Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Một số vấn đề chủ yếu về pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.91 KB, 28 trang )

Một số vấn đề chủ yếu về pháp luật thi hành án
hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền
con người
Hứa Thị Thơ
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: GS.TSKH. Lê Văn Cảm
Năm bảo vệ: 2013
Abstract: Trình bày những vấn đề lý luận về quyền con người và bảo vệ các quyền con
người trong pháp luật thi hành án hình sự. Nghiên cứu các quy định của pháp luật thi
hành án hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền con người. Từ đó chỉ ra những
điểm thiếu sót trong các quy định của pháp luật về bảo vệ các quyền con người. Đưa ra
một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam trong
việc bảo vệ các quyền con người.
Keywords: Luật hình sự; Thi hành án; Quyền con người; Pháp luật Việt Nam
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
"Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân
lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu tranh của loài người làm
chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại" [45, tr 124]. Vì
vậy, sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ quyền con người
bằng pháp luật, đặc biệt là lĩnh vực tư pháp hình sự (trong đó có hoạt động thi hành án hình sự).
Bởi lẽ, trong lĩnh vực tư pháp hình sự quyền con người dễ bị xâm phạm, bị tổn thương và để lại
hậu quả nghiêm trọng do liên quan đến quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân.
Trong hoạt động thi hành án hình sự, vấn đề quyền con người càng được quan tâm bởi
chủ thể quyền con người trong quan hệ đó là những người đã bị kết tội bằng một bản án có hiệu
lực pháp luật, là những người phải chấp hành bản án, quyết định của Tòa án. Quyền con người
của những người trong địa vị pháp lý của một kẻ có tội và đang chịu sự trừng phạt thích đáng từ
pháp luật càng dễ bị xâm phạm hơn bao giờ hết.



Ở Việt Nam, trước khi có Luật thi hành án hình sự 2010, hoạt động thi hành án hình sự ở
nước ta được thực hiện theo hàng loạt các văn bản pháp luật đơn hành. Thực tiễn thi hành án
hình sự trong những năm qua, đặc biệt là quyền con người trong thực tế thi hành án và pháp luật
thực định chưa được đảm bảo đã đặt ra yêu cầu phải có sự ra đời của một văn bản thống nhất
điều chỉnh hoạt động này. Luật thi hành án hình sự được Quốc hội thông qua ngày 17 tháng 6
năm 2010, có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 7 năm 2011. Đây là văn bản pháp luật mang tính
pháp điển hóa đầu tiên trong lịch sử pháp luật thi hành án hình sự. Nó tạo cơ sở pháp lý vững
chắc và đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động thi hành án.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi đã lựa chọn đề tài “Một số vấn đề chủ yếu về pháp
luật thi hành án hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền con người” làm luận văn cao
học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật nói chung và pháp luật về tư pháp hình
sự nói riêng rất được quan tâm nghiên cứu. Ví dụ như công trình nghiên cứu của GS.TS Lê Văn
Cảm, Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2009; cuốn Bảo đảm quyền con người trong Tư pháp hình sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2010…
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số 96-98027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Đề tài cấp Nhà nước đang thực
hiện: "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai
đoạn mới" do Bộ Tư pháp chủ trì; Bên cạnh đó là Giáo trình môn Luật tố tụng hình sự của trường
Đại học luật Hà Nội và các trường Đại học có chuyên ngành luật; một số bài viết đăng trên các tạp
chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật…
Thi hành án phạt tù là một vấn đề đã được nhiều nhà luật học trên thế giới và trong nước
quan tâm nghiên cứu. Tác giả Hoàng Ngọc Nhất có công trình "Một số vấn đề cấp bách về thi hành
án hình sự", trong đó có đề cập đến thi hành án tù (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1 năm
2001); tác giả Nguyễn Văn Đông có công trình "Việc xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù
đối với người bị án tù chung thân mà hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ ngày 1 tháng 7 năm
2000" (Tạp chí Kiểm sát, số 11 năm 2001), tác giả Hoàng Mạnh Thường có công trình "Về hoãn
thi hành án phạt tù" (Tạp chí Kiểm sát, số 5 năm 2000)...

Tuy nhiên, hệ thống pháp luật tư pháp hình sự bao gồm trong đó lĩnh vực pháp luật hình
sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự. Vì vậy, các công trình nghiên cứu
trên chỉ đề cập đến vấn đề bảo vệ các quyền con người trong pháp luật thi hành án hình sự ở một
mức độ nhất định với tư cách là một bộ phận của pháp luật tư pháp hình sự nói chung.


Riêng vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật thi hành án hình sự cũng được đề
cập đến trong một số công trình, bài viết như: Bảo đảm quyền con người trong thi hành án phạt tù,
Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Phúc, "Bảo đảm quyền
con người trong thi hành án phạt tù", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 4/2007; TS.Đỗ Đức Hồng
Hà, "Mối quan hệ giữa quyền con người và luật thi hành án hình sự" trong cuốn Quyền con người
tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học, tập II, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010.
Những công trình, bài viết này mới chỉ đề cập tới vấn đề bảo vệ các quyền con người trong
thi hành án phạt tù-một trong những hình phạt chính trong hệ thống hình phạt. Hoặc là đã xem xét
nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền con người trong pháp luật thi hành án hình sự (bài viết của TS.Đỗ
Đức Hồng Hà) nhưng theo các văn bản đơn hành mà chưa có sự ra đời của Luật thi hành án hình
sự 2010.
Như vậy, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, toàn
diện về đảm bảo quyền con người bằng pháp luật thi hành hành án hình sự hiện hành. Với tình
hình trên, đề tài "Một số vấn đề chủ yếu về pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam trong việc
bảo vệ các quyền con người", lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sỹ một cách
chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ và đảm bảo được tính logíc, hệ thống, không có sự trùng lặp với
các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài.
* Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ được những vấn đề lý luận cũng như nội dung các
quy định của pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam hiện hành trong việc bảo vệ các quyền con
người, chỉ ra những điểm còn thiếu sót hoặc chưa hợp lý trong các quy định của pháp luật về vấn
đề này. Đồng thời nêu lên thực tế về đảm bảo quyền con người trong công tác thi hành án hình
sự ở nước ta. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng hợp, luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm

góp phần hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự trong việc bảo vệ các quyền con người và
nâng cao hiệu quả thực thi trên thực tế
* Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để thực hiện được mục tiêu này, luận văn phải hoàn thành một số nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền con người và bảo vệ các quyền con người
trong pháp luật thi hành án hình sự.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ
các quyền con người. Từ đó chỉ ra những điểm thiếu sót trong các quy định của pháp luật về bảo
vệ các quyền con người.


- Đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam
trong việc bảo vệ các quyền con người.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Với nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn tập trung nghiên cứu việc bảo vệ các quyền con
người dưới góc độ thi hành án hình sự bao gồm thi hành những bán án và quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án. Nội dung cốt lõi của luận văn là xoay quanh quyền con người dưới góc
nhìn lý luận, luật thực định và thực tiễn. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ được giới hạn trong
phạm vi sau đây:
- Lịch sử hình thành và phát triển các quy đinh pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam
trong việc bảo vệ các quyền con người;
- Các quy định của pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam hiện hành trong việc bảo vệ các
quyền con người;
- Tìm hiểu thực tiễn thi hành án hình sự với việc bảo vệ các quyền con người.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được tiến hành dựa
trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý Nhà nước, quản lý xã hội cũng như chủ
trương, quan điểm về việc xây dựng Luật Thi hành án hình sự.

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng
hợp, lôgíc, lịch sử, qui nạp, đối chiếu, so sánh, khảo sát thăm dò lấy ý kiến trong phạm vi những
người làm công tác thực tiễn, sử dụng kết quả thống kê... nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội
dung luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Những đóng góp của luận văn thể hiện trên một số phương diện sau đây:
Thứ nhất: Lần đầu tiên vấn đề bảo vệ các quyền con người trong pháp luật thi hành án
hình sự Việt Nam được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về lý luận, luật thực
định và thực tiễn thi hành.
Thứ hai: Sau khi Luật thi hành án hình sự 2010 có hiệu lực, chưa có công trình nào nghiên
cứu, khảo sát chuyên sâu về vấn đề bảo vệ các quyền con người trong thi hành án hình sự
Thứ ba: Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất những giải pháp cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ các quyền con người trong thi hành án hình sự, nâng cao
hiệu quả của việc bảo vệ các quyền con người trong pháp luật thi hành án hình sự trên thực tế.
Thứ tư: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy ở bậc
Đại học, Trường Đào tạo nghề trong lĩnh vực tư pháp và là tư liệu tốt để các nhà khoa học tham


khảo trong nghiên cứu khoa học thi hành án hình sự. Luận văn là một công trình nghiên cứu
khoa học nghiêm túc, trong một chừng mực nhất định cũng có thể giúp ích phần nào cho các cán
bộ làm công tác thực tiễn trong việc hiểu biết một cách sâu sắc, đầy đủ và vận dụng đúng đắn các
quy định của pháp luật để từ đó bảo vệ các quyền con người trong thi hành án hình sự.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cầu bởi 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
thi hành án hình sự.
Chương 2: Các quy phạm pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam hiện hành về bảo vệ
các quyền con người và thực tiễn áp dụng.

Chương 3: Thực trạng, nguyên nhân và những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo
vệ các quyền con người trong pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam.
- Kết luận.
- Danh mục tài liệu tham khảo.
Chuơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO VỆ CÁC QUYỀN
CON NGƯỜI BẰNG PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái quát chung về quyền con người.
1.1.1. Khái niệm quyền con người.
Quyền con người là một phạm trù rộng, đa dạng. Tùy từng mục đích và phạm vi nghiên
cứu mà hình thành nên những đĩnh nghĩa khác nhau về quyền con người.
Dựa trên cơ sở các quan niệm về quyền con người đã nêu trong Luận văn, tác giả định
nghĩa khái niệm khoa học về quyền con người như sau: Quyền con người là một phạm trù lịch
sử-cụ thể, là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và là
đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt của bất kỳ cá nhân con
người nào sinh ra trên trái đất, đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các thành viên
Liên hợp quốc cũng như bởi cộng đồng quốc tế.
1.1.2. Khái niệm thi hành án hình sự và pháp luật thi hành án hình sự.
Thi hành án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự nhằm thực hiện bản án và quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản
án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Bản án, quyết định của Tòa án được thi


hành là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống. Thi hành án hình sự có vai trò quan trọng
nhằm đảm bảo mục đích của hình phạt là không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm
giáo dục cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời
giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm. Bởi vậy, để thực
hiện vai trò đó và đảm bảo pháp chế của hoạt động này thì việc pháp điển hóa toàn bộ các quy
định về quá trình thi hành án hình sự là yêu cầu cấp thiết, tránh sự tùy tiện, vi phạm pháp luật,

xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án.
Luật thi hành án hình sự là hệ thống các quy tắc xử sự do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi hành bản án hình
sự, quyết định của Tòa án nhằm trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.1.3. Khái niệm bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật thi hành án hình sự.
Pháp luật nói chung và pháp luật thi hành án hình sự nói riêng có vai trò quan trọng trong
việc bảo đảm quyền con người.
Vậy, bảo đảm quyền con người bằng pháp luật thi hành án hình sự là gì đặc điểm của nó
như thế nào? Vấn đề này tác giả luận văn hoàn toàn đồng ý với quan điểm của GS.TSKH Lê
Cảm:
Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật thi hành án hình sự trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền là sự điều chỉnh đầy đủ về mặt lập pháp, sự thực thi chính xác về
mặt hành pháp và sự đảm bảo tối đa về mặt tư pháp các quy định của pháp luật thi hành án hình
sự để làm cho các quy định đó phù hợp với các nguyên tắc và các quy phạm tương ứng của pháp
luật quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự, được tuân thủ, chấp hành và áp dụng một cách
nghiêm chỉnh, thống nhất và triệt để bởi các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như những người có
chức vụ của những cơ quan này trong thực tiễn thi hành án hình sự, đồng thời góp phần tạo nên
lòng tin của công dân vào sự nghiêm minh của pháp chế, tính minh bạch và sự bình đẳng của
pháp luật, sức mạnh và uy tín của bộ máy công quyền, tính nhân đạo và dân chủ của xã hội dân
sự và nhà nước pháp quyền nói chung.
1.2. Lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam về thi hành án hình sự.
Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật thi hành án hình sự gắn liền với sự phát
triển của pháp luật hình sự trong lịch sử Nhà nước Việt Nam và có thể chia thành các giai đoạn
như sau:
1.2.1. Pháp luật thi hành án hình sự giai đoạn trước năm 1945
Dưới chế độ phong kiến pháp luật nói chung và pháp luật thi hành án hình sự nói riêng
chưa phát triển. Pháp luật hình sự được coi trọng nhằm tạo tính quyền lực, tính răn đe trừng phạt.



Vấn đề quyền con người trong pháp luật hình sự cũng như thi hành án chưa được đảm bảo.
Dưới triều Ngô, Đinh, Tiền Lê Tuy chưa có văn bản pháp luật thành văn nhưng hình
pháp vẫn rất được coi trọng với những hình phat hà khắc, hình thức thi hành án tàn khốc.
Thời Lý, Bộ Hình thư là bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử pháp chế Việt Nam.
Hình phạt và hình thức thi hành rất dã man như chặt đầu, chặt chân tay, chôn sống, phạt trượng,
thích chữ…
Thời Lê được coi là dấu mốc quan trọng trong lịch sử pháp quyền Việt Nam. Các vị vua
triều Lê rất coi trọng việc xây dựng hệ thống luật pháp. Các bộ sách về điển chế và luật pháp thời
Lê lần lượt được ban hành như Bộ Hình thư; Hoàng triều quan chế; Quốc triều hình luật; Khám
tụng điều lệ…
Dưới thời Nguyễn, Bộ Hoàng triều luật lệ (tức Bộ luật Gia Long) được xây dựng trên cơ
sở Bộ luật Hồng Đức và Luật lệ Đại Thanh-Trung Quốc. Trong Bộ luật Gia Long thời Nguyễn,
với 398 điều luật thì có tới 166 điều về hình luật.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Năm 1883, triều đình Huế ký với Pháp
bản Hiệp ước thừa nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ bảo hộ của
Pháp. Thời kỳ này ở nước ta sử dụng hai loại Luật hình sự và tương ứng với nó là các hình thức thi
hành án khác nhau. Luật hình sự của Pháp dành cho người Pháp và người nước ngoài, còn Luật hình
sự của nhà Nguyễn dành cho người bản xứ. Sau khi Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp thì ở Nam
Kỳ sử dụng luật của Pháp, Bắc Kỳ và Trung Kỳ áp dụng Luật hình sự với người Việt Nam, cùng với
nó là một hệ thống các công cụ bạo lực như hệ thống Tòa án, cảnh sát, nhà tù, trại giam... Chỉ tính từ
năm 1902 đến năm 1912 các nhà tù thực dân Pháp đã kết án 24.380 người từ hình thức tù giam đến
khổ sai, chung thân, tử hình.
1.2.2. Pháp luật thi hành án hình sự giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1988.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ngày 02 tháng 9 năm 1945 Hồ Chủ tịch đọc bản
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt nam dân chủ cộng hòa. Ngay sau đó, năm 1946 Hiến
pháp đầu tiên được thông qua ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Từ năm 1945 đến 1950 hệ thống các trại giam được hình thành dưới sự quản lý của Bộ
Nội vụ nhưng chưa được quy định trong các văn bản pháp lý.
Từ năm 1945 đến năm 1954, những văn bản pháp luật của Nhà nước được ban hành tập
trung vào việc trừng trị những tội phạm phá hoại sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp

của dân tộc.
Từ năm 1954 đến năm 1975 nhân dân ta phải thực hiện đồng thời hai nhiêm vụ chiến
lược: xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa ở miền bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước. Phần lớn các văn bản pháp luật tính đến năm 1960 mang tính đơn hành quy định


về những hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được xử lý bằng hình sự nhưng lại không quy định
rõ về cách thức thi hành án.
1.2.3. Pháp luật thi hành án hình sự giai đoạn từ năm 1988 đến 2003
Trước những thay đổi của tình hình trong nước và quốc tế, những văn bản pháp luật hình sự
đơn hành không đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, ngày 27 tháng 6 năm 1985 Quốc hội thông qua
Bộ luật hình sự, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1986. Bộ luật quy định tương đối
đầy đủ về hệ thống hình phạt, các biện pháp tư pháp, nguyên tắc áp dụng chúng. Trên cơ sở đó, công
tác thi hành án hình sự cũng được triển khai đồng bộ, thống nhất.
Sau đó, ngày 28 tháng 6 năm 1988, Quốc hội tiếp tục thông qua Bộ luật tố tụng hình sự
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1989. Bộ luật này đã dành hẳn một chương để
quy định về thi hành án . Có thể nói đây là văn bản pháp điển đầu tiên quy định cụ thể về thi
hành án hình sự. Trên cơ sở đó, ngày 15 tháng 8 năm 1989, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp ban hành thông tư liên ngành số 04-89/TTLN quy
định về giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Tiếp đó, ngày 8 tháng 3 năm 1993 Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành Pháp lệnh thi
hành án phạt tù. Sự ra đời của Pháp lệnh đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử pháp luật thi
hành án phạt tù ở Việt nam. Tuy còn những hạn chế nhưng Pháp lệnh đã quy định tương đối đầy
đủ về trình tự, thủ tục thi hành án phạt tù, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, người
thi hành án, quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án. Pháp lệnh này sau đó được sửa đổi, bổ
sung năm 2007 để phù hợp với Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
1.2.4. Pháp luật thi hành án hình sự giai đoạn từ năm 2003 đến nay.
Nhìn lại lịch sử có thể nhận thấy hệ thống pháp luật thi hành án hình sự chưa được pháp
điển hóa thành một bộ luật riêng, thống nhất mà vẫn nằm rời rạc, rải rác trong nhiều văn bản
pháp luật khác nhau gây khó khăn cho công tác thi hành án. Chính vì thế, Quốc hội nước ta đã

thông qua Luật Thi hành án hình sự tại kỳ họp thứ 7 khóa XII ngày 17 tháng 6 năm 2010. Đây là
luật thi hành án hình sự đầu tiên trong lịch sử pháp luật thi hành án ở Việt nam. Luật được xây
dựng trên cơ sở đường lối, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, kế thừa các văn bản
trước, tiếp thu có chọn lọc pháp luật thi hành án hình sự của các quốc gia trên thế giới. Luật này
quy định tương đối toàn diện và hệ thống khắc phục được những hạn chế của các văn bản đơn
hành về thi hành án hình sự. Trong thời gian qua, nhiều văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành
Luật thi hành án hình sự được ban hành: Nghị định 80/2011/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy
định các biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng đồng đối người chấp hành xong án phạt tù, áp
dụng từ ngày 16 tháng 11 năm 2011; Nghị định 81/2011/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy
định chế độ ăn, mặc, chăm sóc và quản lý của học sinh trường giáo dưỡng ngày16 tháng 9 năm


2011, áp dụng từ 01 tháng 11 năm 2011; Nghị định 82/2011/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy
định về thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc, áp dụng từ ngày 01 tháng 11 năm
2011; Thông tư 114/2011/TT-BTC ngày 12-8-2011 Quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý
và sử dụng phí giám định tư pháp trong lĩnh vực pháp y; Thông tư 58/2011/TT-BCA ngày 9- 82011 Quy định về đồ vật cấm đưa vào trại giam và việc thu giữ, xử lý đồ vật cấm; Thông tư
46/2011/TT-BCA ngày 30-6-2011 Quy định việc phạm nhân gặp thân nhân; nhận, gửi thư; nhận
tiền, quà và liên lạc điện thoại với thân nhân; Thông tư 40/2011/TT-BCA ngày 27-6-2011 Quy
định tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù và xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân; Nghị
định 64/2011/NĐ- CP ngày 28-7-2011 Quy định việc thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
Thông tư 40/2011/TT- BCA ngày 27-6-2011 Quy định tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù và
xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân; Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22-10-2010
Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự….
1.3. Vai trò của pháp luật thi hành án hình sự trong việc bảo vệ các quyền con người.
Vai trò đặc biệt quan trọng không thể thay thế của pháp luật trong việc bảo vệ các quyền
con người được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện thể chế hóa, pháp lý hóa, chính thức thức hóa các
quyền con người.
Thứ hai, pháp luật là công cụ bảo đảm giá trị hiện thực của quyền con người.
Chương 2

CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN
HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ CÁC QUYỀN
CON NGƯỜI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.
2.1. Bảo vệ các quyền con người bằng chế định về các chủ thể thi hành án hình sự.
Thi hành án là hoạt động phức tạp vừa có sự tham gia của các cơ quan thi hành án chuyên
trách, vừa có sự tham gia của chính quyền địa phương, của các cơ quan nhà nước khác, sự chỉ
đạo của chính quyền địa phương đối với việc tổ chức thi hành án hàng ngày diễn ra trên địa bàn
địa phương, các tổ chức xã hội và công dân mới thi hành án có hiệu quả.
Theo Luật Thi hành án hình sự thì cơ quan quản lý thi hành án hình sự được quy định
thuộc Bộ công an và Bộ Quốc phòng.
Cơ quan thi hành án hình sự được chia thành 4 cấp từ cấp Bộ đến cấp quận huyện, quân
khu và tương đương:
Cấp Bộ có: Trại giam thuộc Bộ công an, trại giam thuộc Bộ quốc phòng, trại giam thuộc
quân khu.
Cấp tỉnh có: Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.


Cấp huyện có: Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh.
Trong quân đội có cơ quan thi hành án hình sự quân khu và tương đương.
Ngoài các cơ quan nêu trên Luật Thi hành án hình sự còn quy định cơ quan được giao
một số nhiệm vụ thi hành án hình sự, gồm: Trại tạm giam thuộc công an cấp tỉnh, trại tạm giam
cấp quân khu; Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; Đơn vị quân đội cấp trung đoàn và tương
đương.
2.2. Bảo vệ các quyền con người trong chế định thi hành án tử hình
Thi hành án tử hình là việc cơ quan, người có thẩm quyền tước bỏ quyền sống của người
chấp hành án theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Một trong những hình thức đảm bảo quyền sống của con người trong thi hành án tử hình
là quy định về những nguyên tắc khi áp dụng hình phạt này đảm bảo "không ai bị tước đoạt
mạng sống một cách tùy tiện".

Hình thức thi hành án tử hình cũng là một khía cạnh thể hiện sự đảm bảo quyền con
người.
Cách thức thi hành án tử hình tạo nên cuộc tranh luận giữa những người duy trì và những
người muốn xóa bỏ hình phạt này bởi nó liên quan đến "quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối
xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục" được ghi nhận tại Điều 5 Tuyên ngôn
toàn thế giới về nhân quyền 1984 và cụ thể hóa tại Điều 7 Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị 1966.
Bảo vệ các quyền con người trong thi hành án tử hình còn được thể hiện trong những quy
định về quyền của người bị kết án tử hình. Đó là quyền được hưởng các tiêu chuẩn về ăn, uống,
khám chữa bệnh, gửi nhận thư, quà thăm nuôi, quyền khiếu nại, tố cáo trong thời gian chờ thi
hành án tử hình. Sau khi đã bị thi hành án, tiền và tài sản khác gửi lưu ký tại trại giam được trả
lại đầy đủ cho người thân hoặc người được ủy thác của họ. Về tử tù, luật cũng có những quy định
mới: Ngoài việc được tự mình đọc quyết định thi hành án, quyết định không kháng nghị của viện
trưởng VKSND tối cao và chánh án TAND tối cao hoặc quyết định bác đơn xin ân giảm của Chủ
tịch nước..., tử tù còn được ăn uống, viết thư cho người thân. Thậm chí còn cho phép tử tù ghi
âm lại lời nói của mình để gửi cho thân nhân.
Luật thi hành án hình sự có quy định về việc giải quyết trường hợp thân nhân xin nhận tử
thi, hài cốt của người bị chấp hành án tử hình. Quy định này là chính sách nhân đạo thể hiện tư
tưởng bảo vệ quyền con người của Đảng và Nhà nước ta; giải quyết yêu tố tâm linh cho gia đình
người bị chấp hành án tử hình; phù hợp với truyền thống, đạo đức của dân tộc đối với người đã
mất.


2.3. Bảo vệ các quyền con người trong chế định thi hành hình phạt tù.
Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật thi
hành án hình sự buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở
thành người có ích cho xã hội.
Án phạt tù bao gồm tù có thời hạn và tù chung thân.
Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong
một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn áp dụng đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là

ba năm, tối đa là hai mươi năm; áp dụng tổng hợp đối với một người phạm nhiều tội tối đa là ba
mươi năm.
Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Hình phạt này không áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội.
Những giới hạn áp dụng hình phạt tù (có thời hạn và tù chung thân) là một hình thức để
đảm bảo quyền con người.
Tư tưởng bảo vệ các quyền con người còn được thể hiện trong việc ghi nhận các quyền
cùa phạm nhân trong và sau khi chấp hành xong hình phạt.
Trong thời gian chấp hành hình phạt tù, phạm nhân được học văn hóa, học nghề,
hưởng chế độ khám chữa, điều trị bệnh, được gửi, nhận thư, bưu kiện, bưu phẩm, gặp gỡ thân
nhân, nhận quà thăm nuôi theo đúng quy định chung; nếu chết hoặc bị thương tật do tai nạn lao
động thì được hưởng chế độ bảo hiểm; được quyền khiếu nại tố cáo về những quyết định, những
hành vi trái pháp luật của các cán bộ cơ quan thi hành án hoặc cán bộ cơ quan khác; được xét
giảm thời hạn chấp hành, hoãn việc chấp hành án hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù theo
quy định của pháp luật.
Về chế độ học tập, học nghề và quyền được thông tin của phạm nhân:
Phạm nhân phải học pháp luật, giáo dục công dân và được học văn hoá, học nghề.
Về chế độ lao động của phạm nhân:
Phạm nhân được tổ chức lao động phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và đáp ứng yêu cầu
quản lý, giáo dục, hòa nhập cộng đồng; được nghỉ lao động các ngày thứ bảy, ngày chủ nhật, lễ,
tết theo quy định của pháp luật.
Về chế độ ăn, ở của phạm nhân:
Phạm nhân được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng về gạo, rau xanh, thịt, cá, đường, muối,
nước mắm, bột ngọt, chất đốt. Đối với phạm nhân lao động nặng nhọc, độc hại theo quy định của
pháp luật, thì định lượng ăn được tăng thêm.


Về chế độ mặc và tư trang của phạm nhân: Phạm nhân được cấp quần áo theo mẫu thống
nhất, khăn mặt, chăn, chiếu, màn, dép, mũ hoặc nón, xà phòng; phạm nhân nữ được cấp thêm đồ

dùng cần thiết cho vệ sinh của phụ nữ.
Về chế độ hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ đối với phạm nhân:
Phạm nhân được hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, đọc sách, báo,
nghe đài, xem truyền hình phù hợp với điều kiện của nơi chấp hành án. Thời gian hoạt động
được thực hiện theo quy chế trại giam.
Chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi
Phạm nhân nữ có thai nếu không được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thì được bố trí
nơi ở hợp lý, được khám thai định kỳ hoặc đột xuất, được chăm sóc y tế trong trường hợp cần
thiết; được giảm thời gian lao động, được hưởng chế độ ăn, uống bảo đảm sức khoẻ.
Phạm nhân nữ có thai được nghỉ lao động trước và sau khi sinh con theo quy định của Bộ
luật lao động. Trong thời gian nghỉ sinh con, phạm nhân được bảo đảm tiêu chuẩn, định lượng ăn
theo chỉ dẫn của y sĩ hoặc bác sĩ, được cấp phát thực phẩm, đồ dùng cần thiết cho việc chăm sóc
trẻ sơ sinh. Phạm nhân nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi được bố trí thời gian phù hợp để chăm
sóc, nuôi dưỡng con.
Về chế độ gặp thân nhân, nhận quà của phạm nhân
Phạm nhân được gặp thân nhân một lần trong 01 tháng, mỗi lần gặp không quá 01 giờ,
trường hợp đặc biệt thì được kéo dài thời gian nhưng không quá 03 giờ. Phạm nhân được khen
thưởng thì được gặp thân nhân thêm một lần trong 01 tháng. Phạm nhân chấp hành nghiêm chỉnh
nội quy, quy chế trại giam hoặc lập công thì được gặp vợ hoặc chồng ở phòng riêng không quá
24 giờ.
Về chế độ liên lạc của phạm nhân
Phạm nhân được gửi mỗi tháng hai lá thư; trường hợp cấp bách thì được gửi điện tín.
Phạm nhân được liên lạc điện thoại trong nước với thân nhân mỗi tháng một lần, mỗi lần không
quá 05 phút.
Về chế độ chăm sóc y tế đối với phạm nhân
Phạm nhân được hưởng chế độ phòng, chống dịch bệnh. Phạm nhân bị ốm, bị thương thì
được khám và điều trị tại cơ sở y tế của trại giam, trại tạm giam hoặc tại cơ sở chữa bệnh cấp
huyện. Trường hợp phạm nhân bị bệnh nặng hoặc thương tích vượt quá khả năng điều trị của các
cơ sở chữa bệnh đó thì được chuyển đến cơ sở chữa bệnh cấp tỉnh, bệnh viện quân đội hoặc bệnh
viện trung ương để điều trị

Sau khi chấp hành xong hình phạt tù, họ được trả lại đầy đủ tiền bạc và tài sản khác đã ký gửi
ở trại giam; được cấp tiền tàu xe, tiền ăn trên đường về nơi cư trú…


Đảm bảo quyền con người trong thi hành án phạt tù còn được thể hiện trong chế độ giam
giữ, quản lý có tính chất phân loại phù hợp với từng lứa tuổi, giới tính, mức độ nguy hiểm của tội
phạm.
2.4. Bảo đảm quyền con người trong thi hành các hình phạt chính khác.
Căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật hình sự năm 1999 thì ngoài các hình phạt chính: tử hình,
tù chung thân, tù có thời hạn còn có các hình phạt chính khác: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ và trục xuất.
2.5. Bảo đảm quyền con người trong thi hành các hình phạt bổ sung.
Theo khoản 2 Điều 28 Bộ luật hình sự năm 1999, các hình phạt bổ sung bao gồm: cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước
một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính); trục
xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính). Trong mục này, người viết không đề cập đến thi
hành hình phạt tiền và trục xuất (đã được xem xét ở mục 2.3).
2.6. Bảo đảm quyền con người trong thi hành các biện pháp tư pháp.
Các biện pháp tư pháp theo chương VI Bộ luật hình sự năm 1999 bao gồm: Tịch thu vật,
tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; Buộc
công khai xin lỗi; Bắt buộc chữa bệnh. Riêng đối với người chưa thành niên phạm tội còn có
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng. Hai biện pháp tư pháp
áp dụng riêng cho người chưa thành niên phạm tội sẽ được phân tích ở mục 2.7.
2.7. Bảo đảm quyền con người trong thi hành án hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội.
Người chưa thành niên theo quy định của pháp luật hình sự là người từ đủ 14 tuổi đến dưới
18 tuổi.
Mục đích của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sữa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Bởi vậy, người chưa thành niên phạm tội chỉ có thể bị áp dụng một trong các hình phạt sau

đây: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn. Không áp dụng hình phạt tử hình, tù
chung thân và các hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội; đồng thời hạn chế áp
dụng hình phạt tù. Việc áp dụng các hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội luôn ở mức
nhẹ hơn người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Các biện pháp tư pháp được áp dụng riêng cho người chưa thành niên phạm tội bao gồm:
giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào trường giáo dưỡng. Những biện pháp tư pháp này có
đặc điểm đặc biệt là: Có tác dụng thay thế hình phạt và người chưa thành niên phạm tội được áp
dụng các biện pháp này thì không bị coi là có án tích.


2.8. Bảo vệ quyền con người thông qua chế định tha miễn.
Chế định tha miễn là chế định mang tính chất nhân đạo, phản ánh sự khoan hồng của Nhà
nước đối với người phạm tội. Trong lĩnh vực thi hành án hình sự, biện pháp tha miễn được thể
hiện trong những quy định về: miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt,
hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, xóa án tích.
2.9. Bảo vệ các quyền con người thông qua nguyên tắc thi hành án hình sự.
Thứ nhất, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Thứ hai, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, nguyên tắc bình đẳng trong thi hành án hình sự.
Thứ năm, nguyên tắc phân hóa trong thi hành án hình sự.
Thứ sáu, nguyên tắc nghiêm trị kết hợp với khoan hồng.
Thứ bảy, nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi, quyết định trái pháp
luật trong hoạt động thi hành án hình sự.
Thứ tám, nguyên tắc đảm bảo sự tham gia, phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia
đình trong việc giáo dục, cải tạo người chấp hành án.
2.10. Bảo vệ các quyền con người thông qua chế định về tái hòa nhập cộng đồng.
Vấn đề tái hòa nhập cộng đồng đối với những người vi phạm pháp luật hình sự bị cách ly
khỏi xã hội ở Việt nam là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Mục đích của chính sách
này là nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho những người đã chấp hành xong hình phạt tạo

lập một cuộc sống bình thường. Để thực hiện mục đích này, các biện pháp tái hòa nhập cộng
đồng ở Việt nam được thực hiện trong 2 giai đoạn: trong quá trình những người phạm pháp đang
chấp hành hình phạt và sau khi họ đã kết thúc thời hạn bị cách ly khỏi xã hội.
Nhiệm vụ của thi hành án phạt tù không chỉ dừng lại ở việc thực hiện đầy đủ các nội dung
được ghi nhận trong bản án, quyết định của Tòa án, mà còn tạo điều kiện cần thiết để những
người đã chấp hành xong hình phạt tù có thể trở lại cuộc sống bình thường trong xã hội.

Chương 3
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ VIỆT NAM


3.1. Thực tiễn thi hành án hình sự ở Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền con
người.
3.1.1. Những kết quả đã đạt được.
Trong 6 năm từ 2005 đến 2010, Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố đã tiếp nhận
345.665 lượt hồ sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù do cơ quan Công an chuyển
đến. Qua thẩm định, Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố đã đề nghị loại hồ sơ không đủ
điều kiện được xét giảm như: Chưa chấp hành đủ thời gian được xét giảm, chưa bồi thường về
dân sự, vi phạm kỷ luật, yêu cầu đưa vào danh sách đề nghị xét giảm 214 trường hợp. Kết quả
Toà án nhân dân cấp tỉnh đã ra quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho 291.122
phạm nhân đủ điều kiện.
Thực hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước đối với những người phạm tội đã
thực sự cải tạo tiến bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 4) phối hợp cùng các ngành liên quan
tiến hành thẩm định đề nghị Hội đồng đặc xá và được Chủ tịch nước đặc xá cho 71.990 người.
3.1.2. Những tồn tại.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt như đã đề cập ở trên, trong hoạt động bảo vệ quyền con
người bằng pháp luật thi hành án hình sự vẫn còn tồn tại những hạn chế sau:
Thứ nhất, do vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng mà vấn đề quyền con người trong

thi hành án hình sự đã không được bảo đảm. Một số bản án, quyết định thi hành án thiếu chính
xác, chưa tổng hợp các bản án phải thi hành hoặc không trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam;
Thứ hai, do vi phạm trong công tác quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù mà vấn
đề quyền con người trong thi hành án hình sự đã chưa được bảo đảm.
Thứ ba, vi phạm trong việc thực hiện chế độ đối với người chấp hành án phạt tù, cụ thể:
- Do lưu lượng phạm nhân tăng trong khi cơ sở vật chất phục vụ cho việc giam giữ bị
xuống cấp, việc đầu tư xây dựng tuy có được quan tâm so với nhiều năm trước nhưng vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu giam giữ;
- Chế độ ăn, mặc, khám chữa bệnh: Một số Trại giam chưa thực hiện chế độ ăn, mặc theo
quy định như: chưa thực hiện chế độ ăn theo quy định trong ngày Tết dương lịch, ngày giỗ Tổ,
chưa đảm bảo định lượng rau xanh, đường ...
- Việc tổ chức thực hiện chế độ lao động còn có tình trạng khoán trắng, đưa ra định mức
lao động cao, chưa đảm bảo an toàn lao động, lao động vào ngày nghỉ nhưng không được nghỉ
bù, không được bồi dưỡng …
- Việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án còn có trường hợp
không đúng quy định, có Trại giam còn đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho cả
những phạm nhân chưa đủ thời gian chấp hành án phạt tù, phạm nhân xếp loại cải tạo trung bình.


Thực tế cho thấy, nhiều năm qua, các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực thi hành án
hình sự mới chỉ quan tâm đến việc thi hành hình phạt tù, tử hình, trục xuất mà chưa quan tâm
đúng mức đến việc tổ chức thi hành các hình phạt khác.
Bên cạnh đó, việc nhiều cơ quan khác nhau có trách nhiệm tổ chức thi hành án hình sự,
biện pháp tư pháp, cũng như chưa có tổ chức bộ máy chuyên trách quản lý thống nhất việc thi
hành án, khiến công tác thi hành án hình sự còn bị phân tán, không đồng bộ.
Về thi hành án tử hình: Thực tế trong hàng chục năm qua cho thấy việc thi hành hình phạt
tử hình bằng xử bắn có tác dụng răn đe tội phạm, tuyên truyền phòng ngừa tội phạm cao. Tuy
nhiên biện pháp này làm cho thi thể bị cáo không nguyên vẹn và có ảnh hưởng nhiều tới tâm lý,
tư tưởng cán bộ chiến sĩ thi hành án.
Trong quá trình thi hành hình phạt tử hình đã xuất hiện nhiều vướng mắc như kiểm tra căn

cước, xác định vân tay của tử tù, hoãn thi hành án, gia đình xin nhận xác bị án về mai táng.
Trong thời gian qua các địa phương rất khó tìm địa điểm làm pháp trường, nhất là các tỉnh
đồng bằng. Vì vậy có tỉnh như Nghệ An phải đi xa 140 km mới có địa điểm thi hành án tử hình.
Hiện nay, việc người bị kết án tử hình phải chờ đợi thi hành án quá lâu trong xà lim của
trại giam vừa gây nhiều khó khăn cho trại giam, vừa gây tâm nặng nề cho người bị kết án. Nhiều
trường hợp kéo dài năm bảy năm, thậm chí hàng chục năm nhưng không thi hành án. Có nhiều lý
do về việc chậm trễ này mà hầu hết đều không phải do người bị thi hành án tử hình gây ra.
Về thi hành hình phạt tù: Ở Việt Nam, theo các nguồn tin công khai có khoảng 40 trại
giam đang tồn tại, do Cục V26 Bộ Công an quản lý. Và theo quy định của pháp luật thì mỗi trại
giam chỉ được giam giữ từ 1000 đến 1500 tù nhân. Như vậy, Việt Nam có khoảng 40.000 đến
60.000 tù nhân. Với dân số vào khoảng 80 triệu người thì tỷ lệ tù nhân của Việt Nam là khoảng 75 tù
nhân trên 100000 dân". Công tác thi hành án phạt tù bên cạnh những thành tựu còn có những hạn chế
sau:
Thứ nhất, về phân loại trại: do sự thay đổi trong phân loại tội phạm từ 2 thành 4 nên việc phân
loại, chuyển phạm nhân đến các trại giam có cùng tính chất gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, về điều kiện sinh hoạt, lao động: do số lượng phạm nhân quá đông mà phòng giam lại
không đủ dẫn đến quá tải không đảm bảo quy dịnh 2m2/1 phạm nhân. Đối với phạm nhân là người chưa
thành niên theo quy định phải giam riêng nhưng có lúc, có nơi do phạm nhân quá đông đã giam chung với
cả phạm nhân đã thành niên. Các phạm nhân chủ yếu là trồng trọt, nấu ăn cho bếp của trại, các hình thức
dạy nghề ít được chú trọng.
Thứ ba, về chế độ khám chữa bệnh cho phạm nhân được thực hiện theo định kỳ tại trạm xá
của trại. Đối với những phạm nhân mắc bệnh nặng thì được chuyển ra ngoài điều trị. Tuy nhiên,
hiện nay tình trạng phạm nhân mắc bệnh AIDS và nghiện ma túy rất phức tạp. Để giải quyết vấn


đề này, Bộ Công an chỉ thị không giam riêng số người bị mắc bệnh AIDS, cũng không thông báo
cho họ về bệnh lý của mình mà chỉ thông báo cho cán bộ trại giam biết để theo dõi. Đối với
những phạm nhân đã đến giai đoạn phát bệnh thì chuyển bệnh viện điều trị. Việc giam chung
như vậy thì vấn đề lây nhiễm hoàn toàn có thể xảy ra nhưng nếu giam riêng thì không có lợi về
tâm lý cho phạm nhân dẫn đến thái độ bất cần, liều lĩnh, gây khó khăn cho việc điều trị, cải tạo

cũng như gây nguy hiểm cho cán bộ trại giam.
Tuy nhiên pháp luật hiện hành lại chưa điều chỉnh vấn đề này, chưa quy định việc chăm
sóc điều trị phạm nhân mắc bệnh, chưa quy định về chế độ chính sách đối với cán bộ trực tiếp
tiếp xúc với phạm nhân nhiễm HIV.
Thứ tư, về tạm đình chỉ thi hành án phạt tù theo Bộ luật tố tụng hình sự vẫn thuộc thẩm
quyền của Chánh án tòa án đã ra quyết định thi hành án. Việc thực hiện trên thực tế gặp nhiều
khó khăn bởi nơi ra quyết định thi hành án với nơi chấp hành án thường cách xa nhau. Do đó
nhiều trường hợp trong thời gian chờ quyết định tạm đình chỉ thi hành án thì phạm nhân đã chết.
Thứ năm, về thi hành hình phạt tù với người nước ngoài: do có xung đột pháp luật nên
việc thi hành hình phạt tù đối với người nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Mặt khác do không có
thông tin cần thiết về nhân thân người nước ngoài bị kết án phạt tù nên gây khó khăn cho việc
phân loại và quản lý đối tượng. Hơn nữa, cán bộ trại giam không biết tiếng nước ngoài nên khó
khăn trong việc thu thập thông tin về đối tượng.
Thứ sáu, về công tác quản lý và tổ chức thi hành án phạt tù còn mang tính phân tán dễ
dẫn đến buông lỏng, chồng chéo và thiếu sự phối hợp. Cụ thể là công tác thi hành án hình sự do
Bộ Công an quản lý nhưng quyết định thi hành án do Chánh án tòa án ra quyết định. Các tòa án
quân sự xét xử sơ thẩm quyết định thi hành án hình sự nhưng Cục điều tra hình sự Bộ quốc
phòng lại quản lý, giam giữ, cải tạo phạm nhân…
Việc theo dõi và quản lý phạm nhân còn chồng chéo, kém hiệu quả, trên thực tế đã tồn tại
tình trạng là sau khi ra quyết định thi hành án phạt tù, Tòa án hoàn toàn không thể biết rõ được
phạm nhân được đưa đi cải tạo ở đâu?
Báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao trước Quốc hội đã thừa nhận là cho đến nay đang có
hơn 8.000 người bị án không rõ vì lý do gì vẫn sống ngoài vòng pháp luật, chưa bị bắt đi thụ
hình, riêng tại TP. Hồ Chí Minh trong năm 1999 số lượng người phải thụ án là 13.875 người,
nhưng chỉ giải quyết được 10.691 người, còn 3.184 người phải thụ án chưa giải quyết; năm 2000
có 13.521 người phải thụ án, nhưng chỉ mới giải quyết được 10.767 người, còn 2.754 người phải
thụ án chưa bị bắt đi cải tạo ở các trại giam.
Đối với các loại hình phạt khác như phạt tiền, tỷ lệ thi hành đạt được khoảng 60-80%2.
Tại Tp. HCM, thống kê các năm gần đây cho thấy các loại hình phạt tiền, tịch thu tài sản còn ít



hơn, chỉ đạt khoảng 45-50%, các vụ án điển hình như Epco-Minh Phụng, Tamexco, Ngọc
Thảo….
Về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo: Thực tiễn áp dụng chế định án treo và thi hành
Nghị định số 61/2000/NĐ-CP đă bộc lộ những điểm bất cập như sau:
Một là, Khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Trong thời gian thử thách,
toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính
quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người kết án có
trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo
dục người đó". Và khoản 3 Điều 256 Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục đưa ra thi hành bản án và
quyết định của toà án, nêu rõ: "Quyết định thi hành án, trích lục bản án hoặc quyết định phải
được gửi cho viện kiểm sát cùng cấp nơi thi hành án, cơ quan thi hành án và người bị kết án".
Như vậy, về thủ tục “giao người được hưởng án treo…” đã được xác lập theo tinh thần khoản 2
Điều 60 Bộ luật hình sự đã viện dẫn trên. Song, vấn đề cần quan tâm là thời hạn bao lâu thì toà
án gửi quyết định thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo và trích lục bản án cho viện kiểm sát
để thực hiện chức năng kiểm sát thi hành án và gửi cho cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục để họ
thực hiện trách nhiệm của mình theo luật định?
Về thi hành án với người chưa thành viên: Việc giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân
chưa thành niên chưa tách biệt khỏi việc giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân đã thành niên;
chưa bố trí công việc phù hợp với người chưa thành niên và chưa sử dụng hợp lý kết quả lao
động của phạm nhân chưa thành niên, chưa bảo dảm cho các em có điều kiện học tập, nghỉ ngơi
vui chơi giải trí, chưa quy định về trợ giúp pháp lý với người chưa thành niên phạm tội và cơ chế
giải quyết khiếu nại, tố cáo của các em.
Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và án treo đối với người chưa thành niên
phạm tội còn nhiều bất cập. Việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và án treo đối với
người chưa thành niên phạm tội có nhiều nét dặc thù song pháp luật hiện hành chưa có quy định
riêng về vấn đề này. Vai trò của các cơ quan tổ chức hữu quan chưa được quy dịnh rõ ràng.
Biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn ít được
áp dụng. Từ khi có nghị định 52/2011/NĐ-CP mới chỉ có 24 người chưa thành niên phạm tội bị
áp dụng biệp pháp tư pháp này.

Công tác tái hòa nhập cộng đồng cho những người chấp hành xong hình phat: Cơ chế
tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam là một cơ chế phối hợp không có cơ quan chuyên trách. Đây
là một hạn chế ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của công tác này. Việc phân loại đối tượng bị kết án
phạt tù, trể em trong trường giáo dưỡng, người bị đưa vào cơ sở chữa bệnh chưa thực sự gắn liền
với công tác tái hòa nhập cộng đồng.


3.2. Nguyên nhân của những bất cập trong việc bảo vệ các quyền con người trong
pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam
3.2.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, những năm qua, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, số người bị tạm giữ,
tạm giam nói chung và số phạm nhân cơ bản tăng (giảm do chính sách khoan hồng của Nhà
nước), trong khi đó cơ sở giam giữ chưa đáp ứng yêu cầu giam giữ đã gây nên những khó khăn
cho công tác quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù cũng như thực hiện chế độ đối với
người chấp hành án phạt tù.
Thứ hai, việc trang bị phương tiện, dụng cụ y tế phục vụ việc khám bệnh cho phạm nhân,
người bị tạm giam cho các trạm y tế trong các trại giam, trại tạm giam còn thiếu, chưa đáp ứng
được yêu cầu khám, chữa bệnh cho cho phạm nhân, người bị tạm giam.
Thứ ba, trước khi Luật Thi hành án hình sự được ban hành về cơ bản hoạt động thi hành án
hình sự được thực hiện theo những văn bản pháp luật đơn hành. Qua thực tiễn thi hành, nhìn
chung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cũng phát huy tác dụng và có hiệu quả trong
công tác thi hành án hình sự; bảo đảm sự nghiêm minh, khoan hồng, nhân đạo trong trừng trị và
giáo dục cải tạo người phạm tội, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3.2.2. Những nguyên nhân chủ quan:
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan như đã đề cập ở trên, những tồn tại trong hoạt
động bảo vệ quyền con người trong thi hành án hình sự còn do những nguyên nhân chủ quan
sau:
Thứ nhất, nhận thức về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan và cá nhân có thẩm
quyền trong thi hành án hình sự còn chưa đầy đủ, chưa làm hết chức năng nhiệm vụ theo luật

định.
Thứ hai, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật thi hành án hình sự, các tài liệu
hướng dẫn công tác nói chung và các quy định về đảm bảo quyền con người trong hoạt động thi
hành án hình sự nói riêng của một số cá nhân có thẩm quyền trong thi hành án hình sự chất
lượng còn hạn chế, việc áp dụng và vận dụng các quy định pháp luật thi hành án hình sự để bảo
vệ các quyền con người còn thấp. Năng lực, trình độ, thao tác nghiệp vụ của một số cán bộ có
thẩm quyền trong công tác thi hành án hình sự còn có mặt hạn chế; chưa đề cao ý thức trách
nhiệm của cán bộ thực thi nhiệm vụ.
Thứ ba, sự phối hợp liên ngành giữa các cơ quan có thẩm quyền nhằm đảm bảo quyền
con người trong hoạt động thi hành án hình sự chưa chặt chẽ.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ các quyền con người trong pháp


luật thi hành án hình sự Việt Nam
3.3.1. Hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự
Việc hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự phải đáp ứng yêu cầu của việc phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, của quá trình hội nhập kinh tế, quốc tế và khu vực.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự phải thể chế hóa quan điểm, chủ trương
của Đảng về quyền con người
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự phải đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự phải phù hợp với chuẩn mực quốc tế về
quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.
3.3.2. Đầu tư cơ sở vật chất đảm bảo thi hành án
Một trong những nguyên nhân của tình trạng quyền con người chưa được đảm bảo trên thực
tế mặc dù pháp luật đã có những quy định chặt chẽ, cụ thể thể hiện sự đảm bảo quyền con người
chính là do thiếu kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thi hành án.
3.3.3. Xây dựng mô hình thi hành án hợp lý
Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa VII "sớm xây dựng và hoàn thiện pháp

luật về thi hành án theo hướng tập trung về Bộ Tư pháp" cần đổi mới công tác thi hành án, chế
độ, thủ tục quyền và nghĩa vụ của các cán bộ làm công tác thi hành án theo hướng cơ quan quản
lý công tác thi hành án nên giao cho Bộ Tư pháp. Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ 8 Khóa VII và Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 3 Khóa VIII
đã đề ra: "Kiện toàn các tổ chức thi hành án, bảo đảm thi hành đầy đủ, nhanh chóng các bản án
và quyết định của Tòa án; chấn chỉnh các trại giam để giáo dục, cải tạo tốt phạm nhân", và
"Chuẩn bị điều kiện để tiến tới giao cho một cơ quan quản lý tập trung thống nhất công tác thi
hành án".
3.3.4. Tăng cường, nâng cao đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật
Muốn quyền con người được đảm bảo trong quá trình thi hành án thì bản thân những cán
bộ thực thi pháp luật phải tôn trọng những quyền con người của người chấp hành án. Bởi, như
Hồ Chủ tịch đã từng dạy: ″Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém. Đó là
một chân lý″ [46, tr 240].
3.3.5. Tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật
Tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật là một hoạt động có vai trò quan trọng. Muốn
pháp luật đi vào cuộc sống và được thực hiện nghiêm chỉnh trước hết phải đảm bảo cho văn bản
pháp luật đó được phổ biến đến quần chúng nhân dân giúp người dân nhận thức được và hiểu


đúng tinh thần của luật, từ đó nâng cao giác ngộ, ý thức pháp luật của công dân để họ có sự lựa
chọn xử sự cho phù hợp. Tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật là hoạt động có tính chất
phòng ngừa chung và có hiệu quả lâu bền đảm bảo cho pháp luật thâm nhập vào thực tiễn đời
sống và phát huy hiệu lực. Trên tinh thần đó việc tuyên tryền phổ biến kiến thức pháp luật nói
chung và pháp luật thi hành án hình sự nói riêng cần được thực hiện một cách nghiêm túc và
thường xuyên. Thông qua đó mà những người tham gia vào những quan hệ xã hội này và những
người có liên quan biết được quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. Đồng thời để cho mọi người
dân có thể biết và hiểu về chính sách hình sự nhân đạo, bảo vệ quyền con người của Đảng và
Nhà nước ta gây dựng lòng tin của nhân dân vào Đảng vào Nhà nước, vào chế độ xã hội chủ
nghĩa. Bởi những lý do đó mà Điều 7 Luật thi hành án hình sự đã quy định trách nhiệm của các
cơ quan tổ chức trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật.

3.3.6. Bổ sung việc thực hiện nghĩa vụ dân sự trong công tác đặc xá
Để đảm bảo chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta được áp dụng đúng
người, đúng việc; cũng như hạn chế những mặt tiêu cực của “hậu đặc xá”, chúng tôi xin đưa ra
một số kiến nghị như sau:
Bổ sung kết quả thi hành nghĩa vụ dân sự của người bị kết án tù vào những tiêu chuẩn,
điều kiện để được hưởng chính sách đặc xá. Theo đó, cần xem xét thái độ và mức độ thi hành
nghĩa vụ dân sự của đối tượng và thân nhân khi xét đặc xá.
Bên cạnh đó, cơ quan Thi hành án dân sự cần phối hợp chặt chẽ với trại giam, trại tạm
giam trong công tác tuyên truyền, phổ biến về chính sách đặc xá của Nhà nước, gắn liền với việc
thi hành nghĩa vụ dân sự. Đối với trường hợp người bị kết án tù không có điều kiện thi hành và
gia đình cũng không có khả năng nộp thay nhưng đủ điều kiện xét miễn, giảm thi hành án thì lập
thủ tục miễn, giảm thi hành án và chuyển giao hồ sơ cho Viện Kiểm sát, Tòa án cùng cấp xem
xét miễn giảm để bảo đảm quyền lợi của người bị kết án phạt tù.
3.3.7. Hợp tác quốc tế trong thi hành án hình sự.
Hợp tác quốc tế trong thi hành án hình sự được thể hiện ở những nội dung như:
- Hợp tác xây dựng pháp luật về thi hành án hình sự
- Hợp tác đào tạo cán bộ thi hành án hình sự
- Hợp tác trao đổi kinh nghiệm, hội thảo khoa học, chuyển giao công nghệ phục vụ công
tác thi hành án
- Hợp tác truy tìm phạm nhân bỏ trốn, truy tìm tang vật, chứng cứ, thu hồi tài sản, truy nã
quốc tế, dẫn độ tội phạm
- Thu hút sự tham gia của các tổ chức quốc tế, các quốc gia trên thế giới hỗ trợ kinh phí,
cơ sở vật chất để xây dựng trại giam, cơ sở vật chất phục vụ việc thi hành án hình sự, hỗ trợ tạo


việc làm cho người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Tòa án….
KẾT LUẬN.
Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án có mối
quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích của thi hành án
không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên

vô nghĩa. Nếu như một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành
hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem
thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu
cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nước. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người
và của Nhà nước, pháp luật qua từng gia đoạn cụ thể, vấn đề bảo vệ các quyền con người trong
pháp luật đấu tranh chống tội phạm nói chung và pháp luật thi hành án hình sự nói riêng luôn
được quan tâm và sửa đổi theo hướng đảm bảo tốt nhất các quyền con người. Chúng ta không
thể phủ nhận những kết quả đã đạt được của thi hành án Hình sự trong những năm vừa qua, hàng
vạn người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt, trở về với cuộc sống lương thiện. Thi hành án
hình sự có những đóng góp quan trọng nhằm bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của
Tòa án, góp phần giữ vững trật tự kỷ cương và ổn định xã hội.
Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền con người và bảo đảm quyền con người
bằng pháp luật thi hành án hình sự, xây dựng tiền đề lý luận cho việc đánh giá các quy định hiện
hành về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng. Chương 1 của luận văn đã tập trung phân tích, xây
dựng các khái niệm cơ bản về "Quyền con người" và "Bảo đảm quyền con người bằng pháp luật
thi hành án hình sự" trên cơ sở tham khảo, kế thừa và phát triển các khái niệm có liên quan của
các nhà khoa học trước đó.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng đã làm rõ được nguồn gốc, tính chất của quyền con
người, những đặc điểm của việc bảo đảm quyền con người bằng pháp luật thi hành án hình sự,
quá trình phát triển các quy định của pháp luật thi hành án hình sự trong việc bảo đảm quyền con
người.
Trên cơ sở vận dụng kết quả nghiên cứu lý luận tại Chương 1 để soi sáng luật thực định về vấn
đề đảm bảo quyền con người, Chương 2 của bản luận văn đã chỉ ra và phân tích những quy định của
pháp luật hiện hành (Luật thi hành án hình sự năm 2010) trong việc đảm bảo các quyền con người.
Về cơ bản, Luật thi hành án hình sự đã ghi nhận và bảo vệ các quyền con người của những người
chấp hành án từ những người có khung hình phạt cao nhất là tử hình đến những người bị áp dụng các
biện pháp tư pháp. Đặc biệt, Luật thi hành án hình sự cũng đã phân hóa những người chấp hành án
thành những nhóm đối tượng phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm, giới tính, độ tuổi để đảm bảo quyền
con người cho phù hợp. Tuy nhiên, mặc dù là một văn bản pháp luật mới, mới có hiệu lực thi hành từ



ngày 01 tháng 11năm 2011 nhưng Luật thi hành án hình sự chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu
của hoạt động thi hành án nói chung và vấn đề đảm bảo quyền con người nói riêng. Đặc biệt là vấn
đề tái hòa nhập cộng đồng cho những người đã chấp hành xong bản án, quyết định của tòa án.
Để có cơ sở vững chắc cho việc đề xuất kiến nghị, luận văn đã tập trung nghiên cứu, khảo
sát về thực tiễn thi hành án hình sự và vấn đề bảo vệ các quyền con người trong công tác thi hành
án hình sự. Luận văn chủ yếu đưa ra thực tiễn thực hiện các quy định của các văn bản pháp luật
đơn hành về thi hành án hình sự trước ngày 01 tháng 7 năm 2011.
Những hạn chế, bất cập và vướng mắc nảy sinh trước hết là do pháp luật thi hành án hình
sự của chúng ta về vấn đề này còn thiếu cụ thể, chưa hợp lý hoặc thiếu vắng những cơ chế cần
thiết để bảo vệ các quyền con người. Ngoài ra, sự hạn chế trong việc bảo đảm quyền con người
còn có nguyên nhân như: khó khăn, thiếu thốn về cơ sở phục vụ công tác thi hành án, nguồn lực
thi hành án ít về số lượng, kém về chất lượng.
Những tồn tại vướng mắc bắt nguồn từ quy định của các văn bản pháp luật đơn hành đã
được khắc phục trong Luật thi hành án hình sự 2010 sẽ không được nhắc đến trong phần giải
pháp hoàn thiện pháp luật.
Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, kết nối giữa nghiên cứu lý luận, luật thực định và
thực tiễn thi hành án hình sự trong việc bảo vệ các quyền con người, luận văn đã cố gắng luận
giải và đề xuất những kiến nghị có giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu
quả của việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật thi hành án hình sự ở Việt Nam.
References
1. Quốc hội (2010), Luật Thi hành án hình sự Việt Nam.
2. Quốc hội (1985),Bộ luật hình sự.
3. Quốc hội (1999),Bộ luật hình sự.
4. Quốc hội (2009),Bộ luật hình sự.
5. Quốc hội (2003),Bộ luật tố tụng hình sự.
6. Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi). nxb Chính
trị Quốc gia. Hà Nội, năm 2002.
7. Quốc hội, Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992) NXB Chính trị Quốc
gia. Hà Nội, năm 1995.



8. Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới”.
9. Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
10. Thông tư liên tịch số 07/TTLT ngày 29/4/2004 của Bộ công an và VKSNDTC hướng
dẫn “Về việc thực hiện một số quy định của pháp lệnh thi hành án phạt tù đối với phạm nhân
đang chấp hành hình phạt tại nhà tạm giữ”.
11. Lê Cảm (2009), Sách chuyên khảo “Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền”, Nxb ĐHQG Hà Nội.(7, tr.224), tr.11.
12. Lê Cảm. “Nhà nước pháp quyền: Các nguyên tắc cơ bản” - Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, số 9/2001.
13. Lê Cảm. “Cải cách hệ thống Tòa án trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam” - Tạp chí nghiên cứu pháp luật số 04/2002.
14. Lê Cảm. “Tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam” - Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2001.
15. Lê Cảm. “Những vấn đề lý luận cấp bách về cải cách tư pháp được triển khai nghiên
cứu trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay”. Tạp chí Kiểm sát, 7/2003.
16. Lê Cảm. Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật tố
tụng hình sự - Tạp chí luật học số 6/2004.
17. Lê Cảm. hệ thống pháp luật đấu tranh chống tội phạm, chính sách hình sự và nguồn
của Luật hình sự Việt Nam - Tạp chí dân chủ và pháp luật số 07/2004.
18. Lê Cảm. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu tranh chống tội phạm ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền - Tạp chí Khoa học (Chuyên san Kinh tế Luật), số 03/2004.
19. Lê Cảm. Những vấn đề lý luận cơ bản về bản án hình sự - Tạp chí dân chủ và pháp
luật số 8/2004.
20. Lê Cảm. Khoa học luật hình sự: Một số vấn đề cơ bản về khái niệm, các phương pháp
nghiên cứu, thành tựu, hạn chế và những phương hướng - Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
8/2004.(8)



21. Lê Cảm. Chế định án treo và mô hình lý luận của nó trong Luật hình sự Việt Nam Tạp chí Tòa án số 02 - tháng 01/2005.(12), tr 13 – 15.
22. Lê Cảm. Chế định án tích và mô hình lý luận của nó trong Luật hình sự Việt Nam Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 02/2005.
23. Lê Cảm. Chế định đặc xá, chế định đại xá và mô hình của nó trong Luật hình sự Việt
Nam - Tạp chí Tòa án nhân dân số 5, tháng 03/2005.
24. Lê Cảm (2000), “ Luật hình sự Việt Nam trước thế kỷ XV”, Tạp chí dân chủ và Pháp
luật.(5),tr.16.
25. Lê Cảm (2000), “Hình phạt và biện pháp tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam”, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật. (8),tr.11.
26. Lê Cảm, Trịnh Tiến Việt (2008) “Thực trạng các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí khoa học - Đại học Quốc
gia Hà Nội.(4), tr 206-217.
27. Chính phủ (2000), Nghị định số 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc thi
hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
28. Chính phủ (2000), Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo.
29. Chính phủ (2001), Nghị định số 53/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn thi hành
các hình phạt cấm cư trú và quản chế.
30. Chính phủ (2001), Nghị định số 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn về việc
thi hành hình phạt trục xuất.
31. Đỗ Văn Chỉnh (2009), “Hình phạt tiền và thực tiến áp dụng”, Tạp chí Tòa án.
32. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
33. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị Quốc gia Hà Nội.
34. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.



×