Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG GIÁO dục kỷ LUẬT CHO học VIÊN TRƯỜNG TRUNG cấp CẢNH sát vũ TRANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.67 KB, 100 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
1.

Trang
3

DỤC KỶ LUẬT CHO HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG TRUNG

CẤP CẢNH SÁT VŨ TRANG
1.1. Các khái niệm công cụ
1.2. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục kỷ luật cho học

12
12

viên ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý hoạt động giáo dục kỷ luật

18

cho học viên ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang
Chương CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO

23

2.

DỤC KỶ LUẬT CHO HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG


TRUNG CẤP CẢNH SÁT VŨ TRANG
2.1. Khái quát chung về Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang

30
30

2.3. Thực trạng giáo dục kỷ luật và quản lý hoạt động giáo dục kỷ
luật cho học viên ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang
Chương YÊU CẦU, BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
3.

31

GIÁO DỤC KỶ LUẬT CHO HỌC VIÊN Ở

TRƯỜNG TRUNG CẤP CẢNH SÁT VŨ TRANG
3.1. Những yêu cầu quản lý hoạt động giáo dục kỷ luật cho

48

học viên ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang
3.2. Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỷ luật cho học viên

48

ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang hiện nay
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp

50


đã đề xuất
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

75
81
84
88

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kỷ luật là một yếu tố hết sức quan trọng tạo thành sức mạnh của một tổ
chức. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ thiên tài, nhà tư tưởng lỗi lạc,


người thầy kính yêu của Đảng và dân tộc ta, người cha thân yêu của các lực
lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, luôn chăm lo xây dựng, giáo dục và rèn
luyện CAND trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt.Tư tưởng, tình cảm của
Người đã trở thành di sản tinh thần thiêng liêng, là nền tảng lý luận, kim chỉ
nam cho mọi hoạt động của lực lượng CAND, góp phần quan trọng làm nên
những chiến công to lớn, thành tích xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Trong quá trình xây dựng lực lượng
CAND cách mạng Người đã rất coi trọng việc giáo dục kỷ luật, trong bài nói
chuyện tại lớp nghiên cứu khóa I và lớp bổ túc khóa VI Trường Công an Trung
ương, ngày 25-12-1958, Người nhấn mạnh: “Công an đánh địch bên ngoài đã
khó, đánh địch bên trong người còn khó khăn hơn. Vì vậy, phải nâng cao kỷ
luật, tính tổ chức, chống ba phải, nể nang. Công tác phải đi sâu và thiết thực.
Làm việc phải có điều tra, nghiên cứu, không được tự kiêu, tự đại. Phải toàn
tâm, toàn ý phục vụ nhân dân thì khuyết điểm mới có thể khắc phục được và ưu

điểm mới có thể phát huy được” [28, tr.280].
Người đã dạy và chỉ rõ những phẩm chất đạo đức và tư cách người công
an cách mạng phải có, đó là: Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính; Đối
với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ; Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành;
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép; Đối với công việc, phải tận tụy; Đối
với địch, phải cương quyết, khôn khéo… Những lời chỉ dạy của Người đã được
cụ thể hóa trong 5 lời thề, 10 Điều kỷ luật trở thành hành động, việc làm hàng
ngày với mỗi cán bộ, chiến sĩ CAND như: CAND phải tuyệt đối trung thành với
Tổ quốc và nhân dân Việt Nam, với Đảng Cộng sản Việt Nam, với Nhà nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam, suốt đời phấn đấu, hy sinh vì độc lập, tự do, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, vì an ninh Tổ quốc; Nghiêm chỉnh chấp
hành chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghị
quyết, chỉ thị và Điều lệnh CAND; sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi
Tổ quốc, Đảng và nhân dân cần đến…Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng
2


thành của Lực lượng CAND đã chứng minh tầm quan trọng đặc biệt của kỷ luật.
Vì vậy, giáo dục, quản lý kỷ luật cán bộ chiến sĩ CAND, trong đó có lực lượng
HV đang được đào tạo ở các học viện, nhà trường trong lực lượng CAND là một
nhiệm vụ, nội dung trong quá trình GD&ĐT.
Trong quá trình tiến hành hoạt động giáo dục cho học viên trong nhà
trường, trong đó nhà trường luôn coi trọng quản lý các nhiệm vụ, nội dung
GDKL cho học viên là một trong những nhiệm vụ, nội dung quản lý trọng yếu
đối với một nhà trường Công an vốn có kỷ luật nghiêm.
Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang là trung tâm đào tạo Cảnh sát đặc
nhiệm, cảnh sát cơ động, bảo vệ, huấn luyện quân sự, võ thuật… trình độ
trung cấp cho lực lượng CAND... Trong quá trình đào tạo ở Nhà trường cùng
với việc trang bị kiến thức chuyên môn, rèn luyện kỹ năng thực hành nghề
nghiệp, trong đó có nhiệm vụ giáo dục, xây dựng nếp sống chính quy,

GDKL cho học viên - nhân tố cơ bản, quan trọng trong phẩm chất nhân cách
và năng lực của người cán bộ, chiến sĩ CAND. Trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ giáo dục đào tạo, Nhà trường, các cấp lãnh đạo, chỉ huy và các cơ
quan chức năng luôn quan tâm việc quản lý giáo dục xây dựng nếp sống
chính quy cho HV và được chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ. Do đó, chất
lượng, hiệu quả xây dựng nếp sống chính quy, GDKL được nâng lên, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của Nhà trường. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được, quá trình QLGD, GDKL cho học viên cũng
còn những hạn chế như: Nhận thức về GDKL của học viên vẫn còn có mặt
chưa toàn diện thiếu vững chắc; một bộ phận học viên còn nhận thức chưa
đúng, chưa đầy đủ về pháp luật, kỷ luật, chế độ nền nếp qui định trong học
tập, sinh hoạt, công tác; còn có các trường hợp học viên vi phạm điều lệnh
CAND, chế độ quy định của Ngành và của Trường; vi phạm kỷ luật thông
thường vẫn còn khá phổ biến cần sớm được khắc phục. Những vi phạm đó
ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thực hiện nhiệm vụ và uy tín của Nhà trường.
3


Những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do công tác giáo dục và quản
lý hoạt động GDKL cho HV còn có những mặt hạn chế...
Trong thời gian qua, đã có một số nhà khoa học, nhà quản lý nghiên cứu
về vấn đề kỷ luật cho học viên với các góc độ tiếp cận, ở các chuyên ngành
khác nhau; song, chưa có một tác giả, công trình nào đi sâu nghiên cứu về
quản lý hoạt động GDKL cho học viên ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang
với cách tiếp cận của khoa học QLGD. Vì những lý do đó, học viên chọn vấn
đề: “Quản lý hoạt động giáo dục kỷ luật cho học viên ở Trường Trung cấp
Cảnh sát vũ trang” làm đề tài nghiên cứu tốt nghiệp thạc sĩ QLGD.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề kỷ luật, GDKL và quản lý GDKL đã có những công trình
nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài ngành dưới các góc độ khác nhau.

- Các nghiên cứu vấn đề kỷ luật dưới góc độ Triết học và Tâm lý học:
tác giả Nguyễn Thanh Long “Phân tích mâu thuẫn trong quá trình củng cố và
tăng cường kỷ luật của lực lượng CAND nhân dân Việt Nam hiện nay” (1991)
và tác giả Nguyễn Văn Thanh “Mối quan hệ giữa phát huy dân chủ XHCN và
tăng cường kỷ luật trong lực lượng CAND nhân dân Việt Nam hiện nay”
(2004)... Các tác giả của hai công trình này đã đi từ bản chất chính trị - xã hội
của kỷ luật; mối quan hệ biện chứng giữa dân chủ và kỷ luật trong lực lượng vũ
trang để chỉ ra những vấn đề có tính quy luật của quá trình phát huy dân chủ
XHCN và tăng cường kỷ luật trong lực lượng vũ trang hiện nay. Tuy không
trực tiếp bàn về các hoạt động quản lý kỷ luật, nhưng những luận giải của các
công trình này về mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật, giữa dân chủ và tập
trung, phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật có giá trị phương
pháp luận trong quản lý hoạt động GDKL cho học viên Cảnh sát hiện nay.
Các nghiên cứu vấn đề kỷ luật dưới góc độ của Tâm lý học: Công trình
khoa học tiêu biểu của tập thể tác giả Khoa Tâm lý học quân sự - Học viện
Chính trị nghiên cứu về “Cơ sở tâm lý của củng cố kỷ luật quân sự” (1998) và
“Cơ sở tâm lý của củng cố và nâng cao kỷ luật quân sự ở phân đội” (2005) bàn
4


về tầm quan trọng của kỷ luật quân sự trong việc xây dựng, phát triển và hoàn
thiện các phẩm chất nhân cách cho quân nhân, nâng cao chất lượng hoạt động
quân sự của tập thể quân nhân và góp phần trực tiếp vào xây dựng lực lượng
Quân đội Nhân dân. Bên cạnh đó còn có các công trình khoa học nghiên cứu
xoay quanh vấn đề thực hiện dân chủ và kỷ luật; giáo dục pháp luật, kỷ luật cho
quân nhân đã được nghiệm thu và công bố như tác giả Nguyễn Ngọc Phú với
công trình “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kỷ luật quân sự”; tác giả Đinh
Hùng Tuấn về: “Cơ sở tâm lý học của củng cố và nâng cao tính kỷ luật của các
tập thể quân sự”... các công trình này đã xác định các biện pháp xã hội - tâm lý
nhằm nâng cao tính kỷ luật của quân nhân. Đó là giáo dục tư tưởng, chính trị,

đạo đức, xây dựng động cơ GDKL cho các quân nhân; tổ chức tốt mọi hoạt động
quân sự trong đơn vị; thực hành kỷ luật nghiêm, xây dựng thói quen hành vi kỷ
luật vững chắc; phát huy vai trò của người chỉ huy và tập thể cơ sở quân nhân
trong xây dựng các nền nếp kỷ luật của đơn vị, quản lý kỷ luật tốt nhằm phát
triển tính kỷ luật của quân nhân; tích cực hoá tự giáo dục kỷ luật của mỗi quân
nhân. Các tác giả cũng đề cập đến vấn đề quản lý và coi đó là một trong
những biện pháp nhằm nâng cao tính kỷ luật của quân nhân.
- Các nghiên cứu vấn đề kỷ luật dưới góc độ của Khoa học giáo dục, tác
giả Phạm Minh Thụ nghiên cứu sâu về “Sử dụng tổng hợp các phương pháp
giáo dục thói quen hành vi kỷ luật cho học viên sĩ quan ở các trường đại học
quân sự” (2004). Trong đó, tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề nghiên
cứu, đưa ra ba nhóm phương pháp giáo dục thói quen hành vi kỷ luật cho học
viên (gồm xây dựng ý thức kỷ luật; hoạt động GDKL; kích thích và điều
chỉnh nhận thức, thái độ hành vi), đồng thời phân tích thực trạng và đề xuất
các biện pháp sử dụng tổng hợp các phương pháp giáo dục nhằm nâng cao
chất lượng GDKL cho học viên, đáng chú ý như: kết hợp các phương pháp
giáo dục thói quen hành vi kỷ luật cho học viên thông qua quá trình tổ chức
thực hiện các chế độ quy định ở Nhà trường đại học quân sự; thông qua tổ
chức thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và thông qua việc xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh, chính quy mẫu mực ở Nhà trường đại học quân
sự. Đặc biệt, tác giả đã đưa ra Quy trình sử dụng tổng hợp các phương pháp
5


giáo dục thói quen hành vi kỷ luật cho học viên theo từng năm học cụ thể gồm
3 khâu: nâng cao nhận thức; xây dựng thái độ niềm tin; hình thành thói quen
hành vi kỷ luật; trong mỗi khâu gồm có các bước, các tác động giáo dục cụ
thể.
Tác giả Vũ Quang Hải với đề tài về “Nghiên cứu quy trình tổ chức
GDKL cho học viên trong Nhà trường Quân đội” (2009), trên cơ sở nghiên

cứu lý luận và thực tiễn tổ chức GDKL cho học viên các Nhà trường Quân
đội, đã đề xuất quy trình tổ chức GDKL cho học viên trong Nhà trường Quân
đội gồm 5 bước, đó là: phân tích tình hình, xác định mục tiêu GDKL; thiết kế
nội dung, lựa chọn phương pháp, hình thức GDKL; bồi dưỡng kiến thức về
trình tự công việc tổ chức GDKL và tạo sự đồng thuận cho các lực lượng giáo
dục; thực hành GDKL cho học viên và tập thể học viên; kiểm tra đánh giá,
tổng kết phản hồi kết quả GDKL. Cũng nghiên cứu về GDKL, nhưng đi sâu
và gắn với một đối tượng đặc thù cụ thể, tác giả Phạm Đình Hoè đã nghiên
cứu “Hệ thống biện pháp giáo dục kỷ luật cho học viên văn hoá nghệ thuật
trong Quân đội” (2008). Từ phân tích các đặc điểm riêng biệt của đối tượng
nghiên cứu, khái quát các nhân tố tác động, thực trạng và kinh nghiệm GDKL
cho đội ngũ này, tác giả đã đưa ra định hướng và đề xuất hệ thống biện pháp
về GDKL cho học viên văn hoá nghệ thuật trong Quân đội - nhóm đối tượng
đặc thù trong hệ thống các Nhà trường Quân đội.
- Dưới góc độ khoa học QLGD đã có một số đề tài, công trình nghiên
cứu về quản lý, GDKL cho các đối tượng khác nhau như: Tác giả Phạm Đình
Dũng nghiên cứu đề tài “Quản lý hoạt động GDKL cho học viên Trường sĩ
quan Tăng - Thiết giáp” Luận văn thạc sĩ QLGD (2008); tác giả Phùng Đức
Hùng đi sâu vào “Quản lý hoạt động GDKL cho học viên Trường quân sự
Quân khu 2” Luận văn thạc sĩ QLGD (2011), tác giả Phạm Đình Luyện “Quản
lý hoạt động GDKL cho học viên Trường Sĩ quan Không quân” (2014)...
Các đề tài này đã tập trung đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn
quản lý hoạt động GDKL cho học viên các Nhà trường, nội dung quản lý
hoạt động GDKL, những yếu tố tác động đến quá trình quản lý và đề xuất
6


biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động GDKL đối với học
viên, góp phần đáp ứng mục tiêu yêu cầu đào tạo của các Nhà trường đó.
Ngoài ra, còn nhiều bài báo khoa học viết về tầm quan trọng của kỷ luật,

giáo dục, rèn luyện, quản lý kỷ luật cũng như vai trò của cán bộ lãnh đạo, chỉ
huy, các tổ chức ở đơn vị trong việc giáo dục, GDKL cho quân nhân và tập
thể quân nhân.
Từ sự phân tích những luận cứ khoa học của vấn đề nghiên cứu, các tác
giả đã đề xuất nhiều kiến nghị và biện pháp nhằm củng cố KLQĐ, tăng cường
hiệu quả công tác giáo dục, quản lý giáo dục, GDKL cũng như phát huy vai trò
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, các tổ chức ở đơn vị cơ sở trong việc giáo
dục, GDKL cho quân nhân và tập thể quân nhân trong quân đội.
Tóm lại, từ sự khái quát và luận giải những công trình khoa học liên
quan đến vấn đề nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy:
Kỷ luật, GDKL, quản lý GDKL là những vấn đề được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, từ đề tài khoa học cấp
Nhà nước, cấp Bộ đến các luận án, luận văn và các bài báo khoa học, nhưng
chủ yếu của các tác giả trong quân đội. Các công trình nghiên cứu tuy khác
nhau về đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu, song các tác giả đã tập
trung phân tích, làm rõ vị trí, vai trò, bản chất của kỷ luật và quản lý GDKL
cho quân nhân, đánh giá thực trạng giáo dục và chấp hành kỷ luật; đề xuất
các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, quản lý kỷ luật và hình
thành thói quen hành vi chấp hành kỷ luật; trong đó quản lý hoạt động
GDKL được đề cập đến như là một biện pháp trực tiếp nhằm nâng cao chất
lượng GDKL cho học viên.
Kết quả nghiên cứu của các đề tài, công trình trên đã đáp ứng một phần thực
tiễn xây dựng lực lượng vũ trang trước mắt cũng như lâu dài; đồng thời là cơ sở
trực tiếp để tác giả kế thừa và phát triển vấn đề nghiên cứu dưới góc độ của khoa
học QLGD. Mặt khác, hiện nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về
Quản lý hoạt động GDKL cho học viên ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ
trang, do đó tác giả lựa chọn vấn đề này để nghiên cứu.
7



3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Từ sự luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, đề
xuất các biện pháp quản lý hoạt động GDKL cho học viên Trường Trung cấp
Cảnh sát vũ trang hiện nay, nhằm góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng,
GDKL nói riêng, quá trình GD&ĐT nói chung của Nhà trường.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung thực hiện các nhiệm vụ cơ bản là:
- Làm rõ cơ sở lý luận về giáo dục GDKL và quản lý hoạt động GDKL
cho học viên.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động GDKL cho học viên ở
Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang.
- Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động GDKL cho học viên ở Trường
Trung cấp Cảnh sát vũ trang hiện nay và khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả
thi của các biện pháp được đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
*Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang.
*Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động GDKL cho học viên ở Trường Trung cấp Cảnh sát
vũ trang.
*Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn đề tài, tập trung đề
xuất các biện pháp quản lý hoạt động GDKL cho học viên ở Trường Trung
cấp Cảnh sát vũ trang hiện nay.
Các số liệu điều tra, khảo sát giới hạn từ năm 2010 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Kết quả GDKL cho học viên ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang chịu
sự tác động của nhiều yếu tố. Trong công tác quản lý nếu giáo dục nâng cao nhận
8



thức, trách nhiệm của chủ thể và đối tượng quản lý; xây dựng và thực hiện tốt
quy trình quản lý; đồng thời, phối hợp chặt chẽ các chủ thể trong quá trình quản
lý và phát huy tự quản lý, chấp hành kỷ luật của học viên… thì hoạt động GDKL
cho học viên ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang sẽ đi vào nền nếp, có chất
lượng, góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ của và xây dựng Nhà
trường chính quy, tiên tiến, mẫu mực.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Quán triệt và cụ thể hoá quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về giáo dục, QLGD, của Bộ Công an; Đảng uỷ Công an Trung ương về giáo
dục, rèn luyện phẩm chất nhân cách người cán bộ, chiến sĩ CAND. Quá trình
nghiên cứu, đề tài sử dụng các quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc, quan điểm
lôgíc - lịch sử và quan điểm thực tiễn để luận giải các nhiệm vụ của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu khoa học, các văn kiện,
nghị quyết, văn bản pháp quy của Đảng, Nhà nước, của lực lượng CAND
liên quan đến GDKL và quản lý GDKL, đặc biệt là Điều lệnh CAND, Quy
tắc ứng xử của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức CAND;
các tạp chí, thông tin, sách báo, công trình khoa học về tình hình giáo dục,
quản lý hoạt động GDKL và chấp hành kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ trong lực
lượng CAND. Từ đó xác định cơ sở lý luận quản lý hoạt động GDKL cho
học viên ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Trao đổi, tọa đàm với CBQL các cấp (phòng, khoa, tổ), đặc biệt là các cơ
quan chức năng (Phòng Quản lý học viên, Phòng Đào tạo, CBQL học viên) và
đơn vị học viên.

Tiến hành điều tra bằng mẫu phiếu câu hỏi in sẵn với học viên, CBQL
các cấp. Nội dung về tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động GDKL cho học
viên Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang hiện nay.
9


Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn quản lý hoạt động GDKL của học viên
ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang thông qua các báo cáo của các cơ
quan, đơn vị và của Trường hàng năm để góp phần làm rõ thực trạng, tìm ra
nguyên nhân hạn chế, bất cập trong quản lý hoạt động GDKL cho học viên ở
Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang.
Xin ý kiến chuyên gia, các nhà khoa học, cán bộ QLGD về nội dung
nghiên cứu.
- Phương pháp hỗ trợ
Sử dụng toán thống kê để tổng hợp, tính toán các số liệu điều tra và khảo
nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất…
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận và thực tiễn về quản lý hoạt
động GDKL cho học viên ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang, cụ thể:
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận, cung cấp tình hình thực tế về
GDKL của học viên để Ban Giám hiệu, các cơ quan của Nhà trường nghiên
cứu có thể áp dụng các biện pháp quản lý hoạt động GDKL cho học viên ở
Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang hiện nay, góp phần làm chuyển biến tình
hình GDKL và quản lý hoạt động này của Nhà trường.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các học viện, nhà trường trong toàn lực lượng CAND trong công
tác quản lý học viên nói chung và quản lý hoạt động GDKL cho học viên
nói riêng.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận và kiến nghị,

danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỶ LUẬT
CHO HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP CẢNH SÁT
10


1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Khái niệm giáo dục kỷ luật cho học viên ở Trường Trung cấp
Cảnh sát vũ trang
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Kỷ luật trật tự nhất định
trong hành vi của con người theo những chuẩn mực do luật pháp, đạo đức
quy định trong từng thời kỳ lịch sử, vì lợi ích của toàn xã hội hay của giai
cấp, tập đoàn xã hội riêng rẽ hay của một cộng đồng. Kỷ luật là phương tiện
để thống nhất hành động trong cộng đồng” [44, tr.112]. Trong bất cứ tổ
chức nào, để duy trì mọi hoạt động có nền nếp, tạo sự thống nhất đều cần
phải có những quy định riêng dựa trên những quy tắc, điều lệ chung và nội
dung của luật pháp.
Quan niệm về kỷ luật có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, được
diễn đạt bằng những thuật ngữ khác nhau, song đều bao hàm nội dung cơ bản đó
là những quy tắc, chuẩn mực được xây dựng trên cơ sở nhận thức thống nhất và
phản ánh lợi ích của xã hội, cộng đồng hay một tổ chức nhất định, trở thành cơ
sở pháp lý bắt buộc mọi người trong xã hội, cộng đồng, tổ chức đó phải tuân
theo. Kỷ luật được tồn tại dưới dạng thành văn và không thành văn.
Nội dung của kỷ luật mang tính chính trị - xã hội, phản ánh và cụ thể
hoá Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; điều lệnh, chế độ, qui chế, quy tắc,
qui định của Ngành; mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên.
Kỷ luật có tính tự giác nghiêm minh; được xây dựng và duy trì trên cơ sở
giác ngộ về lý tưởng và mục tiêu chiến đấu, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với sự

nghiệp cách mạng; bản lĩnh và năng lực hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cán bộ,
chiến sĩ công an, cùng với sự giáo dục, tổ chức quản lý chặt chẽ của tổ chức.
Tuỳ theo mục đích, cách tiếp cận khác nhau, người ta có thể hiểu kỷ luật
với các phương diện khác nhau. Các tác giả trong quân đội định nghĩa “Kỷ luật
quân sự bao gồm cả một hệ thống các tiêu chuẩn pháp luật và đạo đức mà mọi
quân nhân phải tuân theo trong quá trình công tác hàng ngày và trong tình
huống chiến đấu” [45, tr.18]. Còn nếu nhấn mạnh phương thức, cơ chế chấp
11


hành và quản lý kỷ luật thì: “Kỷ luật quân sự là hình thức để thực hiện mối
quan hệ giữa các thành viên trong quân đội, bảo đảm cho quân đội giữ đúng
bản chất giai cấp, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ” [45, tr.19]…
Tiếp cận kỷ luật là hiện tượng xã hội, quy định của tổ chức xã hội thì kỷ
luật là những những điều luật, quy định rất chặt chẽ, nghiêm minh, đòi hỏi mọi
cán bộ, chiến sĩ công an phải có sự tập trung cao về trí lực và thể lực để hiểu
biết, tôn trọng lẫn nhau, thực hiện tốt nhất mọi mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên.
Kỷ luật của mỗi học viên được người chỉ huy duy trì một cách chặt chẽ,
nghiêm minh và mỗi học viên tự giác chấp hành. Đó chính là sự tuân thủ
nghiêm ngặt và chính xác mọi quy định của pháp luật Nhà nước, điều lệnh,
chế độ, qui chế quy định của Ngành, mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, nhằm
đảm bảo cho mọi hoạt động trên mọi lĩnh vực đều được chỉ huy, quản lý thống
nhất, có hiệu quả, phát huy được sức mạnh của tổ chức.
Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài, tác giả tiếp
cận kỷ luật với tính chất là yếu tố chủ quan của chủ thể (cá nhân mỗi người)
trong việc chấp hành nghiêm túc và chính xác theo sự quản lý chặt chẽ của tổ
chức, của người chỉ huy và kỷ luật ấy mang ý nghĩa chính trị xã hội do cá
nhân thực hiện trên cơ sở ý thức được những yêu cầu khách quan của xã hội,
tổ chức CAND (thể hiện ở trình độ nhận thức, thái độ và thói quen hành vi
kỷ luật). Bàn tới kỷ luật nhất thiết phải đề cập tới các nội dung: hệ thống

chuẩn mực hành động; sự tự giác, nghiêm minh trong chấp hành các yêu cầu
kỷ luật; sự chặt chẽ trong quản lý kỷ luật...
Theo đó, Kỷ luật của học viên là quá trình chấp hành nghiêm túc,
chính xác các điều luật, quy định, mệnh lệnh của của Ngành, Nhà trường và
của cấp trên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, nhằm tạo nên
sự thống nhất cao, hướng vào hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, góp phần xây
dựng Nhà trường chính quy, vững mạnh toàn diện.

12


Đối với lực lượng Công an, với hoạt động mang tính chất đặc thù, đòi
hỏi cán bộ, chiến sĩ công an phải phục tùng nghiêm ngặt pháp luật Nhà nước,
điều lệnh, quy định của Ngành, để góp phần trực tiếp đến việc hoàn thành
nhiệm vụ của từng người và cả tập thể. Vì vậy kỷ luật là sự chấp hành
nghiêm chỉnh và chính xác của mỗi cán bộ, chiến sĩ CAND đối với các trật
tự, quy tắc được quy định bởi pháp luật Nhà nước, điều lệnh, quy định của
Ngành, chỉ thị, mệnh lệnh của người chỉ huy và cấp trên.
Nội dung kỷ luật của học viên là một thể thống nhất, hoàn chỉnh, phản
ánh rõ tính toàn diện, đầy đủ, chặt chẽ. Do đó, trong quá trình công tác đòi hỏi
học viên phải chấp hành một cách tự giác, nghiêm minh điều lệnh, điều lệ
Ngành, quy chế GD&ĐT, quy định của Trường, bảo đảm hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ được giao.
Giáo dục kỷ luật cho học viên ở nhà trường: Là sự phối hợp thống nhất
giữa hoạt động của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục, với những hình
thức tổ chức, phương pháp giáo dục thích hợp được tiến hành có mục đích,
có tổ chức nhằm nâng cao nhận thức, hình thành thái độ, thói quen hành vi
kỷ luật đúng đắn cho học viên theo mục tiêu giáo dục đã xác định.
Mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của GDKL cho học viên là quá trình làm cho
họ có hiểu biết, nâng cao ý thức kỷ luật, có hành vi kỷ luật đúng đắn theo

mục tiêu, yêu cầu giáo dục của Nhà trường. GDKL là quá trình tác động có
mục đích của lãnh đạo, chỉ huy Nhà trường, của cơ quan chức năng, của đội
ngũ CBQL và đội ngũ giáo viên đối với học viên, bằng kế hoạch, hệ thống
chương trình và nội dung. Việc tổ chức giáo dục, GDKL cho học viên sẽ góp
phần hình thành những phẩm chất kỷ luật, bản lĩnh chính trị, năng lực nghiệp
vụ CAND. Trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản về kỷ luật để hình
thành động cơ và hành vi kỷ luật đúng đắn; làm chuyển hóa nhận thức về kỷ
luật thành ý thức, thái độ tự giác, để hình thành kỹ năng, thói quen hành vi
kỷ luật của học viên.
Chủ thể GDKL: Chủ thể lãnh đạo chỉ đạo là Ban giám hiệu Nhà trường;
chủ thể tham gia và chủ thể trực tiếp giáo dục là các cơ quan Phòng Quản lý
13


học viên; Phòng Xây dựng lực lượng, Phòng Hành chính Tổng hợp; giáo
viên; CBQL học viên.
Nội dung GDKL: Giáo dục cho học viên những kiến thức, hiểu biết đầy đủ
về những yêu cầu, ý nghĩa của kỷ luật, nội dung cụ thể của kỷ luật; xây dựng
niềm tin, ý chí quyết tâm rèn luyện đúng đắn; và hệ thống thói quen hành vi chấp
hành kỷ luật tự giác, nghiêm túc.
Phương thức GDKL: Được tổ chức hình thức giáo dục riêng và lồng ghép
với các hình thức dạy học, giáo dục, trong các nội dung sinh hoạt của các tổ
chức chính trị, chính quyền việc duy trì các chế độ trật tự hàng ngày theo quy
định của điều lệnh CAND và của Nhà trường.
Kết quả GDKL cho học viên được phản ánh thông qua tình hình chấp
hành kỷ luật của học viên, ý thức và hành vi của họ trong thực hiện nhiệm vụ
chức trách và các nhiệm vụ khác được giao.
Như vậy, hoạt động GDKL cho học viên là tổng thể các hành động có
mục đích, có hệ thống, liên tục của học viên trong chấp hành các quy định
của Ngành và Nhà trường, xây dựng thái độ, tình cảm, ý chí, niềm tin và

phát triển thói quen, hành vi kỷ luật theo yêu cầu của xã hội và Ngành nhằm
tạo nên sự thống nhất cao, hướng vào việc hoàn thành chức trách, nhiệm vụ
của từng học viên. Hoạt động GDKL cho học viên là sự chấp hành và thực hiện
có chủ đích, có hệ thống và tự giác, nghiêm minh đối với pháp luật Nhà nước, kỷ
luật của Ngành, quy chế GD&ĐT, các quy định của Nhà trường, nhằm tạo sự
thống nhất cao, hoàn thành chức trách, nhiệm vụ người học viên, góp phần xây
dựng Nhà trường chính quy.
1.1.2. Khái niệm Quản lý hoạt động giáo dục kỷ luật cho học viên ở
Trường Trung cấp cảnh sát vũ trang
Theo Từ điển tiếng Việt: “Quản lý là trông coi, giữ gìn theo những yêu
cầu nhất định” [45, tr.772].
Quản lý là một loại hình hoạt động đặc biệt, một quá trình tác động
qua lại giữa người và người. Quản lý vừa là một khoa học vừa là một nghệ
14


thuật huy động và sử dụng các nguồn lực. Quản lý nhằm tập hợp mọi người,
mọi cấp tạo ra sự hợp tác giữa cá nhân và toàn xã hội trong việc tổ chức thực
hiện kế hoạch và mục tiêu đề ra.
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song có thể hiểu: Quản lý là
một quá trình tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý tới
khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt
được mục đích đề ra. Như vậy, quản lý là một quá trình tác động của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, các cơ
hội của tổ chức để đạt mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường.
Trường học với tư cách là một tổ chức cơ sở giáo dục. Trường học vừa
là thành tố khách thể cơ bản của tất cả cấp QLGD vừa là hệ thống độc lập tự
quản của xã hội. Quản lý trường học là hoạt động của các cơ quan quản lý
nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của người dạy, người học và các lực
lượng giáo dục khác cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để

nâng cao GD&ĐT trong nhà trường.
Nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo
dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng đối
tượng đào tạo. Ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang cùng với việc thực
hiện hoạt động dạy học, Nhà trường còn tiến hành hoạt động giáo dục nhằm
phát triển toàn diện nhân cách học viên theo mục tiêu giáo dục toàn diện và
yêu cầu xây dựng người cán bộ CAND; trong giáo dục nói chung của Nhà
trường có GDKL cho học viên vừa là một nhiệm vụ, nội dung vừa là một
hoạt động quan trọng, thường xuyên của Nhà trường.
Từ những phân tích trên, trong phạm vi tiếp cận quản lý nhà trường có thể
hiểu: Quản lý hoạt động GDKL cho học viên ở Trường Trung cấp Cảnh sát vũ
trang là sự tổ chức, điều khiển của chủ thể quản lý đối với toàn bộ hoạt động
GDKL cho học viên, nhằm đảm bảo cho hoạt động này diễn ra theo đúng kế
hoạch và đạt được hiệu quả, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục của Nhà
trường.
15


Quản lý GDKL là hoạt động với những tác động có tính hướng đích,
có mục tiêu xác định, có đối tượng hoạt động là sự GDKL cho học viên; có
chương trình, nội dung gắn với hoạt động giáo dục của các CBQL và đối
tượng giáo dục là học viên, được tiến hành trong một tập thể nhất định. Quản
lý hoạt động GDKL là những tác động phối hợp nỗ lực của chủ thể với các
đối tượng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức.
Mục đích quản lý hoạt động GDKL cho học viên ở Trường Trung cấp
Cảnh sát vũ trang là sự định hướng, chỉ dẫn hành động cho các nhà QLGD, giúp
họ ra các quyết định quản lý chính xác, lựa chọn nội dung, phương pháp, hình
thức, phương tiện...để thực hiện việc quản lý hoạt động GDKL có hiệu quả vững
chắc.
Chủ thể quản lý hoạt động GDKL cho học viên ở Trường Trung cấp

Cảnh sát vũ trang, gồm: Ban Giám hiệu Nhà trường; lãnh đạo, chỉ huy các
đơn vị quản lý học viên, các cơ quan chức năng và đội ngũ giáo viên Nhà
trường. Các chủ thể này có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng luôn có
mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với nhau cùng hướng tới mục tiêu chung
trong quản lý hoạt động GDKL cho học viên.
Đối tượng quản lý hoạt động GDKL cho học viên trường Trung cấp
Cảnh sát vũ trang là học viên đang học tập, rèn luyện tại Nhà trường. học
viên là đối tượng quản lý và là chủ thể tự quản lý, tự giáo dục GDKL.
Phương thức quản lý hoạt động GDKL cho học viên trường Trung cấp
Cảnh sát vũ trang được thực hiện thông qua việc ban hành các quy chế,
quy định, chỉ thị, mệnh lệnh … trong GDKL; việc phối hợp và phát huy vai
trò các tổ chức, các lực lượng trong GDKL; bằng việc kiểm tra, đánh giá kết
quả hoạt động GDKL và kiểm tra, đánh giá chất lượng GDKL. Các phương
pháp, hình thức quản lý hoạt động GDKL rất đa dạng, phong phú như lên lớp
về kỷ luật như khuyên răn, nhắc nhở, xử phạt... Việc sử dụng phương pháp,
hình thức quản lý hoạt động GDKL phải sáng tạo, linh hoạt phù hợp với từng
nội dung, từng chủ thể, từng đối tượng quản lý và để hướng tới thực hiện có
16


hiệu quả các mục tiêu GDKL đã xác định.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục kỷ luật cho học viên ở
Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang
Mỗi đối tượng quản lý đều có những nội dung nhất định. Đối với quản
lý hoạt động GDKL của học viên gồm các nội dung cơ bản sau:
1.2.1. Quản lý mục tiêu, kế hoạch hoạt động giáo
dục kỷ luật cho học viên
Để GD&ĐT đội ngũ cán bộ CAND tương lai có chất lượng và hiệu
quả cao, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN trong tình hình mới, Nhà trường cần phải xác định mục

tiêu GD&ĐT phù hợp với yêu cầu mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực của lực
lượng CAND. Trong đó, phải xác định đúng mục tiêu GDKL cho học viên,
đảm bảo cho học viên có đầy đủ phẩm chất nhân cách và năng lực cần thiết
trước khi tốt nghiệp ra trường về đơn vị công tác. Mục tiêu GDKL cho học
viên chỉ là một bộ phận của mục tiêu QLGD nhà trường, nó cũng là trạng
thái tương lai hay là kết quả cuối cùng mà tổ chức và các lực lượng GDKL
trong Nhà trường mong muốn đạt tới.
Trong quản lý hoạt động GDKL cho học viên, việc xây dựng mục
tiêu ngay từ đầu quá trình quản lý là một yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết
định đến tính khả thi của kế hoạch quản lý GDKL; nó định hướng cho hành động
của các nhà QLGD, dễ hành động tự phát trước sự biến đổi của các nhân tố trong
quá trình GDKL. Có mục tiêu sẽ giúp cho các nhà QLGD, cũng như lực lượng
giáo dục của Nhà trường hành động đúng phương hướng, khắc phục những khó
khăn nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Mặt khác, mục tiêu còn chỉ dẫn các nhà QLGD
trong Nhà trường ra các quyết định quản lý chính xác, đạt hiệu quả cao.
Đối với Nhà trường việc xác định đúng mục tiêu quản lý, cũng như mục
tiêu rèn luyện kỷ luật cho học viên đến đích của hoạt động quản lý, giúp cho việc
quản lý hoạt động GDKL cho học viên diễn ra theo dự kiến. Để quản lý tốt mục
tiêu GDKL cho học viên, các chủ thể quản lý phải dựa trên cơ sở pháp lý quy
định trong Luật Giáo dục, Hệ thống văn bản pháp quy về công tác quản lý, giáo
17


dục học viên của Bộ Công an, quy chế quản lý và điều hành quá trình đào tạo của
Nhà trường và các văn bản pháp quy khác; phải quản lý tốt từ khâu thiết kế mục
tiêu cho đến quá trình tổ chức thực hiện mục tiêu, trong quá trình tổ chức thực
hiện phải làm tốt việc quán triệt mục tiêu GDKL thông qua đó nâng cao nhận
thức và hành động chấp hành kỷ luật cho học viên; phải phát huy tốt vai trò của
hệ thống QLGD Nhà trường trong tổ chức và kiểm tra đánh giá việc thực hiện
mục tiêu GDKL cho học viên.

1.2.2. Quản lý hoạt động của chủ thể và đối tượng giáo dục kỷ luật
cho học viên
Chủ thể quản lý hoạt động GDKL cho học viên: Là Đảng uỷ, Ban Giám
hiệu Nhà trường; Cấp uỷ chi bộ, chỉ huy các đơn vị. Trong đó cấp ủy chi bộ, chỉ huy
Tổ, Lớp là chủ thể trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động
GDKL cho học viên.
Chủ thể hướng dẫn, chỉ đạo quản lý hoạt động GDKL cho học viên gồm
các cơ quan chức năng, các khoa giáo viên; đặc biệt là Phòng Quản lý học viên,
Phòng Xây dựng lực lượng, Phòng Đào tạo… đây là những cơ quan tham mưu
cho Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường và trực tiếp chỉ đạo hoạt động quản lý
hoạt động GDKL cho học viên.
Chủ thể trực tiếp quản lý hoạt động GDKL cho học viên là CBQL học
viên ở các Tổ, Lớp, Trung đội. Đội ngũ cán bộ đó là “người thầy thứ hai” trực
tiếp tổ chức GDKL, quản lý, rèn luyện học viên về mọi mặt. Do đó đội ngũ
CBQL học viên có vai trò rất lớn đối với quá trình hình thành và phát triển nhân
cách học viên. Học viên quán triệt và thực hiện mục tiêu, yêu cầu đào tạo tiếp
nhận sự giáo dục, quản lý kỷ luật thông qua hoạt động của đội ngũ CBQL.
Không chỉ có đội ngũ CBQL trực tiếp tham gia vào quản lý hoạt động GDKL
cho học viên mà còn có đội ngũ giáo viên cũng có nhiệm vụ tham gia giáo dục
học viên; các tổ chức trong đơn vị như chi bộ, tổ đảng, tổ chức đoàn, hội…
Trong suốt quá trình quản lý, giáo dục GDKL đội ngũ CBQL phải phối hợp chặt
chẽ với các bộ phận, các lực lượng khác trong Nhà trường để quản lý, GDKL
18


cho học viên. Mặt khác, học viên vừa là chủ thể của quá trình quản lý, vừa là
đối tượng quản lý; cho nên, chỉ có thể nâng cao chất lượng giáo dục, quản lý
GDKL khi học viên ý thức đầy đủ về vai trò của tự quản lý, quản lý GDKL.
Đối tượng quản lý: Đối tượng hướng tới của các hoạt động quản lý hoạt
động GDKL là đội ngũ học viên đào tạo để trở thành cán bộ cảnh sát. Cho

nên, mọi học viên phải chịu sự quản lý, rèn luyện của các cấp uỷ, lãnh đạo, chỉ
huy, đội ngũ giáo viên và CBQL; song trong quá trình tự GDKL của học viên
lại là chủ thể của quá trình đó. Là đối tượng quản lý, học viên phải GDKL, tự
giác chấp hành nghiêm mọi mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, điều lệnh, điều lệ,
chế độ quy định của lực lượng CAND và Nhà trường, không ngừng phấn đấu
vươn lên tự hoàn thiện mình. Nội dung quản lý đối tượng hoạt động GDKL
phải toàn diện, toàn bộ các hoạt động của học viên trong quá trình GD&ĐT,
gồm: Hoạt động học tập; nghiên cứu khoa học; hoạt động giáo dục, tự giáo
dục, hoạt động rèn luyện, tự rèn luyện, rèn luyện nhân cách; hoạt động xã
hội… Để quản lý tốt đối tượng hoạt động GDKL, đòi hỏi các nhà QLGD phải
nắm chắc số lượng, chất lượng học viên, đặc điểm tâm lý để phân loại, bố trí
cơ cấu tổ chức và ra các quyết định quản lý phù hợp; hướng dẫn học viên lập
kế hoạch GDKL; tổ chức chỉ đạo học viên thực hiện kế hoạch; tiến hành có nề
nếp các hoạt động hành chính; tổ chức tốt các hoạt động tự quản lý của học
viên và phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong tổ chức quản lý học
viên, tạo điều kiện cho học viên phát triển, hoàn thiện nhân cách.
1.2.3. Quản lý nội dung, phương pháp hoạt động giáo dục kỷ luật cho
học viên
Nội dung quản lý GDKL cho học viên: Là quản lý toàn bộ hệ thống
các kiến thức, các giá trị chuẩn mực, các kỹ xảo, kỹ năng, nghiệp vụ, kỹ
thuật cần trang bị cho học viên nhằm hình thành và phát triển ở học viên
những tri thức về pháp luật, điều lệnh của lực lượng CAND và quy định của
Nhà trường, để từ đó nó trở thành nhu cầu, thói quen thực hiện trong đời
sống cá nhân của học viên. Thực chất quản lý nội dung hoạt động GDKL là

19


quán triệt mục tiêu, yêu cầu GDKL của Nhà trường vào nội dung, đảm bảo
cho nội dung đó luôn nhất quán với mục tiêu, yêu cầu đào tạo nói chung, nội

dung GDKL của học viên nói riêng luôn mang tính khoa học và có xu hướng
chính trị tư tưởng rõ ràng. Nội dung quản lý là khâu thiết kế xây dựng
chương trình, nội dung và quá trình thực hiện chương trình, nội dung GDKL
cho học viên từ việc triển khai kế hoạch, cho đến phân công, phân cấp tổ
chức thực hiện nội dung GDKL…Để thực hiện tốt vấn đề này, yêu cầu đội
ngũ CBQL phải quán triệt sâu sắc kế hoạch hoạt động GDKL, nắm chắc mục
tiêu, yêu cầu nội dung hoạt động GDKL; khi thiết kế chương trình, nội dung
GDKL cho học viên phải theo đúng lôgíc của quá trình dạy học và giá o dục;
nội dung GDKL phải gắn với đặc điểm và hoạt động của cán bộ Cảnh sát vũ
trang; nắm chắc chương trình GDKL và quy định về khối lượng kiến thức nội
dung GDKL cần trang bị cho học viên theo từng năm học và từng giai đoạn. Ví
dụ như: Đối với học viên năm thứ nhất, nội dung GDKL thường tập trung: Về
mặt nâng cao nhận thức gồm Hiến pháp, Điều lệnh CAND, Điều lệ, quy chế,
quy định của lực lượng CAND và Nhà trường … các nội dung về pháp luật
Nhà nước, kỷ luật của lực lượng CAND mới sửa đổi, bổ sung ban hành…
Phương pháp, hình thức, phương tiện quản lý GDKL cho học viên: Đây là
hệ thống các con đường, cách thức thao tác, cách thức tổ chức, sắp xếp phương tiện
kỹ thuật, cơ sở vật chất, biện pháp tác động của chủ thể quản lý đến khách thể, đối
tượng bị quản lý nhằm đạt đến mục tiêu quản lý GDKL mà Nhà trường đã đặt ra.
Đó là phương thức tác động của chủ thể quản lý tới nhận thức, tình cảm và thói
quen hành vi kỷ luật của học viên và tập thể học viên nhằm thực hiện mục tiêu quản
lý GDKL đã dự kiến của Nhà trường. Sự tác động này có thể theo hai phương thức
cơ bản bắt buộc và động viên khuyến khích.
Do vậy, các chủ thể quản lý trong Nhà trường phải nắm vững hệ thống
các nguyên tắc, công cụ quản lý đó là những phương tiện, những giải pháp
của chủ thể quản lý nhằm định hướng, khích lệ, dẫn dắt đối tượng quản lý
thực hiện đạt mục tiêu đề ra; căn cứ vào nội dung quản lý, trong quản lý hoạt
20



động GDKL cho học viên các chủ thể quản lý Nhà trường cần vận dụng và
sử dụng linh hoạt các phương pháp quản lý như: Phương pháp hành chính;
phương pháp giáo dục - tâm lý; phương pháp kích thích bằng vật chất, tinh
thần, phương pháp kiểm tra, đánh giá và các phương pháp cụ thể khác…
Mỗi phương pháp quản lý đều có những ưu, nhược điểm riêng, không có
phương pháp quản lý nào là vạn năng và chiếm vị trí độc tôn. Vì vậy, trong quản
lý hoạt động GDKL cho học viên, việc lựa chọn đúng đắn và kết hợp các phương
pháp quản lý phù hợp với nguyên tắc quản lý, đối tượng quản lý, nội dung, tình
huống quản lý để đạt kết quả cao đó chính là tài năng, nghệ thuật quản lý của các
chủ thể quản lý trong Nhà trường.
1.2.4. Quản lý các điều kiện đảm bảo cho hoạt động giáo dục kỷ luật
cho học viên
Xây dựng môi trường GDKL cho học viên, môi trường là tiền đề
quan trọng giúp cho các hoạt động giáo dục GDKL cho học viên đạt kết
quả tốt. Môi trường GDKL cho học viên Trường Trung cấp Cảnh sát vũ
trang bao gồm tất cả các loại môi trường như: Môi trường văn hóa, môi
trường tự nhiên, môi trường sống, học tập, công tác… trong đó môi trường
văn hóa có vị trí vai trò quan trọng trong GDKL cho học viên. Các cấp
quản lý cần xây dựng tốt môi trường văn hóa, duy trì các thiết chế văn hóa
giúp cho việc GDKL cho học viên được thực hiện tích cực, tự giác.
Quản lý tốt các mối quan hệ trong GDKL cho học viên, các mối quan hệ
trong cuộc sống học tập, rèn luyện của học viên Cảnh sát khá đa dạng; có mối
quan hệ do thiết chế tổ chức, nhiệm vụ mang lại, có mối quan hệ được hình thành
trong đời sống hoạt động của học viên; có mối quan hệ được hình thành trong
quá trình giao lưu… trong các mối quan hệ đa tầng đó nhà quản lý, các cấp quản
lý cần phân loại, định hướng giúp học viên nhận thức đầy đủ các mối quan hệ đó,
cũng thông qua đó nhà quản lý phải nắm chắc các mối quan hệ để tổ chức các
hoạt động giáo dục thúc đẩy quá trình GDKL cho học viên có chất lượng tốt.
1.2.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động
giáo dục kỷ luật cho học viên

21


Đánh giá chính xác kết quả GDKL cho học viên không chỉ có ý nghĩa quan
trọng đối với quá trình học tập rèn luyện của học viên mà còn giúp Nhà trường rút
kinh nghiệm về công tác đào tạo của mình, đồng thời cũng giúp cho các đơn vị tiếp
nhận học viên có cái nhìn chính xác về phẩm chất cán bộ. Chính vì vậy việc đánh
giá kết quả giáo dục phải được tiến hành một cách nghiêm túc, đảm bảo nguyên tắc:
bảo đảm tính khách quan công bằng; bảo đảm tính toàn diện, nhưng có trọng điểm;
bảo đảm nguyên tắc phát triển; bảo đảm nguyên tắc phản ánh đúng thực chất.
Muốn quản lý tốt việc đánh giá kết quả GDKL cho học viên thì phải đảm
bảo các điều kiện sau: Công tác đánh giá kết quả phải theo đúng thủ tục, quy
trình phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Nhà trường. Việc đánh giá kết quả
giáo dục phải trung thực, khách quan, phản ánh đúng chất lượng giáo dục.
Thường xuyên rút kinh nghiệm về công tác kiểm tra đánh giá kết quả GDKL cho
học viên.
Nội dung quản lý kết quả hoạt động GDKL thường tập trung ở việc
kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động GDKL theo chương trình, nội dung GDKL
đã xây dựng và phê duyệt; nắm kết quả GDKL cho học viên qua từng giai
đoạn, năm học; so sánh đối chiếu với mục tiêu đã xác định trước đó; rút ra
những bài học kinh nghiệm để hoàn thiện các nhân tố của quá trình hoạt động
GDKL cho giai đoạn, hoạt động thực tiễn tiếp theo. Vấn đề này được thể hiện ở
việc quản lý kết quả về mặt nhận thức, kết quả xây dựng thái độ niềm tin và kết
quả xây dựng thói quen hành vi có kỷ luật của học viên.
1.3. Những yếu tố tác động đến quản lý hoạt động giáo dục kỷ luật
cho học viên Cảnh sát vũ trang
1.3.1. Tác động của điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước
Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghệp hóa, hiện đại hóa,
giao lưu, hội nhập quốc tế; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Quá trình này đã và đang tạo nên những biến đổi to lớn trong tất cả

các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Công cuộc đổi
22


mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, kinh tế phát triển tăng
trưởng khá, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện và nâng cao, tình hình
chính trị - xã hội cơ bản ổn định, lòng tin của nhân dân với Đảng, chế độ
XHCN được củng cố vững chắc, ý thức trách nhiệm của công dân trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc được nâng cao; khơi dậy được tính năng động, sáng
tạo và tạo điều kiện cho con người bộc lộ phát huy hết tài năng của mình
phục vụ cho bản thân, gia đình và xã hội, đồng thời cũng đòi hỏi cao ở con
người tính ý thức tôn trọng pháp luật, kỷ luật. Tuy nhiên, thực tế những năm
qua, một số vấn đề xã hội bức xúc gay gắt chậm được giải quyết; công tác
phòng chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra; “tình trạng
thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ
biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên’’[12, tr.175].
Những tác động tích cực của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội đất
nước tạo điều kiện thuận lợi cho GD&ĐT nói chung, GDKL và quản lý hoạt
động GDKL cho học viên nói riêng; những mặt tích cực trong đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội chính là thực tế sinh động, làm tăng sức thuyết phục,
giáo dục, xây dựng niềm tin đối với học viên; chủ thể giáo dục có điều kiện
tốt để dẫn chứng nêu gương, kết hợp với việc quán triệt, hướng dẫn, tổ chức
học viên rèn luyện theo những yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật Nhà nước.
Đồng thời, những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ cho phép
ứng dụng nhiều trang thiết bị kỹ thuật hiện đại vào quản lý hoạt động GDKL
cho học viên; việc quản lý tình hình mọi mặt của học viên ngày càng chặt
chẽ hơn; công tác kiểm tra, đánh giá kết quả rèn luyện chính xác, khách quan
hơn; công tác lưu trữ, truy xuất kết quả huấn luyện nhanh chóng; thông tin
huấn luyện kịp thời, chính xác.
Song, bên cạnh mặt tích cực, những vấn đề tiêu cực của đời sống xã

hội cũng tác động, ảnh hưởng nhất định đến GDKL và quản lý hoạt động
GDKL cho học viên. Những hiện tượng tùy tiện, chấp hành kỷ luật kỷ cương
không nghiêm, vi phạm pháp luật, qui định, suy thoái, tham nhũng...gây cản
23


trở công tác GDKL, làm giảm hiệu lực của thuyết phục nêu gương đối với
nhân dân. Đồng thời, hàng ngày hàng giờ tác động đến tư tưởng, tình cảm,
ảnh hưởng đến ý thức tổ chức kỷ luật, phong cách, tác phong, lối sống và
việc rèn luyện thói quen hành vi chấp hành pháp luật, kỷ luật của mỗi học
viên Cảnh sát vũ trang.
1.3.2. Tác động từ yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý Nhà
nước và xã hội
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản
Việt Nam nêu rõ "tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa... Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của
Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật,
kỷ cương" [12, tr.246]. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN chính là
xây dựng một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ
chức Đảng đều phải hoạt động theo Hiến pháp, pháp luật, chịu trách
nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều phải
có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp, pháp luật, phải sống và làm việc theo
pháp luật. Để xây dựng một nhà nước như trên, là trách nhiệm của Đảng,
Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể nhân dân, trong đó
lực lượng Công an là lực lượng đóng vai trò nòng cốt trong xây dựng và
bảo vệ Nhà nước pháp quyền XHCN.
CAND là một bộ phận quan trọng, công cụ bạo lực sắc bén của Đảng,
Nhà nước. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, để

công an thực hiện tốt vai trò của mình cần phải xây dựng công an cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; các tổ chức, đơn vị và mọi
cán bộ, chiến sỹ CAND phải luôn tự giác, thực hiện nghiêm pháp luật của
Nhà nước, kỷ luật của ngành. Yêu cầu trên chi phối trực tiếp đến quản lý
hoạt động GDKL, đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động GDKL,
24


làm chuyển biến mạnh mẽ chất lượng GDKL, kỷ luật cho cán bộ, chiến sỹ
trong toàn lực lượng và học viên trong các Nhà trường CAND để đáp ứng
yêu cầu thực tiễn đặt ra.
1.3.3. Tác động của mặt trái kinh tế thị trường và sự chống phá của
các thế lực thù địch
Hiện nay Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN đã tạo nên những biến đổi to lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước. Tuy nhiên, quá trình này
cũng làm nảy sinh những mặt tiêu cực như: Tăng sự phân hóa giàu nghèo trong
xã hội, tạo điều kiện cho lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, tự do buông
thả, cá nhân chủ nghĩa, lừa đảo, hối lộ, tham nhũng; coi thường pháp luật và
những giá trị truyền thống làm ảnh hưởng đến bản chất, truyền thống của dân
tộc, gây dư luận không tốt trong tập thể, đơn vị; làm ảnh hưởng không nhỏ đến
đời sống tinh thần, nhận thức, niềm tin, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ trong
ngành Công an.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động
“diễn biến hòa bình”, tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng, làm
suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, như (đòi xóa bỏ
Điều 4 trong Hiến pháp); “phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang, trong đó có
CAND làm cho cán bộ, chiến sĩ xa rời mục tiêu lý tưởng cách mạng, tha hoá về
đạo đức, lối sống, mơ hồ mất cảnh giác, giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý

tưởng, vi phạm kỷ luật CAND.. Vì vậy, đặt ra cho chủ thể quản lý phải có kế
hoạch giáo dục, tuyên truyền, đấu tranh; luôn đổi mới nội dung, hình thức GDKL
cho mọi cán bộ, chiến sỹ; xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng trước thách thức
của mặt trái cơ chế thị trường và sự chống phá của các thế lực thù địch.
1.3.4. Tác động từ yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng lực lượng công an
nhân dân, xây dựng Nhà trường trong tình hình mới

25


×