Nội dung:
Phần I: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa.
Muốn tìm hiểu về quá trình chuyển dịch cơ cấu phải đặt nó trong
điều kiện của nớc ta, phải trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa đang xây dựng ở nớc ta để thấy rõ toàn bộ đặc điểm và vai trò của nó
đối với sự phát triển nền kinh tế đất nớc.
1. Nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam:
1.1. Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam:
Sự phát triển của nền kinh tế xã hội từ giai đoạn thấp đến giai đoạn cao
bằng những cuộc biến đổi cách mạng, từ phơng thức sản xuất này sang ph-
ơng thức sản xuất khác, tiến bộ hơn. Đó là kết quả tất nhiên của sự phát
triển mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất với quan hệ sản xuất. Nhng không
phải phơng thức sản xuất cũ đi đến chỗ kết thúc là có ngay phơng thức sản
xuất mới, cao hơn; cũng không phải phơng thức sản xuất cũ kết thúc hoàn
toàn mới nảy sinh phơng thức sản xuất khác, mà giữa chúng bao giờ cũng
có một sự chuyển hoá quá độ, trong đó phơng thức sản xuất cũ suy yếu dần,
phơng thức sản xuất mới ra đời, lớn lên và giữ địa vị thống trị. Nh vậy, trong
thời kỳ quá độ, cha có phơng thức nào giữ địa vị thống trị tuyệt đối, mỗi ph-
ơng thức sản xuất chỉ là một mảnh, một bộ phận, ấy là một thành phần
kinh tế. Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế quá độ, đặc trng cơ
bản nhất của nền kinh tế quá độ là còn tồn tại kinh tế nhiều thành phần.
Tính quy luật đó diễn ra trong lịch sử phát triển của các nớc trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. ở các nớc đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ yếu tồn
tại ba thành phần kinh tế cơ bản: kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế t bản chủ
nghĩa và kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Vận dụng lý luận này vào nớc ta,
chúng ta khẳng định sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta là một tất
yếu bởi vì: Khi giai cấp công nhân và nhân lao động giành đợc chính quyền
và bớc vào xây dựng xã hội mới thì một đòi hỏi cấp bách và khách quan là
từng bớc xây dựng cơ sở kinh tế-xã hội của chế độ mới dựa trên chế độ sở
hữu xã hội chủ nghĩa về t liệu sản xuất, với hai hình thức sở hữu nhà nớc và
sở hữu tập thể. Tuy nhiên để thực hiện đợc điều đó, không thể một sớm một
chiều, bởi vì nớc ta bớc vào thời kỳ quá độ từ một nớc nông nghiệp lạc hậu,
sản xuất phân tán, nhỏ bé, sự chênh lệch giữa các vùng, các ngành kinh tế
trong nớc không phải là nhỏ. Do đó bên cạnh kinh tế nhà nớc, kinh tế tập
thể, sự tồn tại kinh tế t nhân, kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công; của
những ngời làm dịch vụ, buôn bán nhỏ tự cung tự cấp cho một bộ phận vùng
núi cao là tất yếu. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta rất coi trọng hiệu quả
của quá trình sản xuất, làm thế nào để những t liệu sản xuất và sức lao động
đợc sử dụng tốt hơn, có hiệu quả hơn, đời sống vật chất tinh thần của ngời
dân ngày càng đợc cải thiện. Trong khi thành phần kinh tế nhà nớc, kinh tế
tập thể cha đủ rmạnh để đáp ứng nhu cầu xã hội thì thành phần kinh tế t
nhân t bản nhà nớc, cá thể tiểu chủ là cần thiết với việc giải quyết công ăn
việc làm, huy động và khai thác các nguồn lực dồi dào về vốn, kinh nghiệm
quản lý, ngành nghề truyền thốngthúc đẩy tăng trởng kinh tế, phát triển
đất nớc. Vì vậy, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần là một chủ trơng
đúng đắn.
Trên cơ sở đó, tại Đại Hội Đảng IX, Đảng ta đã đa ra quan điểm mới
về các thành phần kinh tế trong giai đoạn hiện nay: kinh tế nhà nớc, kinh tế
tập thể, kinh tế t bản t nhân, kinh tế t bản nhà nớc, kinh tế cá thể và tiểu chủ,
kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài.
Trong đó, kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân, là lực lợng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà Nớc định hớng và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thành phần kinh tế nhà nớc là
2
những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất,
kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu nhà nớc, hoăc phần của toàn
nhà nớc chiếm tỷ lệ khống chế. Kinh tế nhà nớc bao gồm các doanh nghiệp
nhà nớc (Kinh tế quốc doanh) và các tài sản thuộc sở hữu nhà nớc (đất đai,
tài nguyên, ngân hàng, tài chính, dự trữ quốc gia) Doanh nghiệp nhà n-
ớc giữ vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu
gơng về năng suất, chất lợng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp
luật.
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do
ngời lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên
tắc tập trung, bình đẳng cùng có lợi. Kinh tế tập thể phát triển với nhiều
hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Phát triển hợp
tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành. Nhà nớc giúp hợp
tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, nắm bắt thông tin mở
rộng thị trờng. Tổng kết việc chuyển đổi và phát triển hợp tác xã theo Luật
hợp tác xã.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan
trọng lâu dài. Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên t hữu nhỏ về t
liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân ngời lao động và gia đình.
Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên t hữu nhỏ về t liệu sản
xuất nhng có thuê mớn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào
sức lao động, và vốn của bản thân và gia đình. Nhà nớc tạo điều kiện và
giúp đỡ phát triển; khuyến khích các hình thức hợp tác tự nguyện, làm vệ
tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh tế t bản t nhân là thành kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên
cơ sở chiếm hữu t nhân t bản chủ nghĩa về t liệu sản xuất và bóc lột sức lao
động làm thuê. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay,
thành phần kinh tế này còn có vai trò đáng kể xét về phơng diện phát triển
lực lợng sản xuất, xã hội hoá sản xuất cũng nh
phơng diện giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là thành phần kinh tế rất
3
năng động, nhạy bén với kinh tế thị trờng, do đó sẽ có những đóng góp
không nhỏ vào quá trình tăng trởng kinh tế của đất nớc. Hiện nay, kinh tế t
bản t nhân bớc đầu có sự phát triển, nhng phần lớn tập trung vào lĩnh vực th-
ơng mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu t vào sản xuất còn ít và
chủ yếu quy mô vừa và nhỏ. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
đã khẳng định: Khuyến khích phát triển kinh tế t bản t nhân rộng rãi tong
các ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi tr-
ờng kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lý để kinh tế t bản t nhân phát
triển trên những định hớng u tiên của Nhà nớc, kể cả đầu t ra nớc ngoài;
khuyến khích chuyển nhanh doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phiếu cho ngời
lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà n-
ớc, xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và ngời lao động.
Kinh tế t bản nhà nớc là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên
doanh liên kết giữa kinh tế nhà nớc với t bản t nhân trong nớc và ngoài nớc,
mang lại lợi ích thiết thực cho các bên tham gia đầu t kinh doanh.
Kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài bao gồm các doanh nghiệp có thể 100%
vốn nớc ngoài (Một thành viên hoặc nhiều thành viên) có thể liên kết, liên
doanh với doanh nghiệp nhà nớc hoặc doanh nghiệp t nhân của nớc ta. Đảng
và nhà nớc ta khẳng định: Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài
phát triển thuận lợi, hớng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế,
xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải
thiện môi trờng kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu t nớc ngoài.
1.2.Nền kinh tế phát triển theo hớng thị trờng, có
sự quản lý của Nhà Nớc:
Từ Đại hội Đảng VI đến nay, với sự đổi mới t duy về kinh tế, Đảng ta
đã đề ra phơng hớng đổi mới kinh tế là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch, tập
trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý của nhà nớc, định hớng xã hội chủ
nghĩa. Vậy thế nào là cơ chế thị trờng?. Trớc hết, cơ chế thị trờng là cơ chế
4
tự điều tiết của nền kinh tế thị trờng do sự tác động của các quy luật vốn có
của nó. Cơ chế thị trờng phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của
kinh tế thị trờng. Cơ chế thị trờng là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị
trờng, tuy nhiên kinh tế thị trờng cũng có những khuyết tật vốn có của nó:
Thứ nhất, cơ chế thị trờng chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh
tranh hoàn hảo, còn khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo nh hiện tợng
độc quyền thì hiệu lực của cơ chế thị trờng bị giảm. Thứ hai, mục đích của
doanh nghiệp là lợi nhuận, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, gây
ô nhiễm môi trờng sống của con ngời, do đó hiệu quả kinh tế-xã hội không
đợc đảm bảo. Thứ ba, sự tác động của cơ chế thị trờng sẽ dẫn đến sự phân
hoá giàu nghèo, sự phân cực về của cải, tác động xấu đến đạo đức và tình
ngời. Sự tác động của cơ chế thị trờng sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao, nh-
ng nó không tự động mang lại những giá trị mà xã hội muốn vơn tới. Thứ t,
một nền kinh tế do cơ chế thị trờng thuần tuý điều khó tránh khỏi những
thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp.
Do đó để sửa chữa khuyết tật của thị trờng, ở hầu hết các nớc có
nền kinh tế thị trờng thì đều có sự can thiệp của Nhà nớc vào kinh tế,
tuy với mức độ khác nhau và theo những hớng khác nhau. Nớc ta thực hiện
nền kinh tế thị trờng, có sự quản lý của nhà nớc ở tầm vĩ mô, theo định hớng
xã hội chủ nghĩa. Tức là Nhà nớc quản lý nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa theo nguyên tắc kết hợp nhà nớc với thị truờng. Kế hoạch là
sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền kinh tế, còn cơ chế
thị trờng là sự tự điều tiết của bản thân nền kinh tế. Do đó, Nhà nớc ta phải
thừa nhận yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trờng: thừa nhận tính độc
lập của các chủ thể kinh tế để họ có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh,
tự chịu trách nhiệm lỗ lãi; xây dựng hệ thống thị trờng có tính cạnh tranh,
giá cả chủ yếu do thị trờng quyết định; xây dựng cơ chế điều tiết vĩ mô của
nhà nớc nhằm hớng dẫn, giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế, hạn
chế những khuyết tật của thị trờng; xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo ra
khuôn khổ cho hoạt động kinh tế; tôn trọng và thực hiện các thông lệ quốc
5
tế trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đảng ta luôn xác định độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, nhng đó không phải là một nền kinh tế đóng mà
đó là một nền kinh tế thị trờng mở cửa và hội nhập quốc tế. Bằng các đòn
bẩy kinh tế, Nhà nớc sẽ động viên về tinh thần, khuyến khích mọi tổ chức
kinh tế hoạt động theo định hớng của kế hoạch, cố gắng thực hiện nhiệm vụ
của kế hoạch. Hoạt động kinh tế nào làm lợi cho nền kinh tế thì sẽ đợc
khuyến khích; ngợc lại, không làm theo kế hoạch, làm hại thì phải ngăn
chặn và trừng phạt. Bên cạnh các hoạt động định hớng, tạo môi trờng, Nhà
nớc ta còn kiểm tra kiểm soát, bảo đảm sự bình đẳng trong phát triển sản
xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; đồng
thời có các chính sách thích ứng bảo vệ và bảo dảm quyền lợi hợp pháp của
ngời lao động.
2. Những lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế:
2.1. Khái quát:
2.1.1. Cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế là một phạm trù triết học phản ánh cấu trúc bên trong
của một đối tợng. Nó bao gồm những yếu tố cấu thành và mối quan hệ tơng
đối ổn định của đối tợng trong một thời gian nhất định.
Nh vậy, phạm trù kinh tế bao gồm hai nội dung chủ yếu, đó là các
yếu tố cấu thành và mối quan hệ cơ bản giữa chúng.
Cơ cấu kinh tế do đó là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều
yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong những
không gian và thời gian cụ thể, đợc thể hiện cả về mặt định tính lẫn định l-
ợng, cả về số lợng lẫn chất lợng, phù hợp với những mục tiêu xác định của
nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế quốc dân, tuỳ theo đặc đIểm tổ chức sản xuất
và đối tợng lao động, ngời ta chia cơ cấu kinh tế thành 3 nội dung sau:
6
Thứ nhất, cơ cấu kinh tế ngành: là tập hợp các bộ phận-các ngành sản
xuất chuyên môn hoá cấu thành tổng thể nền kinh tế và mối quan hệ tơng
quan tỷ lệ giữa các bộ phận cấu thành đó so với tổng thể. Các ngành sản
xuất chuyên môn hoá gồm hai nhóm ngành lớn: đó là nhóm ngành sản xuất
vật chất (nông nghiệp và công nghiệp) và nhóm ngành sản xuất phi vật chất
(ngành dịch vụ).
Cơ cấu ngành của một nền kinh tế phản ánh trình độ phát triển của xã
hội hoá, quốc tế hoá, trình độ tiến bộ khoa học-kĩ thuật, năng lực sản xuất.
Cơ cấu ngành có ảnh hởng rất lớn tới nền kinh tế nớc ta. Nếu chúng ta
có chính sách phát triển cơ cấu ngành một cách hợp lý thì sẽ thúc đẩy năng
lực sản xuất và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Ngợc lại, nếu cơ cấu ngành
không hợp lý thì sẽ là yếu tố kìm hãm sản xuất, làm chậm tốc độ phát triển
của nền kinh tế đất nớc.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế vùng: là tập hợp các vùng kinh tế, các địa
phuơng, các đơn vị hành chính trong phạm vi lãnh thổ của toàn bộ một quốc
gia và mối tơng quan tỷ lệ giữa các vùng kinh tế với tổng thể toàn bộ nền
kinh tế đó.
Các vùng kinh tế căn cứ vào đối tợng phân công lao động, đợc chia ra
làm hai loại: Loại thứ nhất là vùng kinh tế ngành, vùng kinh tế ngành là đơn
vị lãnh thổ tập trung trong một ngành sản xuất nhất định nh vùng nông
nghiệp, vùng công nghiệpLoại thứ hai là vùng kinh tế tổng hợp, là một
tổng thể sản xuất theo lãnh thổ của nhiều ngành kinh tế phát triển cân đối và
nhịp nhàng. Trong vùng kinh tế tổng hợp có thể có nhiều ngành sản xuất
khác nhau.
ở nớc ta, theo phơng án phân vùng kinh tế đã đợc Chính Phủ phê
duyệt thì toàn bộ lãnh thổ quốc gia đợc chia làm 4 vùng kinh tế cơ bản, 7
tiểu vùng khác nhau và 53 đơn vị lãnh thổ. Các vùng và tiểu vùng đó là:
vùng Bắc Bộ gồm 2 tiểu vùng là miền núi trung du và đồng bằng ven biển,
vùng Bắc Trung Bộ, vùng Nam Trung Bộ có 2 tiểu vùng là Tây Nguyên và
7
đồng bằng ven biển, vùng Nam Bộ có 2 tiểu vùng: Tây Nam Bộ và Đông
Nam Bộ.
Các vùng kinh tế này là cơ sở để tiến hành kế hoạch hoá và quản lý
theo ngành và theo lãnh thổ. Do đó chúng có ảnh hởng rất lớn đến kinh tế
của một quốc gia.
Thứ ba, cơ cấu thành phần kinh tế: cơ cấu thành phần kinh tế phản
ánh quy mô, số lợng các thành phần kinh tế và mối tơng quan giữa các
thành phần với nhau cũng nh đối với tổng thể nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế thị trờng cạnh tranh tự do, việc tồn tại các
thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu. Vận hành theo cơ chế thị trờng
nên nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế nhiều thành phần và đi kèm với nó là
các hình thức sở hữu khác nhau.
Theo văn kiện ĐạI Hội ĐảngIX thì hiện nay, nớc ta có các thành phần
kinh tế đi kèm với nó là các loại hình doanh nghiệp nh sau:
-Kinh tế nhà nớc: tơng ứng với thành phần này là loại hình doanh
nghiệp nhà nớc.
-Kinh tế tập thể: tơng ứng là loại hình doanh nghiệp tập thể, các hợp
tác xã.
-Kinh tế cá thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành thị: tơng ứng là các
hộ kinh doanh cá thể.
-Kinh tế t bản t nhân: tơng ứng là các doanh nghiệp t bản.
-Kinh tế t bản Nhà Nớc: tơng ứng là loại hình doanh nghiệp t bản Nhà
Nớc.
-Kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài: tơng ứng là loại hình doanh nghiệp t
nhân hay liên doanh.
Trong các thành phần kinh tế trên thì thành phần kinh tế Nhà Nớc
phải giữ vai trò chủ đạo, tiên phong mở đờng và định hớng cho sự phát triển
của các thành phần kinh tế khác.
2.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
8
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi cơ cấu kinh tế từ trạng thái
này sang trạng thái khác cho phù hợp với mục tiêu phát triển. Nói cách khác
chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi về số lợng hoặc sự thay đổi về
quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cả một quá trình phức tạp, lâu dài mà
mỗi quốc gia đều có một hớng đi cụ thể không giống nhau, song đều có một
điểm chung là làm sao phát huy đợc lợi thế so sánh của mình, mạnh dạn đi
vào các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế trọng điểm, thực hiện sự
mở cửa rộng rãi, khuyến khích xuất nhập khẩu, đồng thời quan tâm đến thị
trờng trong nớc.
Nền kinh tế của một quốc gia chỉ có thể đạt đợc tốc độ phát triển cao
và ổn định khi nó có một cơ cấu kinh tế hợp lý. Muốn vậy, vấn đề cần phải
giải quyết ở đây đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong 3 nội dung
của cơ cấu kinh tế của một quốc gia.
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành: Về mặt lợng, đó là sự
thay đổi số lợng hoặc mối tơng quan tỷ lệ của mỗi ngành sản xuất so với
tổng thể nền kinh tế. Về mặt chất, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đợc
thể hiện ở sự thay đổi phơng án bố trí các ngành trong cơ cấu với sự thay đổi
tính cân đối để chuyển sang một trạng thái mới hoặc trình độ cao hơn.
Nh vậy, để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành một cách hợp
lý ta phải xác định số lợng các ngành, bố trí sắp xếp các ngành đó trong hệ
thống các ngành sản xuất trên cơ sở phân tích mối liên hệ sản xuất của từng
ngành, bảo đảm quan hệ tỷ lệ cân đối trong sự phát triển giữa các ngành.
Trong xu thế phát triển hiện nay, cơ cấu ngành của một quốc gia đợc
đánh giá là hợp lý khi tỷ trọng đóng góp vào GDP của quốc gia đó của từng
ngành theo thứ tự là nhóm ngành dịch vụ, nhóm ngành công nghiệp, và cuối
cùng là nhóm ngành nông nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là một bộ phận quan trọng trong
chiến lợc phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nớc.
9
Thứ hai, chuyển dịch cơ câu kinh tế vùng lãnh: đó là việc tổ chức
phân công lại lao động theo lãnh thổ, tạo điều kiện để các vùng, các địa ph-
ơng phát triển đồng bộ và thu hẹp dần khoảng cách phát triển giữa chúng.
Trong vùng lãnh thổ cơ bản, ngành sản xuất chuyên môn hoá đợc coi
là ngành cốt lõi và đợc tập trung u tiên phát triển hàng đầu, song song với
nó là việc phát triển các ngành kinh tế phụ trợ để cung cấp nhiên liệu, máy
móc và các ngành khác để khai thác một cách triệt để các nguồn lực của
vùng.
Trong vùng kinh tế tổng hợp gồm nhiều ngành sản xuất chuyên môn
hoá khác nhau, nhiệm vụ cần làm ở đây là ngoài việc phát triển các ngành
sản xuất chuyên môn hoá, các ngành sản xuất phụ trợ, ta phải phối hợp đồng
bộ nhịp nhàng giữa các ngành sao cho chúng hợp thành một tổng thể thống
nhất, tạo ra sức mạnh tổng hợp thúc đẩy nền kinh tế vùng phát triển.
Nguyên tắc của việc phân lại lao động theo lãnh thổ đó là phải dựa
trên kết quả của việc xác định chi phí sản xuất trên vùng đó, khả năng đáp
ứng của hệ thống cơ sở vật chất của vùng và kết quả của việc giải quyết mối
quan hệ giữa môi trờng với sản xuất.
ở nớc ta hiện nay đang diễn ra tình trang mất cân đói khá sâu sắc về
trình độ phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng
bằng và miện núi. Vấn đề cần giải quyết ở đây là lấp đầy khoảng cách về
mức độ phát triển giữa các vùng, các địa phơng để tạo ra một cơ cấu vùng,
lãnh thổ hợp lí, tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nớc.
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đó là việc cơ cấu lại số lợng
doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế với nhau.
Để quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong các thành phần kinh tế
đợc diễn ra một cách tích cực nó phải thoả mãn hai điều kiện sau:
-Sự chuyển dịch cơ cấu đó phải thực sự tạo đợc những điều kiện để
giải phóng mọi lực lợng sản xuất, khai thác tốt những nguồn lực hiện có để
10
phát triển sản xuất, giải quyết vấn đề việc làm cho ngời lao động, tăng thu
nhập, tăng tích luỹ để nâng cao mức sống cho ngời dân.
-Sự chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế: phải đảm bảo thực hiện
tốt các mục tiêu phát triển nền kinh tế theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Đối với nền kinh tế nớc ta, để thoả mãn hai điều kiện trên cần có các
giải pháp kinh tế để khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, phục vụ
tốt việc thực hiện các mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Đồng thời phải phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
của thành phần kinh tế nhà nớc và sử dụng các doanh nghiệp nhà nớc nh
một công cụ để điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
2.1.3.Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế:
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình rất phức tạp và
lâu dài. Nó chịu ảnh hởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác
nhau. Về cơ bản, có các yếu tố sau:
-Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào các chiến lợc phát triển
kinh tế-xã hội của quốc gia.
Nền kinh tế của một nớc là một thể thống nhất hữu cơ giữa các bộ
phận của nó vừa độc lập lại vừa phụ thuộc lẫn nhau. Để nền kinh tế đợc vận
hành một cách thông suốt và liên tục thì phải có sự điều phối từ phía Nhà N-
ớc thông qua các chiến lợc phát triển, các chính sách phân công lao động
giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Đặc biệt, nền kinh tế nớc
ta là một nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng định
hớng xã hội chủ nghiã, do đó các chiến lợc của Đảng và Nhà Nớc đề ra phải
xuất phát từ tình hình thực tế của nền kinh tế. Do vậy, khi tiến hành chuyển
dịch cơ cấu kinh tế phải lấy chiến lợc kinh tế-xã hội vừa làm mục tiêu vừa
làm cơ sở quan trọng cho việc xây dựng các phơng án.
-Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên.
11
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của mỗi vùng bao gồm
số loại và khối lợng của các tài nguyên thiên nhiên, điều kiện môi trờng, khí
hậu, vị trí địa lí của mỗi vùng. Những yếu tố này tác động mạnh tới sự hình
thành và phát triển hệ thống ngành, đến sự phân bổ sản xuất trên các vùng
lãnh thổ và sự phát triển của các thành phần kinh tế, vì chúng là các yếu tố
mang tính chất cơ sở điều kiện cho sự phát triển.
-Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế:
Trình độ phát triển trớc hết thể hiện ở trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất, mức tập trung chuyên môn hoá sản xuất, trình độ phát triển kết
cấu hạ tầng của thị trờng và của hệ thống ngành dịch vụ. Trình độ phát triển
kinh tế thể hiiện ở những khía cạnh, đó là tiền đề, là cơ sở vật chất kĩ
thuật cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
-Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển khoa
học công nghệ:
Trình độ phát triển khoa học của mỗi quốc gia và của mỗi địa phơng
thể hiện ở trình độ cơ khí hoá, điện khí hoa, hoá học hoá. Trình độ tiến bộ
hoa học công nghệ thể hiện ở những phơng hớng nêu trên là một nhân tố
cực kì quan trọng tác động đến cơ cấu các ngành sản xuất cấu vùng, đến
năng lực sản xuất và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Một quốc gia hay
một vùng kinh tế nếu có khoa học công nghệ phát triển ở một trình độ cao
có thể cải biến, thay thế các yếu tố sản xuất cũ, lạc hậu, không phù hợp nh
đất đai, giống cây trồng, máy móc thiết bịtừ đó nâng cao năng lực sản
xuất của quốc gia và của vùng.
-Chuuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào yếu tố kinh tế xã hội:
Mỗi vùng đều có những ngành nghề truyền thống, kinh nghiệm, kĩ
năng truyền và những tập quán sản xuất. Tất cả các yếu tố lịch sử, xã hội
của vùng là những nhân tố tác động đến việc phân bố sản xuất trên các vùng
khác nhau, đến khả năng phát triển của các ngành, các thành phần kinh tế.
12
Sự phát triển lịch sử lâu đời còn tạo ra những mối quan hệ trong sản
xuất cũng nh trong đời sống xã hội của mỗi vùng. ở đây, những ngời lao
động, tâm lý, tập quán, thói quen với những tiện nghi sinh hoạt sẽ là những
yếu tố ảnh hởng đến việc hình thành, phát triển của các ngành sản xuất.
Dân số là một yếu tố tác động thờng xuyên, liên tục tới sự phát triển
của các ngành kinh tế. Nó ảnh hởng tới sức mua, tới khả năng và năng lực
của nền kinh tế.
-Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế - kĩ thuật
của các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế.
Mỗi ngành,mỗi vùng, mỗi thành phần kinh tế có những đặc đIểm
kinh tế kĩ thuật riêng. Đó là nững đặc điểm về sản phẩm, về nguyên liệu,
về công nghệ chế biến, điều kiện tự nhiên, lợi thế so sánh
Từ những phân tích ở trên, ta đã nắm đợc các khái niệm cơ bản về cơ
cấu kinh tế: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu lãnh thổ và nội dung của quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các yếu tố tác động tới nó. Việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hóa đã đợc Đảng và
Nhà Nớc ta xác định là mục tiêu chiến lợc cần phải đạt đợc.
Vậy chúng ta sẽ xem xét tầm quan trọng hay tính tất yếu của quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2.2. Tính tất yếu khách quan của việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở nớc ta hiện nay:
Một thực tế đang diễn ra ở nớc ta trong nhiều năm nay đó là năng
suất lao động xã hội thấp, các nguồn lực cha đợc khai thác hợp lí và đầy đủ,
tính cạnh tranh của các sản phẩm sản xuất trong nớc thấp. Nguyên nhân của
thực trạng trên là do cơ cấu kinh tế cha đợc sắp xếp một cách hợp lí.
Mặt khác, đứng trớc xu thế khu vực hoá và thế giới hoá đang diễn ra
mạnh mẽ, nớc ta phải có một nền kinh tế mạnh và tăng trởng cao để có thể
tham gia vào xu thế đó. Đồng thời thu hẹp khoảng cách phát triển tránh tụt
13
hậu so với các nớc trong khu vực, tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
trờng nớc ngoài, bảo đảm sự phát triển, tính năng động của nền kinh tế.
Điều này chỉ có thể thực hiện đợc khi nền kinh tế nớc ta có một cơ cấu hợp
lí. Do vậy, việc tiến hành cơ cấu kinh tế ở nớc ta hiện nay là một tất yếu.
Mặt khác, trong nền kinh tế nớc ta hiện nay đang tồn tại một nhân tố
làm giảm năng suất lao động xã hội và tốc độ phát triển của nền kinh tế, đó
là trình độ lạc hậu của cơ sở vât chất kĩ thuật hạ tầng, cơ sở máy móc, trang
thiết bị công nghệđợc trang bị cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp nhà nớc. Có nhiều doanh nghiệp thậm chí còn đang sử dụng những
máy móc thiết bị công nghệ đợc viện trợ từ những năm 70-80, năng suất lao
động thấp lại vừa sử dụng nhiều nguyên nhiên liệu và có ảnh hởng xấu tới
môi trờng. Tỷ lệ lao động thủ công vẫn còn chiếm một tỷ lệ lớn, ở nông
thôn, tỷ lệ cơ khí hoá, điện khí hoá và hoá học hoá cha đợc cao, ngời nông
dân chủ yếu dựa vào lao động chân tay là chính.
Để giải quyết vấn đề này, tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nớc
ta phải đợc đảm bảo phát triển theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hóa có
nh vậy thì chúng ta mới có thể bắt kịp trình độ của các nớc trong khu vực và
trên thế giới.
Cụ thể, đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành:
Nớc ta là một nớc thuần nông, đi lên từ nông nghiệp. Từ bao đời nay
nông nghiệp vẫn đóng vai trò là một ngành trọng tâm trong nền kinh tế, lực
lợng trong nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng lực lợng lao
động của toàn bộ nền kinh tế, đất đai cũng đợc sử dụng trong nông nghiệp
là chủ yếu. Các ngành khác nh dịch vụ, công nghiệp chế biến, công nghiệp
nhẹ đợc chú ý đầu t phát triển đúng mức, nếu có thì cũng chỉ để phục vụ cho
nông nghiệp và đáp ứng một phần nhu cầu xã hội. Đặc biệt, các ngành có
tính công nghệ cao nh điện tử viễn thông, phát triển và ứng dụng công nghệ
sinh học, hoá họccòn thua kém xa so với các nớc tiên tiến. Những đặc
điểm trên cùng với thực tế là năng suất lao động nông nghiệp thấp đã dẫn tới
14
tình trạng là năng suất lao động chung toàn xã hội thấp, thu nhập của ngời
dân dới mức trung bình trên toàn thế giới và không ổn định làm cho đời
sống ngời dân gặp nhiều khó khăn. Từ đó, để việc chuyển dịch cơ cấu ngành
hợp lí thì việc quan trọng nhất cần làm là giải quyết mối tơng quan giữa 3
nhóm ngành cơ bản : công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; phân bố các
vùng, ngành trên các địa điểm phù hợp. Bên cạnh đó, cần chú ý phát triển
các ngành công nghệ cao, để chúng trở thành các ngành mũi nhọn, tạo điều
kiện tiền đề cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Đối với tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ:
Dới tác động của các yếu tố lịch sử nên mỗi vùng, mỗi địa phơng có
những đặc điểm về trình độ phát triển, khả năng, năng lực sản xuất, địa
điểm phân bố sản xuất khác nhau. Để có thể phát triển đợc kinh tế thì cần
kết hợp sức mạnh kinh tế của các vùng, các địa phơng để tạo nên sức mạnh
tổng hợp của cả nớc. Nhng trên thực tế, giữa các vùng, các địa phơng của n-
ớc ta còn có sự chênh lệch về trình độ phát triển. Đó là sự chênh lệch giữa
thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núiMột điều đáng tiệc ở
đây đó là các tiềm năng, các nguồn lực của nhiều vùng, nhiều địa phơng
không đợc quan tâm khai thác hợp lí.
Do vậy, giữa các vùng cần chủ động thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế để khai thác các nguồn lực, nâng cao mức sống của ngời dân.
Đối với tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều thành phần:
Nh đã nói ở trên nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế nhiều thành phần
với 6 thành phần cơ bản, mỗi thành phần giữ một vị trí vai trò khác nhau
trong nền kinh tế. Do vậy, để phát triển nền kinh tế, cần tạo điều kiện cho
các thành phần kinh tế phát triển. Đồng thời Đảng và Nhà Nớc ta cần xác
định rõ vai trò, phạm vi hoạt động của các thành phần kinh tế. Quan điểm
của Đảng ta là trong các thành phần kinh tế, kinh tế nhà nớc phải giữ vai trò
15
chủ đạo. Nhng thực tế hiện nay cho thấy, hoạt động của daonh nghiệp nhà
nớc đạt hiệu quả rất thấp. Do đó cần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần nhằm nâng cao sức mạnh của các thành phần kinh tế, đặc biệt kinh tế
nhà nớc để nó giữ đợc vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân theo tiến
trình tiến lên chủ nghĩa xã hội của đất nớc ta.
3. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt
Nam:
3.1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nớc ta trong
thời gian qua:
Cơ cấu kinh tế nớc ta đầu tiên đợc xây dựng vào kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất(1961-1965) và đã đợc điều chỉnh qua các kì đại hội toàn quốc của
Đảng.
Cơ cấu kinh tế đầu tiên đợc xác định là u tiên công nghiệp nặng một
cách hợp lí đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
nhằm nhanh chóng xây dựng những cơ sở vật chất kĩ thuật ban đầu của chủ
nghĩa xã hội. Cơ cấu kinh tế thời kì này cũng thu đợc một số thành tựu đáng
kể nhất là thúc đẩy kinh tế phát triển, góp phần phục vụ đắc lực cho kháng
chiến chống Mỹ cứu nớc thành công. Song nguồn lực chủ yếu dựa vào viện
trợ của Liên Xô và các nớc Đông Âu trớc đây.
Khi chiến tranh kết thúc, viện trợ cắt giảm, cơ cấu kinh tế u tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lí tỏ ra không còn phù hợp, nó hạn chế
sự tăng trởng kinh tế, gây khó khăn về kinh tế xã hội. Đại Hội toàn quốc lần
thứ V của Đảng đã thực hiện một bớc điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế, hạn chế
và thu hẹp sự phát triển của công nghiệp nặng để tập trung vào một số lĩnh
vực u tiênchuyển hớng mạnh vào phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ để giải quyết lơng thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
16
Đại Hội VI với t duy mới về chủ nghĩa xã hội đã phê phán những sai
lầm nghiêm trọng của cơ cấu kinh tế trớc đây và tìm ra những nguyên nhân
của khủng hoảng kinh tế xã hội. Đại hội đã điều chỉnh nền kinh tế theo 3
chơng trình kinh tế lớn: sản xuất lơng thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu, đồng thời phát triển công nghiệp nặng có trọng đIểm u tiên
hớng vào phục vụ cải tạo nông nghiệp và các ngành kinh tế khác.
Đại Hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng một mặt chủ trơng tiếp tục
bố trí cơ cấu kinh tế theo 3 chơng trình kinh tế lớn, mặt khác khẳng định
khi kết thúc thời kì quá độ hình thành về cơ bản nền kinh tế công nghiệp
với cơ cấu kinh tế công-nông-dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế
ngày càng sâu rộng .
Để thực hiện mục tiêu đó, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
lạc hậu thành cơ cấu kinh tế hiện đại, nền kinh tế quốc dân sẽ bao gồm rất
nhiều ngành nghề, nhiều quy mô gắn với công nghiệp chế biến; xây dựng
nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế
xã hội. Đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dụng , hàng xuất khẩu mở
rộng kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế dịch vụ, xây dựng đồng bộ kết cấu
hạ tầng, xây dựng nền công nghiệp nặng với những bớc đi thích hợp, trớc
hết là ngành phục vụ nông nghiệp. Thực hiện công nghiệp hoá và nhiệm vụ
liên kết kinh tế giữa các vùng tạo đIều kiện liên kết công nghiệp với nông
nghiệp, thành thị với nông thôn, phát triển giao lu hàng hoá.
Thực hiện các chủ trơng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nền kinh tế
của Việt Nam đã có sự chuyển đổi tích cực tuy còn nhiều hạn chế.
Trớc hết trong chuyển dịch cơ cấu ngành, xét theo 3 khu vực lớn là
nông-lâm nghiệp-thuỷ sản, công nghiệp-xây dựng, dịch vụ thì khu công
nghiệp-xây dựng chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP, năm 1995
chiếm 28,8%, năm 1997: 32,1%, năm 1999: 34,5%, năm 2000: 36,6%.
Trong 7 năm, tỷ trọng công nghiệp-xây dựng đã tăng 9%, bình quân một
17
năm tăng 1,3%. Với mức tăng trởng này gần nh chắc chắn sẽ vợt mục tiêu
tỷ trọng GDP của công nghiệp-xây dựng năm 2005 theo nghị quyết kì họp
thứ 10, Quốc hội khoá X là 38-39%. Xét trong từng khu vực , cơ cấu các
ngành cũng đã có sự chuyển dịch tích cực. Năm 2001 đánh dấu bớc khởi
đầu quan trọng của việc cơ cấu lạI trong khu vực nông-lâm nghiệp-thuỷ sản,
theo hớng chuyển từ cây con có giá trị thấp sang cây con có giá trị cao để
tăng hiệu quả trên 1 ha canh tác, chuyển từ các sản phẩm cung đã vợt cầu
sang các sản phẩm có thị trởng tiêu thụ rộng lớn hơn hoạc có gia trị gia tăng
cao hơn. Biểu hiện rõ nhất là đã chuyển các cây lúa kém chất lợng năng suất
thấp sang trồng các loại cây lúa, hoa màu chất lợng tốt, năng suất cao. Bớc
đầu hình thành vùng đặc sản, có chất lợng phù hợp với nhu cầu thị trờng
trong nớc và xuất khẩu, tăng tỷ trọng sản lợng thuỷ sản nuôi trồng, tăng tỷ
trọng sản lợng tôm. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng từ 18,8% năm
1990 lên 31,9% năm 2001. Công nghiệp chế biến - đặc trng chủ yếu để
phân biệt là nớc nông nghiệp hay công nghiệp, nếu năm 1990 mới đạt
12,3%, năm 1995 mới đạt 15% đến năm 2000 đã đạt 18,7%, năm 2001 đạt
19,6%, nếu cứ đà này thì đến năm 2020, công nghiệp chế biến có thể đạt đ-
ợc37% và đa nớc ta cơ bản trở thành nớc công nghiệp nh mục tiêu do Đại
Hội Đảng IX đã đặt ra. Ngành xây dựng- một ngành có liên quan đến đầu
vào của một nền kinh tế, chuyển vốn đầu t thành năng lực và tài sản cố định
của các ngành và tạo ra hạ tầng kinh tế xã hội của đất nớc. Năm 1999 chỉ
chiếm 5,4% GDP, đến năm 2000 đã chiếm 5,5% và năm 2001 chiếm 5,8%
nhờ vào nguồn vốn đầu t gia tăng khá trong vài năm gần đây. Đây là yếu tố
vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trởng kinh tế trong những năm tới.
Đối với quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ngành thì cơ cấu thành
phần kinh tế cũng có những thay đổi cơ bản. Trớc đây chỉ tập trung phát
triển kinh tế quốc doanh và tập thể, còn kinh tế t nhân bị cải tạo thu hẹp và
đi tới xoá bỏ. Với đờng lối mới, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, các doanh nghiệp t nhân xuất hiện ngày càng nhiều, tỷ trọng đóng góp
trong tổng sản phẩm quốc nội ngày càng tăng. Kinh tế hợp tác kiểu mới
18
xuất hiện và nhân rộng nhiều nơi. Đã xuất hiện nhiều hình thức hợp tác liên
kết kinh tế giữa các thành phần kinh tế trong nớc và nớc ngoài.
Cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ từ chỗ dàn trải đã hớng vào trọng điểm
nh tam giác Sài Gòn-Vũng Tàu-Biên Hoà; Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh;
đang hình thành một số trọng điểm kinh tế miền trung để tạo ra các điểm
phát triển kinh tế cực mạnh. Đến năm 2000, các vùng kinh tế trọng điểm
đóng góp 50% GDP cho cả nớc, 75-80% giá trị gia tăng công nghiệp; 60-
65% giá trị gia tăng công nghiệp dịch vụ. Nhịp độ tăng đều của các vùng
kinh tế trọng điểm đóng vai trò tích cực, lôi cuốn, kích thích các vùng khác
cùng phát triển.
3.2. Những mặt tồn tại trong vấn đề chuyển dịch cơ cấu
kinh tế:
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế tuy mới bắt đầu nhng còn chậm và
còn những hạn chế bất cập.
Mặc dù năm 2001, ngành nông nghiệp đã đạt đợc một số thắng lợi
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, nhng
theo đánh giá của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, quá trình này còn
tiến triển chậm so với sự phát triển của thị trờng và sự trông đợi của ngời
nông dân. Kinh tế nông thôn vẫn nặng về nông nghiệp( chiếm 70%) và
trong nông nghiệp nặng nề về sản xuất lơng thực( chiếm 50%), trong khi n-
ớc ta vẫn phải nhập khẩu để đáp ứng 90% nhu cầu trong nớc về bông,sữa,
60% về đậu tơng, 50% thuốc lá, 10% ngô. Quá trình chuyển dịch cơ cấu
nông thôn cha dựa trên cơ sở gắn kết giữa quy hoạch và chính sách thực
hiện quy hoạch nên vẫn còn nhiều yếu tố tự phát kém bền vững. Chẳng hạn
một số cây trồng nh cà phê, diện tích trồng gấp 1,5 lần diện tích quy hoạch;
hay cây mía trồng không đảm bảo nguyên liệu cho nhà máy chế biến vì có
tới 14/44 nhà máy đờng chỉ đạt tới 50% công suất hoặc một số nhà máy hoa
quả mới xây dựng cũng chỉ đủ 5% nguyên liệu để chế biến
19
Trong tổng giá trị sản xuất nông lâm ng nghiệp thuỷ sản, ngành lâm
nghiệp chiếm tỷ trọng rất thấp, lại liên tục bị giảm sút; nếu năm 1990, còn
chiếm 6,6%; đến năm 2000-2001 chỉ còn 4,2% đến 4,3%. Trong giá trị sản
xuất nông nghiệp, chăn nuôi chỉ chiếm 16,5% và hầu nh không tăng trong
những năm qua.
Cơ cấu đầu t là nguồn gốc hình thành cơ cấu trong công nghiệp, nhng
các phân tích đều cho thấy nền công nghiệp đến nay vẫn cha là chỗ dựa để
giải quyết công ăn việc làm. Đờng lối chung phát triển công nghiệp là
khuyến khích đầu t vào các ngành thâm dụng lao động, nhng thực tế cho
thấy các ngành loại này vẫn cha phát triển tốt. Các chính sách gọi là đón
đầu để lựa chọn đầu t phát triển một số ngành mũi nhọn, nhng thực tế diễn
ra không đạt vốn đầu t đợc đa vào các ngành thâm dụng vốn nhng trong đó
có ngành đã d thừa công suất. Tệ hại hơn nữa là xảy ra tình trạng cố gắng
tiêu xài càng nhiều vốn vào cuối năm càng tốt để không phải trả lại vốn đã
đợc phân bổ. Điều đó cũng cho thấy giữa nhận thức về đờng lối phát triển,
xác lập đợc chính sách đúng đắn với sự phân bổ và sử dụng vốn là có
khoảng cách. Các ngành công nghệ kĩ thuật cao vẫn cha quan tâm đầu t và
nếu điều này kéo dài các trọng tâm phát triển sẽ bị bóp méo,chính sách phát
triển sẽ bị lệch hớng.
Khu vực dịch vụ, đầu ra của sản xuất thì tỷ trọng chiếm trong GDP
liên tục bị giảm sút ( giảm tới 5,1% trong vòng 6 năm 1995-2000), không
chỉ trên phạm vi cả nớc mà ở cả các trung tâm lớn nh thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội. Trong điều kiện quan hệ cung cầu đã đợc cải thiện cơ bản,
hàng rào thuế quan, phi thuế quan bị rỡ bỏ hoặc hạ thấp dần theo cam kết
của quá trình hội nhập, mở cửa, hàng nhập khẩu sẽ ngày càng, vì vậy nếu
tiêu thụ không tốt thì càng càng sản xuất càng gia tăng tồn đọng, thậm chí
đến sản xuất bình thờng cũng không duy trì đợc. Vì vậy đầu ra, tiêu thụ là
vấn đề mấu chốt nhất.
Trong khu vực dịch vụ, một ngành quan trọng đang chiếm một tỷ
trọng rất thấp và tỷe trọng GDP giảm đều nh tài chính-tín dụng, năm 1995
20
chiếm 2,01% đến năm 2000-2001 chỉ còn chiếm 1.9%; hiện nay hoạt động
khoa học công nghệ năm 1995 chiếm 0,61%, đến năm 2001 chỉ còn chiếm
0,56%. Nguyên nhân chính là do việc đầu t cho các hoạt động này còn thấp;
bản thân đổi mới cón chậm; nhiều hoạt động dịch vụ còn đang do các cơ
quan, doanh nghiệp kiêm nhiệm hoặc đang đứng trên danh nghĩa nhà
nớc để thu lợi cục bộ, mà cha đợc tách ra để mang tính chuyên nghiệp, vừa
làm cho năng suất chất lợng, hiệu quả của hoạt động này thấp, vừa hạn chế
các cơ quan, doanh nghiệp tập trung vào chức năng nhiệm vụ chính.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các năm qua tuy đã theo định h-
ớng tốt nhng còn chậm, việc chuyển dịch theo sự tự phát, nên mô hình cơ
cấu kinh tế còn kém hiệu quả, gây ra những trở ngại cho sự tăng trởng kinh
tế, đó là biểu hiện của sự không nhìn xa trông rộng.
Để cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công và thực sự
đem lại hiệu quả cho kinh tế đất nớc, cần phải có những biện pháp định h-
ớng rõ ràng và nghiêm túc thực hiện của các chủ thể kinh tế trong xã hội.
Phần II: Vai trò của tín dụng Ngân Hàng
với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.Thực trạng của hoạt động tín dụng Ngân Hàng
trong thời gian qua:
21
Hoạt động tín là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng,
nó là hoạt động sinh lời chủ yếu và luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng
tài sản có của các ngân hàng thơng mại. Tín dụng ngân hàng đã đóng vai trò
quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đIều này thể hiện ở một số u
đãi về khối lợng vốn tín dụng và lãi suất cho các ngành nghề khác nhau với
từng giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mợn giữa ngân hàng với tất
cả các cá nhân, tổ chức và các doanh nghiệp khác trong xã hội. Nó không
phải là quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang nơi tạm
thời thiếu mà là quan hệ dịch chuyển vốn gián tiếp thông qua một tổ chức
trung gian, đó là ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mợn có
hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhợng
tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả hai bên cùng có lợi.
Tín dụng ngân hàng có thể thoã mãn một cách tối đa nhu cầu về vốn
của các tác nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế vì nó có thể huy động
nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi trong xã hội bằng nhiều hình thức và khối l-
ợng lớn.
Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tơng
đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Có những
trờng hợp mà nhu cầu về vốn tín dụng ngân hàng gia tăng nhng sản xuất và
lu thông hàng hoá không tăng, nhất là trong thời kì kinh tế khủng hoảng,
sản xuất và lu thông hàng hoá bị co hẹp nhng nhu cầu tín dụng vẫn gia tăng
để chống tình trạng phá sản. Ngợc lại, trong thời kì hng thịnh, các doanh
nghiệp mở mang sản xuất, hàng hoá lu chuyển mạnh nhng tín dụng ngân
hàng lại không đáp ứng kịp.
Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng vô cùng quan trọng, nó
là một quan hệ tín dụng chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng cho
các doanh nghiệp, các thể nhân khác trong nền kinh tế.
22
Với công nghệ ngân hàng hiện nay, tín dụng ngân hàng càng trở
thành một hình thức tín dụng vô cùng quan trọng, nó là một quan hệ tín
dụng không thể thiếu ở cả trong nớc và quốc tế.
1.1. Về khối lợng tín dụng:
Với những mục tiêu đề ra cho việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thì tín dụng ngân hàng đóng vai trò nh thế nào trong việc thực hiện
những mục tiêu đó. Trớc hết, chúng ta cần xem xét thực trạng về nguồn vốn,
nhu cầu vay vốn qua hệ thống ngân hàng.
Trong thời gian qua, các ngân hàng thơng mại đã có rất nhiều nỗ lực
trong việc thúc đẩy các biện pháp huy động vốn trung hạn và dài hạn dới
nhiều hình thức. Tỷ trọng nguồn vốn huy động trung dài hạn trong tổng
nguồn vốn huy động đã tăng dần qua các năm từ 27% năm 1999 lên 29%
vào tháng 9/2002. Tuy nhiên, trong cơ cấu nguồn vốn trung dài hạn của các
ngân hàng thơng mại, nguồn vốn có thời hạn một năm vẫn là chủ yếu,
nguồn vốn có thời hạn từ 5 năm trở lên có tỷ trọng không đáng kể, khoảng
7% tổng nguồn vốn trung dài hạn.
Trong khi đó, tỷ trọng cho vay trung dài hạn và đầu t xây dựng cơ bản
của hệ thống ngân hàng tăng từ 34% trong tổng d nợ cho vay nền kinh tế
năm 1999 lên 40% vào tháng 9/2002. Việc cho vay trung dài hạn chủ yếu đ-
ợc các ngân hàng thơng mại thực hiện với thời hạn dài đối với cá dự án
trọng đIểm của chính phủ, xây dựng cơ sở hạ tầngVì vậy, hiện nay kể cả
các ngân hàng thơng mại nhà nớc cũng thờng mất cân đối về kì hạn giữa
nguồn vốn và sử dụng vốn. Đặc biệt đối với nguồn vốn Việt Nam đồng, hầu
hết các ngân hàng này đều đã sử dụng tối đa tỷ lệ cho phép về sử dụng
nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Riêng đối với huy động bằng
ngoại tệ, do nguồn vốn hiện tại lớn hơn nhu cầu vay về ngoại tệ và tiến độ
giải ngân các hợp đồng tín dụng đã kí còn chậm, nên các ngân hàng thơng
23
mại vẫn phải gửi một phần vốn ngoại tệ đã huy động đợc tại các ngân hàng
ở nớc ngoài.
Hơn nữa, hiện trạng đầu t vốn tín dụng kém hiệu quả và không cân
xứng giữa các thành phần kinh tế cũng tác động không nhỏ đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế t nhân. Trong thời
gian gần đây, kinh tế t nhân đã tỏ rõ sự năng động cũng nh tính hiệu quả của
nó trong nền kinh tế thị trờng: huy động đợc các nguồn lực trong dân c, tại
ra nhiều công ăn việc làm cho một lực lợng lớn đảm bảo đời sống và do đó
góp phần đáng kể cho việc ổn định xã hội. Tuy nhiên, hiện nay kinh tế t
nhân đang gặp phải một cản trở rất lớn đến sự phát triển của sản xuất kinh
doanh và hiện tợng phổ biến đối với toàn bộ doanh nghiệp, đó là tình trạng
thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất. Thực tế số doanh nghiệp có vốn
sử dụng dới 10 tỷ đồng chiếm 94,93%, bình quân vốn thực tế sử dụng một
doanh nghiệp là 3,7 tỷ đồng. Lợng vốn tự có của các ngân hàng thơng mại
chỉ đáp ứng 20% đến 30% yêu cầu. Các doanh nghiệp thiếu vốn dẫn đến
việc họ không có điều kiện để đầu t khoa học công nghệ hiện đại. ĐIều đó
lý giải tại sao khu vực kinh tế t nhân lại tập trung vào khu vực thơng mại
những ngành nghề đò hỏi ít vốn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu lãi ngay
chứ cha đủ sức đầu t vào những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng đòi hỏi
nhiều vốn, có công nghệ hiện đại tiên tiến, tính chất của sản xuất nhỏ vẫn
tồn tại trong khu vực sản xuất này. Nhìn chung các doanh nghiệp t nhân
mong muốn tiếp cận đợc với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, nhng thủ tục
cho vay vốn còn nhiều phức tạp, nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện thế
chấp trong khi đó ngân hàng lại thừa vốn không cho vay đợc. Nguyên nhân
dẫn đến tình trạng này là do hệ thống pháp luật về tiền vay và quy chế cho
vay còn nhiều bất cập so với thực tiễn và không còn phù hợp. Hơn nữa, về
điều kiện cho vay vốn tín dụng tại ngân hàng nh: cha có tín nhiệm với ngân
hàng trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn; không có kết
quả sản xuất kinh doanh có lãi trong hai năm liền kề với thời diểm đang xét.
24
Thêm nữa, khả năng thẩm định dự án của cán bộ ngân hàng, còn nhiều ngời
không đủ trình độ làm việc với doanh nghiệp.
Về khối lợng tín dụng trung dài hạn của hệ thống ngân hàng cho lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn đến nay đã chiếm khoảng 23% d nợ trung dài
hạn của nền kinh tế, góp phần đáng kể vào việc thực hiện mục tiêu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
Tuy nhiên, để thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là
trong nông nghiệp, gắn liền với việc phát huy tiềm năng của các thành phần
kinh tế và các nhiệm vụ về xoá đói, giảm nghèo v.v Việc cho vay vốn đối
với hộ nông dân, kinh tế hợp tác và hợp tác xã, cho vay hộ nghèo, cho vay
doanh nghiệp nhỏ và vừa cần đợc tiếp tục quan tâm đẩy nhanh hơn nữa.
Thực tế hiện nay, tín dụng ngân hàng dành cho các đối tợng trên còn hạn
chế do một số nguyên nhân nhất định.
-Đối với kinh tế hợp tác và hợp tác xã (HTX): Theo đánh giá của Ban
Kinh tế Trung Ương, kinh tế HTX đang có xu hớng phát triển. Tuy nhiên,
trên thực tế vẫn còn có nhiều HTX hoạt động yếu kém, không ổn định, định
hớng sản xuất kinh doanh không rõ ràng gây khó khăn cho các tổ chức tín
dụng trong việc quyết định cho vay. Các HTX khó tiếp cận với nguồn vốn
ngân hàng do khó khăn về tài sản thế chấp, nợ tồn đọng cha đợc giải quyết,
thiếu các phơng án kinh doanh hiệu quả v.v
-Đối với cho vay hộ nghèo: Hiện nay, tín dụng đối với hộ nghèo ở
nông thôn chủ yếu do ngân hàng phục vụ ngời nghèo thực hiện. Mặc dù tín
dụng cho hộ nghèo đã ngày càng mở rộng, nhng d nợ cho vay hộ nghèo đến
nay chỉ chiếm khoảng 3% tổng d nợ cho vay nền kinh tế của hệ thống ngân
hàng. Nhiều hộ nghèo, nhất là ở các vùng đặc biệt khó khăn vẫn cha đợc
vay vốn do một số nguyên nhân nh: bản thân hộ nghèo thiếu thông tin về tín
dụng và các cơ chế liên qua, thiếu lòng tin khả năng hoàn trả vốn vay, trình
độ dân trí thấp, các cán bộ làm tín dụng cho vay hộ nghèo chủ yếu là chiêm
25