Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG NGHIÊN cứu KHOA học của GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG AN NINH NHÂN dân i

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.04 KB, 122 trang )

MỞ ĐẦU

3

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG

1.1. Các khái niệm cơ bản

12

12

1.2. Nội dung quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
giảng viên trường cao đẳng

21

1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý hoạt động nghiên cứu khoa
học của giảng viên Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I

31

Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIẾN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CAO
ĐẲNG AN NINH NHÂN DÂN I

2.1. Khái quát Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I

40
40



2.2. Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng
viên Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I

43

2.3. Thực trạng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
giảng viên Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I

56

Chương 3. YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN Ở
TRƯỜNG CAO ĐẲNG AN NINH NHÂN DÂN I

73

3.1. Yêu cầu trong xây dựng biện pháp quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học của giảng viên ở Trường Cao đẳng
An ninh nhân dân I

73

3.2. Các biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
của giảng viên Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I

77

3.3. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
94

K ẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

104
107

PHỤ LỤC

110


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng với giáo dục và đào
tạo, KH&CN được coi là quốc sách hàng đầu. Sự phát triển khoa học và công
nghệ đã và đang trở thành động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội. Trên lĩnh vực giáo dục đại học, bất cứ một trường đại học, cao đẳng nào
cũng đều có hai nhiệm vụ chính và quan trọng nhất đó là đào tạo và NCKH.
Đây là hai hoạt động có mối quan hệ hữu cơ, hai nhiệm vụ cơ bản chiến lược
của mỗi nhà trường, trong đó việc cán bộ, giảng viên và học viên nhà trường
tích cực tham gia các hoạt động NCKH là một trong những biện pháp quan
trọng, cần thiết, góp phần thực hiện thành công mục tiêu đào tạo của nhà
trường, đồng thời đáp ứng tốt nhu cầu phát triển của xã hội.
Tại Hội nghị lần thứ 6 khóa XI, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 về “Phát triển
KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, trong đó xác định:
“KH&CN là vấn đề đặc biệt quan trọng, là quốc sách hàng đầu, là động lực phát
triển kinh tế -xã hội”; “nhân lực khoa học công nghệ là nhân tố quyết định đối với

phát triển KH&CN”, trong đó “đội ngũ giáo viên tại các cơ sở đào tạo là nguồn
nhân lực quan trọng và tiềm năng” [1, tr.64,65,66]. Hội nghị lần thứ 8 khóa XI,
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số
29/NQ-TƯ ngày 04/11/2013 chỉ rõ “Quan tâm NCKH giáo dục và khoa học quản
lý, tập trung đầu tư nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ
quan NCKH giáo dục quốc gia. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu
và chuyên gia giáo dục” [2]. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
(2016), Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh “Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và
ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản
lý” [3, tr.90]. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết đầu tư cho hoạt động NCKH là rất cần
thiết và vô cùng quan trọng đối với sự phát triển chung của mỗi Nhà trường.

3


Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động NCKH và quản lý hoạt
động NCKH, Trường Cao đẳng ANND I đã luôn quan tâm và coi đây là một
nội dung trọng điểm để tiếp tục xây dựng trường trở thành trung tâm đào tạo
chất lượng cao. Với đội ngũ giảng viên có uy tín, kinh nghiệm trong thời gian
qua nhà trường đang tiếp tục phối hợp với các trường Công an, Công an các
đơn vị, địa phương trong cả nước, đặc biệt là các địa bàn trọng điểm thực hiện
các nhiệm vụ khoa học các cấp góp phần bảo vệ An ninh quốc gia. Công tác
quản lý hoạt động NCKH cũng đã được triển khai theo quy định, hướng dẫn
của các cấp có thẩm quyền. Tuy nhiên hoạt động NCKH của giảng viên nhà
trường chưa phát huy hết tiềm năng cũng như lợi thế, bộc lộ những hạn chế và
bất cập, nguồn lực cho NCKH còn thiếu. Một số cán bộ, giảng viên tham gia
NCKH chưa nhận thức được đầy đủ về lý luận NCKH, việc NCKH chưa thực
sự kích thích năng lực nghiên cứu của mỗi giảng viên. Đặc biệt, công tác quản
lý hoạt động NCKH chưa hiệu quả, chưa khoa học, thiếu đồng bộ, chưa đáp
ứng được sự phát triển chung, việc quản lý còn mang nặng tính hình thức, cơ

sở vật chất phục vụ cho nghiên cứu còn yếu và thiếu đã làm ảnh hưởng, hạn
chế đến hiệu quả, chất lượng hoạt động NCKH của giảng viên.
Để quản lý hoạt động NCKH của giảng viên có hiệu quả, góp phần nâng
cao chất lượng GD&ĐT của nhà trường, trước hết cần được nghiên cứu lý
luận, khảo sát đánh giá đúng thực trạng và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng
quản lý hoạt động NCKH của giảng viên trong nhà trường hiện nay, trên cơ
sở đó đề xuất những biện pháp quản lý phù hợp để từng bước đưa công tác
quản lý hoạt động NCKH của nhà trường nói chung quản lý hoạt động NCKH
của giảng viên nói riêng vào nề nếp, tạo nên sự chuyển biến tích cực trong
công tác quản lý hoạt động NCKH.
Từ thực tiễn trên, việc nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống cơ sở lý luận,
thực trạng công tác quản lý và đề ra những biện pháp quản lý phù hợp có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc. Do vậy, tôi chọn vấn đề “Quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học của giảng viên ở Trường Cao đẳng An ninh nhân dân
I” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Quản lý giáo dục.
4


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các công trình nghiên cứu trên thế giới có liên quan đến đề tài
Các thành tựu nghiên cứu của khoa học giáo dục đã thừa nhận quản lý
giáo dục là nhân tố then chốt bảo đảm cho sự thành công của các hoạt động
GD&ĐT trong đó có hoạt động NCKH. Đây là nội dung đã được các nhà
nghiên cứu, các học giả trên thế giới hết sức quan tâm.
Năm 1990 t ác giả Gary Anderson (Hoa Kỳ), biên soạn “Các nguyên tắc
cơ bản của NCKH giáo dục”, nội dung tài liệu tập trung hướng dẫn cho ngư
ời nghiên cứu cách xây dựng kế hoạch, phương pháp cũng như dụng công cụ,
kỹ thuật cần thiết khi nghiên cứu khoa học giáo dục.
Trong cuốn “Quản lý công tác NCKH” (1993), K.Bexle, E.deisen,
Xlasinxki, do Nguyễn Văn Lân dịch từ bản tiếng Nga, Nguyễn Xuân Khoa

hiệu đính, bản viết tay, đã phản ánh những vấn đề lý luận về quản lý xã hội
chủ nghĩa của thời kỳ Liên Xô (cũ) và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
đang phát triển. Dù có điểm chưa phù hợp với giai đoạn hiện nay, nhưng
nhiều vấn đề lý luận vẫn còn giá trị; như các tác giả đã đề cao vị trí, vai trò
của NCKH trong sự phát triển xã hội và chỉ ra điểm đặc thù của công tác quản
lý hoạt động NCKH so với các lĩnh vực khác, nhất là việc xây dựng các chính
sách ưu tiên về điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ để động viên các nhà
khoa học toàn tâm toàn ý cho nhà nghiên cứu.
Luật giáo dục Cao đẳng của nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa, trong
Chương I, điều 10 có ghi: “Nhà nước bảo đảm quyền tự do NCKH, sáng tác
văn học nghệ thuật và các hoạt động văn hoá khác trong các trường cao đẳng
theo đúng luật...”, trong đó có quyền và nghĩa vụ NCKH của giảng viên, coi
đây là một biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo.
Công trình nghiên cứu “Foundations of American higher education”của
nhiều tác giả Hoa Kỳ, bàn về nền giáo dục đại học và việc tổ chức NCKH
trong các trường đại học của quốc gia này. Khi nghiên cứu về việc tổ chức
5


NCKH trong các trường đại học ở Hoa Kỳ các tác giả cho rằng, trong các
trường đại học ở Hoa Kỳ, nghiên cứu được quan niệm là một hình thức học tập
tích cực, góp phần hình thành nên tư duy phê phán và kỹ năng giải quyết vấn
đề; nó là một công cụ tự nhiên của làm việc theo nhóm và xây dựng kỹ năng
giao tiếp. Hơn thế nữa NCKH còn phát huy hiệu quả trong việc làm phong phú
nội dung dạy học. Nghiên cứu tạo ra bối cảnh cho nội dung dạy học, làm cho
nó trở nên phù hợp và có ý nghĩa hơn. Một bài giảng dựa trên nghiên cứu là
cách làm tuyệt vời để đạt được các kết quả mà chúng ta mong giảng viên đạt
được.
Các công trình nghiên cứu trên thực sự là những gợi mở quan trọng, hữu ích,
là tiền đề giúp tác giả xây dựng cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài.

* Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài
Năm 1992, giáo trình “Phương pháp luận và các phương pháp nghiên
cứu khoa học giáo dục” của tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức, đã đưa ra
những khái niệm chung về phương pháp luận khoa học giáo dục, những
nguyên tắc phương pháp luận và những giai đoạn nghiên cứu một đề tài khoa
học, những kỹ năng cần thiết về NCKH.
Tác giả Vũ Cao Đàm với công trình “Phương pháp luận nghiên cứu khoa
học” đã chỉ ra cấu trúc của một công trình NCKH, cách trình bày vấn đề khoa
học theo một mối liên hệ lô gic với ý tưởng khoa học và những hướng dẫn cụ
thể để mọi người bước vào con đường NCKH một cách thuận lợi. Đây thực
sự là những kiến thức lý luận quan trọng giúp cho người nghiên cứu có thể
tiến hành các công trình nghiên cứu khoa học của mình đạt hiệu quả.
Tác giả Phạm Viết Vượng (2001), với giáo trình “Phương pháp luận
nghiên cứu khoa học” đã trình bày những vấn đề chung nhất về khoa học và
NCKH; lý thuyết về phương pháp NCKH; nội dung cơ bản của hoạt động
NCKH, trong đó có những nội dung đề cập đến quản lý tiềm lực khoa học,

6


quản lý, tổ chức triển khai các đề tài NCKH, đánh giá công trình nghiên cứu
và công bố kết quả NCKH.
Tác giả Trần Kiểm, với “Khoa học quản lý giáo dục-Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” đã trình bày một cách khái quát về khoa học quản lý giáo dục. Trong đó đề
cập đến quản lý các hoạt động nghiên cứu về khoa học quản lý giáo dục, dự báo xu
thế giáo dục và quản lý giáo dục trên thế giới, những thách thức và thời cơ đối với
quản lý giáo dục nói chung, quản lý hoạt động NCKH trong nhà trường nói riêng.
Tác giả Trần Hồ Thảo (2006), với luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục “Một
số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động NCKH ở Trường Đại học Văn hoá
Thành phố Hồ Chí Minh” đã góp phần khẳng định vai trò, tầm quan trọng của

hoạt động NCKH đối vớ giáo dục đại học và sự cần thiết phải tăng cường quản
lý nâng cao chất lượng hoạt động này trong quá trình đổi mới giáo dục đại học.
Đồng thời đề xuất một số giải pháp có tính khả thinhằm nâng cao chất lượng
hoạt động NCKH của Trường Đại học Văn hoá Thành phố Hồ chí Minh.
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga ( 2007 ), với luận văn thạc sĩ Giáo dục
học: “Quản lý hoạt động giảng dạy và NCKH của giảng viên Trường Đại học
Sư Kĩ thuật Thành phố Hồ Chí Minh”, đã tập trung nghiên cứu, khảo sát công
tác quản lý của cán bộ quản lý đối với hoạt động giảng dạy và NCKH của
giảng viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó
đã tìm ra những giải pháp quản lý hoạt động chuyên môn của giảng viên, đáp
ứng yêu cầu phát triển của nhà trường.
Tác giả Nguyễn Đức Hiếu (2013) với công trình “Quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học của giảng viên, Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay”, luận
văn thạc sĩ Quản lý giáo dục, đã khái quát những cơ sở lý luận và thực tiễn quản
lý hoạt động NCKH của giảng viên, xác định những yêu cầu xây dựng biện pháp
quản lý và đưa ra một số biện pháp quản lý hoạt động NCKH của giảng viên ở
trường Sĩ quan Chính trị. Luận văn đã cung cấp những luận cứ khoa học giúp

7


cho các cấp lãnh đạo, chỉ huy ở trường Sĩ quan Chính trị quản lý hoạt động
NCKH của giảng viên có chất lượng và hiệu quả.
Tác giả Đỗ Thanh Tùng (2015), với công trình, “Quản lý hoạt động
NCKH sư phạm ứng dụng của giáo viên trung học phổ thông thành phố Lào
Cai, tỉnh Lào Cai”, luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục, đã làm rõ được cơ sở
lý luận, thực tiễn để xây dựng hệ thống biện pháp quản lý hoạt động nghiên
cứu khoa học sư phạm ứng dụng của giáo viên trung học phổ thông, góp phần
thúc đẩy và nâng cao chất lượng giảng dạy các môn văn hóa, từ đó nâng cao
chất lượng NCKH trong các trường trung học phổ thông thành phố Lào Cai.

Năm 2015, tác giả Nguyễn Như Duẩn, “Quản lý hoạt động NCKH của sinh
viên Trường Đại học khoa học tự nhiên-Đại học Quốc gia Hà Nội” [43], luận
văn thạc sĩ Quản lý giáo dục, đã làm rõ được cơ sở lý luận, thực tiễn để xây dựng
hệ thống biện pháp quản lý hoạt động NCKH của sinh viên trường Đại học khoa
học tự nhiên-Đại học Quốc gia Hà Nội góp phần thúc đẩy và nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo của nhà trường.
Trong Tạp chí Khoa học và Giáo dục An ninh đã công bố kết quả nghiên
cứu của khá nhiều tác giả về hoạt động NCKH và quản lý hoạt động NCKH
với các góc độ tiếp cận khác nhau như: Bài viết “Đổi mới tổ chức và hoạt
động công tác NCKH lịch sử Công an nhân dân trong tình hình mới” của tác
giả Nguyễn Bình Ban, bài viết “Một số vấn đề về chế độ, chính sách đối với
đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học Công tác khoa học Công an hiện nay”
của tác giả Nguyễn Quang Chữ. “Đổi mới công tác lưu trữ góp phần nâng cao
hiệ quả nghiên cứu khoa học ở Học viện An ninh nhân dân” của tác giả Nguyễn
Hữu Hòa..
Baì viết “Một số giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học Xã
hội nhân văn của giảng viên các trường Đại học hiện nay”, tác giả Mai Văn Hóa,
trên cơ sở nhận định đánh giá khái quát về chất lượng NCKH Xã hội nhân văn
của giảng viên các trường đại học, cũng trong bài viết tác giả đề xuất một số giải
8


pháp nâng cao chất lượng NCKH Xã hội nhân văn bao gồm: Tạo bước chuyển
cơ bản tronh nhận thức của giảng viên về hoạt động NCKH Xã hội nhân văn; Đa
dạng hóa các hình thức bồi dưỡng năng lực NCKH cho đội ngũ giảng viên; Tiếp
tục đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức và điều hành hoạt động NCKH của giảng
viên; Đưa yếu tố khoa học thâm nhập sâu vào hoạt động giảng dạy; Tăng cường
các chính sách đãi ngộ tạo động lực cho giảng vên NCKH.
Kết quả nghiên cứu của các đề tài trên đã cung cấp những tài liệu hữu ích,
giúp chúng tôi tiếp tục tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động NCKH của giảng

viên, đồng thời xác định những chủ trương, giải pháp quản lý hoạt động NCKH
của giảng viên Trường Cao đẳng ANNDI đạt hiệu quả. Nội dung này từ trước
đến nay đã thu hút được nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, tuy nhiên chưa
được thực hiện ở Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I. Vì vậy đề tài “Quản lý
hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên ở Trường Cao đẳng An ninh
nhân dân I ” không trùng với công trình khoa học nào đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn quản lý hoạt động NCKH của
giảng viên trường Cao đẳng, luận văn đề xuất các biện pháp quản lý hoạt
động NCKH của giảng viên, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động nghiên
cứu khoa học của giảng viên Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I, đáp ứng
mục tiêu đào tạo của nhà trường trong tình hình mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quản lý hoạt động NCKH của
giảng viên trường cao đẳng.
- Đánh giá thực trạng hoạt động NCKH và quản lý hoạt động NCKH
của giảng viên ở Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I.
- Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động NCKH của giảng viên
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
9


của giảng viên Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I trong thời gian tới và
hoàn thành mục tiêu đào tạo của nhà trường.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
giảng viên.
* Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động NCKH của giảng viên ở
Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I.

* Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến quản lý hoạt động
NCKH của giảng viên ở Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I.
Thời gian nghiên cứu từ 2010 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động NCKH của giảng viên phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu
trong quản lý, thực hiện tốt việc tổ chức giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm
cho giảng viên; hoàn thiện các văn bản quy phạm và tạo môi trường thuận lợi
cho hoạt động NCKH của giảng viên; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban
giám hiệu và sự phối hợp trong các lực lượng trong quản lý; xây dựng kế hoạch
và tổ chức thực hiện tốt các bước quản lý; tổ chức tốt việc lưu trữ, khai thác và
ứng dụng sản phẩm khoa học; thường xuyên kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm
về hoạt động NCKH của giảng viên, thì sẽ nâng cao chất lượng nghiên cứu của
giảng viên, góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của nhà trường.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và quản lý giáo dục, phát triển khoa học
công nghệ, đồng thời tiếp cận nội dung nghiên cứu theo quan điểm hệ thống cấu trúc, quan điểm lịch sử - lô gic và quan điểm thực tiễn.
* Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết

10


Các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu, văn bản
pháp quy của Nhà nước, của ngành; các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị về quản lý
hoạt động NCKH.
Nghiên cứu các tài liệu, sách báo, tạp chí, các báo cáo, văn bản tổng

kết… về quản lý hoạt động NCKH.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục trong công tác quản lý hoạt động NCKH của giảng
viên để rút ra những kết luận có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp điều tra: Điều tra xã hội học bằng phiếu hỏi đối với lãnh
đạo các đơn vị, giảng viên của nhà trường.
Phương pháp tạ đàm, trao đổi: tọa đàm trao đổi với đội ngũ giảng viên,
cán bộ quản lý về thực trạng hoạt động NCKH và quản lý hoạt động NCKH
của giảng viên trong những năm qua.
- Các phương pháp bổ trợ
Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến của các nhà khoa học giáo dục, các
nhà khoa học trong lực lượng Công an nhân dân, cán bộ quản lý giáo dục về
một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học của giảng viên
Phương pháp thống kê toán học: sử dụng phần mềm tin học để xử lý,
phân tích các dữ liệu, thông tin được điều tra thu thập.
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn nghiên cứu thành công sẽ là những đóng góp có ý nghĩa quan
trọng góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản
lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Cao đẳng ANND I
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở cho các cấp quản lý tham khảo để
tiến hành quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên ở các trường
Công an nhân dân nói chung và trường Cao đẳng An ninh nhân dân I nói riêng.
11


8. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của luận văn gồm: Phần mở đầu; Phần nội dung có 3 chương (9
tiết) và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG

1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên
* Nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu, được hiểu là “xem xét tìm hiểu kỹ lưỡng để nắm vững vấn
đề, giải quyết vấn đề hay rút ra những hiểu biết mới” [25, tr.680]. Với quan
niệm như vậy, NCKH là lĩnh vực lao động nhằm tạo ra tri thức mới về tự
nhiên, xã hội và tư duy. Nó là quá trình các nhà khoa học sử dụng tri thức,
năng lực, trình độ và kinh nghiệm của mình với sự hợp tác lao động, sự hỗ trợ
của trang bị thực nghiệm, thí nghiệm để nghiên cứu tạo ra hệ thống tri thức
mới phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
NCKH là một quá trình diễn ra phức tạp, không ngừng giải quyết những
mâu thuẫn của sự tìm tòi, phát hiện những tri thức mới, khám phá những
nguyên lý, quy luật, con đường mới của sự phát triển. Quá trình đó luôn xuất
hiện những giả thuyết, những ý tưởng, những xu hướng, dự báo khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau. Thành công của NCKH là tìm ra tri thức mới phù
hợp với sự phát triển của hiện thực, đem lại lợi ích cho con người.
NCKH là quá trình nhận thức hướng vào việc khám phá những thuộc tính
bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan nhằm phát triển nhận
thức khoa học về thế giới. Hoạt động NCKH là hoạt động sáng tạo, sản phẩm
của hoạt động NCKH tạo ra là những tri thức mới, kinh nghiệm mới, phương
pháp mới. Chính vì thế nên NCKH là một dạng hoạt động đặc biệt của con
người, diễn ra hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi giải quyết những mâu thuẫn
để tìm tòi, phát hiện ra nguyên lý, quy luật mới cho nhân loại.
12



NCKH trong giáo dục nhằm góp phần xây dựng hệ thống lý luận của
khoa học giáo dục; nâng cao hiệu quả, chất lượng làm cơ sở cho việc hoạch
định các chính sách giáo dục.
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: NCKH là hoạt động nhận thức thế giới
khách quan, là quá trình sáng tạo, phát hiện chân lý, phát hiện những qui luật
của thế giới, do đội ngũ các nhà khoa học thực hiện, nhằm vận dụng những
hiểu biết ấy vào cuộc sống [34].
Nghiên cứu khoa học là hoạt động tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri
thức mới có giá trị mới về nhận thức hoặc phương pháp. NCKH là quá trình
khám phá những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng; phát hiện những
quy luật vận động vốn có của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội
nhằm phát triển nhận thức khoa học về thế giới. NCKH là hoạt động trí tuệ
sáng tạo góp phần cải tạo hiện thực. Đó là hoạt động vận dụng quy luật để
sáng tạo các giải pháp tác động tích cực vào sự vật, hiện tượng.
Có thể thấy tất cả các quan điểm trên đều thống nhất ở chỗ xem NCKH
là quá trình hoạt động với mục đích tìm tòi, phát hiện ra những điều mà nhân
loại chưa biết về bản chất, quy luật, cơ chế, phương pháp, quy trình, phương
thức tồn tại và phát triển của các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.
Như vậy, từ những vấn đề trên, có thể quan niệm: Nghiên cứu khoa học là
hoạt động sáng tạo của các chủ thể nhằm nhận thức thế giới, tạo ra hệ thống
tri thức có giá trị và ứng dụng chúng vào việc cải tạo thế giới khách quan.
Bản chất của NCKH là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm
nhận thức thế giới, tạo ra hệ thống tri thức để sử dụng vào cải tạo thế giới.
Chủ thể của NCKH là cá nhân và tập thể các nhà khoa học. Đó là một
đội ngũ những người được đào tạo cơ bản, có phẩm chất và khả năng nghiên
cứu sáng tạo với những phẩm chất trí tuệ và tài năng đặc biệt, được đào tạo
chu đáo. Sự thành công hay thất bại trong NCKH phụ thuộc rất lớn vào phẩm
chất, tài năng sáng tạo và sự phối hợp của cá nhân và tập thể nhà khoa học.
Trong đó, các cá nhân thường là khởi điểm đột phá, đề xuất ý tưởng sáng tạo
13



khoa học và thu hút những người khác tham gia nghiên cứu. Tập thể các nhà
khoa học có vai trò quan trọng trong việc góp ý, phản biện, thẩm định và hợp
tác nghiên cứu theo ý tưởng đề xuất của cá nhân.
Khách thể của NCKH là các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư
duy mà các nhà khoa học nghiên cứu để khám phá, sáng tạo ra tri thức khoa học.
Đối tượng của NCKH là tri thức khoa học. Tri thức khoa học có những
điểm khác với tri thức thông thường. Tri thức thông thường là những tri thức
mà “Bằng các giác quan, con người tri giác, cảm nhận về bản thân, về thế giới
và xã hội xung quanh, từ đó có những kinh nghiệm sống, những hiểu biết về
mọi mặt”. Tri thức thông thường được hình thành trong cuộc sống hàng ngày,
được con người sử dụng, trao đổi với nhau, truyền đạt lại cho nhau, chúng dần
được hoàn thiện. Tri thức khoa học là “... kết quả của quá trình nhận thức có
mục đích, có kế họach, có phương pháp và phương tiện đặc biệt, do đội ngũ
các nhà khoa học thực hiện”. Mặc dù tri thức khoa học và tri thức thông
thường có sự khác nhau nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Mục đích của NCKH là tìm tòi, khám phá ra bản chất và các qui luật
vận động của thế giới khách quan, tạo ra thông tin mới, nhằm ứng dụng vào
sản xuất vật chất hay tạo ra các giá trị tinh thần để thoả mãn nhu cầu cuộc
sống của con người.
Phương pháp tiến hành NCKH thực chất là phương pháp nhận thức thế
giới, bao gồm các quan điểm tiếp cận và các thao tác cụ thể tác động đối
tượng nghiên cứu làm bộc lộ bản chất của đối tượng.
Sản phẩm và giá trị của NCKH được đánh giá bởi cái mới của những tri
thức được khái quát và những giải pháp thực tiễn được đề xuất. Những thông
tin đó phải có tính khách quan, độ tin cậy, tính ứng dụng, đáp ứng với nhu cầu
của thực tiễn.
Quá trình nghiên cứu thường thực hiện trong một cơ quan nghiên cứu
được tổ chức chặt chẽ, có chương trình chiến lược hoạt động.

* Hoạt động nghiên cứu khoa học
14


Bàn về hoạt động, các nhà nghiên cứu tâm lý học cho rằng hoạt động là
phương thức tồn tại của con người, là sự tác động một cách tích cực giữa con
người với hiện thực, thiết lập mối quan hệ giữa con người với thế giới khách
quan. Nhằm tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả về phía con người. Hoạt
động là phương thức tồn tại của con người, phương thức tồn tại của mọi sự
vật, hiện tượng, quy định tồn tại của sự vật, hiện tượng đó. Khi phương thức
thay đổi sự vật, hiện tượng bị thay đổi thành sự vật, hiện tượng khác.
Thực chất hoạt động NCKH chính là các quá trình NCKH và là một nội
dung của hoạt động KH&CN. Với tư cách là một nội dung của hoạt động
KH&CN, hoạt động nghiên cứu khoa học được hiểu là tổ hợp những nghiên
cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai được thực hiện để đạt mục
tiêu của khoa học đã đặt ra. Trong một tổ chức, người ta nói “hoạt động
NCKH” là chỉ một lĩnh vực hoạt động đặc thù, để phân biệt với các lĩnh vực
hoạt động khác như “hoạt động sản xuất”, “hoạt động giáo dục”,...
NCKH là hoạt động cơ bản, bắt buộc nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
trong trường đại học, cao đẳng. Hoạt động này đang được đổi mới theo hướng
gắn lý thuyết với thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của xu thế hội nhập
và phát triển, phấn đấu vì một nguồn nhân lực chất lượng cao. Mục tiêu của
hoạt động NCKH nhằm xây dựng nền khoa học tiên tiến, hiện đại để phát
triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý; sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên, bảo vệ môi trường; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân… Xây dựng và phát huy năng lực nội sinh về khoa học,
kết hợp với sự tiếp thu có chọn lọc các thành tựu KH&CN thế giới, phù hợp
với thực tiễn nước nhà. Bảo đảm sự phát triển ổn định, liên tục cho nghiên
cứu cơ bản trong các lĩnh vực khoa học, nhất là một số lĩnh vực khoa học đặc

thù của Việt Nam. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, nhanh chóng đưa thành
quả nghiên cứu vào thực tiễn cuộc sống góp phần đẩy nhanh tiến trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
15


* Hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường cao đẳng
Không chỉ các trường đại học, cao đẳng trên thế giới mà hiện nay ở Việt
Nam các trường đại học, cao đẳng xem NCKH là sức sống của nhà trường.
Bởi lẽ, mục đích của NCKH là nâng cao trình độ giảng dạy trong mỗi giảng
viên. Qua NCKH, mỗi giảng viên đều nhanh chóng tiếp cận được những kiến
thức mới về khoa học công nghệ, làm quen với việc tổ chức thực hiện các đề
tài khoa học có cơ hội được vận dụng các kiến thức được trang bị để giải
quyết các vấn đề cụ thể đặt ra từ khoa học và thực tiễn.
Hoạt động NCKH là con đường ngắn và hiệu quả nhất để nâng cao trình
độ chuyên môn và khả năng sư phạm của giảng viên, qua hoạt động NCKH
mới có khả năng đưa các kết quả NCKH ứng dụng vào thực tiễn, vào giảng
dạy. Đồng thời khi tham gia NCKH, giảng viên phải tuân thủ các nguyên tắc
phương pháp luận, huy động kiến thức đã lĩnh hội và tìm tòi phương pháp
khoa học để giải quyết các vấn đề lý luận, thực tiễn, do đó họ sẽ củng cố, mở
rộng và phát triển những kiến thức, kỹ năng đã được tích luỹ trong quá trình
giảng dạy. Theo logic đó hoạt động giảng dạy và NCKH của giảng viên
không ngừng được củng cố, hoàn thiện và phát triển thâm nhập vào nhau,
chuyển hóa lẫn nhau cùng thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ giảng dạy, là con
đường giúp giảng viên tiếp tục rèn luyện các kỹ năng phân tích, tổng hợp, hệ
thống hóa, khái quát hóa những sự kiện khoa học và nâng cao nhận thức.
Hoạt động NCKH của giảng viên trường cao đẳng cũng nằm trong sự chỉ
đạo chung của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh việc tuân thủ các chủ trương,
chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, các trường đại học, cao đẳng
còn có nhiệm vụ quan trọng là tùy theo yêu cầu của ngành mà có trách nhiệm

đào tạo nguồn nhân lực cho ngành cũng như đầu tư NCKH phục vụ sự nghiệp
xây dựng và phát triển của ngành.

16


Tùy theo yêu cầu cụ thể của từng thời kỳ, từng giai đoạn mà các trường
cao đẳng cần xây dựng phương hướng, chiến lược nhằm hoàn thành nhiệm vụ
và sứ mạng trong lĩnh vực mà Đảng, Nhà nước và ngành giao phó.
Ngày nay, khi đánh giá chất lượng của một trường cao đẳng thì NCKH
trở thành một tiêu chí không thể thiếu trong bộ đánh giá tiêu chuẩn, đó cũng
chính là thước đo của nhà trường trong việc đảm bảo nâng cao chất lượng
trong quá trình đào tạo, ảnh hưởng trực tiếp đến đầu ra phục vụ cho xã hội.
Phải nói rằng, hoạt động NCKH của giảng viên trở thành một hoạt động
không thể thiếu trong nhà trường, nhất là đối với bậc đại học, cao đẳng.
Như vậy, từ cách tiếp cận trên chúng ta có thể hiểu: Hoạt động nghiên cứu
khoa học của giảng viên trường cao đẳng là quá trình giảng viên vận dụng những
tri thức khoa học, các kỹ năng nghiên cứu vào việc tìm tòi, khám phá, phát hiện
cái mới để giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra, nhằm góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ của nhà trường.
Mục đích hoạt động NCKH của giảng viên trường cao đẳng là nhằm
củng cố, mở rộng, khám phá, tìm tòi những tri thức khoa học mới; giúp giảng
viên nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, phương pháp nghiên cứu phục
vụ cho việc giảng dạy đạt kết quả cao.
Chủ thể hoạt động NCKH là giảng viên làm nhiệm vụ giảng dạy và
nghiên cứu ở các trường cao đẳng. Đó là những người được đào tạo cơ bản,
có phẩm chất và chuyên sâu về một lĩnh vực khoa học nhất định.
Đối tượng hoạt động NCKH là thế giới tự nhiên và xã hội, trong đó mỗi
bộ môn khoa học có một lĩnh vực, một góc độ, một đối tượng nghiên cứu
riêng của mình.

Phương thức hoạt động NCKH thực chất là phương pháp nhận thức, tìm
tòi, khám phá, phát hiện cái mới trong hiện thực khách quan, bao gồm các
quan điểm tiếp cận và các thao tác cụ thể tác động tới đối tượng nghiên cứu
làm bộc lộ bản chất của đối tượng.
17


Đối với trường đại học, cao đẳng sẽ không thể có chất lượng cao trong
đào tạo nếu không tăng cường hoạt động NCKH, đó là một đòi hỏi khách
quan của quá trình đào tạo. Bởi vì, NCKH trước hết là phương thức tự đào tạo
của giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục, tự tạo ra tiềm lực để nâng cao trình
độ, nâng cao chất lượng hoạt động chuyên môn, trên cơ sở đó nâng cao chất
lượng GD&ĐT. Thực tiễn luôn đặt ra cho khoa học những vấn đề cần nghiên
cứu để thúc đẩy quá trình nghiên cứu chung, đồng thời cũng là nơi thử thách,
kiểm nghiệm và chứng minh những thành quả NCKH. Công việc giảng dạy,
quản lý chỉ có thể thực sự hấp dẫn và hứng thú khi mỗi giảng viên tham gia
vào các hoạt động NCKH cụ thể.
1.1.2. Quản lý và quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên
trường cao đẳng
* Quản lý
Từ khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu quản lý cũng hình thành,
xã hội càng phát triển thì trình độ tổ chức, điều hành cũng được nâng lên, phát
triển theo. Sự phát triển của xã hội loài người dựa vào nhiều yếu tố, trong đó
có 3 yếu tố cơ bản là lao động, tri thức và quản lý. Khái niệm quản lý đã được
các nhà khoa học định nghĩa bằng nhiều cách khác nhau:
Theo C.Mác, quản lý là chức năng đặc biệt được sinh ra từ tính chất
xã hội hóa lao động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của
xã hội đều thông qua hoạt động của con người và như vậy quản lý tức là
hoạt động của con người điều khiển con người.
Theo các nhà khoa học: Harold Koontz, Cyril Odonell và Heinz

Weihrich trong cuốn “Những vấn đề cốt yếu của quản lý”, Nhà xuất bản Khoa
học và kỹ thuật, Hà Nội, 1994 cho rằng: “Quản lý là hoạt động thiết yếu của
nhà quản lý đảm bảo sự phối hợp, sự lỗ lực của mỗi cá nhân trong tổ chức
nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định trong những điều kiện thời gian, công
sức và kinh phí bỏ ra ít nhất nhưng đạt hiệu quả cao nhất” [19].
18


Trong cuốn “Khoa học tổ chức và quản lý, Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” khẳng định “Quản lý được xem là công nghệ-công nghệ điều hành, phối
hợp và sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin của một tổ
chức để đạt được mục tiêu đã đề ra” [33, tr.179].
Tác giả Trần Kiểm cho rằng, quản lý giáo dục thực chất là những tác
động của chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục (được tiến hành bởi tập thể
giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm
hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo
của nhà trường.
Theo góc độ chính trị xã hội thì quản lý được hiểu là sự kết hợp giữa tri
thức với lao động. Vận hành sự kết hợp này cần có một cơ chế phù hợp, cơ
chế đúng và hợp lý thì xã hội phát triển, ngược lại thì xã hội chậm phát triển.
Theo góc độ hành động thì quản lý được hiểu là chỉ huy, điều hành, điều
khiển, “là sự tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý (người
quản lý) đến đối tượng bị quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm
đạt được mục đích nhất định” [21, tr.326].
Như vậy, có thể hiểu khái niệm quản lý như sau: Quản lý là những tác
động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản
lý trong tổ chức để vận hành tổ chức nhằm đạt được mục đích nhất định.
Mục đích hoạt động quản lý khoa học là sử dụng hợp lý các nguồn lực
nhằm đảm bảo cho hoạt động khoa học ngày càng phát triển, đáp ứng tốt hơn
các nhu cầu của xã hội.

Chủ thể hoạt động quản lý khoa học là cơ quan quản lý và đội ngũ cán
bộ quản lý khoa học, được tổ chức thành hệ thống quản lý thống nhất. Trong
hệ thống quản lý thường bao gồm các bộ phận chuyên môn thực hiện các
chức năng cụ thể như kế hoạch, tổ chức, phối hợp, điều khiển, kiểm tra… Để
chủ thể quản lý phát huy tốt vai trò trong hệ thống quản lý khoa học đòi hỏi
phải xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý có đủ phẩm chất và năng lực,
19


hoàn thành được chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, đảm bảo sự vận
hành của bộ máy đạt hiệu quả cao.
Đối tượng hoạt động quản lý khoa học, được hiểu rộng ra đó là các nguồn
lực: nhân lực, vật lực, tài lực, thông tin. Việc sử dụng và phát huy các nguồn
lực đó sao cho có hiệu quả là tùy thuộc vào năng lực của chủ thể quản lý.
Phương thức hoạt động quản lý khoa học là cách thức mà chủ thể quản lý
sử dụng các công cụ quản lý tác động vào đối tượng quản lý nhằm đạt được
các mục tiêu xác định. Việc sử dụng phương pháp sao cho có hiệu quả còn
tùy thuộc vào năng lực của chủ thể quản lý.
* Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường cao đẳng
Quản lý hoạt động NCKH của giảng viên trường cao đẳng là những tác
động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến toàn bộ hoạt động
NCKH của giảng viên, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng NCKH, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của nhà trường.
Theo quan niệm đó quản lý hoạt động NCKH của giảng viên trường cao
đẳng bao gồm:
Mục tiêu quản lý hoạt động NCKH của giảng viên là phát huy tối đa
tiềm năng, trí tuệ, sự năng động, sáng tạo, tính tích cực của đối tượng quản lý
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động NCKH của giảng viên; góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo của nhà trường.
Chủ thể quản lý hoạt động NCKH của giảng viên là Đảng ủy, Ban giám

hiệu nhà trường, các phòng chức năng, lãnh đạo các đơn vị Khoa, Phòng, Bộ
môn, Trung tâm; cán bộ quản lý giáo dục và chính bản thân mỗi giảng viên.
Đối tượng quản lý là các nguồn lực bao gồm nhân lực, vật lực, tài lực,
thông tin có liên quan đến quá trình hoạt động NCKH của giảng viên các
trường cao đẳng.
Phương pháp quản lý hoạt động NCKH của giảng viên rất phong phú, đa
dạng; trong đó phương pháp quản lý hành chính, phương pháp giáo dục tâm
20


lý, phương pháp kích thích là những phương pháp chủ đạo được sử dụng phổ
biến. Hoạt động NCKH của giảng viên là hoạt động trí tuệ, hết sức phức tạp,
do đó cần lựa chọn và sử dụng các phương pháp quản lý phù hợp với đối
tượng quản lý là con người và hoạt động khoa học mới mang lại tác dụng,
hiệu quả tích cực trong công tác quản lý.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên
trường cao đẳng
1.2.1. Quản lý mục tiêu, kế hoạch hoạt động nghiên cứu khoa học của
giảng viên
Mục tiêu hoạt động NCKH của giảng viên có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc định hướng toàn bộ hoạt động NCKH của giảng viên. Mục tiêu này
luôn bị chế định bởi chức năng, nhiệm vụ của nhà trường; bởi các quy định về
NCKH của giảng viên; bởi chương trình, nội dung đào tạo, các nguồn nhân
lực, vật lực, tài lực và các điều kiện đảm bảo khác. Vì vậy, chủ thể quản lý
hoạt động NCKH trước hết là Ban giám hiệu và phòng có chức năng quản lý
khoa học phải phân tích các yếu tố chế định đó để xác lập mục tiêu tổng thể
về NCKH của giảng viên theo từng năm học, hoặc theo kế hoạch trung hạn,
dài hạn cho phù hợp với mục tiêu giáo dục và đào tạo của nhà trường.
Trên cơ sở mục tiêu tổng thể của nhà trường nói chung và mục tiêu về
NCKH của giảng viên nói riêng, theo phân cấp quản lý trong nhà trường, các

Khoa, Bộ môn phải cụ thể hóa thành chỉ tiêu thực hiện nhiệm vụ NCKH cho
từng giảng viên sao cho phù hợp. Những chỉ tiêu này phải phù hợp với
chương trình đào tạo chung của nhà trường và tiềm lực thực hiện của từng
giảng viên, đồng thời có thể kiểm soát được bằng các sản phẩm khoa học như:
Các đề tài khoa học cấp Bộ, cấp Cơ sở; các sáng kiến cải tiến; các chuyên đề,
tham luận khoa học; bài báo khoa học...
Để điều hành quá trình thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu đã xác định, bộ máy
quản lý giáo dục nói chung, quản lý khoa học nói riêng của nhà trường phải
21


xây dựng kế hoạch hoạt động NCKH của giảng viên. Đây là khâu có vai trò
đặc biệt quan trọng trong nội dung quản lý hoạt động NCKH của giảng viên.
Kế hoạch này thực chất là sự cụ thể hóa các chủ trương, nhiệm vụ, chỉ tiêu
NCKH của giảng viên thành hệ thống các công việc, phương thức, thời gian,
địa điểm, lực lượng tiến hành và sự phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng
trong nhà trường. Để kế hoạch hoạt động NCKH của giảng viên có căn cứ pháp
lý, tính thực tiễn, tính khả thi cao, các chủ thể quản lý phải tập hợp các tài liệu
làm căn cứ xây dựng kế hoạch, trước hết là các văn bản pháp quy, các quy định,
hướng dẫn của các cơ quan quản lý cấp trên về hoạt động NCKH; các chương
trình, kế hoạch, ngắn hạn, trung hạn, dài hạn của nhà trường về công tác nghiên
cứu khoa học của giảng viên. Đồng thời từng cấp quản lý phải nắm vững nhu
cầu, nguyện vọng và khả năng thực hiện các nhiệm vụ NCKH của từng đơn vị
giáo dục, từng giảng viên. Từ đó đề xuất kế hoạch hoạt động NCKH của giảng
viên, chỉ rõ các phần việc, lực lượng thực hiện, có quy định cụ thể về mốc thời
gian, nội dung và phương thức triển khai và điều kiện hiệp đồng, đảm bảo.
Xây dựng kế hoạch là hành động đầu tiên của nhà quản lý nhằm đạt được
các mục tiêu của hoạt động quản lý. Xây dựng kế hoạch hoạt động bao gồm
xác định mục tiêu, thời gian, lộ trình thực hiện, điều kiện con người và các điều
kiện đảm bảo khác để đạt được mục tiêu đề ra. Việc xây dựng kế hoạch giúp

các chủ thể quản lý có tầm nhìn tổng thể, bao quát, đồng thời xác định được
những công việc cụ thể để đưa ra những quyết định chính xác, điều chỉnh và
lựa chọn những phương án tối ưu, tiết kiệm được nhân lực, vật lực, tài chính
xong vẫn đạt tới hiệu quả tối đa của hoạt động. Mặt khác, thông qua kế hoạch,
đối tượng quản lý biết được nhiệm vụ của mình, biết được phương pháp hoạt
động nhằm chủ động thực hiện có hiệu quả mục tiêu của nhà trường.
Xây dựng kế hoạch hoạt động NCKH của nhà trường phải mang tính
toàn diện, cân đối, hài hòa, thống nhất và cụ thể, phản ánh toàn diện các
chuyên ngành hiện có đang đào tạo và nội dung của chương trình dạy học. Kế
22


hoạch được xây dựng cần có sự cân đối giữa các mục tiêu với các biện pháp
thực hiện mục tiêu, giữa hoạt động dạy học, giáo dục và NCKH của nhà
trường. Đặc biệt hàng năm, khi xây dựng kế hoạch cán bộ quản lý khoa học
nhà trường cần xác định rõ mục đích, yêu cầu, thời gian thực hiện, hình thức
nghiên cứu, lực lượng tham gia, điều kiện thực hiện để đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.2. Quản lý nội dung, phương thức hoạt động nghiên cứu khoa
học của giảng viên
Nội dung NCKH trong nhà trường là một vấn đề thuộc về chế định được
thể hiện qua các văn bản, kế hoạch, thông báo hàng năm của Hiệu trưởng về
công tác NCKH và được các cấp quản lý trong trường triển khai xây dựng
phù hợp với tinh thần của Khoa và Bộ môn.
Để đảm bảo chất lượng hoạt động NCKH của giảng viên, các chủ thể
quản lý khoa học ở nhà trường phải quản lý chặt chẽ nội dung, phương thức
hoạt động này. Theo đó Phòng Quản lý NCKH và lãnh đạo các Khoa, Bộ môn
trực tiếp chỉ đạo, điều hành nội dung, phương thức hoạt động NCKH của
giảng viên. Đây là khâu quan trọng trong quản lý nội dung hoạt động NCKH
trong nhà trường. Thông thường các hướng nghiên cứu của giảng viên được
đề xuất bởi các Khoa, Bộ môn sao cho phù hợp với yêu cầu tăng cường lý

luận nói chung và phù hợp với yêu cầu phát triển lý luận, bám sát thực tiễn
theo nội dung từng Khoa, Bộ môn đang giảng dạy trong nhà trường. Trên cơ
sở đăng ký chỉ tiêu NCKH từ đầu năm học của các giảng viên và các Khoa,
Bộ môn để Phòng Quản lý NCKH tập hợp đưa vào kế hoạch NCKH chung
của nhà trường theo từng năm học cụ thể cho phù hợp với kế hoạch giáo dục
và đào tạo của nhà trường.
Các hoạt động NCKH trong các trường cao đẳng được tổ chức, tiến
hành đồng thời với các hoạt động giảng dạy, dưới các hình thức tổ chức thực
hiện các công trình NCKH, tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học, nghiên
cứu sáng kiến kinh nghiệm, biên soạn đề cương bài giảng, viết bài cho Đặc
23


san Khoa học An ninh của trường và các tạp chí chuyên ngành, hướng dẫn
sinh viên NCKH và tham gia các cuộc thi tìm hiểu chuyên đề...
Nội dung nghiên cứu của đề tài thường tập trung vào các hướng cơ bản
sau: đề tài nghiên cứu về nghiệp vụ chuyên ngành của trường, nghiên cứu về
tâm lý và khoa học giáo dục, quản lý và các lĩnh vực khoa học khác có liên
quan đến các chuyên ngành đào tạo của nhà trường... Ngoài ra còn một số
nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo của nhà trường, của ngành trong tình hình hiện nay.
Quản lý nội dung hoạt động NCKH của giảng viên bao gồm các bước:
Lựa chọn vấn đề nghiên cứu, giao quyết định nghiên cứu, xây dựng kế hoạch
nghiên cứu, thu thập tài liệu, dự thảo, hội thảo, nghiệm thu sản phẩm khoa
học, ban hành sử dụng.
Nội dung chương trình NCKH của nhà trường phải đảm bảo thực hiện
được nội dung, chương trình NCKH do Bộ GD&ĐT ban hành, Bộ Công an
quy định, trong đó lưu ý đến trọng tâm nghiên cứu của nhà trường trên cơ sở
cân đối giữa đề tài mang nội dung khoa học chung và khoa học chuyên ngành...
Nội dung chương trình NCKH của giảng viên phải đảm bảo tính phù hợp

với mỗi chuyên ngành đào tạo, phù hợp với tình hình của từng đơn vị, năng
lực nghiên cứu của giảng viên và chú trọng đến tính thừa kế và phát triển các
ý tưởng của những đề tài đã nghiên cứu trước. Đồng thời để tránh việc lựa
chọn nội dung nghiên cứu trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
Hàng năm cơ quan quản lý khoa học phải thông báo danh mục các sản phẩm
khoa học của nhà trường tới các đơn vị.
Bên cạnh việc quản lý nội dung hoạt động NCKH, các chủ thể quản lý
không được xem nhẹ quản lý phương thức hoạt động NCKH của từng giảng viên
hoặc nhóm giảng viên. Cơ quan quản lý khoa học, các Khoa, Bộ môn phải duy trì
nghiêm túc các thủ tục lựa chọn, xét duyệt đề cương, kiểm tra tiến độ, hội thảo,
thẩm định kết quả nghiên cứu của giảng viên để nắm và chỉ đạo thực hiện phương
24


pháp và quy trình nghiên cứu. Việc quản lý không thể mang tính hình thức mà cần
dựa trên các quy định cụ thể của Luật Khoa học Công nghệ, quy định của ngành
và của nhà trường. Ở đây các chủ thể quản lý cần lưu ý rằng, NCKH của giảng
viên là hoạt động đòi hỏi người giảng viên cần có sự tư duy sáng tạo và năng lực
nghiên cứu; cần có sự đầu tư thích đáng về mặt trí tuệ, thời gian, công sức. Chính
vì vậy, cơ quan quản lý khoa học phải biết phát huy năng lực sáng tạo của giảng
viên, đồng thời có những tư vấn cần thiết nhằm giúp họ lựa chọn nội dung nghiên
cứu, cách thức giải quyết vấn đề. Việc định hướng giúp cho giảng viên thực hiện
các nội dung trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với chất lượng nghiên cứu.
Trong điều kiện phát triển khoa học công nghệ hiện đại thì phương
thức hoạt động NCKH của giảng viên cần đa dạng, phong phú như thông qua
viết báo khoa học, biên soạn giáo trình, tài liệu học tập, hướng dẫn sinh viên
NCKH, làm đề tài khoa học, viết sáng kiến cải tiến hoặc thông qua học
nghiên cứu tài liệu qua mạng. Hoạt động khoa học được thực hiện liên tục,
thường xuyên theo từng học kỳ, năm học, theo kế hoạch ngắn hạn, trung hạn,
dài hạn …Khi quản lý nội dung, phương thức hoạt động NCKH của giảng

viên cần có sự đúc kết lại xem hình thức nào đạt hiệu quả cao nhất để phát
huy đồng thời cũng điều chỉnh bổ sung các hình thức cho phù hợp tình hình
thực tiễn.
1.2.3. Quản lý các điều kiện bảo đảm cho hoạt động hoạt động nghiên
cứu khoa học của giảng viên
Các yếu tố bảo đảm phục vụ cho hoạt động NCKH của giảng viên bao
gồm: Con người (nhân lực), nguồn lực về vật chất (vật lực), tài chính (tài lực)
và nguồn thông tin (tin lực). Các yếu tố đó thực sự là điều kiện thiết yếu đảm
bảo cho việc lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và khả năng
NCKH của giảng viên.
Nguồn nhân lực NCKH là chủ thể của hoạt động NCKH, đó là những
người có đủ phẩm chất, năng lực và trí tuệ để trực tiếp tham gia NCKH,
25


thường là những người có tài năng, được đào tạo cơ bản.
Nguồn tài lực NCKH là nguồn tài chính chi phí cho hoạt động NCKH
bao gồm: Ngân sách nhà nước chi cho hoạt động NCKH, kinh phí của tổ chức
dành cho NCKH và sự đầu tư của các giảng viên phục vụ cho NCKH. Quản
lý nguồn tài lực cho hoạt động NCKH tuân theo một quy trình chặt chẽ bao
gồm: Lập dự toán cho hoạt động NCKH hàng năm theo tài chính, duyệt dự
án, cấp phát (chi), thanh quyết toán, kiểm tra.
Nguồn vật lực NCKH là toàn bộ cơ sở vật chất, trang thiết bị, vật tư
chuyên dùng cho NCKH bao gồm: Cơ sở hạ tầng (như trụ sở làm việc, phòng
thí nghiệm,phòng thực hành,...); máy móc thiết bị dùng cho NCKH; hệ thống
mạng, máy tính, trang thiết bị phục vụ dạy học, văn phòng phẩm...
Quản lý hoạt động NCKH của giảng viên phải quan tâm đến thông tin, tư
liệu khoa học. Đây được coi là nguồn vật chất không thể thiếu được của quá
trình nghiên cứu vì thông tin, tư liệu đối với nhà khoa học như là “cơm ăn,
nước uống, không khí ” hàng ngày đối với con người. Làm khoa học mà thiếu

thông tin cũng giống như con người thiếu dinh dưỡng đến một lúc nào đó sẽ
không còn đủ sức để nghiên cứu.
Quy trình cơ bản của hoạt động thông tin NCKH bao gồm: Thu thập
thông tin, xử lý thông tin, lưu trữ bảo quản thông tin... Quản lý nguồn thông
tin trong NCKH là làm sao cho quy trình trên được thực hiện thuận lợi và có
hiệu quả cao. Vì vậy các chủ thể quản lý hoạt động NCKH của giảng viên
phải biết phát huy hiệu quả vai trò của thư viện và hệ thống sách, báo, tài liệu,
phòng thực hành, hệ thống mạng, máy tính, trang thiết bị phục vụ dạy học.
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, có hai mâu thuẫn đã và
đang tồn tại: Mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin khoa học ngày càng tăng
với khả năng tiếp thu các thông tin đó của cán bộ khoa học và mâu thuẫn giữa
nhu cầu thông tin ngày càng lớn, đa dạng với khả năng nhận được những
thông tin có nội dung phù hợp với yêu cầu nghiên cứu. Việc cung cấp nguồn
26


×