Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề KINH tế CHÍNH TRỊ QUAN hệ sản XUẤT xã hội CHỦ NGHĨA và cơ cấu KINH tế NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.89 KB, 11 trang )

2
QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ CƠ CẤU KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
LỜI NÓI ĐẦU

Sở hữu và thành phần kinh tế là những phạm trù của kinh tế chính trị
Mác – Lênin và cũng là vấn đề nhạy cảm của nền kinh tế. Theo lý thuyết hình
thái kinh tế xã hội, quan hệ sản xuất thống trị quyết định bản chất của hình
thái kinh tế xã hội đó. Do vậy, việc nghiên cứu hiểu rõ quan hệ sản xuất dựa
trên chế độ sở hữu nào, trên đó được thiết lập những thành phần kinh tế nào là
vấn đề có ý nghĩa cả trong lý luận và thực tiễn xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Tài liệu
nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục đào tạo cán bộ quân sự có trình độ
đại học, giúp người học nghiên cứu và nắm chắc về vấn đề sở hữu cũng như
đặc điểm riêng có của Việt Nam. Qua đó làm cơ sở quán triệt đường lối, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ mới.
1. CHẾ ĐỘ SỞ HỮU VÀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VỀ TƯ
LIỆU SẢN XUẤT

1.1. Sở hữu và chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất

- Sở hữu về tư liệu sản xuất:
Sở hữu là quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu
sản xuất và của cải vật chất được tạo ra nhờ tư liệu sản xuất ấy.
Sở hữu xuất hiện trong quá trình con người đi chiếm hữu tự nhiên, là
một phạm trù lịch sử, gắn liền với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
C.Mác khẳng định: “Đằng sau quan hệ người với vật là quan hệ giữa người
với người về chiếm hữu những vật phẩm ấy”1. Còn chiếm hữu là một phạm trù
vĩnh viễn của nhân loại (có xã hội loài người là có chiếm hữu), nó phản ánh
mối quan hệ giữa con người với tư liệu sản xuất và của cải xã hội (con người
với tự nhiên).


Đối tượng của sở hữu bao gồm: Tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng,
vốn, chất xám, trí tuệ, sở hữu công nghiệp… Trong đó, sở hữu về tư liệu sản
xuất giữ vai trò quan trọng, là phạm trù cơ bản của kinh tế chính trị. Sở hữu tư
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Sự thật, H,1986, t.1, tr.142.


3
liệu sản xuất là mặt cơ bản nhất của quan hệ sản xuất, nó quy định các quan
hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm.
Bản chất của sở hữu: Xét về bản chất thì sở hữu chỉ có thể là công hữu
hay tư hữu và có nhiều trình độ, cấp độ khác nhau. Công hữu có sở hữu công
cộng dưới chế độ cộng sản nguyên thuỷ, sở hữu tập thể, sở hữu công cộng
dưới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Tư hữu có tư hữu nô lệ, tư hữu
phong kiến, tư hữu tư bản chủ nghĩa.
- Chế độ sở hữu:
Chế độ sở hữu là quan hệ sở hữu được pháp luật thừa nhận.
Thể hiện ở tính khách quan là quan hệ sở hữu đó phải tồn tại trên thực
tế; còn về mặt pháp lý là được pháp luật thừa nhận, có ghi trong văn bản pháp
luật và được pháp luật bảo vệ.
Nội dung của chế độ sở hữu xác định các quyền cơ bản: Quyền sở hữu,
quyền sử dụng, quyền định đoạt và quyền hưởng lợi. Trong đó, quyền sở hữu
về tư liệu sản xuất là quyền cơ bản nhất, chính là xác định chủ sở hữu tư liệu
sản xuất thuộc về cá nhân hay tập thể cộng đồng.
Ví dụ: Đất đai, tài nguyên… là thuộc quyền sở hữu của toàn dân, còn
chiếc xe ô tô, điện thoại của anh “A” là thuộc quyền sở hữu của cá nhân.
Quyền sử dụng là việc xác định quyền được khai thác sử dụng tư liệu
sản xuất ấy. Ví dụ: Đất đai là của toàn dân nhưng giao cho anh “B” sử dụng
thì “B” có quyền sử dụng mảnh đất ấy.

Quyền định đoạt: xác định ai là người quyết định “số phận” của tư liệu
sản xuất ấy.
Quyền hưởng lợi: là xác định quyền pháp lý của chủ sở hữu tư liệu sản
xuất được hưởng những lợi ích kinh tế từ những tư liệu sản xuất ấy tạo ra.
Trong đó, quyền sở hữu và quyền sử dụng là hai quyền quan trọng
nhất, nó vừa có thể thống nhất, vừa có thể tách rời nhau; thống nhất khi người
sở hữu vừa là người sử dụng, tách biệt khi người sở hữu nhưng không trực
tiếp sử dụng nó mà giao quyền sử dụng cho người khác.
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, để đem lại hiệu quả kinh tế
cần phải xác định rõ, tôn trọng và sử dụng linh hoạt các quyền sở hữu và sử
dụng trong từng ngành, từng tổ chức sản xuất kinh doanh.


4
Chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là chế độ công hữu.
Mọi thành viên trong xã hội là chủ của các tư liệu sản xuất và các tài nguyên
khác của xã hội. Trong xã hội đó, không ai có quyền chiếm đoạt tư liệu sản
xuất để làm của riêng hay làm phương tiện bóc lột lao động của người khác.
Sự xuất hiện ngày càng mở rộng phạm vi chi phối của chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất đã đưa tới những thay đổi một cách căn bản trong kinh tế
xã hội. Tư liệu sản xuất không còn là vật thống trị con người, trái lại trở thành
phương tiện để phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội, tạo ra
của cải dồi dào nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh…”.
Sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất quyết định phương thức
quản lý và quan hệ phân phối của cải vật chất xã hội, bảo đảm phục vụ lợi ích
kinh tế của những người lao động. Đồng thời, sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất không những đóng vai trò quyết định mục đích của nền sản xuất
xã hội chủ nghĩa mà còn quyết định phương thức quản lý kinh tế có hiệu quả
ngày càng cao. Nó là cơ sở kinh tế để hình thành quan hệ bình đẳng giữa
những người lao động, hợp tác tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc

các quốc gia trên cơ sở nguyên tắc chung sống hoà bình, không can thiệp vào
nội bộ của nhau và cùng có lợi.
Sự thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là khách quan do yêu
cầu của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất trong từng ngành, lĩnh vực và cơ sở sản xuất kinh doanh.
1.2. Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam

- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn tồn tại đa dạng các
chế độ sở hữu và hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Xuất phát từ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều loại hình sở
hữu là do yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ quá độ, lực lượng sản xuất với
tính chất xã hội hoá và trình độ phát triển ở nhiều cấp độ khác nhau, nên quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất cũng tồn tại nhiều loại hình tương ứng trong


5
từng lĩnh vực, từng ngành. Khi luận chứng về vấn đề này, C.Mác nói: “Bất cứ
một sự cải biến nào về mặt quan hệ chiếm hữu cũng đều là kết quả tất yếu
của việc tạo nên những tư liệu sản xuất mới không còn phù hợp với quan hệ
chiếm hữu cũ nữa”1.
+ Xuất phát từ vai trò tác dụng của các chế độ sở hữu, hình thức sở hữu
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Các chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất không tồn tại biệt lập mà đan xen
nhau và tác động lẫn nhau. Sở hữu toàn dân là cơ bản chủ đạo, song chế độ sở
hữu tư nhân còn có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển nền
kinh tế quốc dân.

Hiện nay, Đảng ta xác định tồn tại 3 chế độ sở hữu, đó là chế độ sở hữu
toàn dân, chế độ sở hữu tập thể và chế độ sở hữu tư nhân; trên cơ sở ba chế độ
sở hữu đó hình thành nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Để phát huy tốt vai trò chủ đạo của chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu
sản xuất Đảng ta chủ trương “Hoàn thiện thể chế về sở hữu Nhà nước theo
hướng tách bạch vai trò của Nhà nước với tư cách là bộ máy công quyền
quản lý toàn bộ nền kinh tế xã hội với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà
nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng
quản trị của doanh nghiệp Nhà nước”2.
2. CƠ CẤU KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN VÀ VIỆC SỬ DỤNG, PHÁT
TRIỂN CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

2.1. Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

- Thành phần kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên cơ
sở chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Cơ cấu thành phần kinh tế là tổng thể các thành phần kinh tế đang tồn
tại hợp thành cùng với vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác giữa các thành
phần kinh tế đó trong quá trình tái sản xuất xã hội.
1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, t.23, tr.453
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 6, BCHTW khoá X. Nxb CTQG 2008, Tr 137


6

Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là một tất yếu khách quan. Bởi lẽ, trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta lực lượng sản xuất chưa phát triển cao nên còn
nhiều chế độ sở hữu. Tính đa dạng về hình thức sở hữu là do lực lượng sản
xuất chưa phát triển đủ mức độ để có thể thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu và
thiết lập hoàn toàn chế độ công hữu.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh.
- Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hình thành cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần là một tất yếu khách quan. Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ là tồn tại nhiều thành phần
kinh tế. Lênin khẳng định “Đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là nền kinh tế còn tồn tại những thành phần, những mảnh, những bộ
phận của cả hai kết cấu kinh tế chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản”1. Tuỳ
thuộc vào những nước khác nhau và do đặc điểm khác nhau mà số lượng các
thành phần kinh tế nhiều hay ít.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật chung cho mọi phương thức sản xuất. Trong nền kinh tế
chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ
khác nhau; Tương ứng với mỗi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ
có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó, cơ cấu của nền kinh tế xét về phương
diện kinh tế xã hội phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Thực tiễn, các nước phát triển lên chủ nghĩa xã hội cũng đã duy trì nền
kinh tế nhiều thành phần phát triển mạnh mẽ. Nước Nga trong quá trình xây
dựng kinh tế, Lênin đã xác định có các thành phần kinh tế đó là kinh tế xã hội
chủ nghĩa, kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Ở Việt
Nam từ năm 1986 Đảng ta đã xác định tồn tại nhiều thành phần kinh tế; hiện

nay nền kinh tế Việt Nam với năm thành phần kinh tế đang cùng tồn tại và
1

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb sự thật, H, 1985, tr43


7
phát triển. Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài,
có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và thể hiện
tinh thần dân chủ về kinh tế bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo
pháp luật. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam đã đem lại những
thành tựu quan trọng như tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao
sức sản xuất…
Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập, mà có liên hệ chặt chẽ
với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm
nhiều thành phần kinh tế.
2.2. Sử dụng và phát triển các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương thực hiện nhất quán chính sách
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế cùng phát
triển lâu dài hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, căn cứ vào
nguyên lý chung và điều kiện cụ thể của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định: Nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có
5 thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng tồn tại, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh
theo pháp luật Việt Nam.
- Thành phần kinh tế nhà nước.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân

về tư liệu sản xuất; sản xuất và kinh doanh bằng hoạch toán kinh tế, thực hiện
phân phối theo lao động. Kinh tế nhà nước bao gồm đất đai, tài nguyên, ngân
sách nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ
bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng
chu chuyển kinh tế. Trong đó, các doanh nghiệp nhà nước là bộ phận quan
trọng nhất, giữ vị trí then chốt. Kinh tế nhà nước rộng và mạnh hơn bộ phận
doanh nghiệp nhà nước. Phân biệt được hai phạm trù này và nhận thức đầy đủ
hơn vai trò kinh tế nhà nước là bước phát triển về nhận thức thực tiễn nền
kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới.


8
Để từng bước xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, với trình độ
phát triển hiện nay và trong thời gian tới của lực lượng sản xuất ở nước ta,
kinh tế nhà nước chỉ có thể tập trung phát triển trong những ngành, lĩnh vực
trọng yếu như: Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng,
bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ then chốt, một số
doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đặc biệt đến quốc phòng
– an ninh…; công nghệ hiện đại và kinh doanh có hiệu quả cao.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật
chất quan trọng để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nắm giữ vị trí then
chốt, đi đầu trong ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nêu gương về năng
suất chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật, nhờ đó mà
thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế quốc dân; Tạo
môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển
bằng nhiều hình thức và biện pháp thích hợp; Cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Thực tiễn trong những năm qua kinh tế nhà nước đã làm tốt vai trò chủ
đạo trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân; tuy nhiên, vẫn còn nhiều
yếu kém khuyết điểm làm ảnh hưởng đến vai trò định hướng cho các thành

phần kinh tế khác. Vì vậy, Đảng xác định những phương hướng, chính sách
và biện pháp cơ bản nhằm phát triển thành phần kinh tế nhà nước, cụ thể:
+ Hoàn chỉnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp; Tập trung vào một số lĩnh
vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền
kinh tế và một số lĩnh vực công ích. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà
nước được thực hiện theo những hướng sau: Xây dựng một số tập đoàn kinh
tế mạnh tầm cỡ khu vực, có sự tham gia cổ phần của nhà nước, của tư nhân
trong và ngoài nước, của các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải thiện tình
hình tài chính và lao động của các doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện
đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước. Thực hiện tốt chủ trương cổ
phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước.
+ Giao, bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà nhà nước
không cần nắm giữ.


9
+ Sát nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không
có hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp nói trên.
+ Xoá bỏ độc quyền, đặc quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước. Đồng thời hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp nhà nước hoạt
động trong môi trường cạnh tranh, công khai minh bạch, nâng cao hiệu quả.
- Thành phần kinh tế tập thể.
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tập thể về
tư liệu sản xuất, do những người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức để sản
xuất kinh doanh theo nguyên tắc dân chủ, bình đẳng cùng có lợi.
Sự hình thành kinh tế tập thể là tất yếu khách quan trong quá trình đưa
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với ưu thế
của hiệp tác như các nhà kinh điển đã chỉ ra, sự phát triển của kinh tế hàng
hoá đã làm nảy sinh nhu cầu phải hợp tác trong từng ngành nghề, ở những

công đoạn khác nhau trong sản xuất kinh doanh.
Vai trò của kinh tế tập thể: Cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành
nền tảng của nền kinh tế quốc dân; là trợ thủ đắc lực của kinh tế hộ gia đình.
Phương hướng phát triển kinh tế tập thể: Tiếp tục phát triển các loại
hình kinh tế tập thể, theo phương châm tích cực, vững chắc, xuất phát từ nhu
cầu thực tế, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển của sản
xuất. Tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách cơ chế cụ thể khuyến khích phát
triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể, đa dạng về hình thức sở hữu và
hình thức sản xuất kinh doanh.
- Thành phần kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân)
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân ở cấp
độ khác nhau về tư liệu sản xuất, sản xuất và kinh doanh theo hoạch toán kinh tế.
Thành phần kinh tế tư nhân bao gồm:
+ Kinh tế cá thể: Là hình thức kinh tế dựa trên chế độ tư hữu nhỏ về tư
liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình.
Loại hình kinh tế này hiện còn nhiều tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng
phạm vi tương đối lớn, nhất là những nơi chưa có điều kiện tổ chức kinh tế
tập thể. Nhà nước khuyến khích phát triển trong các ngành nghề mà pháp luật
không cấm, không hạn chế quy mô. Các đơn vị kinh tế cá thể có thể liên


10
doanh, liên kết với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác bằng
nhiều hình thức với mục đích đem lại hiệu quả kinh tế cao.
+ Kinh tế tiểu chủ là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu
sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa
vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình.
+ Kinh tế tư bản tư nhân là hình thức kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa
trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm
thuê. Đây là bộ phận lớn trong kinh tế tư nhân, mang bản chất khác hẳn, thậm

chí đối nghịch với thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế tập thể.
Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của
nền kinh tế.
Phương hướng phát triển của kinh tế tư nhân: Phát triển mạnh các hộ
kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Mọi công dân có
quyền tham gia các hoạt động đầu tư kinh doanh được pháp luật bảo hộ; Có
quyền bình đẳng trong đầu tư kinh doanh, tiếp cận các cơ hội, nguồn lực kinh
doanh, thông tin và nhận thông tin. Xoá bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và
môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình tư nhân phát triển không
hạn chế quy mô trong những ngành nghề, lĩnh vực kể cả lĩnh vực sản xuất
quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm.
- Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức
liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và
hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, kinh tế tư bản
nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn,
công nghệ, khả năng tổ chức, quản lý…, tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện một cách rộng rãi và lâu dài
các hình thức tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy, cần phát huy vai trò quan trọng của thành phần kinh tế này.
- Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.


11
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế có
chủ sở hữu là người nước ngoài (nhà nước hoặc tư nhân) đầu tư vốn, công
nghệ thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, trên lãnh thổ Việt Nam,
tổ chức sản xuất kinh doanh, thu lợi nhuận.

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam, là kênh huy động vốn, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, cải
thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Tại Hội nghị Trung ương VI Khoá X, Đảng ta tiếp tục khẳng định
“Sớm ban hành các quy định pháp lý về quyền sở hữu của doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam…”1. Nhằm khuyến khích thành phần
kinh tế này phát triển, góp phần thúc đẩy phát triển cho nền kinh tế quốc dân.
2.3 Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế

Các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có
mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau, hoạt động đan xen trong cơ cấu
kinh tế quốc dân thống nhất. Đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế; sản xuất kinh doanh và cạnh tranh trên cơ sở bình đẳng trước pháp
luật. Vai trò của mỗi thành phần kinh tế, tỷ lệ giữa các thành phần kinh tế phụ
thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, hiệu quả sản xuất kinh
doanh và sự đóng góp của chúng vào sự phát triển của nền kinh tế.
Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư
liệu sản xuất. Các chế độ sở hữu, các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất tuy
có sự độc lập tương đối và có bản chất riêng, nhưng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh không có sự ngăn cách và có thể hỗn hợp đan kết với nhau hình
thành các tổ chức kinh doanh đa dạng.
Các thành phần kinh tế đều nằm trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, có
mối quan hệ tương tác và mâu thuẫn với nhau. Tính thống nhất biểu hiện ở
chỗ, mỗi thành phần kinh tế đều là bộ phận của nền kinh tế quốc dân phục vụ
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, các thành phần kinh tế nằm trong hệ
1


Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ 6, BCHTW khoá X. Nxb CTQG, H, 2008, Tr 142


12
thống phân công lao động xã hội có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau về sản
xuất và tiêu dùng. Sự thống nhất đó không phải tự nhiên có mà phải qua hợp
tác và đấu tranh, đấu tranh để hợp tác tốt hơn. Các thành phần kinh tế mang
bản chất kinh tế và quan hệ kinh tế khác nhau, giữa chúng có sự mâu thuẫn.
Không thể giải quyết mâu thuẫn này một cách chủ quan, không thể bằng biện
pháp hành chính đơn thuần xoá bỏ các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư
hữu mà phải bằng cách tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ấy phát triển
mạnh có lợi cho quốc kế dân sinh, hướng các thành phần kinh tế phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
KẾT LUẬN

Nghiên cứu lý luận về sở hữu và thành phần kinh tế của Mác Ăngghen – Lênin đã chỉ ra những vấn đề cơ bản về lý luận và được Đảng
Cộng sản Việt Nam vận dụng linh hoạt sáng tạo vào quá trình xây dựng kinh
tế - xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước Việt
Nam không phân biệt đối xử, các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau trong
kinh doanh và trước pháp luật. Chính phủ Việt Nam khuyến khích và tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp phát triển có hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng
kinh tế xã hội.



×