Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên từ thực tiễn thị xã sơn tây, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.35 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực.
kết luận khoa học của luận văn chưa
LẠINhững
HỮU BÌNH
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành

: Chính sách LẠI
côngHỮU BÌNH

Mã số

: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS VĂN TẤT THU

HÀ NỘI, 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LẠI HỮU BÌNH


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC
LÀM CHO THANH NIÊN… ........................................................................................... 7
1.1. Một số khái niệm: việc làm, chính sách việc làm; chính sách việc làm cho thanh
niên, thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên… ...................................................... 7
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc làm cho thanh
niên.................... ............................................................................................................. .14
1.3. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên …21
1.4. Nội dung các bước trong tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh
niên…… ......................................................................................................................... .22
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách việc làm cho thanh niên… ......................... .27
1.6. Những yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh
niên……………………… ............................................................................................. .30
1.7. Các phương pháp tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên… ........... 32
1.8. Các chủ thể tham gia thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên ...................... .33
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CHO
THANH NIÊN TẠI THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI… ........................... .36
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội ảnh
hưởng đến thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên… ......................................... .36

2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên tại thị xã Sơn
Tây, thành phố Hà Nội ................................................................................................... .39
2.3. Thực trạng các chủ thể tham gia thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên
tại thị xã Sơn Tây… ........................................................................................................ 47
2.4. Thực trạng bảo đảm các yêu cầu trong tổ chức thực hiện chính sách việc làm
cho thanh niên tại thị xã Sơn Tây… ............................................................................... .48
2.5. Kết quả thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên tại thị xã Sơn Tây, thành
phố Hà Nội… .................................................................................................................. 49
2.6. Đánh giá chung kết quả tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên
tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội…… ...................................................................... 55
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY………… ...................... 61
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên
ở nước ta hiện nay……… .............................................................................................. .61
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên
ở nước ta hiện nay…………… ...................................................................................... .66
KẾT LUẬN………… ..................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 81


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

TNCS


Thanh niên cộng sản

LHPN

Liên hiệp phụ nữ

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

KT-XH

Kinh tế - xã hội

GCNQSD

Giấy chứng nhận quyền sử dụng

TBXH

Thương binh xã hội

QPPL

Quy phạm pháp luật

TNNT

Thanh niên nông thôn


THPT

Trung học phổ thông

ĐH

Đại học



Cao đẳng

TBXH

Thương binh xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mọi
quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như
Việt Nam. Giải quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường
lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần
tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để
phát triển, tiếp kịp khu vực và thế giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm, Đảng và Nhà nước
ta đã đề ra nhiều chủ chương, đường lối, chính sách thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy
tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng
yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo nhiều việc làm cho người lao

động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông
thôn, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Qua gần 30 năm đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn về tăng trưởng
kinh tế, Việt Nam cũng đạt được những kết quả quan trọng trong việc giải quyết
việc làm cho người lao động, đời sống người lao động trong đó có tầng lớp thanh
niên được cải thiện rõ rệt. Thanh niên là lực lượng tiên phong trong phát triển chính
trị, kinh tế và xã hội, đồng thời cũng là lực lượng mang lại sự thay đổi và đổi mới.
Thế giới việc làm tạo môi trường cho thanh niên để họ tham gia một cách chủ động
vào xã hội, cống hiến tài năng và tầm nhìn cho tương lao, phát triển cam kết và các mối
quan hệ xã hội. Tuy nhiên, tính trung bình, tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên cao hơn từ hai
đến ba lần so với nhóm dân số lớn tuổi hơn, nhất là thanh niên ở nông thôn, những
vùng khó khăn.
Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, thị xã Sơn Tây, thành phố
Hà Nội nằm ở khu vực ngoại thành Hà Nội, quá trình đô thị hoá đang diễn ra nhộn
nhịp. Đó là một quy luật phát triển tất yếu, đem lại một cuộc sống văn minh, hiện
đại hơn và một nền kinh tế phát triển hơn. Song, đằng sau những biến đổi tích cực
đó còn những vấn đề xã hội khác đang cần quan tâm giải quyết. Điển hình hơn cả là
vấn đề việc làm của thanh niên thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Điều này được
phát huy hiệu quả hay không phụ thuộc một phần vào chính sách và sự quan tâm
1


của chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng trong tổ chức thực hiện
chính sách việc làm cho thanh niên.
Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên thời gian qua trong cả nước
nói chung, ở thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội nói riêng đã đạt được những kết quả
đáng ghi nhận. Song bên cạnh các ưu điểm, các kết quả đạt được còn bộc lộ các hạn
chế, bất cập ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện mục tiêu chính sách. Các hạn chế,
bất cập đó cần phải nghiên cứu đề xuất các giải pháp khắc phục. Với ý nghĩa đó, tôi

chọn đề tài: “Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên từ thực tiễn thị xã
Sơn Tây, thành phố Hà Nội’’ làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
vấn đề này, dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể nêu một số đề tài sau:
- Đề tài cấp nhà nước 70 A.02.02 “Sử dụng nguồn lao động và giải quyết
việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”, của Bộ
Lao động-Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 1994.
- Đề tài cấp nhà nước KX-07-05-05: “Những đặc trưng và xu hướng biến đổi
của cơ cấi xã hội nghề nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay, dự báo và kiến
nghị”, do tiến sĩ Nguyễn Đình Tấn-Giám đốc Trung tâm Xã hội học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm, 1995.
- Đề tài “Quản lý nhà nước về việc làm ở Hà Nội”, luận án Tiến sĩ Kinh tế
Trần Văn Tuấn, Hà Nội, 1995.
- “Thị trường sức lao động thực trạng và giải pháp” của Phó Tiến sĩ Nguyễn
Quang Hiền, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1995.
- “Chiến lược việc làm và đào tạo nghề thời kỳ 2001-2010” của tiến sĩ
Nguyễn Hữu Dũng, Tạp chí Lao động Xã hội, 2001.
- Đề tài “Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm qua thực tế ở
Hà Nội”, luận án Tiến sĩ Kinh tế Đỗ Thị Xuân Phương, Hà Nội, 2005.
- Đề tài “Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc”, luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội, 2002 bảo vệ tại Học Viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Bài viết của PGS. TS Trần Việt Tiến (2012), “ Chính sách việc làm ở Việt
Nam: Thực trạng và định hướng hoàn thiện” bài viết đã góp phần làm rõ thực trạng

2


chính sách việc làm ở nước ta hiện nay, từ đó đưa ra định hướng các giải pháp hoàn

thiện chính sách việc làm tới năm 2020.
- Bài viết của TS. Đỗ Phú Hải (2014), "Chính sách lao động - việc làm: Thực
trạng và giải pháp", Học viện khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam. Bài viết tập trung trình bầy những kết quả nghiên cứu về vấn đề lao động
việc làm và các trở ngại chính sách, trên cơ sở mục tiêu của Đảng tại Đại hội XI đã
xác định đưa ra những giải pháp và công cụ chính sách nhằm cơ cấu lại và sử dụng
hợp lý nguồn lực lao động xã hội để phát triển nền kinh tế nước ta, hướng tới mục
tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Thông tin chuyên đề của Viện nghiên cứu lập pháp, trung tâm thông tin
khoa học "Pháp luật việc làm và một số đề xuất, kiến nghị xây dựng luật",
- Bài viết của PGS.TS Văn Tất Thu, “Chính sách sử dụng, trọng dụng nhân
tài, trí thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng chính quyền dân chủ nhân
dân và kháng chiến kiến quốc” trên Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc
gia, Số 8/2015, tr. 14 – 19.
- Bài viết của PGS. TS Văn Tất Thu, “Cơ sở lý luận để xác định vấn đề chính
sách công” trên tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, Số
2/2016, tr. 16 – 20.
- Bài viết của PGS.TS Văn Tất Thu, “Năng lực thực hiện chính sách công –
Những vấn đề lý luận và thực tiễn” trên tập chí Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ, số
12/2014, tr 31 – 35.
- Nguyễn Thúy Hà (2013), "Chính sách việc làm: thực trạng và giải pháp".
- Bùi Thị Thúy (2005) "Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện
nay"; luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về lao động việc làm, quan niệm về việc làm và
những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm, luận văn phân tích thực trạng tạo việc làm
ở Hải Dương, chỉ ra xu hướng tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay. Trên cơ sở đó, đề
xuất các giải pháp chủ yếu để tạo việc làm ở Hải Dương trong thời gian tới.
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về việc làm và giải quyết việc làm cho
lao động nông nghiệp.
- Nguyễn Thị Lan Hương (2002), "Thị trường lao động Việt Nam: Định hướng

và phát triển", Nhà xuất bản Lao động - xã hội, Hà Nội. Tác giả đi từ việc phân tích

3


các luận cứ cơ bản định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam, sự hình thành
và phát triển của thị trường lao động Việt Nam. Từ đó đề xuất các giải pháp định
hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam giai đoạn 2001- 2010.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với những
cách tiếp cận khác nhau.
Có thể thấy rằng, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào đã công bố,
tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn thị xã
Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Tuy vậy, nghiên cứu các công trình đã công bố, tôi
cũng tham khảo được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài
của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những vấn đề được nghiên cứu trong các
công trình khoa học đó, kết hợp với khảo sát thực tế ở địa bàn thị xã Sơn Tây, thành
phố Hà Nội, tôi có thể rút ra và kiến nghị những giải pháp giải quyết việc làm cho
thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách việc làm cho thanh
niên để có cơ sở khoa học đánh giá chính sách việc làm cho thanh niên từ thị xã Sơn
Tây, thành phố Hà Nội và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách việc
làm cho thanh niên ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, Luận văn có những nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận: Khái niệm về việc làm, chính sách việc làm;
chính sách việc làm cho thanh niên, thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên;
quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc làm cho thanh niên; ý nghĩa,

tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên; nội dung các
bước trong tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên; các yếu tố ảnh
hưởng đến chính sách việc làm cho thanh niên; những yêu cầu cơ bản trong tổ chức
thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên; các phương pháp tổ chức thực hiện
chính sách việc làm cho thanh niên; các chủ thể tham gia thực hiện chính sách việc
làm cho thanh niên.

4


- Khảo sát, đánh giá làm rõ thực trạng thực hiện chính sách việc làm cho
thanh niên tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội; chỉ rõ ưu điểm, hạn chế, bất cập và
nguyên nhân của các hạn chế bất cập.
- Đưa ra được phương hướng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Chính sách việc làm cho thanh niên trên địa bàn thị xã Sơn Tây, cụ thể là
nghiên cứu giải pháp và công cụ chính sách việc làm cho thanh niên dưới góc độ
khoa học chính sách công.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu tại thị xã Sơn Tây, nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách
việc làm cho thanh niên từ năm 2011 đến nay và đề ra giải pháp hoàn thiện chính
sách việc làm cho thanh niên của thị xã Sơn Tây trong thời gian tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và luận văn
triệt để vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy
phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực
hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý

thuyết chính sách công được soi sáng qua thực tiễn của chính sách công giúp hình
thành lý luận về chính sách chuyên ngành.

Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thu thập thông tin: Phân tích và tổng hợp và khai thác thông tin
từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu,
Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa phương;
các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành
đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách việc
làm ở nước ta nói chung và thực tế thị xã Sơn Tây nói riêng. Đồng thời, thu thập các tài
liệu của các tổ chức và học giả quốc tế liên quan đến đề tài trong thời gian qua.
Thu thập, tìm hiểu và vận dụng các lý thuyết của ngành chính sách xã hội
liên quan đến vấn đề chính sách việc làm cho thanh niên
5


Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu là phương pháp được dùng khá
phổ biến trong nghiên cứu khoa học xã hội, đó là phương pháp đối thoại với một
đối tượng nhằm thu thập thông tin. Theo dự kiến thiết kế nghiên cứu có phương
pháp điều tra bằng bảng hỏi đối với đối tượng là những người nằm trong độ tuổi lao
động và những người chưa có việc làm và chưa qua đào tạo. Tuy nhiên, do thời gian
có hạn nên tác giả tập trung vào phương pháp phỏng vấn sâu nghiên cứu chính sách.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận:
- Đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận, người học nghiên cứu và vận dụng các
lý thuyết về chính sách công.
- Kết quả đánh giá nghiên cứu làm sáng tỏ, minh chứng cho các thuyết liên
quan đến chính sách công, từ đó hình thành các tiến trình đề xuất các giải pháp
chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách đã ban hành.
Ý nghĩa thực tiễn:

- Luận văn cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc vận dụng
các lý thuyết về chính sách công để xem xét giữa lý thuyết và thực tiễn về chính
sách việc làm cho thanh niên ở thị xã Sơn Tây để từ đó nâng cao hiệu quả chất
lượng của chính sách trong những năm tiếp theo.
- Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành
thị xã trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách một cách hiệu quả trong
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương, không kể phần mở đầu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo. Luận văn được kết cấu theo 03 chương sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách việc làm cho
thanh niên.
- Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên tại thị
xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
- Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách việc làm cho thanh niên ở nước ta hiện nay.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
1.1. Một số khái niệm: việc làm, chính sách việc làm, chính sách việc làm
cho thanh niên, thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên
* Khái niệm việc làm
Ngày nay, việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn đề có
tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của một đất nước. Tăng việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp là một
trong những biện pháp quan trọng để từng bước ổn định và nâng cao đời sống nhân

dân, đảm bảo phát triển bền vững. Đặc biệt đối với Việt Nam, tốc độ tăng dân số,
nguồn lao động cao, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm bị hạn chế do
khả năng cung về vốn, tư liệu sản xuất còn thấp.
Về mặt bản chất, việc làm là quan hệ tích cực, sáng tạo của chủ thể việc làm
với hoạt động sống của mình, với ý nghĩa, nội dung và mục đích đặt ra. Tuỳ thuộc
vào từng thời điểm, không gian và từng chủ thể có cách tiếp cận vấn đề, đưa ra các
khái niệm khác nhau về việc làm.
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và
nhân khẩu; nó thuộc loại vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội. Hiện nay,
trên các phương tiện thông tin đại chúng, khái niệm “việc làm” và “thị trường lao
động” không hiếm khi bị đồng nhất với nhau. Hệ thống việc làm được đưa thêm
hàng loạt chức năng không đúng là tính chất của nó, còn thị trường lao động được
tăng thêm tính chất tổng hợp. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không hoàn toàn giống nhau. Việc làm không phải là
hoạt động mà là những quan hệ xã hội giữa con người, mà trước hết là những quan
hệ kinh tế và pháp lý về việc đưa người lao động vào hợp tác lao động cụ thể trong
một chỗ làm việc xác định. Hoạt động lao động, trước hết, đó là một quá trình, còn
việc làm là tài sản của chủ thể mà bằng cách nào đấy được đưa vào (hay là loại trừ
ra) từ quá trình đó. Về giác độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức
lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá
7


trình sản xuất. Việc làm gắn với quá trình tăng thu nhập, giảm sự nghèo khổ của
người lao động, đồng thời không đi ngược lại với lợi ích cộng đồng mà pháp luật
quy định. Nói cách khác, việc làm là công việc, những hoạt động có ích, không bị
pháp luật cấm và mang lại thu nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện để tăng thu
nhập cho các thành viên trong gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội.
Nhà khoa học nổi tiếng trong kinh tế lao động người Nga Kotlia A., đã đưa
ra khái niệm việc làm như phạm trù kinh tế nói chung tồn tại ở mọi hình thái xã hội.

Đồng thời, việc làm là phạm trù tái sản xuất xã hội, mà không thể đồng nhất với lao
động và sử dụng sức lao động. Nó định rõ đặc tính dân số hoạt động kinh tế so với
những yếu tố sản xuất vật chất thể hiện quan hệ giữa con người về việc tham gia
của họ vào trong sản xuất xã hội.
Các nhà khoa học kinh tế Anh thì lại cho rằng “việc làm theo nghĩa rộng là
toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩ là tất cả những gì quan hệ đến
cách kiếm sống của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành
vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế” 4, tr.315. Theo quan điểm này thì tất cả
những việc làm tạo ra thu nhập mà không cần phân biệt có được pháp luật thừa nhận
hay ngăn cấm đều được gọi là việc làm.
Các nhà kinh tế Sônhin và Grincốp của Liên xô lại cho rằng, “việc làm là sự
tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong khu
vực xã hội hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh tế
phụ của các nông trang viên” 4, tr.315. Theo khái niệm này thì những người đang
đi học, đang tham gia hoạt động trong các lực lượng vũ trang, những người nội trợ
đều coi là người có việc làm. Ngày nay, ở Liên Bang Nga khái niệm này được quy
định rõ trong Bộ Luật Việc làm của dân cư Liên bang Nga như sau: “việc làm là
hoạt động của công dân nhằm thoả mãn những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem
đến cho họ thu nhập và không bị pháp luật Liên bang ngăn cấm” 4, tr.315.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khái niệm việc làm chỉ đề cập đến
trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân thành hai
loại: Có trả công (những người làm thuê, học việc...) và không được trả công nhưng
vẫn có thu nhập (những người như giới chủ làm kinh tế gia đình...). Vì vậy, “việc
làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền
8


hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào
nỗ lực sản xuất” 4, tr.314. Theo khái niệm này, người có việc làm là người làm
việc gì đó để được trả công, lợi nhuận được thanh toán bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc

tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập
của gia đình (không được nhận tiền công hay hiện vật). Khái niệm này đã được
chính thức nêu tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của nhà thống kê lao động
(ILO.1993) và đã được áp dụng ở nhiều nước. Tuy nhiên, quan niệm này mang
nghĩa rất rộng, bao trùm mọi hoạt động lao động của con người. Trong thời đại
ngày nay, với quan niệm trên, có rất nhiều người sẽ thuộc diện có việc làm, bao
gồm: những hoạt động mang tính hợp pháp và những hoạt động mang tính phi pháp
hay là những hoạt động lao động của con người vi phạm pháp luật hoặc bị cho là vi
phạm đạo đức xã hội và bị ngăn cấm ở một số nước. Ví dụ, việc buôn bán heroin,
mại dâm,... ở các nước như Hà Lan, Colômbia thì không cấm, nhưng những hoạt
động này bị cấm ở các nước khác, đặc biệt là các nước Châu Á như: Việt Nam,
Trung Quốc... Do vậy, khái niệm trên chỉ mang tính khái quát, là cơ sở nghiên cứu
vấn đề chung cho các nước trên thế giới.
Ở nước ta, trong thời kỳ tập trung bao cấp, nhà nước đã đứng ra giải quyết
việc làm, trực tiếp quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ đến việc sử
dụng đãi ngộ đối với người lao động thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh. Trong giai
đoạn này, những khái niệm về thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy
đủ... hầu như không được biết đến. Còn khái niệm “thất nghiệp” dường như là điều
cấm kị nói tới dưới bất kỳ hình thức nào, trong nền kinh tế quốc dân, xu hướng
quốc doanh hoá được coi là một điều tất yếu. Hướng phấn đấu của mọi cơ sở sản
xuất kinh doanh là chuyển nhanh vào khu vực quốc doanh, đối với mỗi công dân là
vào đội ngũ viên chức nhà nước. Do đó việc làm và người có việc làm được xã hội
thừa nhận và trân trọng là những người làm việc trong thành phần kinh tế quốc
doanh, khu vực Nhà nước và kinh tế tập thể. Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, quan
điểm về việc làm được hiểu là hoạt động lao động không bị pháp luật ngăn cấm tạo
thu nhập hoặc tạo ra điều kiện cho các thành viên trong hộ gia đình có thêm thu nhập.
Điều này cũng phù hợp với các nhìn nhận và phân tích của Nhà nước ta, được quy định
9



trong Điều 13 của Bộ luật Lao động: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập,
không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm” 27, tr.13.
Khái niệm việc làm của Bộ luật Lao động Việt Nam được cụ thể hoá, có thể
hiểu dưới ba dạng hoạt động sau: Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương
bằng tiền mặt hoặc hiện vật; làm các công việc để thu lợi nhân cho bản thân; làm các
công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền
lương, tiền công cho công việc đó.Theo quan niệm trên, một hoạt động được coi là
việc làm cần thoả mãn hai tiêu chí:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và
cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu
thức tạo ra thu nhập của việc làm.
Thứ hai, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ rõ tính
pháp lý của việc làm, quan niệm đã rõ ràng hơn so với quan niệm của tổ chức ILO.
Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi, ngành nghề và hoàn toàn phù hợp với
sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể,
có quyền tự do hành nghề, tư do liên kết kinh doanh, tự do tìm kiếm việc làm, tự do
thuê mướn lao động trong khuôn khổ của pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù
làm việc trong hay ngoài khu vực Nhà nước. Điều này khẳng định tính chất pháp lý
trong hoạt động của người lao động thuộc khu vực ngoài Nhà nước và các khu vực
phi chính thức.
Hai điều kiện trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều kiện cần và đủ để
một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động tạo ra thu
nhập, nhưng vi phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma tuý, mại dâm... thì
không được thừa nhận là việc làm. Mặt khác một hoạt động là hợp pháp và có ích,
nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm.
Nhận thức về việc làm và tạo việc làm đã có sự chuyển biến căn bản. Nếu
như trước đây, quan niệm phổ biến là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo việc làm và bố
trí việc làm cho người lao động thì nay đã chuyển sang quan niệm tạo việc làm là

trách nhiệm của Nhà nước, doanh nghiệp, xã hội và của chính bản thân người lao
động. Sự thay đổi quan niệm về việc làm của Nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị
10


trường, coi hoạt động lao động tao ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm, có vai trò quan trọng trong giải phóng sức lao động,
thúc đẩy tạo mở việc làm và phát triển thị trường lao động ở nước ta.
Quan niệm về việc làm nêu trên đã mang tính khái quát cao, tuy nhiên vẫn
còn một số hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, xét trên phạm vi rộng thì tính hợp pháp của một hoạt động lao
động được thừa nhận là việc làm tuỳ thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia và mỗi
thời kỳ. Có hoạt động là việc làm ở nước này nhưng lại không được thừa nhận là
việc làm ở nước khác.
Thứ hai, không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình và xã hội
đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần làm giảm chi tiêu cho gia đình thay vì thuê
người làm công.
Theo quan điểm của Mác: sức lao động do người lao động sở hữu; những
điều kiện cần thiết như vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…có thể do người lao động
có quyền sở hữu, sử dụng hay quản lý hoặc không. Bất cứ tình huống nào xảy ra
gây nên trạng thái mất cân bằng giữa sức lao động và điều kiện cần thiết để sử dụng
sức lao động đó đều có thể dẫn tới sự thiếu việc làm hay mất việc làm. Vì vậy, Mác
đã đưa ra khái niệm “việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao
động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để sử dụng
sức lao động đó”. Khái niệm này mang tính chất bao trùm, là cơ sở lý luận khoa học
và phù hợp với thực tiễn.
Từ những phân tích trên, tác giả đồng tình với khái niệm việc làm theo quan
điểm của Mác: “việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động
và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để sử dụng sức lao
động đó.”

* Khái niệm chính sách việc làm
- Khái niệm chính sách: Theo cách hiểu thông thường, chính sách là: “Chủ
trương và các biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính
trị -xã hội” [35, tr.155]
Theo Vũ Cao Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa,
mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một
11


hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng
hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát
triển của một hệ thống xã hội”
- Khái niệm chính sách công: Trên thế giới và ở Việt Nam có rất nhiều quan
niệm về chính sách công. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:
Chính sách công: là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của
một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các
mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978); “Chính
sách công là tất cả những gì Nhà nước chọn làm hoặc không làm” [42, tr.1]
Ở nước ta cũng có một số tác giải nghiên cứu về chính sách công, đã đưa ra
các định nghĩa chính sách công như: PGS.TS Lê Chi Mai (Học viện Hành chính
Quốc gia) đưa ra khái niệm chính sách công với các nội hàm sau:
- Chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước, chính sách do Nhà nước
ban hành nên chính sách công có thể coi là chính sách của Nhà nước.
- Chính sách công là những quyết định hành động, bao gồm cả những hành
vi thực tiễn, chính sách công không chỉ thể hiện dự định của Nhà nước hoạch định
chính sách về một vấn đề nào đó mà còn bao gồm những hành vi thực hiện dự định
đó. Nếu không có việc thực thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì
những chủ trương đó chỉ là những khẩu hiệu mà thôi.
- Chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề trong đời sống kinh tế- xã
hội theo những mục tiêu xác định.

Trong giáo trình “Hoạch định và phân tích chính sách công” của Học viện
Hành chính Quốc gia xuất bản năm 2013 cũng đưa ra định nghĩa chính sách công:
“Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề
phát sinh trong đời sống cộng đồng được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau,
nhằm thúc đẩy xã hội phát triển”[20]
PGS.TS Đỗ Phú Hải (Học viện Khoa học xã hội) đưa ra khái niệm chính
sách công: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan
của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải pháp thực hiện
giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định”

12


Các khái niệm định nghĩa nêu trên có sự khác nhau trong chừng mực nhất
định, nhưng đều có chung các nội dung nội hàm sau:
+ Chính sách công là chính sách của Nhà nước.
+ Là một tập hợp các quyết định chính trị có mối liên hệ với nhau.
+ Với những mục tiêu và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề xã hội
theo ý chí của đảng cầm quyền.
- Khái niệm chính sách việc làm
Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục tiêu, các
giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động và tạo việc làm cho lực
lượng lao động đó.
Nói cách khác, chính sách việc làm là sự thể chế hóa pháp luật của Nhà nước
trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm, phương hướng mục
tiêu và giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động.
* Khái niệm chính sách việc làm cho thanh niên
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng thì: Thanh niên là người còn trẻ, đang ở
độ tuổi trưởng thành [29,tr.35]. Thanh niên thường được xem như một nhóm xã hội
lứa tuổi hoặc một lát cắt chu kỳ sống của con người (tuổi thanh xuân), có sự khác

nhau với nhóm đối tượng lứa tuổi khác vì có một số đặc điểm lý do lứa tuổi.
Luật thanh niên được Quốc hội khóa XI thông qua có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/7/2007 quy định “Thanh niên… là công dân của nước Việt Nam từ đủ mười
sáu tuổi đến ba mươi tuổi”.
Theo Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hướng dẫn thực hiện Điều lệ
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thì độ tuổi đoàn viên là từ đủ 16 tuổi (15 tuổi + 1 ngày)
đến 30 tuổi.
Theo Điều lệ Hội LHTN Việt Nam, độ tuổi hội viên từ 16 tuổi đến 30 tuổi.
Từ những khái niệm nêu ở trên, có thể hiểu nêu ra khái niệm chính sách việc
làm cho thanh niên là: quan điểm, các quyết định chính trị có liên quan với nhau
của Nhà nước về việc làm cho thanh niên với mục tiêu, giải pháp cụ thể nhằm bảo
đảm quyền có việc làm và giải quyết việc làm cho thanh niên.
* Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên

13


Thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính
sách thành hiện thực, là bước đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách: hiện
thực hóa chính sách, đưa chính sách vào cuộc sống. Chất lượng hiệu quả thực hiện
chính sách phụ thuộc vào năng lực của đội ngũ cán bộ ,công chức trong thực hiện
chính sách. Thực trạng năng lực thực hiện chính sách ở nước ta cho ta thấy, bên
cạnh những ưu điểm còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Do đó nghiên cứu về vấn đề
lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách có ý nghĩa khoa học, thiết thực và cấp bách
hiện nay. Từ những luận giải trên đây có thể đi đến một khái niệm cơ bản về thực
hiện chính sách việc làm cho thanh niên như sau: Thực hiện chính sách việc làm
cho thanh niên là toàn bộ quá trình chính sách vào đời sống xã hội theo một quy
trình, thủ tục chặt chẽ và thống nhất nhằm giải quyết vấn đề việc làm đang diễn ra
đối với thanh niên trong một phạm vi không gian và thời gian nhất định.
Hoạch định chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng, nhưng thực

hiện đúng chính sách còn quan trọng hơn. Có chính sách đúng nếu không thực hiện
sẽ trở thành khẩu hiệu suông, không những không có ý nghĩa, mà còn ảnh hưởng
đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách . Nếu chính sách không
được thực hiện sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng và sự phản ứng của nhân dân đối với
nhà nước gây bất lợi về mặt chính trị và xã hội, gây những khó khăn, bất ổn cho nhà
nước trong quản lý.
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc làm cho
thanh niên
1.2.1. Quan điểm của Đảng về việc làm cho thanh niên
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: tương lai của đất nước, của dân tộc nằm ngay
trong tay các thế hệ thanh niên. Người khẳng định, thanh niên là lực lượng cách
mạng hùng hậu, bộ phận quan trọng của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp cách
mạng của cha anh. Khi đất nước ta còn nằm dưới ách thống trị của thực dân, phong
kiến, ngay từ năm 1925 trong thư gửi thanh niên Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ,
đất nước sẽ không còn nếu thanh niên không được "hồi sinh", thức tỉnh. Để hồi sinh
bộ phận quan trọng này của dân tộc, Hồ Chí Minh đã mở trường huấn luyện chính
trị, xuất bản sách báo, sáng lập ra Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội để
thức tỉnh một thế hệ thanh niên yêu nước trong những thập niên đầu thế kỷ XX.
14


Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, đất nước độc lập, thống nhất, Bác dạy:
"Thanh niên là chủ tương lai của nước nhà". Bác ví tuổi thanh niên là mùa xuân của
xã hội " Một năm khởi đầu từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ, tuổi trẻ là
mùa xuân của xã hội". Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bác luôn đặt
niềm tin vào sức mạnh của thanh niên: "Với một thế hệ thanh niên hăng hái kiên
cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc". Người còn chỉ rõ, thanh niên
là người kết nối quá khứ với tương lai: "Thanh niên là người tiếp sức mạnh cho thế
hệ thanh niên già, đồng thời là người dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai".

Từ vai trò to lớn của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và
tương lai của dân tộc, Bác căn dặn, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc làm rất quan trọng và rất cần thiết. Là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Bác
luôn chú trọng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Chính phủ đối với
công tác thanh niên. Ngay sau Cách mạng tháng Tám, Người đã chỉ thị thành lập Bộ
Thanh niên, rồi đến Nha Thanh niên trong Chính phủ để chăm lo công tác thanh
niên. Bác luôn nhắc nhở các bộ, các ngành ban hành những chính sách nhằm giải
quyết những vấn đền thuộc lợi ích nguyện vọng chính đáng của thanh niên; tổ chức
Đoàn thanh niên phải liên hệ với các lực lượng của Chính phủ.
Với thanh niên, Bác dạy: "Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước
nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải
làm thế nào cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy
sinh phấn đấu chừngnào". Đối với tổ chức Đoàn, Người chỉ rõ: "Muốn củng cố và
phát triển thì Đoàn phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên.
Phải quan tâm đến đời sống, công tác và học tập của thanh niên, phải tránh thành
kiến, hẹp hòi, cô độc. Phải thật thà đoàn kết với anh chị em thanh niên trong Hội
liên hiệp thanh niên Việt Nam". Tất cả những điều bác dạy là nhiệm vụ trước hết
của thế hệ trẻ Việt Nam, đồng thời cùng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân. Suy rộng ra là trách nhiệm của toàn xã hội trong việc chăm lo "bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau".
Thấm nhuần tư tưởng và đọa đức của Hồ Chí Minh, Đảng ta lãnh đạo công
tác thanh niên, lãnh đạo tổ chức Đoàn trước hết bằng đường lối, chủ trương, chính
15


sách. Các chủ trương ấy thể hiện cụ thể trong các văn kiện Đại hội, các Nghị quyết
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; thể hiện bằng
các thông tư, chỉ thị và cả trong các bài phát biểu, bài nói chuyện của các đồng chí
lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Đại hội Đảng lần thứ I (Tháng 3/1935) chỉ rõ: Nhiệm vụ chính trị của Đoàn

là phải củng cố và mở rộng tổ chức, đặc biệt ở những vùng quan trọng như nhà
máy, hầm mỏ, đồn điền... Phải dùng các hình thức công khai và bán công khai, bí
mật và lập ra các tổ chức có tính phổ biến như Hội thể thao, Câu lạc bộ, Hội đọc
sách, Hội cứu tế...để tập hợp thanh niên.
Đại hội lần thứ II của Đảng (Tháng 2/1951) nhấn mạnh công tác vận động
thanh niên trong tình hình mới. Nhiệm vụ trọng tâm của Đoàn là đẩy mạnh công tác
vận động thanh niên ở vùng tạm chiếm, xây dựng Đoàn thanh niên cứu quốc thành
tổ chức trung kiên; tăng cường công tác giáo dục thiếu niên, nhi đồng.
Đại hội lần thứ III của Đảng (Tháng 9/1960) nêu rõ: "Thanh niên ta đã nêu
cao tinh thần hy sinh anh dũng trong kháng chiến và lao động hòa bình. Thanh niên
lại là lớp người đang xây dựng chủ nghĩa xã hội và sẽ xây dựng chủ nghĩa cộng sản
ở nước ta. Đảng ta phải hết sức chú trọng giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ thành
những chiến sĩ trung thành với Tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản, sẵn sàng mang hết nhiệt tình của tuổi trẻ tham gia xây dựng xã hội mới".
Đại hội IV của Đảng (Tháng 12/1976) yêu cầu thế hệ trẻ Việt Nam phát huy
vai trò xung kích, sáng tạo, cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ra sức hàn gắn
vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, vượt qua thiên tai, đập tan mọi âm mưu
của các thế lực thù địch, kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ; vững vàng kiên định
đi theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh biến động phức tạp của tình hình
thế giới.
Đại hội V của Đảng (Tháng 3/1982) đánh giá: Thanh niên nước ta đã trưởng
thành nhanh chống và có những cống hiến xứng đáng với truyền thống vẻ vang của
thế hệ và của cả dân tộc...Đảng ta luôn luôn đánh giá đúng bản chất tốt đẹp, khả
năng cách mạng của thanh niên và vai trò chính trị của Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh.

16


Đại hội VI của Đảng (Tháng 12/1986) chỉ rõ: Thanh niên phải được bảo đảm

việc làm khi bước vào đời và được quan tâm giáo dục về nhân cách, bản lĩnh và lý
tưởng theo phương châm "Sống, chiến đấu, lao động, và học tập theo gương Bác Hồ
vĩ đại".
Ngày 13/3/1991, trong tình hình quốc tế ngày cảng phức tạp, Bộ Chính trị
(khóa VI) đã ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW về "Đổi mới và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên". Trong Nghị quyết khẳng định vai
trò, vị trí quan trọng của thanh niên đối với tương lai dân tộc và vận mệnh Tổ quốc,
khẳng định những quan điểm cơ bản về công tác thanh niên và phương hướng, nội
dung giải pháp chủ yếu của công tác thanh niên.
Đại hội VII của Đảng (Tháng 6/1991) nêu nhiệm vụ: Các cấp ủy đảng và tổ
chức đảng cần tăng cường lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nâng
cao chất lượng đoàn viên và cán bộ Đoàn, phát huy vai trò Đoàn làm nòng cốt trong
phong trào thanh niên, xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng.
Đại hội VIII của Đảng (Tháng 6/1996) đề ra nhiệm vụ: Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ở mọi cấp, mọi
ngành. Coi trọng hơn nữa việc giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ về chính trị, tư tưởng,
văn hóa, nghề nghiệp, đạo đức, lối sống. Quan tâm đào tạo nghề và giải quyết việc
làm, đáp ứng nhu cầu học tập, lao động, sáng tạo, hoạt động văn hóa, nghệ thuật thể
thao và giải trí lành mạnh cho thanh, thiếu nhi. Tạo điều kiện cho Đoàn thực hiện
tốt trách nhiệm đối với Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh. Tạo môi trường xã
hội lành mạnh, ngăn ngừa các tệ nạn xã hội và văn hóa phẩm độc hại. Chăm lo giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức trong hệ
thống chính trị, của gia đình, nhà trưởng và toàn xã hội.
Đại hội IX của Đảng (Tháng 4/2001) nêu rõ: Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo
dục, bồi dưỡng, đào tạo và phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối
sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp; giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức
sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội lần thứ X của Đảng (Tháng 4/2006) nhấn mạnh: Đối với thế hệ trẻ
thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo
điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ...khuyến khích thanh

17


niên tự học, tự nâng cao tay nghề, tự tạo việc làm. Thu hút rỗng rãi thanh, thiếu niên
và nhi đồng vào các tổ chức do Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng
cốt và phụ trách.
Đặc biệt, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa
X) đã chỉ rõ: “Nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập
và cải thiện đời sống cho thanh niên”. Giải quyết việc làm cho thanh niên là một
trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế.
1.2.2. Chính sách việc làm của Nhà nước
Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức to lớn. Cạnh
tranh diễn ra ngày càng gay gắt từ cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp đến toàn nền
kinh tế, từ bình diện trong nước đến ngoài nước. Một bộ phận doanh nghiệp không
thích nghi kịp có nguy cơ phá sản, người lao động có nguy cơ thất nghiệp cao, thiếu
việc làm, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Chất lượng nguồn lực lao động nước
ta chưa đáp ứng yêu cầu, gây trở ngại trong quá trình hội nhập. Di chuyển lao động
tự phát từ nông thôn ra thành thị, vào các khu công nghiệp tập trung và di chuyển ra
nước ngoài kéo theo nhiều vấn đề xã hội nhạy cảm như "chảy máu chất xám, tình
trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới”...
Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề việc làm cho
thanh niên ở nước ta đã từng bước được giải quyết theo hướng tuân theo quy luật
khách quan của kinh tế hàng hóa và thị trường lao động, góp phần đưa nền kinh tế
nước ta phát triển đạt đưọc những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Nhất là từ giai đoạn 2001 đến nay, hệ thống pháp luật kinh tế tiếp tục
được hoàn thiện (Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác
xã, Luật Thuế, Luật Phá sản...) đã góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo điều
kiện cho thị trường lao động phát triển. Bộ luật lao động, sửa đổi bổ sung năm
2002 và 2006, Luật bảo hiểm xã hội, Luật dạy nghề, Luật người lao động Việt

Nam đi làm việc ở nước ngoài, đặc biệt Luật việc làm đã được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 16
tháng 11 năm 2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015, các
nghị định, thông tư liên quan tới lao động, thị trường lao động và việc làm đã
18


hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường lao động phát triển, tăng cường cơ hội
việc làm cho thanh niên. Các chế độ về tiền lương, thu nhập, trợ cấp ngày càng
hoàn thiện, góp phần nâng cao năng suất lao động và cải thiện thu nhập của
người lao động nói chung cũng như thanh niên nói riêng.
Chính sách việc làm cho thanh niên ở nước ta hiện nay có những ưu điểm sau:
- Hệ thống chính sách được ban hành ngày càng đầy đủ và hoàn thiện.
Các chính sách về việc làm đã được ban hành tương đối đầy đủ trong
nhiều lĩnh vực khác nhau như: Chính sách chung về việc làm (quyền và nghĩa
vụ của người lao động về việc làm, trách nhiệm của Nhà nước về việc làm,...);
Chính sách hỗ trợ để tạo và tự tạo việc làm cho người lao động (Chương trình
mục tiêu quốc gia về việc làm, dự án cho vay giải quyết việc làm...); Chính sách
hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ờ nước ngoài (cho vay tín dụng, bồi
dưỡng kiến thức, nghề nghiệp trước khi đi lao động ở nước ngoài,...).
- Thành tựu nổi bật của hệ thống chính sách việc làm cho thanh niên là tạo
ngày càng nhiều việc làm cho thanh niên. Cơ hội có việc làm của thanh niên tăng lên,
giải tỏa sức ép về việc làm cho thanh niên trong bối cảnh lực lượng tham gia lao
động ngày càng tăng.
- Việc làm tăng góp phần giảm nghèo và công bằng xã hội cũng được cải
thiện.
Mặc dù vậy, theo báo cáo của Tổng cục Thống kê cũng cho biết, lực lượng
lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước tính đến thời điểm 01/01/2016 là 54,61 triệu
người, tăng 185 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2014, trong đó lao động
nam chiếm 51,7%; lao động nữ chiếm 48,3%. Đến thời điểm trên, lực lượng lao

động trong độ tuổi lao động ước tính 48,19 triệu người, tăng 506,1 nghìn người so
với cùng thời điểm năm trước.
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2015
ước tính 52,9 triệu người, tăng 142 nghìn người so với năm 2014. Đặc biệt, tỷ lệ lao
động trong độ tuổi đã qua đào tạo năm 2015 ước tính đạt 21,9%, cao hơn mức
19,6% của năm 2014, trong đó lao động qua đào tạo khu vực thành thị đạt 38,3%
(Năm 2014 là 35,9); khu vực nông thôn đạt 13,9% (Năm 2014 là 12,0).

19


Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động, ở thanh niên là vấn đề
đáng quan ngại. Cụ thể, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2015 có sự
gia tăng là 2,31% (Năm 2013 là 2,18%; năm 2014 là 2,10%), trong đó có xu hướng
tăng thất nghiệp ở khu vực nông thôn (năm 2015 là 1,83% so với năm 2013 là
1,54%; năm 2014 là 1,49%).
Điều này được lý giải bởi nền kinh tế khởi sắc với sự phát triển mạnh của
khu vực công nghiệp và dịch vụ là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm
tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị.
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (Từ 15-24 tuổi) năm 2015 lên tới 6,85%
(Năm 2013 là 6,17%; năm 2014 là 6,26%). Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 25 tuổi
trở lên năm 2015 là 1,27% (Năm 2013 là 1,21%; năm 2014 là 1,15%).
Mặc dù vậy, một tín hiệu vui được nêu ra trong Báo cáo là tỷ lệ thiếu việc làm
của lao động trong độ tuổi lao động năm 2015 giảm 1,82% (so với năm 2013 là
2,75%; năm 2014 là 2,40%), trong đó khu vực thành thị là 0,82% (Năm 2013 là
1,48%; năm 2014 là 1,20%); khu vực nông thôn là 2,32% (Năm 2013 là 3,31%; năm
2014 là 2,96%). Tỷ lệ thiếu việc làm có xu hướng giảm dần vào cuối năm (Quý I là
2,43%; quý II là 1,80%; quý III là 1,62%; quý IV là 1,66%) và giảm chủ yếu ở khu
vực nông thôn (Quý I là 3,05%; quý II là 2,23%; quý III là 2,05%; quý IV là 2,11%).
Ước tính trong năm 2015 cả nước có 56% lao động có việc làm phi chính

thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản có việc làm phi chính thức (Năm 2013 là
59,3%; năm 2014 là 56,6%), trong đó thành thị là 47,1% (Năm 2013 là 49,8%; năm
2014 là 46,7%) và nông thôn là 64,3% (Năm 2013 là 67,9%; năm 2014 là 66,0%).
1.3. Ý nghĩa tầm quan trọng của thực hiện chính sách việc làm cho
thanh niên
Theo khái niệm việc làm nêu ở phần trên, việc làm là phạm trù để chỉ trạng
thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất,
công nghệ...) để sử dụng sức lao động đó. Rõ ràng tạo được việc làm cho người lao
động hoặc tạo nhiều việc làm đặc biệt đối với thanh niên luôn gắn với quá trình phát
triển kinh tế xã hội, phát huy sức mạnh tiềm năng, trí tuệ của thanh niên để tạo ra
nhiều của cải cho xã hội. Chính vì vậy, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 7 (khóa X) đã chỉ rõ: “Nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết
20


việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên”. Vấn đề giải quyết
việc làm cho thanh niên là cần thiết, không những mang tầm quốc gia mà vượt ra
bên ngoài khu vực và thế giới.
Do đó, thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên không chỉ có nhiệm vụ
chức năng của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của xã hội, của các cơ quan doanh
nghiệp và ngay bản thân thanh niên. Hiện nay, các chính sách của Nhà nước luôn
quan tâm chú trọng đến tạo công ăn việc làm cho thanh niên thông qua các văn bản
quy phạm pháp luật, các chương trình, chính sách hỗ trợ tới tận hộ gia đình, tới bản
thân thanh niên sẵn sàng làm việc. Chính vì vậy, thực hiện chính sách việc làm cho
thanh niên là một khâu có vị trí đặc biệt quan trọng, là bước hiện thực hóa chính
sách vào đời sống xã hội.
Trước hết, thực hiện chính sách việc làm đảm bảo việc làm cho thanh niên
tham gia hoạt động kinh tế, kết nối họ vào các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tạo khả
năng cho họ nhận được những khoản thu nhập thiết yếu để tái sản xuất sức lao động
của chính bản thân mình, cũng như nuôi sống gia mình. Tạo nhiều việc làm tạo điều

kiện cho thanh niên dễ dàng lựa chọn công việc phù hợp, tạo năng suất cao hơn và
có cơ hội nhận được thu nhập cao hơn.
Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên có quy hoạch, kế hoạch sẽ giúp
cho cả cho người sử dụng lao động trẻ cũng như bản thân thanh niên có những kế
hoạch hoạt động trong tương lai của họ. Trong thực tế, những năm vừa qua đã cho
chúng ta thấy rằng, lao động trẻ có tay nghề cao, có óc sáng tạo, năng động, biết thích
ứng nhanh với môi trường mới thì sẽ không bao giờ thiếu việc làm. Mặc khác, thực
hiện tốt chính sách việc làm cho thanh niên sẽ tạo ra môi trường làm việc thuận lợi, thể
hiện sự quan tâm nhất định về thoả mãn cần thiết và đảm bảo quan hệ qua lại trong tập
thể lao động, cũng như giữa chủ doanh nghiệp với lao động trẻ.
Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên còn đảm bảo việc phân chia,
sắp xếp lại lao động trẻ hoạt động kinh tế thường xuyên trong trường hợp cải cách,
sắp xếp lại các doanh nghiệp. Ở Việt Nam, vẫn đang cổ phẩn hoá, sắp xếp lại các
doanh nghiệp đã làm cho lao động trẻ mất việc. Nhưng bên cạnh đó, cũng cho phép
thành lập nhiều doanh nghiệp mới đã giải quyết nhiều chỗ việc làm mới cho lao động

21


×