2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................3
Chương 1...........................................................................................................................11
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN
CHỈ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC...........................................................................................11
1.1. Những vấn đề chung về đào tạo theo học chế tín chỉ.........................................11
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài.....................................................................17
1.3. Nội dung quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ ở trường đại học ...23
1.4. Những nhân tố tác động đến quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ ở
trường đại học..............................................................................................................31
Chương 2...........................................................................................................................36
CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ
TÍN CHỈ CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI ...................................36
2.1. Đặc điểm Trường Đại học Lao động - Xã hội tác động đến hoạt động đào tạo
theo học chế tín chỉ ....................................................................................................36
2.2. Thực trạng hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học Lao
động – Xã hội................................................................................................................39
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học
Lao động – Xã hội........................................................................................................43
Chương 3...........................................................................................................................69
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ CỦA TRƯỜNG
ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI.................................................................................69
3.1. Những yêu cầu xây dựng biện pháp quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ ......69
3.2. Hệ thống biện pháp quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ của Trường Đại học
Lao động – Xã hội........................................................................................................70
3.3. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp ...............................90
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.........................................................................................95
...........................................................................................................................................98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................99
PHỤ LỤC .......................................................................................................................104
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đang đòi hỏi giáo dục đại học
Việt Nam phải nhanh chóng đổi mới cách quản lý để đảm bảo và ngày càng
nâng cao chất lượng đào tạo. Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới toàn
diện nền kinh tế- xã hội nước ta nói chung và của ngành Giáo dục và Đào tạo
nói riêng đòi hỏi phải chuyển đổi cơ bản các phương thức, mục tiêu, chương
trình, nội dung đào tạo nhằm nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu phát triển
ngày càng cao của đất nước.
Đào tạo theo học chế tín chỉ là phương thức đào tạo tiên tiến trên thế
giới, xây dựng trên nền tảng tư tưởng hướng vào người học, coi người học là
trung tâm của quá trình dạy - học. Đây là phương thức đào tạo mềm dẻo, tạo
điều kiện cho người học thể hiện tính chủ động rất cao trong quá trình tiếp
cận với môn học, tăng cường tính tự chủ, tự học, tự nghiên cứu cũng như chủ
động về mặt thời gian và kế hoạch học tập. Quy trình đào tạo đáp ứng nhu cầu
đa dạng của người học, việc đánh giá chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả, thuận
lợi cho người học khi muốn chuyển đổi ngành học, trình độ đào tạo hoặc học
liên thông lên cao hơn. Việc áp dụng học chế tín chỉ vào đào tạo kéo theo sự
thay đổi trên toàn bộ các phương diện của đào tạo và ở tất cả các nhân tố liên
quan đến đào tạo. Điều này đòi hỏi từ phía các nhà quản lý những thay đổi
căn bản. Việc nhận diện các vấn đề của quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ ở
cơ sở giáo dục đại học là tiền đề cho những quyết sách đảm bảo sự vận hành
chất lượng và hiệu quả phương thức đào tạo mới.
Hiện nay Trường Đại học Lao động - Xã hội đang tập trung nâng cao
chất lượng và từng bước đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, phương
pháp giảng dạy, tổ chức thi, đánh giá kết quả học tập theo hướng lấy người
học là trung tâm của quá trình đào tạo. Nhà trường đang tích cực triển khai
4
chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ theo
chủ trương và lộ trình thực hiện của Bộ GD&ĐT cũng như của sự nghiệp đổi
mới nền GD &ĐT của nước ta hiện nay. Ngày 25 tháng 12 năm 2012 Trường
Đại học Lao động – Xã hội ra Quyết định số 1803/QĐ-ĐHLĐXH về việc
công bố chuẩn đầu ra các ngành trình độ đại học và cao đẳng, Quyết định này
áp dụng từ đại học khóa 9, cao đẳng khóa 17 (năm học 2013-2014). Chuẩn
đầu ra là một trong những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, là
cam kết của các cơ sở giáo dục đại học về chất lượng đào tạo đối với xã hội
và năng lực người học sau khi tốt nghiệp. Công khai với xã hội về năng lực
đào tạo và các điều kiện đảm bảo chất lượng của trường để: Người học, phụ
huynh, nhà tuyển dụng biết và giám sát; Thực hiện những cam kết của nhà
trường với xã hội về chất lượng đào tạo để cán bộ quản lý, giảng viên và
người học nỗ lực vươn lên trong giảng dạy và học tập; Đổi mới công tác quản
lý đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá
và đổi mới phương phương pháp học tập; đồng thời, xác định rõ nghĩa vụ và
nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên trong các hoạt
động giảng dạy, phục vụ giảng dạy và quản lý nhằm giúp người học vươn lên
trong học tập và tự học để đạt chuẩn đầu ra. Tiếp theo đó để từng bước hoàn
thiện công tác quản lý ngày 27 tháng 8 năm 2013 Nhà trường ra Quyết định
1482/QĐ-ĐHLĐXH về việc ban hành “Quy định đào tạo đại học và cao đẳng
hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ”. Quyết định số 1540/QĐ-ĐHLĐXH ngày
09 tháng 9 năm 2013 về việc ban hành Quy định kiểm tra, thi kết thúc học
phần theo hệ thống tín chỉ.
Để đảm bảo thành công trong chuyển đổi đào tạo từ hình thức đào tạo
theo niên chế sang đạo tạo theo học chế tín chỉ cần phải có một công trình
khoa học nghiên cứu tương đối đầy đủ từ lý luận đến thực tiễn và từ đó rút ra
những biện pháp quản lý hoạt động phù hợp với Trường Đại học lao động –
Xã hội.
5
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả nghiên cứu đề tài: “Quản lý hoạt
động đào tạo theo học chế tín chỉ của Trường Đại học Lao động - Xã hội”
nhằm mục đích có cơ sở lý luận vững chắc, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn
thực hiện tốt công tác quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ của Nhà
trường, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo đảm bảo chuẩn đầu ra mà
nhà trường đã cam kết với xã hội.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên thế giới song hành với các chương trình đào tạo là các biện pháp
quản lý hoạt động đào tạo theo các chương trình đó. Tuy nhiên quản lý hoạt
động đào tạo ta thường thấy gắn với mỗi một chế độ xã hội có cách quản lý
phù hợp, vì vậy quản lý hoạt động đào tạo tại các phương tây không phù hợp
với quản lý hoạt động đào tạo ở nước ta.
Để tập trung cho nhiệm vụ chính là nghiên cứu quản lý hoạt động đào
tạo theo học chế tín chỉ của Trường Đại học Lao động – Xã hội tôi đi sâu vào
nghiên cứu các đề tài, hội thảo trong nước về quản lý hoạt động đào tạo theo
học chế tín chỉ của các trường đại học, cao đẳng ở trong nước. Khi nghiên cứu
các đề tài trong nước sẽ phù hợp hơn vì điều kiện kinh tế xã hội và quản lý
nhà nước về giáo dục cùng một thể thống nhất.
Tác giả đã đọc và nghiên cứu một số đề tài luận văn thạc sĩ chuyên
ngành quản lý giáo dục, giáo dục học để tìm ra nội dung cần khảo cứu để áp
dụng cho đề tài và cũng để nắm tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Qua thời gian khảo sát tại Đại học Giáo dục thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội,
Khoa Quản lý giáo dục Trường đại học Sư phạm Hà Nội 1, tác giả có một số
đánh giá như sau:
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục của Nguyễn Phương
Thuý với đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động đào tạo tại Trường Đại học
Thuỷ Lợi theo hệ thống tín chỉ”, năm 2013; đề tài này nêu lên cơ sở lý luận,
thực trạng công tác quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ tại Trường
Đại học Thuỷ Lợi.
6
Tác giả Lê Thị Thanh Hà với đề tài “Quản lý hoạt động dạy học ở
Trường Cao đẳng sư phạm Lào Cai đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín
chỉ” đề tài bảo vệ năm 2011 tại trường Đại học sư phạm Hà Nội với đề tài này
có nội dung về lý luận, thực trạng và một số biện pháp quản lý hoạt động dạy
học ở Trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học
chế tín chỉ.
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục tại Khoa Quản lý giáo
dục Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1 với đề tài “Các biện pháp quản lý
hoạt động dạy học của Phòng Đào tạo Trường cao đẳng Sư phạm Thái
Nguyên” đề tài chỉ nghiên cứu và đưa các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo thông qua quản lý hoạt động dạy học của Phòng Đào tạo thuộc
Trường.
Tác giả Nguyễn Bá Khương với luận văn thạc sĩ ngành QLGD của mình
nghiên cứu đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên tại Học
viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông trong đào tạo theo tín chỉ”, năm 2012
tại Trường Đại học Giáo dục thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã nghiên
cứu lý luận, thực tiễn và đưa ra các biện pháp để nâng cao chất lượng đào tạo
từ việc quan lý hoạt động tự học của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu
chính Viễn thông trong đào tạo theo tín chỉ.
Các đề tài trên chỉ đi sâu và nghiên cứu một hoạt động dạy học, quản lý
hoạt động dạy học hoặc quản lý hoạt động tự học của sinh viên theo học chế
tín chỉ chưa đi sâu vào nghiên cứu quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín
chỉ trên phương diện tổng thể về công tác quản lý.
Tại trường Đại học Lao động – Xã hội có các đề tài nghiên cứu về đào
tạo theo học chế tín chỉ, Nhà trường đã tổ chức đi học tập đề đào tạo theo hệ
thống tín chỉ tại Đại học Thái Nguyên vào tháng 5 năm 2013.
Năm 2009 Nhà trường đăng ký và hoàn thiện và bảo vệ thành công đề
tài về "Cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng học chế tín chỉ trong đào tạo đại
học theo các chuyên ngành của Trường Đại học Lao động - Xã hội" nhằm làm
7
rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của đào tạo theo hệ thống tín chỉ để áp
dụng vào điều kiện của nhà trường, dự kiến bắt đầu từ năm học 2010 - 2011.
Với đề tài trên do biến động về nhân sự thuộc ban giám hiệu, các cơ quan
quản lý đào tạo nên việc triển khai không đúng thời gian và từ năm 2009 đến
nay đã thay đổi một số điều về quy chế quản lý đào tạo theo hệ thống tín chỉ
(Thông tư số: 57/2012/TT-BGDĐT, ngày 27 tháng 12 năm 2012 về "Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính
quy theo hệ thống tín chỉ ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐBGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo").
Đề tài này chưa đi sâu vào các biện pháp để giải quyết những vấn đề phát sinh
khi đào tạo theo học chế tín chỉ, chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu đào tạo theo
tín chỉ và xây dựng phần mềm quản lý đào tạo.
Tháng 2 năm 2013 để chuẩn bị cho đào tạo theo học chế tín chỉ Nhà
trường tổ chức cho cán bộ, giảng viên đi học tập tại Đại học Thái Nguyên về
đào tạo theo học chế tín chỉ, thành phần gồm Ban chỉ đạo đào tạo tín chỉ (do
hiệu trưởng ra quyết định thành lập), Tiểu ban Nội dung, Tiểu ban Cơ sở vật
chất, trưởng phó các khoa, bộ môn thuộc trường, thời gian tập hội nghị, tập
huấn 02 ngày tại Đại học Thái Nguyên với các nội dung chính: (1) Chuyển
đổi chương trình đạo tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ, (2) Xây dựng
chương trình đào tạo, (3) Xây dựng đề cương chi tiết cho từng môn học,
(4) Giới thiệu phần mềm quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ
Tuy nhiên với thời gian có hạn Đại học Thái Nguyên mới chỉ giới thiệu
được đào tạo theo hệ thống tín chỉ, đưa ra một số vấn đề vướng mắc khi
chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ, giới thiệu phần mềm quản
lý đào tạo, một số vấn đề khi lập kế hoạch đào tạo theo học chế tín chỉ.
Qua thời gian đọc và nghiên cứu các đề tài, các tài liệu liên quan đến
đào tạo theo học chế tín chỉ trên tác giả nhận thấy chưa có đề tài nào nghiên
cứu về “Quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ của Trường Đại học
Lao động – Xã hội”, hơn thế năm 2013 Trường Đại học Lao động – Xã hội áp
8
dụng đào tạo theo hệ thống tín chỉ với khóa 9 đại học hệ chính quy và khóa 17
cao đẳng hệ chính quy vì vậy đề tài này rất cần thiết phải nghiên cứu làm sáng
tỏ cả về cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn thiện hơn công tác quản lý đào tạo
theo học chế tín của Trường Đại học Lao động – Xã hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý hoạt động đào tạo theo hệ
thống tín chỉ của Trường Đại học Lao động - Xã hội, từ đó đề xuất các biện
pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo theo học chế tín chỉ của Trường
Đại học Lao động – Xã hội
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ ở
trường đại học.
Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ
của Trường Đại học Lao động – Xã hội
Đề xuất hệ thống biện pháp nâng cao hiệu quả đào tạo theo học chế tín
chỉ của Trường Đại học Lao động – Xã hội.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động ĐT ở trường đại học theo
học chế tín chỉ.
- Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ
của Trường Đại học Lao động – Xã hội.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu QL hoạt động ĐT,
QL hoạt động ĐT theo hệ thống tín chỉ dưới góc độ của khoa học quản lý giáo
dục. Không đi sâu vào nghiên cứu về học chế tín chỉ dưới góc độ của khoa
học giáo dục.
- Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu về quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ ở
trường Đại học Lao động – Xã hội. Tuy nhiên, khi luận giải các vấn đề lý luận
và thực tiễn phải đặt trong mối quan hệ với cả hệ thống giáo dục đại học.
9
- Tư liệu, số liệu điều tra sử dụng trong đề tài luận văn được lấy trong
phạm vi của một khóa học 4 năm, từ 2011-2014
5. Giả thuyết khoa học
Đào tạo theo học chế tín chỉ được sử dụng khá phổ biến ở nhiều trường
đại học, nhưng quan niệm về vấn đề này vẫn còn nhiều khuynh hướng quan
điểm khác nhau; cách thức tổ chức thực hiện chưa nhất quán.
Nếu xây dựng được lý luận về quản lý hoạt động đào tạo theo học chế
tín chỉ, đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân và đề xuất được hệ thống biện
pháp tạo ra sự nhất quán trong quản lý và tổ chức thực hiện, phối hợp đồng bộ
giữa hoạt động của người dạy, người học, người quản lý thì các hoạt động đào
tạo theo học chế tín chỉ sẽ đạt được kết quả tốt hơn.
6. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận:
Đề tài luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam về giáo dục và đào tạo. Đồng thời dựa trên sự cập
nhật những thành tựu của khoa học giáo dục và các khoa học khác có liên
quan
6.2. Phương pháp nghiên cứu:
* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Nhóm phương pháp thu thập thông tin khoa học dựa trên cơ sở nghiên
cứu các văn bản, tài liệu đã có bằng các thao tác tư duy lôgic để rút ra kết luận
khoa học cần thiết: (1) Phương pháp giả thuyết; (2) Phương pháp phân tích,
tổng hợp lý thuyết, xây dựng khái niệm; (3) Phương pháp phân loại, hệ thống
hóa, mô hình hóa lý thuyết; (4) Phương pháp nghiên cứu lịch sử.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Là hệ thống các phương pháp sử dụng để thu thập, xử lý thông tin khoa
học trên cơ sở nghiên cứu, khám phá các sự vật, hiện tượng trong thực tiễn rút
10
ra các kết luận khoa học từ thực tiễn: (1) Phương pháp quan sát khoa học; (2)
Phương pháp điều tra; (3) Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
* Các phương pháp toán học
Dùng để tính toán, xử lý số liệu điều tra thực trạng và khảo nghiệm tính
cần thiết, tính khả thi của các biện pháp.
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn có ý nghĩa thiết thực cho vấn đề nghiên cứu, áp dụng quản lý
hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ của trường Đại học Lao động – Xã hội.
Khi hoàn thành luận văn có giá trị thực tiễn cho việc áp dụng vào quản lý hoạt
động đào tạo theo học chế tín chỉ của Trường Đại học Lao động – Xã hội tại
trụ sở chính tại Hà Nội và 02 cơ sở của trường là: Cơ sở II Thành phố Hồ Chí
Minh, Cơ sở Sơn Tây để giảm sai sót đến mức thấp nhất, đạt mục tiêu quản lý
đào tạo theo học chế tín chỉ, đạt chất lượng về đào tạo như chuẩn đầu ra Nhà
trường đã công bố với xã hội.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, luận văn gồm 03 chương, kết luận, kiến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO THEO HỌC
CHẾ TÍN CHỈ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Những vấn đề chung về đào tạo theo học chế tín chỉ
* Khái quát lịch sử vấn đề đào tạo theo học chế tín chỉ
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ (TC), còn gọi là học chế TC, là một
phương thức đào tạo tiên tiến trong hệ thống giáo dục đại học trên thế giới.
Phương thức đào tạo này ra đời từ năm 1872 tại Đại học Harvard (Hoa Kì).
Tiếp sau đó, hệ thống đào tạo này đã được áp dụng ngày càng rộng rãi tại
nhiều nước trên thế giới như các nước Bắc Mĩ, Liên minh Châu Âu, Nhật
Bản, Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Ấn Độ,
Senegal, Mozambic, Nigeria, Uganda, Camơrun, Trung Quốc, v.v….
Ở Việt Nam, trước 1975, Viện Đại học Cần Thơ đã từng áp dụng hệ
thống tín chỉ trong các Đại học Văn Khoa, Đại học Luật Khoa và Đại học
Khoa học. Sau 1975, nhiều giảng viên của Trường Đại học Cần Thơ đã được
đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở nhiều trường Đại học Âu-Mỹ. Nghị quyết của
Chính phủ số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về Đổi mới cơ bản và toàn
diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã nêu rõ: "Xây dựng và
thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, tạo điều
kiện thuận lợi để người học tích luỹ kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên
thông, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo ở trong nước và ở nước ngoài".
Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 43/2007/QĐBGDĐT ban hành “Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo
hệ thống tín chỉ” (Gọi tắt là Quy chế 43). Theo chủ trương của Bộ, năm 2011
là hạn cuối cùng để các trường liên quan phải chuyển đổi sang hệ thống đào
tạo mới này. Thế nhưng, qua thời gian thực hiện thí điểm ở một số trường đại
học trên cả nước, có không ít những vấn đề đặt ra.
12
* Đặc điểm đào tạo theo học chế tín chỉ
Đào tạo theo hệ thống TC có những khác biệt căn bản với đào tạo theo
niên chế. Hệ thống TC cho phép SV đạt được văn bằng đại học qua việc tích
luỹ các loại tri thức giáo dục khác nhau được đo lường bằng một đơn vị xác
định, gọi là TC (credit). Theo Quy chế 43: “Một TC được quy định bằng 15
tiết học lí thuyết; 30-45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45-90 giờ
thực tập tại cở sở; 45-60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận
tốt nghiệp. Đối với những học phần lí thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để
tiếp thu được một TC, SV phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân”.
Trong hệ thống TC, chương trình đào tạo mềm dẻo và có tính liên
thông cao. Chương trình đào tạo bao gồm hai loại học phần: Học phần bắt
buộc là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức chính yếu của mỗi
chương trình, bắt buộc SV phải tích luỹ. Học phần tự chọn là học phần chứa
đựng những nội dung kiến thức cần thiết, nhưng SV được tự chọn theo hướng
dẫn của trường nhằm đa dạng hoá hướng chuyên môn.
Trong hệ thống này, kiến thức được cấu trúc thành các mô - đun (học
phần). Học phần là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho
SV tích luỹ trong quá trình học tập. Thường thì một học phần có khối lượng
từ 2 đến 4 TC. Khi tổ chức giảng dạy theo TC, đầu mỗi học kì, SV được lựa
chọn và đăng kí các học phần thích hợp với năng lực và hoàn cảnh của họ
nhằm đạt được kiến thức theo một chương trình đào tạo nào đó. Nhà trường
căn cứ vào nhu cầu của SV để bố trí giảng viên và sắp xếp thời khoá biểu cho
các lớp học phần.
Trong đào tạo theo hệ thống TC, kết quả học tập của SV được đánh giá
theo quá trình, khác với đào tạo theo niên chế chỉ đánh giá qua kì thi hết môn.
Thang điểm để đánh giá kết quả học tập của SV sử dụng thang điểm chữ A,
B, C, D (hay thang điểm bốn). Theo đó, điểm A bằng 4 điểm, xếp loại giỏi,
tương đương 8,5 đến 10 điểm trong thang điểm 10. Điểm B bằng 3 điểm, xếp
loại khá, tương đương 7,0 đến 8,4 điểm trong thang điểm 10. Điểm C bằng 2
13
điểm, xếp loại trung bình, tương đương 5,5 đến 6,9 điểm trong thang điểm 10.
Điểm D bằng 1 điểm, xếp loại trung bình yếu, tương đương 4,0 đến 5,4 điểm
trong thang điểm 10. Điểm F bằng 0 điểm, xếp loại kém, tương đương dưới
4,0 điểm trong thang điểm 10.
Bản chất của phương thức đào tạo theo hệ thống TC là cá thể hoá việc
học tập của người học. Điều này được các nhà nghiên cứu gọi là nguyên lí
“tiệc buffet”, tức là SV được tự chọn các học phần để học trong mỗi học kì,
mỗi năm học. Cách tổ chức hoạt động theo nguyên lí này đảm bảo cho quá
trình đào tạo trong các trường đại học trở nên mềm dẻo hơn, đồng thời cũng
tạo khả năng cho việc thiết kế chương trình liên thông giữa các hệ thống đào
tạo khác nhau.
* Ưu thế của đào tạo theo học chế tín chỉ
Trong đào tạo theo hệ thống TC, kết quả học tập của SV được tính theo
quá trình tích luỹ từng học phần chứ không phải theo năm học, do đó việc
hỏng một học phần nào đó không cản trở quá trình học tiếp tục, SV chỉ học lại
các học phần không đạt yêu cầu mà không phải ở lại lớp như trong đào tạo
theo niên chế. Vì vậy, đào tạo theo đào tạo theo hệ thống TC có chi phí thấp
và hiệu quả cao hơn.
Đào tạo theo hệ thống TC tạo điều kiện cho SV năng động hơn và có
khả năng thích ứng tốt hơn những biến đổi nhanh chóng của cuộc sống xã hội
hiện đại. Nếu như trong đào tạo theo niên chế, SV hoàn toàn thụ động tuân
thủ kế hoạch học tập của nhà trường, thì trong đào tạo theo TC đòi hỏi SV
phải chủ động xây dựng cho mình một kế hoạch học tập thích hợp, có hiệu
quả cao nhất cho bản thân.
Đào tạo theo hệ thống TC cung cấp cho các trường đại học một ngôn
ngữ chung, tạo thuận lợi cho SV khi cần chuyển trường cả trong nước cũng
như ngoài nước. Nếu triển khai đào tạo theo hệ thống TC các trường đại học
lớn đa lĩnh vực có thể tổ chức những môn học chung cho SV nhiều trường,
nhiều khoa, tránh các môn học trùng lặp ở nhiều nơi; ngoài ra SV có thể học
14
những môn học lựa chọn ở các khoa khác nhau. Cách tổ chức nói trên cho
phép sử dụng được đội ngũ giảng viên giỏi nhất và phương tiện tốt nhất cho
từng môn học.
Đào tạo theo TC tạo ra một loại hình lớp học mới gọi là “lớp học
phần”, tức là lớp học tập hợp các SV đăng kí học chung một học phần. Lớp
học phần sẽ bao gồm SV nhiều khoá học và nhiều ngành học khác nhau. Đây
là cơ hội tốt cho SV giao lưu, học hỏi lẫn nhau và mở rộng các mối quan hệ
xã hội.
Với đào tạo theo hệ thống TC, các trường đại học có thể mở thêm
ngành học mới một cách dễ dàng khi nhận được tín hiệu về nhu cầu của thị
trường lao động và tình hình lựa chọn ngành nghề của SV. Đào tạo theo hệ
thống TC cho phép ghi nhận cả những kiến thức và khả năng tích luỹ được
ngoài trường lớp để dẫn tới văn bằng, khuyến khích SV từ nhiều nguồn gốc
khác nhau có thể tham gia học đại học một cách thuận lợi. Về phương diện
này có thể nói đào tạo theo hệ thống TC là một trong những công cụ quan
trọng để chuyển từ nền đại học mang tính tinh hoa thành nền đại học mang
tính đại chúng.
Kết hợp với đào tạo theo hệ thống TC, nếu trường đại học tổ chức thêm
những kì thi đánh giá kiến thức và kĩ năng của người học tích luỹ được bên
ngoài nhà trường hoặc bằng con đường tự học để cấp cho họ một TC tương
đương, thì sẽ tạo thêm cơ hội cho họ đạt văn bằng đại học.
* Những khó khăn trong đào tạo theo học chế tín chỉ
Tổ chức điều hành phức tạp, nhiều tình huống bất thường, kiến thức bị
chia cắt, khó tổ chức sinh hoạt tập thể lớp, khó đổi lịch, bù giờ, mất nhiều thời
gian cho các thủ tục. Khó khăn thường được đề cập đến là công tác điều hành
quản lí trong đào tạo theo TC rất phức tạp. Nếu như trong đào tạo theo niên
chế, SV học theo một kế hoạch chung theo sự sắp xếp của nhà trường, thì
trong đào tạo theo TC, mỗi SV có một kế hoạch học tập riêng nên việc tổ
chức điều hành quản lí đào tạo rất phức tạp. SV phải mất nhiều thời gian để
15
lập kế hoạch học tập, đăng kí học phần, điều chỉnh kế hoạch và đăng kí bổ
sung. Do những hạn chế về nguồn lực: giáo viên, phòng học, quỹ thời gian,
v.v… mà nhìn chung, các trường đại học vẫn chưa thật sự đảm bảo đáp ứng
nhu cầu của người học. Mặc dù hiện nay có sự hỗ trợ của hệ thống phần mềm
trên mạng máy tính, nhưng trên thực tế SV vẫn phải chờ đợi, chen lấn nhau
trong sử dụng máy tính để đăng kí học phần.
Đào tạo theo hệ thống TC làm cho việc tổ chức sinh hoạt lớp, sinh hoạt
chi đoàn gặp nhiều khó khăn do khó gắn kết SV, khó bố trí lịch sinh hoạt vì
mỗi SV đều có một thời khoá biểu riêng. Mặt khác, việc tổ chức cho SV đi
thực tập, thực tế cũng gặp nhiều trở ngại vì các học phần SV đăng kí học rất
khác nhau nên nếu SV đi thực tập, thực tế thì phải nghỉ học các học phần
khác. Ngoài ra, một khó khăn không nhỏ là trong đào tạo theo TC rất khó bù
giờ, đổi lịch vì mỗi SV có một thời khoá biểu riêng nên đổi sang học buổi
khác thì SV này chấp nhận SV khác lại không chấp nhận.
* Các quan điểm cơ bản của đào tạo theo học chế tín chỉ
Quan điểm dân chủ hoá trong giáo dục. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ
ra đời để đáp ứng nhiều mục tiêu, trong đó có sự thay đổi về quan niệm giáo
dục. Từ quan niệm một nền giáo dục dựa trên quyền uy, người học chỉ có
nhiệm vụ phục tùng, chấp nhận vô điều kiện, chuyển sang một nền giáo dục
bình đẳng, lấy học sinh làm trung tâm, người học tự quyết định nội dung,
phương thức học tập của riêng mình.
Dân chủ trong giáo dục, trước hết được thể hiện bằng sự quan tâm đến
điều kiện của người học. Quan niệm sư phạm cá thể hoá được thay thế cho
quan niệm đào tạo đồng loạt như nhau, người học được tạo nhiều điều kiện
thích hợp để phát triển. Quan tâm đến nhu cầu và sở thích của người học.
Người học ngày càng có nhiều “tiếng nói” trong suốt quá trình đào tạo của họ.
Chẳng những họ có quyền chọn lựa ngành nghề, mà họ còn có quyền thiết kế
lộ trình đào tạo, nội dung đào tạo của chính họ, cũng như quyền tham gia xây
dựng và tích luỹ kiến thức trong chừng mực cho phép. Quan niệm giáo dục
16
lấy người học làm trung tâm chính là biểu hiện tập trung nhất của việc trao
quyền dân chủ cho người học càng ngày càng nhiều hơn.
Quan điểm đại chúng hoá giáo dục đại học. Đào tạo theo hệ thống tín
chỉ trong thời hiện đại ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại có
tính năng động càng ngày càng cao, nhằm thực hiện mục tiêu đại chúng hoá
giáo dục đại học, nhờ sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền
thông. Đại chúng hoá giáo dục đại học được xem là biện pháp tối ưu trong
nền kinh tế tri thức và toàn cầu hoá, nhằm cung cấp cho xã hội nguồn nhân
lực ngày càng có hàm lượng tri thức cao và nâng cao trình độ dân trí. Vì thế
đại chúng hoá giáo dục đại học cũng chính là biện pháp hữu hiệu để thực hiện
phương châm “học tập suốt đời” mà các nền giáo dục của các nước tiên tiến
đang theo đuổi.
Đại chúng hoá giáo dục đại học được thể hiện qua việc tạo nhiều điều
kiện thuận lợi cho nhiều người có thể tiếp cận với nền giáo dục đại học, bằng
cách mở rộng cửa đón tiếp họ khi họ có điều kiện học đại học, bất kể tuổi tác,
xây dựng quy chế đào tạo đáp ứng được quỹ thời gian dành cho học tập của
người học, quy chế tốt nghiệp dựa trên số tín chỉ mà họ tích luỹ được, chứ
không gò bó ở khung thời gian cứng nhắc.
Lý thuyết này sẽ tạo ra một sự năng động ngày càng lớn trong xã hội.
Nó sẽ giúp cho mọi công dân có nhiều cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp
của mình, ngược lại hoàn toàn với sự trì trệ của nền giáo dục cũ, ở đó người
giáo viên tiểu học sẽ suốt đời làm giáo viên tiểu học, người công nhân sẽ suốt
đời làm công nhân.
Quan điểm tích cực hóa trong dạy học. Đại diện đầu tiên của quan
điểm này là thuyết Tiến bộ được J. Dewey áp dụng trong Trường Thực
nghiệm thuộc Đại học Chicago. Ông cho rằng “đã đến lúc các vấn đề về môn
học phải phụ thuộc vào người học. Bằng cách nhấn mạnh rằng các nhu cầu và
mối quan tâm của người học cần phải được xem xét”. Các nhà tư tưởng theo
thuyết Tiến bộ cho rằng chân lý là tương đối, và giáo dục là nhằm giúp người
17
học không ngừng tìm kiếm chân lý. Vì thế, dạy học là hướng dẫn người học
nắm bắt phương pháp khoa học: “Phương pháp khoa học, còn được biết như
suy nghĩ phản ảnh, giải quyết vấn đề và hiểu biết thực tế, đã trở thành mục
đích lẫn kỹ thuật trong nhà trường tiến bộ. Phương pháp khoa học là kỹ năng
cần phải đạt được và phương thức tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề”. Đó
chính là nền tảng của nguyên lý dạy học tích cực ngày nay.
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Học chế tín chỉ
* Khái niệm tín chỉ:
Tín chỉ (TC) là đơn vị quy chuẩn dùng để lượng hoá khối lượng kiến
thức và khối lượng học tập giảng dạy trong quy trình đào tạo. Tín chỉ cũng là
đơn vị để đo lường tiến độ học tập của sinh viên – đánh giá dựa trên số lượng
tín chỉ sinh viên đã tích lũy được.
Một tín chỉ được tính bằng 15 tiết học lý thuyết, hoặc 30-45 tiết thảo
luận, 45-90 giờ thực tập tại cơ sở, 45-60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn, khóa
luận tốt nghiệp. Một tiết học theo hệ thống tín chỉ được tính bằng 50 phút.
Để tiếp thu khối lượng kiến thức của 01 tín chỉ sinh viên phải dành ít
nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.
* Khái niệm học chế tín chỉ
Học chế tín chỉ là phương thức đào tạo sinh viên chủ động lựa chọn học
từng học phần tuân theo một số ràng buộc được quy định trước nhằm tích lũy
từng phần và tiến tới hoàn tất toàn bộ chương trình đào tạo, được cấp văn
bằng tốt nghiệp.
Trên cơ sở lượng hóa quy trình đào tạo thông qua khái niệm tín chỉ, học
chế tín chỉ tạo điều kiện tối đa để cá nhân hóa quy trình đào tạo, trao quyền
cho sinh viên trong việc đăng ký sắp xếp lịch học, việc tích lũy các học phần,
kể cả sắp xếp thời gian học ở trường, thời gian tốt nghiệp. Về phía mình, sinh
viên cần phát huy tính tích cực, chủ động để thích ứng với quy trình đào tạo
này và để đạt những kết quả tốt nhất trong học tập, rèn luyện.
18
* Sự khác nhau giữa đào tạo theo tín chỉ với đào tạo theo niên chế
Trong mỗi quốc gia, thậm chí giữa các trường đại học trong một quốc
gia trên thế giới có cách tổ chức đào tạo riêng đối với mỗi phương thức đào
tạo, ta có thể so sánh sự khác nhau giữa các phương thức đào tạo theo các tiêu
chí sau: (1) Triết lý (tôn chỉ) giáo dục đại học, (2) tính tự chủ của người học,
(3) yêu cầu liên thông, (4) chương trình đào tạo, (5) phương pháp giảng dạy,
(6) phương pháp học tập, (7) phương pháp đánh giá học tập, (8) tuyển sinh,
(9) quản lý sinh viên (chi tiết xem trong phụ lục số 1). Trong phụ lục số 1 chỉ
ra các tiêu chí khác biệc giữa hai hình thức đào tạo theo niên chế và đào tạo
theo tín chỉ. Nhiệm vụ cán bộ quản lý các cấp trong nhà trường, đội giảng
viên, cố vấn học tập và sinh viên nắm được và thực hiện theo đúng học chế
tín chỉ.
1.2.2. Hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ
Đào tạo là quá trình sư phạm tổng thể có mục đích, có tổ chức của nhà
trường nhằm hình thành và phát triển những phẩm chất, năng lực cho người
học theo một nghề nghiệp nhất định. Quá trình đào tạo gồm một hệ thống các
thành tố có mối quan hệ biện chứng với nhau, luôn vận động theo quy luật.
Mỗi thành tố có vai trò, vị trí khác nhau, chức năng khác nhau, không ngang
bằng nhau. Trong đó, người dạy, người học, người quản lý là những chủ thể
điều hành sự vận động của các thành tố khác.
Hoạt động đào tạo là một loại hình hoạt động tập thể, trong đó các chủ
thể tác động vào các thành tố cấu trúc của quá trình đào tạo và mối quan hệ
của các thành tố đó, nhằm hướng vào thực hiện mục tiêu chung là đào tạo
người học. Quá trình đào tạo, bao giờ cũng diễn ra sự phối hợp hoạt động của
các lực lượng khác nhau, trong đó hoạt động của người dạy, người học, người
quản lý giữ vai trò chủ đạo.
Đào tạo theo học chế tín chủ là phương thức đào tạo mà nội dung môn
học được cấu trúc thành các tín chỉ, sinh viên được quyền chủ động trong việc
lựa chọn tín chỉ, xác định tiến độ học tập phù hợp với năng lực cá nhân và
19
điều kiện riêng của bản thân. Khi thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ thì
người học có thể phát huy tối đa tiềm năng và khả năng người học, góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu suất, hiệu quả đào tạo, hội nhập quốc tế về giáo dục
và đào tạo, thích hợp với cơ chế kinh tế thị trường.
Hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ là một loại hình hoạt động sư
phạm có mục đích, có tổ chức, có sự phối hợp giữa hoạt động của người dạy
với hoạt động của người học và hoạt động của người quản lý, nhằm thực hiện
các mục tiêu, nhiệm vụ đào tạo theo học chế tín chỉ của nhà trường.
Bản chất của hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ là sự phối hợp giữa
hoạt động dạy với hoạt động học dưới sự tác động của hoạt động quản lý,
nhằm bảo đảm cho các thành tố của quá trình đào tạo theo học chế tín chỉ vận
động đúng quy luật, hướng tới thực hiện mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Hoạt động dạy. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ không phải chỉ là việc
giảm giờ dạy trên lớp một cách máy móc. Cái làm nên sự thay đổi căn bản về
chất của học chế tín chỉ là sự thay đổi quan niệm về đào tạo. Việc thay đổi
quan niệm này tất yếu phải dẫn đến thay đổi về phương pháp dạy học.
Nhiệm vụ của người dạy không còn là truyền thụ kiến thức. Người dạy
phải làm công tác nghiên cứu khoa học, liên tục cải tiến chương trình và
phương pháp dạy học, xây dựng môn học mới cho sinh viên có nhiều lựa
chọn ngày càng phù hợp. Người dạy phải được đầu tư nhiều hơn về chuyên
môn để thực hiện tốt cải cách giáo dục.
Học chế tín chỉ coi các giảng viên như những học giả. Với tư cách là
học giả, các giảng viên cần được đào tạo và thực hành để thực hiện giảng dạy
giỏi và đào tạo lại sinh viên từ chỗ học vẹt đến chỗ học cách giải quyết vấn đề
và có tinh thần dám nghĩ dám làm, chấp nhận rủi ro và thử thách.
Giảng viên cần phải được chuẩn bị đầy đủ về nghiệp vụ sư phạm phù
hợp với tinh thần của nền sư phạm tích cực, bao gồm nhiều khâu, tìm hiểu về
nền sư phạm tích cực. Giảng viên phải được tập huấn về các phương pháp dạy
20
học tích cực, thiết kế chương trình và biên soạn bài giảng theo các phương
pháp dạy học tích cực.
Đội ngũ giảng viên phải đủ về số lượng và mạnh về chất lượng để ngày
càng đáp ứng nhiều hơn nhu cầu học tập của sinh viên. Cụ thể là phải có năng
lực biên soạn nhiều môđun kiến thức mới để tăng dần số lượng các môn tự
chọn để sinh viên ngày càng có nhiều sự chọn lựa các môn học. Phải thay đổi
định kỳ giáo trình, phải có năng lực biên soạn nhiều tài liệu tham khảo để sinh
viên tự nghiên cứu, phải đầu tư nhiều thời gian để kiểm soát việc tự nghiên
cứu của sinh viên.
Hoạt động học. Người học quyết định lộ trình học tập. Người học kế
hoạch hoá quá trình đào tạo của mình, tuỳ theo quỹ thời gian của mỗi người.
Một chương trình đào tạo 4 năm có thể được người học thực hiện trong 3 năm
hoặc 8 năm, tuỳ theo điều kiện riêng của mỗi người. Sự mềm dẻo này nhằm
tạo điều kiện cho những người bận việc riêng không thể theo học với nhịp độ
như sinh viên bình thường.
Người học quyết định nội dung của quá trình đào tạo. Người học sẽ
chọn những học phần nào mà họ cảm thấy hứng thú hoặc phù hợp với năng
khiếu, sở thích và định hướng nghề nghiệp của mình. Vì thế, một cơ sở đào
tạo có năng lực đáp ứng nhu cầu xã hội, có sức thu hút là cơ sở có khả năng
cung cấp càng nhiều môn học tự chọn càng tốt để việc chọn lựa càng phù hợp
với người học. Những môn tự chọn trong các chuyên ngành hẹp này giúp họ
tập trung mục tiêu mục tiêu vào lĩnh vực mà họ quan tâm và rèn luyện những
kỹ năng, kiến thức mà thị trường tuyển dụng cần.
Người học tham gia vào việc quyết định cách thức học tập của từng
môn học. Đào tạo theo học chế tín chỉ dựa trên quan điểm của lý thuyết kiến
tạo xã hội, theo đó, đòi hỏi người học phải thay đổi thái độ trong học tập, phải
xây dựng kiến thức cho mình qua quá trình tự nghiên cứu. Giờ học trên lớp
được quan niệm là nơi “cọ xát” giữa những kiến thức mà người học có được
21
từ nhiều nguồn khác nhau. Phương châm tự chủ trong học tập được thể hiện
ngay trong từng môn học, qua việc thảo luận về lộ trình của từng học phần
Hoạt động quản lý. Phải chỉ ra các hành động cụ thể về cách lập kế
hoạch, định hướng mục tiêu, xây dựng nội dung, chương trình, các phương
pháp về dạy và học, hình thức tổ chức đào tạo, các hoạt động theo hệ thống
tín chỉ được cụ thể hoá bằng các văn bản như quy định, quy chế về học tập,
giảng dạy, tổ chức giảng dạy theo hệ thống tín chỉ.
Tóm lại, hoạt động đào tạo theo hệ thống tín chỉ là tăng cường ý thức
trách nhiệm của người học đối với hoạt động của bản thân mình trong quá
trình đào tạo, là thực hiện dân chủ hoá trong giáo dục; người học tham gia vào
tất cả các khâu trong tiến trình đào tạo của mình, từ việc cơ cấu các môn học
dựa trên hệ thống tự chọn, đến việc quy hoạch lộ trình thực hiện tiến trình đào
tạo đó tuỳ theo điều kiện và năng lực về tài chính về quỹ thời gian của mình.
1.2.3. Quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ của Trường Đại học
Quản lý là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức của chủ thể quản
lý lên đối tượng quản lý bằng việc vận dụng các chức năng và phương tiện
quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng và cơ hội của tổ chức
để đạt được mục tiêu đặt ra.
Quản lý là một hoạt động mang tính tất yếu của xã hội, trong đó chủ thể
quản lý và khách thể quản lý có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và chịu sự
tác động của môi trường nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức đó.
Quản lý là hoạt động có ý thức của con người nhằm phối hợp các hành
động của một nhóm người, một tập thể hay một cộng đồng người để đạt được
mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất. Quản lý có bốn chức năng chủ yếu là:
Kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
Quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ là quá trình tác động có
mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên các đối tượng quản lý nhằm tổ
chức, điều khiển các hoạt động dạy học theo hệ thống tín chỉ đạt được mục
tiêu đào tạo của nhà trường.
22
Thực chất quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ là tổ chức, điều
khiển hoạt động của các chủ thể tham gia vào quá trình đào tạo, bảo đảm cho
hoạt động của họ luôn thống nhất với nhau, cộng hưởng với nhau, tác động
qua lại lẫn nhau cùng thúc đẩy các thành tố cấu trúc của quá trình đào tạo vận
hành theo quy trình hợp lý tối ưu. Qua đó mà chất lượng, hiệu quả đào tạo
theo phương thức học chế tín chỉ được thực hiện tốt nhất.
Chủ thể quản lý bao gồm các cấp quản lý khác nhau từ Ban giám hiệu,
các phòng, khoa, đến tổ bộ môn và từng giảng viên. Hoạt động của chủ thể
quản lý được thực hiện theo chức năng quản lý. Công cụ quản lý là các văn
bản pháp quy, là cơ chế giáo dục đào tạo.
Đối tượng quản lý là quá trình đào tạo theo học chế tín chỉ, trọng tâm là
quản lý hoạt động của giảng viên, sinh viên, cán bộ quản lý cấp dưới và cán
bộ phục vụ đào tạo. Xét trong mối quan hệ cụ thể, đối tượng quản lý có thể là
chủ thể quản lý. Hoạt động của đối tượng quản lý đặt dưới sự tổ chức, điều
khiển của chủ thể quản lý.
Phương thức quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ hoàn toàn khác với
phương thức quản lý đào tạo theo niên chế. Trong đào tạo theo học chế tín
chỉ, phương thức quản lý quyền uy được thay thế bằng phương thức quản lý
dân chủ. Người học được tăng cường tự chủ trong mọi khâu, mọi bước.
Người quản lý, người dạy giữ vai trò tổ chức, định hướng và phục vụ cho nhu
cầu phát triển của người học. Theo một ý nghĩa rộng hơn, người quản lý và
người dạy là “công bộc” của người học.
Các nội dung quản lý đào tạo ở trường đại học sẽ bao gồm một phổ
rộng các vấn đề liên quan chặt chẽ với nhau, đan xen vào nhau và tác động
qua lại, chi phối lẫn nhau. Đó là các nội dung: Quản lý mục tiêu đào tạo; quản
lý nội dung và chương trình đào tạo; quản lý hoạt động dạy của giảng viên;
quản lý hoạt động học của sinh viên; quản lý cơ sở vật chất, tài chính phục vụ
dạy học; quản lý môi trường đào tạo; Quản lý ứng dụng công nghệ thông tin
và truyền thông trong hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ; Quản lý hoạt
23
động đánh giá kết quả theo học chế tín chỉ. Những nội dung này trong khung
cảnh quản lý đào tạo tổ chức theo học chế tín chỉ ở các trường đại học sẽ đòi
hỏi những cách tiếp cận mới, khác biệt với đào tạo tổ chức theo niên chế hay
theo hệ thống học phần và đơn vị học trình.
1.3. Nội dung quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ ở
trường đại học
1.3.1. Quản lý mục tiêu đào tạo theo học chế tín chỉ
Quản lý mục tiêu đào tạo nhằm đảm bảo mục tiêu đào tạo được xây
dựng hợp lý và được thực hiện trọn vẹn. Quản lý mục tiêu đào tạo bắt đầu từ
việc xây dựng sứ mạng, tầm nhìn và giá trị cốt lõi của nhà trường. Sứ mạng,
tầm nhìn, giá trị cốt lõi được xây dựng trên cơ sở mục tiêu chung của đào tạo
đại học, nhưng phải phản ánh một cách cô đọng, đầy đủ và có sức thuyết phục
mục tiêu cụ thể của cơ sở giáo dục đại học. Mục tiêu cụ thể của nhà trường
phải thể hiện được đặc điểm riêng, đặc thù của trường mình, đồng thời phải
có tính khả thi, phù hợp điều kiện, hoàn cảnh của nhà trường. Việc xây dựng
mục tiêu đào tạo cũng phải đảm bảo tính mềm dẻo, cho phép sinh viên dễ
dàng thay đổi ngành chuyên môn trong tiến trình học tập khi thấy cần thiết.
Trên cơ sở mục tiêu đào tạo cụ thể, trường đại học triển khai xây dựng
các nhiệm vụ đào tạo. Ngoài những nhiệm vụ đào tạo đại học chung như hình
thành thế giới quan khoa học, lý tưởng, ước mơ, hoài bão nghề nghiệp và
những phẩm chất đạo đức, tác phong của người cán bộ khoa học, trường đại
học còn phải xây dựng các yêu cầu riêng về hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo, năng lực nghề nghiệp gắn với sự nghiệp, ngành nghề, thái độ của sinh
viên sau khi tốt nghiệp.
Mục tiêu và nhiệm vụ đào tạo phải được thường xuyên rà soát, bổ sung,
điều chỉnh và được triển khai thực hiện. Phải xây dựng kế hoạch định kỳ so
sánh, đối chiếu mục tiêu với kết quả đạt được để đánh giá một cách toàn diện
hoạt động đào tạo, tìm ra mặt mạnh, mặt yếu, có biện pháp nâng cao chất
24
lượng đào tạo. Được ban hành chính thức bằng quyết định ban hành chuẩn
đầu ra các ngành đào tạo đại học của trường.
1.3.2. Quản lý nội dung và chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ
Nội dung dạy học ở các trường đại học quy định hệ thống những tri thức
cơ bản, cơ sở ngành và chuyên ngành; quy định hệ thống những kỹ năng, kỹ
xảo tương ứng gắn liền với nghề nghiệp tương lai của sinh viên sau khi tốt
nghiệp ra trường. Trong quá trình đào tạo ở các trường đại học, nội dung dạy
học tạo nên nội dung cơ bản cho hoạt động giảng dạy của giảng viên và hoạt
động học tập, nghiên cứu của sinh viên. Nó tạo nên nội dung cơ bản cho quá
trình đào tạo ở các trường đại học. Nội dung đào tạo bị chi phối bởi mục tiêu
và nhiệm vụ đào tạo, đồng thời lại phục vụ cho việc thực hiện tốt mục tiêu,
nhiệm vụ đào tạo, quy định việc lựa chọn phương pháp, phương tiện dạy học.
Trường đại học phải tổ chức xây dựng chương trình đào tạo cho các
ngành, chuyên ngành đào tạo của trường mình trên cơ sở nội dung dạy học và
chương trình khung do Bộ GD&ĐT ban hành. Chương trình đào tạo phản ánh
mục tiêu đào tạo cụ thể của nhà trường, đồng thời hướng đến đáp ứng các nhu
cầu về chất lượng nguồn nhân lực của xã hội. Chương trình đào tạo phải đảm
bảo tính mềm dẻo, được cập nhật thường xuyên, đảm bảo hướng đích theo
chuẩn đầu ra mà nhà trường đã công bố với xã hội trên phương tiện thông tin
đại chúng cũng như website của nhà trường.
Quản lý chương trình đào tạo hướng đến mục tiêu đảm bảo các chương
trình được thiết kế và thực hiện trọn vẹn với chất lượng và hiệu quả cao nhất
trong điều kiện cụ thể của từng trường. Khi xây dựng chương trình đào tạo
phải có sự tham gia của các giảng viên, cán bộ quản lý, đại diện của các các tổ
chức, hội nghề nghiệp và các nhà tuyển dụng lao động theo quy định. Chương
trình đào tạo phải có mục tiêu rõ ràng, cụ thể, cấu trúc hợp lý, được thiết kế
một cách hệ thống, đáp ứng yêu cầu về chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ của
đào tạo trình độ đại học và đáp ứng linh hoạt nhu cầu nhân lực của ngành đào
tạo trong giai đoạn hội nhập kinh tế, xã hội với quốc tế. Chương trình đào tạo
25
phải được định kỳ bổ sung, điều chỉnh dựa trên cơ sở tham khảo các chương
trình tiên tiến quốc tế, các ý kiến phản hồi từ phía các nhà tuyển dụng lao
động, người tốt nghiệp, các tổ chức giáo dục và các tổ chức khác nhằm đáp
ứng nhu cầu nguồn nhân lực phát triển giáo dục của địa phương hoặc cả nước.
Trong khuôn khổ học chế tín chỉ chương trình đào tạo phải được thiết kế
theo hướng đảm bảo liên thông với các trình độ đào tạo và chương trình giáo
dục khác. Chương trình đào tạo phải được định kỳ đánh giá và thực hiện cải
tiến chất lượng dựa trên kết quả đánh giá.
1.3.3. Quản lý hoạt động dạy của giảng viên theo học chế tín chỉ
Trong hoạt động đào tạo ở trường đại học, người giảng viên là chủ thể,
giữ vai trò chủ đạo trong quá trình đào tạo. Giảng viên bằng hoạt động dạy
của mình tổ chức, điều khiển, lãnh đạo hoạt động học tập của sinh viên, đảm
bảo cho sinh viên thực hiện đầy đủ và có chất lượng cao những yêu cầu đã
được quy định phù hợp với mục tiêu đào tạo của mỗi nhà trường.
Quản lý hoạt động dạy bao gồm các nội dung: quản lý việc người giảng
viên thực hiện quy chế đào tạo; quản lý việc sử dụng các phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học, phương pháp và hình thức kiểm tra, đánh giá kết
quả dạy học.
Trong đào tạo theo học chế tín chỉ quy chế đào tạo có sự thay đổi đáng
kể so với quy chế đào tạo tổ chức theo niên chế. Hệ thống quản lý phải đảm
bảo những điểm khác biệt này được các chủ thể của hoạt động dạy học (giảng
viên, cố vấn học tập và sinh viên) nhận thức đầy đủ và tuân thủ nghiêm túc.
Phương pháp dạy học ở đại học, với tư cách tổ hợp các cách thức hoạt
động, tương tác giữa thầy và trò trong quá trình dạy học nhằm đạt được mục
đích dạy học, có chức năng xác định những phương thức hoạt động dạy và
học theo nội dung nhất định nhằm thực hiện tốt mục tiêu và nhiệm vụ dạy
học. Đổi mới phương thức đào tạo đòi hỏi phải đổi mới phương pháp giảng
dạy. Quản lý phương pháp dạy học trong đào tạo theo học chế tín chỉ hướng
đến đảm bảo các phương pháp đào tạo phải góp phần hình thành động cơ
26
nhận thức, các phương pháp nhận thức, bồi dưỡng cho sinh viên phương pháp
tự học, tự nghiên cứu để chiếm lĩnh tri thức, nâng cao tính tích cực, độc lập,
sáng tạo của sinh viên, phát huy năng lực vận dụng lý thuyết vào thực tiễn.
Dạy học theo phương pháp nghiên cứu khoa học tỏ ra là một giải pháp hữu
hiệu cho mục tiêu này.
Kiểm tra, đánh giá là một yếu tố cấu trúc của hoạt động đào tạo. Kết quả
kiểm tra, đánh giá giúp giảng viên và nhà trường xác định mục tiêu đào tạo có
phù hợp hay không, việc giảng dạy của giảng viên có thành công hay không
và hoạt động học tập của sinh viên có hiệu quả hay không. Vì vậy, kiểm tra
đánh giá ngoài chức năng là công cụ để kiểm định chất lượng đào tạo, giúp
phân loại sinh viên còn là động lực để thúc đẩy giảng viên dạy tốt hơn và sinh
viên học tốt hơn. Để kiểm tra, đánh giá có thể hoàn thành tốt các vai trò và
chức năng của mình, cần phải xây dựng hệ thống công cụ và quy trình kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên cũng như kết quả hoạt động đào tạo
của nhà trường một cách toàn diện, chính xác và khách quan.
1.3.4. Quản lý hoạt động học của sinh viên theo học chế tín chỉ
Sinh viên, một mặt là đối tượng của hoạt động dạy, mặt khác là chủ thể
của hoạt động nhận thức có tính chất nghiên cứu. Kết quả đào tạo phụ thuộc
vào tính tích cực nhận thức của sinh viên. Một trong những mục tiêu quan
trọng của việc áp dụng học chế tín chỉ là tạo điều kiện để sinh viên phát huy
được tối đa vai trò chủ thể trong hoạt động học tập, nghiên cứu của mình.
Như vậy, quản lý hoạt động học của sinh viên phải đảm bảo sao cho
người sinh viên không chỉ là khách thể của hoạt động dạy mà phải biến thành
chủ thể hoạt động tích cực, độc lập, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo và năng lực nghề nghiệp tương lai.
Những nội dung quản lý hoạt động học của sinh viên bao gồm: đảm bảo
sinh viên thực hiện đầy đủ, chính xác quy chế học tập và rèn luyện; đổi mới
phương pháp học tập; xây dựng phương pháp tự kiểm tra, tự đánh giá phù
hợp; hướng dẫn sinh viên xây dựng mục tiêu và kế hoạch học tập cá nhân.