có ứng dụng CNTT; đồng thời
trên cơ sở đó giám sát và đánh giá việc thực hiện các mục tiêu đã đặt ra, trong
những điều kiện cụ thể có thể điều chỉnh các hoạt động sao cho phù hợp.
Tổ chức, chỉ đạo thực hiện việc thiết kế GADHTC có ứng dụng
CNTT:
Khi CBQL tiến hành chỉ đạo việc thiết kế GADHTC có ứng dụng
CNTT phải định hướng cho GV tuân thủ các nguyên tắc của một GADHTC
và ứng dụng CNTT một cách phù hợp đối với tùng nội dung kiến thức có
26


×