Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Giáo dục văn hoá giao tiếp cho học sinh trường dân tộc nội trú ở sơn la hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

NGUYỄN THỊ MAI

GIÁO DỤC VĂN HÓA GIAO TIẾP CHO
HỌC SINH TRƯỜNG DÂN TỘC NỘI TRÚ Ở SƠN LA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

NGUYỄN THỊ MAI

GIÁO DỤC VĂN HÓA GIAO TIẾP CHO HỌC SINH TRƯỜNG
DÂN TỘC NỘI TRÚ Ở SƠN LA HIỆN NAY

Chuyên ngành
Mã số

: Triế t ho ̣c
: 60.22.03.01

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ HƯƠNG


HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoàn rằng, luận văn thạc sĩ Triết học với đề tài “ Giáo dục văn
hóa giao tiếp cho học sinh trường dân tộc nội trú ở Sơn La hiện nay ” là công
trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Thị Hương
Các số liệu, trích dẫn và tài liệu tham khảo trong luận văn là hoàn toàn
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng
Hà nội, tháng 6 năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến TS. Lê Thị Hương - Người
thầy đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt trong suốt quá trình
thực hiện luận văn
Đồng thời, em gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm khoa Triết học, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong suốt quá trình
học tập và thực hiện đề tài.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu, phòng sau Đại Học
Trường Đại học Tây Bắc, nơi đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong thời gian học
tập và nghiên cứu tại trường
Cảm ơn gia đình, cảm ơn bạn bè và đồng nghiệp đã luôn động viên, khích lệ,
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Thị Mai

MỞ ĐẦU



1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục văn hóa giao tiếp cho học sinh các trường dân tộc nội trú tỉnh
Sơn La hiện nay là vấn đề mang tính giáo dục và thực tiễn cấp bách. Vì :
1. Giáo dục văn hóa giao tiếp là việc cần thiết và cấp bách, nhất là trong
xã hội và môi trường giáo dục của chúng ta hiện nay. Nhìn xa hơn và xét trong
một bối cảnh rộng hơn, văn hóa giao tiếp là một phương diện trong toàn bộ hoạt
động giao tiếp của con người. Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là hình thành con
người có năng lực giao tiếp bao gồm giao tiếp với người khác và giao tiếp với
chính mình. Cái gốc trong văn hóa giao tiếp của con người chính là sự phong
phú của đời sống tinh thần và những giá trị đạo đức mà mỗi cá nhân có được.
2. Giao tiếp không chỉ là hình thức, phương tiện mà còn là nội dung quan
trọng của giáo dục. Giáo dục văn hóa giao tiếp hiện nay có hai điểm cần lưu ý:
là vấn đề dân tộc và quốc tế. Công cuộc hội nhập và phát triển ồ ạt của công
nghệ thông tin đã tạo ra một “thế giới phẳng”. Khoảng cách giữa các dân tộc,
quốc gia và con người ngày càng thu hẹp. Cử chỉ, cách xưng hô cũng ảnh
hưởng, pha trộn, vay mượn của nhau, nhất là trong giới trẻ. Tâm lí dân tộc, tâm
lí thế hệ đang đứng trước những thử thách lớn. Sử dụng tiếng Việt, tiếng Anh,
xưng hô chào hỏi thế nào cho đúng bản sắc dân tộc hay cho có văn hóa - là vấn
đề nhà trường bắt buộc phải quan tâm. Tuy nhiên, gánh nặng này không nên chỉ
đặt trên vai thầy cô giáo. Gia đình và xã hội phải chia sẻ và đồng chịu trách
nhiệm nhưng nhà trường vẫn là nơi chủ động vạch ra chiến lược, mục tiêu, đưa
ra những chuẩn mực.
3. Giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường cần giúp học sinh làm chủ
các phương tiện giao tiếp, có được những kĩ năng giao tiếp. Giáo dục văn hóa
giao tiếp nghĩa là giúp học sinh làm chủ các công cụ và hình thức giao tiếp cũng
như biết ứng
xử một cách có văn hóa trong những tình huống khác nhau là nhiệm vụ quan
trọng của nhà trường. Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả. Cái chính là giúp các

học sinh có khả năng giao tiếp với nhau, mà để có điều đó, ngoài văn hóa


giao tiếp, học sinh phải được giáo dục về tâm lí giao tiếp, lối sống, quan niệm
và những phẩm chất như sự chân thành, cởi mở, không ích kỉ, không khép
kín, biết chấp nhận cái khác mình, chấp nhận đối thoại.
4. Giáo dục văn hóa giao tiếp là việc cần thiết và cấp bách, nhất là trong
xã hội và môi trường giáo dục của chúng ta hiện nay. Nhìn xa hơn và xét
trong một bối cảnh rộng hơn, văn hóa giao tiếp chỉ là một phương diện trong
toàn bộ hoạt động giao tiếp của con người. Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là
hình thành con người - giao tiếp, tức con người có năng lực giao tiếp bao gồm
giao tiếp với người khác và giao tiếp với chính mình. Cái gốc trong văn hóa
giao tiếp của con người chính là sự phong phú của đời sống tinh thần và
những giá trị đạo đức mà mỗi cá nhân có được. Lời hay, cử chỉ đẹp là quan
trọng, nhưng quan trọng hơn vẫn là cái tâm, tình yêu, sự chân thành. Không
phải hễ có cái tâm là có ngay cử chỉ lịch sự – chính vì thế mới cần giáo dục văn
hóa giao tiếp! Nhưng nếu không có tâm thì lịch sự nhiều khi cũng chỉ là giả dối,
vô nghĩa.
Mọi kinh nghiệm xã hội đều được chứa đựng trong thế giới con người.
Muốn chiếm lĩnh được nó con người phải được tiếp xúc, giao tiếp với đối
tượng, đặc biệt là giao tiếp với những người xung quanh – những người lớn
hơn, những người có kinh nghiệm hơn. Nhờ có sự hướng dẫn chỉ bảo của người
khác thông qua giao tiếp mà các cá nhân lĩnh hội được những kinh nghiệm lịch
sử - xã hội loài người chứa đựng trong đối tượng đó một cách nhanh nhất, nhân
cách được phát triển phù hợp với yêu cầu của xã hội. Thực tế đã chứng minh:
văn hóa giao tiếp trong môi trường nhà trường, môi trường giáo dục giúp cho cá
nhân lĩnh hội được những tri thức cần thiết bằng những con đường nhanh nhất
và đỡ tốn kém nhất, tạo điều kiện tối ưu cho sự hình thành và phát triển nhân
cách.
5. Mặt khác, văn hóa giao tiếp có vai trò quan trọng trong sự hình thành

và phát triển nhân cách nghề. Sự thành công của mỗi người trong công việc mà
mình đang thực hiện không chỉ phụ thuộc vào kiến thức chuyên môn mà còn


phụ thuộc vào khả năng giao tiếp, ứng xử khéo léo với mọi người trong mọi
hoàn cảnh. Vì lẽ đó, văn hóa giao tiếp cần được xem xét, nghiên cứu với tư cách
là phẩm chất đặc biệt của nhân cách.Đặc biệt trong hoạt động sư phạm thì văn
hóa giao tiếp không thể thiếu. Bởi vì quá trình giáo dục là quá trình giao tiếp
giữa giáo viên và học sinh. Hiệu quả của quá trình này phụ thuộc vào nhiều yếu
tố. Một trong những yếu tố góp phần quan trọng vào sự thành công của hoạt
động sư phạm, đó chính là năng lực giao tiếp của giáo viên.
Sơn La là tỉnh miền núi cao nằm ở phía Tây bắc Việt Nam với địa hình
hiểm trở, đa số là núi cao, phức tạp, giáp với nhiều tỉnh phía Bắc và đặc biệt còn
có đường biên giới giáp với nước bạn Lào. Trên địa bàn trải rộng dân cư sống
không tập trung với mật độ rất thấp. Sơn La là một tỉnh có nhiều dân tộc thiểu
số khác nhau đang sinh sống. Trong những năm qua, mặc dù nhận được sự quan
tâm của nhà nước trong phát triển kinh tế - văn hóa xã hội nhằm nâng cao đời
sống nhân dân nhưng tỉnh Sơn La vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là
những khó khăn về thông tin, văn hóa, giáo dục. Ở Sơn La cũng do đặc trưng có
nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống cho nên vấn đề giáo dục nói chung và giáo
dục văn hóa giao tiếp cho học sinh còn nhiều hạn chế. Việc vận động các em
đến lớp đã là một kỳ công của thầy cô, duy trì các lớp học lại càng khó khăn
hơn. Hệ thống các trường dân tộc nội trú được trú trọng đầu tư nhằm tạo điều
hiện tốt nhất cho con em trong tỉnh được hưởng các chính sách giáo dục cũng
như nâng cao năng lực giao tiếp văn hóa.
Với đặc trưng là một tỉnh có nhiều thành phần dân tộc khác nhau, sinh
sống ở các địa bàn và địa hình khác nhau nên việc tiếp cận và hình thành những
nét văn hóa trong giao tiếp cũng khác nhau.



Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của tỉnh, góp phần đưa giáo dục miền
núi ngày càng phát triển theo đúng chủ trương đặt ra của Đảng và Nhà nước.
Với những nghĩa trên, viêc nghiên cứu: “Giáo dục văn hóa giao tiếp cho học
sinh trường dân tộc nội trú ở Sơn La hiện nay” là hết sức cần thiết về cả mặt
lý luận và thực tiễn.
1. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ xưa giao tiếp đã là một vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu. Tất các các nhà khoa học nghiên cứu về văn hóa giao tiếp đều gặp
nhau tại một điểm – đó là khẳng định vai trò của văn hóa giao tiếp đối với cuộc
sống xã hội và sự hình thành nhân cách của con người.
A.A. Bodaliop đã nói: Trong hoạt động giao tiếp có thể tìm thấy sự tổng
hợp tất cả các đặc trưng cơ bản của con người như là một thành viên của xã hội,
như là một chủ thể của hoạt động nhận thức và sáng tạo. Trong lịch sử, việc
nghiên cứu về văn hóa giao tiếp được tiến hành trên cả hai bình diện lý luận và
thực tiễn, thu hút rất nhiều các nhà khoa học trên thế giới. Thời cổ đại như
Xôcrat, Platon, hai ông đã đề cập tới vấn đề giao tiếp và cho rằng : Đối thoại
như là giao tiếp trí tuệ, như là sự phản ánh trí tuệ, phản ánh mối quan hệ giữa
con người với con người.
Mac – Ănghen xem giao tiếp với người khác như là một trong các yếu tố
cơ bản quyết định sự hình thành phát triển tâm lý, ý thức của con người.
Năm 1965 ba tác giả người Mỹ: Jonnson, Lgrrison, M.Schlekamp đã viết
cuốn sách về văn hóa giao tiếp, đề cập mối quan hệ giữa kỹ năng giao tiếp với
sự tiến bộ trong trường đại học của học sinh, cách biểu lộ tình cảm, phát triển
kỹ năng bình luận.
Năm 1960 Bavelas tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về cấu trúc trong
văn hóa giao tiếp, đưa ra khái niệm “ khoảng cách” được xác định như một mắt
xích giao tiếp cần thiết để một thông điệp tới người khác bằng con đường ngắn
nhất.
Văn hóa giao tiếp là một vấn đề được nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác



nhau như: giáo dục học, văn hóa học, dân tộc học, triết học.
Khái quát lại có thể chia thành các hướng nghiên cứu sau:
- Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về văn hóa:
Công trình nghiên cứu về “Văn hóa giao tiếp của học sinh” của Nguyễn
Văn Đồng, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, năm 2012, đã nghiên cứu về
phong cách của học sinh và những tác động của văn hóa. Trong đó ông chỉ rõ
mỗi người chọn cho mình một phong cách mang đặc trưng của giới trong giao
tiếp, học sinh nữ thường thể hiện sự dịu dàng, ý tứ mềm mỏng, hài hước, vui vẻ,
sôi nổi, hoạt bát, vô tư, năng động… Học sinh nam thường thể hiện sự mạnh
mẽ, hoạt bát , năng động , điềm đạm, chín chắn.
Công trình nghiên cứu về “Bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực văn hoá ở các
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ triết học của Phạm
Hoàng Hà, bảo vệ năm 2012, đã đề cập tới vấn đề văn hóa của các dân tộc ở
các khía cạnh nguồn gốc hình thành, nết đặc trưng và sự ảnh hưởng văn hóa các
dân tộc tới đời sống xã hội của con người.
- Thứ hai, các công trình nghiên cứu về giao tiếp có thể kể đến:
“Bàn về phạm trù giao tiếp” của Bùi Văn Huệ (1981); Trần Trọng Thủy:
“ Giao tiếp và sự phát triển nhân cách trẻ” (1998); Ngô Công Hoàn: “Một số
vấn đề giao tiếp văn hóa” (1987); Nguyễn Văn Lê: “ Vấn đề giao tiếp” (1992)
và rất nhiều các công trình nghiên cứu khác.
Công trình “Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị”
thuộc đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX - 07 - 04, 1995 do GS. Nguyễn
Quang Uẩn làm chủ nhiệm đã trình bày tương đối đầy đủ, toàn diện về hệ thống
thang bậc giá trị, sự hình thành định hướng giá trị nhân cách cũng như quá trình
giáo dục giá trị.
Hội nghị khoa học “Nghiên cứu con người, giáo dục phát triển và thế kỷ
XXI” tổ chức tháng 07 năm 1994 tại Hà Nội và chương trình khoa học cấp nhà
nước do GS.TSKH Phạm Minh Hạc chủ nhiệm đề tài KX - 07: “Con người Việt
Nam - Mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” đã đề cập đến vấn



đề giá trị và định hướng giá trị của con người Việt Nam hiện nay.
Năm 1994 có đề tài KX - 07 - 10 của Viện khoa học giáo dục do Thái
Duy Tuyên làm chủ nhiệm nghiên cứu “Ảnh hưởng của kinh tế thị trường đối
với việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam”. Đề tài đã đề
cập đến thực trạng định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện
kinh tế thị trường và một số dự báo về sự biến đổi định hướng giá trị của thanh
niên trong tương lai.
- Thứ ba, các công trình nghiên cứu về tình hình giáo dục văn hóa và văn
hóa giao tiếp cho học sinh tại tỉnh Sơn La nói riêng và cả nước nói chung. Gồm
có các công trình như:
Tác giả luận văn thạc sĩ Lò Thị Mai Loan nghiên cứu về Thực trạng khả
năng giao tiếp của học sinh sư phạm Sơn La năm 2010 đã khẳng định khả năng
giao tiếp là một khả năng rất quan trọng đối với người làm nghề dạy học và có
ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động mà người giáo viên tiến hành như: dạy học
và giáo dục. Vì vậy, phải chú trọng rèn luyện, nâng cao khả năng giao tiếp văn
hóa của học sinh.
Hay luận án tiến sĩ Tâm lý học: Phẩm chất nhân cách của giáo viên
trường phổ thông dân tộc nội trú khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, 2012,
của tác giả Đinh Đức Hợi bảo vệ tại Viện Khoa học giáo dục Việt Nam tập
trung nghiên cứu về nhân cách của giáo viên đang giảng dạy tại các trường dân
tộc nội trú đơn thuần mà chưa khảo sát kỹ và sâu đối với học sinh.
Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh
Tiểu học nông thôn miền núi phía Bắc, của Ngô Giang Nam, bảo vệ tại trường
Đại học Thái Nguyên năm 2013, đây là luận án nghiên cứu sâu về vấn đề giáo
dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh Tiểu học, còn bậc trung học và phổ thông
trung học vẫn bỏ ngỏ chứ chưa được đề cập tới.
Những người nghiên cứu về giao tiếp cũng như văn hóa giao tiếp rất quan
tâm đến đối tượng là học sinh sư phạm. Bởi lẽ học sinh sư phạm là những người

thầy trong tương lai sẽ đào tạo và giáo dục nên những thế hệ tiếp theo cho đất


nước. Trong hoạt động nghề nghiệp của những người làm nghề dạy học thì ở
đâu cũng có hoạt động giao tiếp tham gia vào. Chính vì đó mà văn hóa giao tiếp
trong học sinh sư phạm luôn được nghiên cứu.
Nhìn chung những công trình này đi sâu phân tích đặc điểm chung về
giao tiếp của học sinh nói chung và học sinh sư phạm nói chung, chưa đi sâu
nghiên cứu việc giáo dục văn hóa giao tiếp cho học sinh, đặc biệt là học sinh sư
phạm - những người thầy, cô giáo tương lai. Và các tác giả cũng chưa đề ra
được các giải pháp để giáo dục văn hóa giao tiếp cho học sinh sư phạm để nâng
cao chất lượng dạy và học.
Kế thừa kết quả nghiên cứu của những người đi trước là việc làm cần
thiết đối với những người mới bước vào nghiên cứu trong một giới hạn nhất
định, với đề tài này tôi mong muốn đi sâu phân tích có hệ thống văn hóa giao
tiếp và việc giáo dục văn hóa giao tiếp cho học sinh trường dân tộc nội trú tại
Sơn La.
Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu đề cập đến một số vấn đề Và
nhiều bài viết trên các tạp chí: Dân tộc học, Nghiên cứu lịch sử...
Nhìn chung, các công trình kể trên chủ yếu khai thác khía cạnh môi
trường sống, lịch sử văn hóa truyền thống của người dân tộc thiểu số nói chung.
Đây là một nguồn tài liệu quý giá để tác giả tìm hiểu, kế thừa trong quá trình
nghiên cứu. Vấn đề “Giáo dục văn hóa giao tiếp cho học sinh trường dân tộc nội
trú ở Sơn La hiện nay’’.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng của việc giáo dục văn hóa giao tiếp cho
học sinh các trường dân tộc nội trú ở Sơn La hiện nay, luận văn đưa ra một số
giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hơn nữa khả năng giao tiếp văn hóa của học
sinh ở các trường dân tộc nội trú ở Sơn La hiện nay.
4. Giả thuyết khoa học

Vấn đề lý luận về văn hóa giao tiếp và tầm quan trọng của việc giáo dục
văn hóa giao tiếp cho học sinh các trường dân tộc nội trú ở Sơn La hiện nay.


Thực trạng về văn hóa giao tiếp của học sinh các trường dân tộc nội trú ở
Sơn La hiện nay.
5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của luận văn là: Các khái niệm về văn hóa, văn hóa
giao tiếp và giáo dục văn hóa giao tiếp cho học sinh các trường dân tộc nội trú tại
Sơn La hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu: học sinh tại các trường dân tộc nội trú ở tỉnh Sơn
La
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thứ nhất, phân tích và hệ thống cơ sở khoa học của việc giáo dục văn
hóa giao tiếp cho học sinh trường dân tộc nội trú ở tỉnh Sơn La hiện nay.
- Thứ hai, để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên luận văn có nhiệm vụ
làm rõ thực trạng văn hóa giao tiếp của học sinh các trường dân tộc nội trú tại Sơn
La hiện nay.
- Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hóa giao
tiếp cho học sinh các trường dân tộc nội trú tại tỉnh Sơn La hiện nay.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục văn hóa giao tiếp cho học
sinh tại các trường dân tộc nội trú Sơn La hiện nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của phép biện chứng duy vật, các
phương pháp cụ thể: phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử, diễn dịch, quy nạp.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp: điều tra xã hội học, thống kê, đối chiếu,
so sánh…
9. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
10.Tóm tắt những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn


10.1 Những luận điểm cơ bản
Trong đề tài, tác giả đề cập tới những luận điểm sau:
+ Thứ nhất, văn hóa và văn hóa giao tiếp.
+ Thứ hai, tác động của văn hóa giao tiếp trong việc tiếp nhận văn
hóa, nâng cao trình độ nhận thức của hoc sinh các dân tộc thiểu số tại Sơn
La hiện nay.
+ Thứ ba, một số giải pháp cơ bản nhằm giáo dục và phát huy vai trò
văn hóa giao tiếp cho học sinh các trường dân tộc nội trú.
10.2. Những đóng góp mới của luận văn
+ Đóng góp về mặt lý luận
Góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên sâu, độc lập về
giáo dục văn hóa giao tiếp cho học sinh các trường dân tộc nội trú tại tỉnh Sơn
La hiện nay.
+ Đóng góp về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu và giảng dạy các bộ môn: Văn hóa, Dân tộc học, Triết
học... ở các nhà trường, làm tài liệu tham khảo cho cán bộ hoạch định chính
sách và quản lý văn hóa, Hội Liên hiệp phụ nữ ở Tây Bắc và tỉnh Sơn La.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho những độc giả quan tâm đến vấn đề này.


Chương 1:
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC GIÁO DỤC VĂN HÓA GIAO TIẾP
CHO HỌC SINH TRƯỜNG DÂN TỘC NỘI TRÚ Ở SƠN LA HIỆN NAY
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC VĂN HÓA GIAO TIẾP CHO HỌC

SINH TRƯỜNG DÂN TỘC NỘI TRÚ Ở SƠN LA HIỆN NAY
1.1.1. Khái niệm văn hóa và văn hóa giao tiếp

1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
* Khái niệm văn hóa
Đã có rất nhiều các tổ chức, các quốc gia và các chuyên gia nghiên cứu
về văn hoá đưa ra các khái niệm về văn hoá và các vấn đề liên quan, và hiện tại
chưa có một khái niệm nào về văn hoá được thống nhất tuyệt đối. Có thể đưa ra
một số quan niệm, khái niệm và định nghĩa về văn hoá như sau:
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã
sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn lịch sử gọi chung là hệ giá trị xã hội. Hệ
giá trị này biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa và phương thức ứng xử văn
hóa của cộng đồng người, là thành tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng của một
cộng đồng xã hội, có khả năng chi phối, điều tiết hoạt động của mọi thành viên
sống trong cộng đồng xã hội ấy.
Hội nghị quốc tế về văn hóa ở Mêhicô (1982) để bắt đầu thập kỷ văn hoá
UNESCO, đã thống nhất đưa ra một khái niệm về văn hoá như sau: Trong ý
nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật
chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm
người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối
sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập
tục và tín ngưỡng.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa
nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật


chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó
chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung
sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.
Cựu Tổng Giám đốc UNESCO giáo sư Federico Mayor khi ông đưa ra

một định nghĩa: "Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống
động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra
trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã
cấu thành một hệ thông các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa
trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình" [23;99].
Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày một quan niệm về văn hoá: “Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”[26;431].
Nhìn chung, mọi định nghĩa đều thống nhất văn hoá có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, văn hoá là sáng tạo của con người, thuộc về con người, những
gì không do con người làm nên không thuộc về khái niệm văn hoá. Từ đó, văn
hoá là đặc trưng căn bản phân biệt con người với động vật, đồng thời cũng là
tiêu chí căn bản phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên. Văn hoá
xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ động và có ý thức của con người với tự
nhiên, nên văn hoá cũng là kết quả của sự thích nghi ấy.
Thứ hai, văn hoá bao gồm cả những sản phẩm vật chất và tinh thần, chứ
không chỉ riêng tinh thần mà thôi.
Thứ ba, văn hoá không chỉ có nghĩa chỉ là văn học nghệ thuật như thông
thường người ta hay nói. Văn học nghệ thuật chỉ là bộ phận cao nhất trong lĩnh
vực văn hoá mà thôi.
Trên cơ sở phân tích các quan niệm trên có thể kết luận:Văn hóa là sản
phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại
giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con


người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và
phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa

là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu
và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá
trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
* Các đặc trưng và chức năng của văn hóa
Một là, văn hóa phải có tính hệ thống. Đặc trưng này cần để phân biệt hệ
thống với tập hợp, nó giúp phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện
tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa. Phát hiện các đặc trưng, những quy luật
hình thành và phát triển của nó.
Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm
mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội, chính văn
hóa thường xuyên làm phát triển độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi
phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội.
Hai là, văn hóa có tính giá trị. Văn hóa theo nghĩa đen là “ trở thành đẹp,
thành giá trị”. Tính giá trị cần để phân biệt với tính phi giá trị. Nó là thước đo
mức độ nhân bản của xã hội và con người. Các giá trị văn hóa theo mục đích có
thể chia thành giá trị vật chất ( phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần
(phục vụ cho nhu cầu tinh thần); theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng,
giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ ; theo thời gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh
cửu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời gian cho phép ta có
được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá sự vật, hiện tượng,
tránh được những xu hướng cực đoan phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết
lời.
Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức
năng quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì
được trạng thái cân bằng động, không ngừng hoàn thiện và thích ứng với những
biến đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự


phát triển xã hội.
Ba là, văn hóa có tính nhân sinh. Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn

hóa như một hiện tượng xã hội ( do con người sáng tạo, nhân tạo) với các giá trị
tự nhiên ( thiên tạo). Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự
tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất ( như việc luyện
quặng, đẽo gỗ…) hoặc tinh thần ( như việc đặt tên, truyền thuyết cho các cảnh
quan thiên nhiên…).
Do mang tính nhân sinh văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với
con người, nó thực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với
nhau. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.
Bốn là, văn hóa có tính lịch sử, nó cho phép phân biệt văn hóa như sản
phẩm của một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ với văn minh sản
phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo
cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu, nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều
chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì
bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn
định ( những kinh nghiệm tập thể) được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng
người qua không gian, thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội
và cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quan, nghi lễ, luật pháp, dư
luận…
1.1.1.2. Khái niệm văn hóa giao tiếp
* Khái niệm giao tiếp
Hiện nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về giao tiếp. Mỗi quan niệm
có những cơ sở khoa học riêng của nó.
Quan niệm thứ nhất xem giao tiếp như một yếu tố chung có cả người và
động vật. Cho rằng giao tiếp là sự tác động lẫn nhau giữa con người với nhau và
những động vật có tâm lý với nhau, nếu thu hẹp hơn có thể coi giao tiếp là mối
quan hệ giữa con người và những động vật nuôi trong nhà.
Quan niệm thứ hai định nghĩa: Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa con


người với con người, trong đó con người trao đổi thông tin, trao đổi cảm xúc, tri

giác lẫn nhau, đưa đến ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau. Quan niệm này đã
mở rộng khái niệm chủ thể giao tiếp đến toàn xã hôi. Tuy nhiên chưa phân biệt
rõ trong quan hệ giao tiếp ai là chủ thể, khách thể. Cho rằng giao tiếp là dạng
hoạt động hoặc là phương thức, điều kiện của hoạt động.
Cả hai quan niệm trên xem giao tiếp là một dạng đặc biệt của hoạt động
có đối tượng đã lý giải chưa thỏa đáng về đối tượng, động cơ, chủ thể của hoạt
động này.
Quan niệm thứ ba cho rằng: Giao tiếp là sự tiếp xúc với nhau giữa cá thể
này với cá thể khác trong cộng đồng xã hội. Loài động vật cũng có thể làm
những hành vi xã hội vì chúng sống có giao tiếp với nhau như loài ong, xã hội
loài kiến.
Tác giả Trần Trọng Thủy và Nguyễn Sinh Huy về “Nhập môn khoa học
giao tiếp” (1996) lại cho rằng: “Giao tiếp của con người là một quá trình chủ
đích hay không có chủ đích, có ý thức hay không có ý thức mà trong đó các cảm
xúc và tư tưởng được diễn đạt trong thông điệp bằng ngôn ngữ hoặc phi ngôn
ngữ”[44, tr.47]
Hai tác giả Nguyễn Thạc và Hoàng Anh về “Luyện giao tiếp văn hóa”
(1997) quan niệm: “Giao tiếp là hình thức đặc biệt cho mối quan hệ giữa con
người với con người mà quan đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lý và được biểu hiện
ở các quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn
nhau”[27, tr.34].
Nhìn chung, trong những khái niệm giao tiếp trên đều công nhận giao tiếp
là sự tiếp xúc giữa hai người hay nhiều người. Trong giao tiếp diễn ra sự tác
dộng lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, có sự trao đổi thông tin, tình cảm, thế giới
quan… của những người tham gia và quá trình giao tiếp. Văn hóa giao tiếp là
một bộ phận trong tổng thể văn hóa nhằm chỉ quan hệ giao tiếp có văn hóa của
mỗi người trong xã hội, là tổ hợp các thành tố lời nói, hành vi, cử chỉ, thái độ,
cách ứng xử,… của mỗi cá nhân



Trong giao tiếp xã hội diễn ra sự tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau,
có sự trao đổi thông tin, tình cảm, thế giới quan… của những người tham gia và
quá trình giao tiếp. Nhìn chung, trong những khái niệm giao tiếp trên đều công
nhận giao tiếp là sự tiếp xúc giữa hai người hay nhiều người.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người, thông qua giao tiếp mỗi cá
nhân gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, tiếp thu nền văn hóa xã hội, biến
thành cái riêng của mình đồng thời cũng góp phần hiểu biết và tính cách cá
nhân của mình vào sự phát triển của văn hóa nói chung, tạo nên nét đặc trưng
riêng của cộng đồng mà mình tham gia. Xã hội phát triển, quá trình toàn cầu
hóa diễn ra mạnh mẽ, khoa học kỹ thuật càng hiện đại tạo nên một thế giới
phẳng, càng ngày càng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi, sự suy nghĩ và cuộc
sống của con người. Từ đó, mối quan hệ giữa con người với con người càng
được quan tâm, vì thế giao tiếp được xem là vấn đề thời sự trong nhiều lĩnh vực,
nhất là những lĩnh vực làm việc trực tiếp với con người như giáo dục, văn hóa,
ngoại giao… Ngày nay giao tiếp là phương tiện để con người hợp tác cùng
nhau, hướng tới mục đích bình đẳng, hạnh phúc. Nhu cầu giao tiếp là nhu cầu
quan trọng của con người. Xã hội càng phát triển thì càng có nhiều cách thức để
con người có thể giao tiếp với nhau ngoài việc giao tiếp trực tiếp bằng ngôn
ngữ. Để thỏa mãn nhu cầu giao tiếp và tiến hành giao tiếp có kết quả con người
cần có kỹ năng giao tiếp và biết cách sử dụng thành thạo các kỹ năng giao tiếp.
Giao tiếp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng với mỗi người, nếu không có nó
con người không thể tồn tại, đó là yếu tố phân biệt loài người, cộng đồng người
với thế giới tự nhiên, cũng là một công cụ để phân biệt tự nhiên và xã hội. Cùng
với hoạt động, giao tiếp đang là yếu tố quyết định sự hình thành, phát triển của
loài người cùng như của từng cá nhân. Nhờ tham giao vào hoạt động giao tiếp
mà các đặc trưng xã hội của con người được hình thành, cấu trúc xã hội được
thành lập, đặc trưng tự nhiên của từng dân tộc, từng cộng đồng dân cư xây dựng
nên những đặc thù riêng và đặc biệt cá nhân mỗi người cũng có thể lĩnh hội
được các kinh nghiệm lịch sử xã hội. Bản thân họ một mặt học hỏi qua giao tiếp



xã hội để chuyển hóa thành kinh nghiệm riêng của cá nhân, đồng thời họ lại
dùng chính phẩm chất năng lực của mình để tham gia vào đời sống xã hội, góp
phần cá nhân mình vào cộng đồng xã hội. Tất cả những yếu tố trên đều là thành
tố của giao tiếp, cá nhân giao tiếp với nhau, cá nhân giao tiếp với cộng đồng và
ngược lại. Có như vậy cá nhân mới tồn tại, thích nghi và phát triển cùng với sự
phát triển của xã hội.
* Khái niệm về văn hóa giao tiếp
Văn hóa giao tiếp là một bộ phận trong tổng thể văn hóa nhằm chỉ quan
hệ giao tiếp có văn hóa của mỗi người trong xã hội (giao tiếp một cách lịch sự,
thái độ thân thiện, cởi mở, chân thành, thể hiện sự tôn trọng nhau), là tổ hợp của
các thành tố: lời nói, cử chỉ, hành vi, thái độ, cách ứng xử…
Văn hóa giao tiếp là một phạm trù mang tính xã hội mà trong đó yếu tố
văn hóa chỉ được đề cập đến trong phạm vi giao tiếp. Văn hóa giao tiếp là
những hiểu biết về phong tục tập quán của đời sống xã hội. Một người có hành
vi ứng xử đúng đắn khi tham gia giao tiếp phải tuân theo những chuẩn mực xã
hội nhất định, hành động theo một số quy ươc chung của xã hội và được mọi
người trong tập thể xã hội đó chấp nhận và cho là phù hợp nhất với môi trường
sống của họ.
Văn hóa giao tiếp của một dân tộc, một xã hội được cho là một hệ thống
những chuẩn mực, nguyên tắc… được biểu hiện tập trung ở lối sống, phong tục
tập quán, truyền thống văn hóa chung của xã hôi, dân tộc đó. Trong đó văn hóa
giao tiếp như một hạt nhân để xây dựng nề nếp, chuẩn mực cho mỗi cá nhân,
mỗi nhóm người. Văn hóa giao tiếp mang trong mình những giá trị văn hóa, đạo
đức và thẩm mĩ phù hợp với bản sắc của mỗi dân tộc, là sự kết tinh giữa cái
truyền thống, cái hiện đại và cái toàn cầu.
Kinh nghiệm xã hội được chứa đựng trong thế giới con người, do đó
chúng tôi đề cập như vậy để phân biệt với giới tự nhiên vì như trên đã nói bản
chất giới tự nhiên cũng có những quy luật riêng để phù hợp với bản thân nó. Tự
nhiên vốn có một vòng tuần hoàn khép kín của nó và con người chỉ là một mắt



xích của tự nhiên và không thể tách khỏi tự nhiên. Trong xã hội hiện nay, con
người muốn chiếm lĩnh được thế giới xung quanh mình cả tự nhiên và xã hội thì
con người phải được tiếp xúc, giao tiếp với đối tượng, đặc biệt là giao tiếp với
những người xung quanh – những người lớn hơn, những người có kinh nghiệm
hơn, giao tiếp một cách nhân văn nhất với tự nhiên (vấn đề này liên quan đến
sinh thái học nhân văn, một trong những vấn đề mang tính thời sự hiện nay).
Qua hàng ngàn năm tích lũy kinh nghiệm, tổ tiên chúng ta đã tích lũy được vô
khối những quy luật của tự nhiên, quy luật của xã hội và truyền lại cho đời sau,
thậm chí ngày nay các nhà khoa học còn khẳng định nó còn có trong các mã di
truyền của loài người. Nhờ có kinh nghiệm của người đi trước, sự chỉ bảo lẫn
nhau của mọi người thông qua giao tiếp mà các cá nhân lĩnh hội được những
kinh nghiệm lịch sử - xã hội loài người chứa đựng trong đối tượng đó một cách
nhanh nhất. Cũng từ đó, nhân cách được phát triển phù hợp với yêu cầu của xã
hội. Nhiều công trình nghiên cứu được công bố đã chứng minh: văn hóa giao
tiếp trong môi trường nhà trường, môi trường giáo dục giúp cho cá nhân lĩnh
hội được những tri thức cần thiết bằng những con đường nhanh nhất và đỡ tốn
kém nhất, tạo điều kiện tối ưu cho sự hình thành và phát triển nhân cách con
người.
Mặt khác, theo chúng tôi văn hóa giao tiếp đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách nghề. Sự thành công hay thất
bại của mỗi người trong công việc mà mình đang thực hiện không chỉ phụ thuộc
vào kiến thức chuyên môn mà còn phụ thuộc vào khả năng giao tiếp, ứng xử
khéo léo với mọi người trong mọi hoàn cảnh mà học trải qua. Với tư cách là
phẩm chất đặc biệt của nhân cách văn hóa giao tiếp cần được xem xét, nghiên
cứu cẩn trọng, khoa học nhằm chỉ ra những phương cách phù hợp với từng
người, từng khu vực dân cư thậm chí từng dân tộc, từng khu vực trên thế giới.
Điều này sẽ góp phần cho quá trình hội nhập phát triển của các quốc gia nói
chung và từng cá nhân nói riêng.

Đặc biệt trong hoạt động sư phạm thì văn hóa giao tiếp không thể thiếu.


Bởi vì quá trình giáo dục là quá trình giao tiếp giữa giáo viên và học sinh. Hiệu
quả của quá trình này phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố góp
phần quan trọng vào sự thành công của hoạt động sư phạm, đó chính là năng lực
giao tiếp của giáo viên. Vì vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, người giáo
viên không chỉ tích cực rèn luyện để có chuyên môn sâu, mà còn phải tích cực
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm để có khả năng giao tiếp tốt với học sinh nhằm
mục đích đạt hiệu quả cao nhất trong công tác của mình.
Thực tế cho thấy rằng, tại các trường dân tộc nội trú, việc học sinh đến
lớp đã rất khó khăn, hơn thế có khi một lớp lại có nhiều độ tuổi khác nhau,
người giáo viên về cắm trường cắm bản đôi khi cần có những kỹ năng về giao
tiếp để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Việc trang bị cho học sinh nơi
đây kỹ năng giao tiếp là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người giáo
viên. Trong những kỹ năng sư phạm thì kỹ năng giao tiếp văn hóa là kỹ năng rất
cần thiết để người học sinh có các mối quan hệ thiết yếu khi ra ngoài xã hội.
* Chức năng của văn hóa giao tiếp
Xét dưới nhiều góc độ khác nhau, nên nhiều cách phân loại chức năng
trong văn hóa giao tiếp:
Thứ nhất, chức năng thông tin con người trao đổi với nhau qua hoạt động
giao tiếp. Nội dung thông tin có thể là hiện tượng, vấn đề trong đời sống sinh
hoạt hang ngày, những suy nghĩ, tâm tư, tri thức…
Thứ hai, chức năng điều chỉnh qua hoạt động giao tiếp con người điều
chỉnh thái độ, hành vi, nhận thức của bản thân, của đối tượng giao tiếp, sự điều
chỉnh hành vi lẫn nhau là yếu tố quan trọng trong các chủ thể tham gia vào giao
tiếp thành chủ thể hoạt động chung.
Thứ ba, chức năng cảm xúc: con người biểu lộ tình cảm, thái độ, tác động
đến trạng thái cảm xúc của nhau, nhờ đó con người ta có thể thay đổi trạng thái
tình cảm của mình, hiểu thái độ của người khác làm cho hiệu quả của giao tiếp

tốt hơn.
Thứ tư, chức năng nhận thức qua sự trao đổi qua lại lẫn nhau, con người


nhận thức lẫn nhau, so sánh, đối chiếu mình với người khác, do đó biết được
mình là người như thế nào.
Thứ năm, chức năng tổ chức hoạt động chung hoạt động giao tiếp ảnh
hưởng đến việc lựa chọn mục đích hình thành kế hoạch chung, phân công, phân
nhiệm vụ cụ thể của từng người. Trong quá trình hoạt động chung có sự trao đổi
thông tin, khích lệ, kiểm tra, uốn nắn hành động của nhau.
Thứ sáu, chức năng thiết lập quan hệ với sự giao lưu giữa người với
người giúp hình thành quan hệ đồng chí, bạn bè hay quan hệ thù địch… các mối
quan hệ này có ảnh hưởng tới sự phát triển của cá nhân.
* Phương tiện trong văn hóa giao tiếp
Thứ nhất, phương tiện ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu từ ngữ do các cộng đồng xã hội đặt ra
nhằm ghi lại lời nói của cộng đồng đó. Ký hiệu từ ngữ tác động vào hoạt động,
làm thay đổi hoạt động nhưng là hoạt động tinh thần, hoạt động trí tuệ, hoạt
động bên trong con người và làm trung gian hóa các hoạt động tâm lý cấp cao
của con người như tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy… Ký hiệu từ ngữ làm
được điều đó là nhờ vào đặc tính bên trong nội dung từ ngữ của từ - một đặc
tính ngay từ đầu chỉ là do quy ước, võ đoán với hình thức âm thanh bên ngoài
mà từ nói thôi.
Ngôn ngữ gồm ba bộ phận là ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Các đơn vị của
ngôn ngữ là âm vị, hình vị, từ, câu, văn bản… bất cứ thứ ngôn ngữ nào cũng
chứa đựng hai phạm trù là phạm trù ngữ pháp và phạm trù logic. Phạm trù ngữ
pháp là một hệ thống quy định về việc thành lập từ, câu, cách phát âm, phạm trù
này ở các ngôn ngữ khác nhau là khác nhau. Phạm trù logic là quy luật, phương
pháp tư duy đúng đắn của con người, nó chung cho cả loài người vì vậy tuy
dùng các thứ ngôn ngữ khác nhau nhưng các dân tộc khác nhau vẫn hiểu được

nhau.
Ngôn ngữ của mỗi người được hình thành trong quá trình sống và hoạt
động trong môi trường lịch sử văn hóa nhất định, trong cộng đồng mà họ tham


gia sống, sinh hoạt, lao động, phụ thuộc vào môi trường sống, do đó có sự khác
biệt của từng cá nhân về ngôn ngữ trong chính nội tại cộng đồng giao tiếp đó,
tùy thuộc vào khả năng thích ứng của cá nhân đó trong cộng đồng của mình.
Phương tiện chính trong văn hóa giao tiếp chính là ngôn ngữ. Hiệu quả
giao tiếp ở chừng mực nào đó là do trình độ của người sử dụng ngôn ngữ của
người tham gia vào quá trình giao tiếp, vì vậy mới có trường hợp có những việc
đối với một vài người họ có thể xử lý rất dễ ràng nhưng với một vài người khác
lại vô cùng khó khăn. Nếu diễn đạt ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu, thích hợp với
trình độ của người nghe, diễn tả đúng được tình cảm, thái độ mà mình muốn thể
hiện thì đạt mục đích giao tiếp. Ngôn ngữ cá nhân chính là yếu tố thể hiện thành
phong cách ngôn ngữ từng người, mỗi người dùng phương tiện giao tiếp là ngôn
ngữ để thể hiện khả năng của bản thân trong cuộc sống cũng như trong công
việc. Phong cách ngôn ngữ mang dấu ấn của đặc điểm nghề nghiệp, tuổi tác,
giới tính, vị thế xã hội của từng cá nhân. Việc sử dụng ngôn ngữ trong văn hóa
giao tiếp của cá nhân nói lên những thông tin chính về tính cách, trạng thái, đặc
điểm tâm lý của cá nhân đó.
Có hai loại ngôn ngữ phổ biến nhất được dùng làm phương tiện trong văn
hóa giao tiếp là ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Với ngôn ngữ viết là ngôn ngữ
nhìn thấy, ngôn ngữ sơ đồ thể hiện ngữ pháp của câu, mệnh đề, một từ và được
sử dụng trong các ngữ cảnh, văn cảnh khác nhau, thậm chí đối lập nhau về
nghĩa. Do đó ngôn ngữ viết sẽ trở thành một phương tiện trong văn hóa giao
tiếp hiệu quả nếu người giao tiếp chuẩn về ngữ pháp, dùng từ thể hiện được sự
trong sáng, tinh tế, thanh tao, dễ đọc. Còn ngôn ngữ nói là ngôn ngữ âm thanh
cũng chứa đựng nghĩa xã hội, chính là nội hàm của khái niệm từ, thực hiện chức
năng nhận thức. Giọng điệu chính là phương tiện văn hóa giao tiếp có hiệu quả

khi các ý trong từ thể hiện thái độ thiện cảm, phù hợp với không gian giao tiếp.
Giọng điệu tự nó phản ánh chân thật tình cảm, giọng điệu có thể khuyến khích,
động viên, răn đe, ngăn cấm, kích thích tính tích cực hoạt động nhận thức hoặc
ngược lại làm đối tượng giao tiếp buồn tẻ, thụ động.


Thứ hai, phương tiện phi ngôn ngữ
Phương tiện phi ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp không sử dụng ngôn
ngữ làm phương tiện để giao tiếp nhưng đối tượng tham gia hoạt động đó vẫn
hiểu nội dung thông tin của đối tượng truyền đạt. Trong văn hóa giao tiếp đôi
khi những tín hiệu phi ngôn ngữ giúp cho đối tượng giao tiếp cho đi rất nhiều
thông điệp có ý nghĩa mà chưa chắc khi thể hiện bằng lời nói đã đạt hiệu quả tối
đa nhất. Tín hiệu phi ngôn ngữ đó là những cử chỉ, điệu bộ như cái bắt tay, thái
độ (ân cần, thân thiện, cởi mở, lạnh lùng, thờ ơ, lãnh đạm, nhạt nhẽo); nụ cười,
ánh mắt (nhún vai, vẫy tay, chỉ tay);... Những cử chỉ, điệu bộ của con người có
thể luyện tập và được hình thành trong cuộc sống, nhìn từ một góc độ nào đó
khi đã tham gia vào cuộc giao tiếp thì cử chỉ, điệu bộ của con người được điều
khiển bởi thói quen và vô thức.
Cử chỉ, điệu bộ mang lại ý nghĩa rất lớn. Khi lắng nghe đối tượng giao
tiếp ta phải kết hợp lắng nghe cả ngôn ngử có lời và ngôn ngữ không lời (tín
hiệu phi ngôn ngữ); còn khi nói chúng ta nên tranh thủ sử dụng cử chỉ, điệu bộ
bổ trợ cho lời nói, tạo hiệu quả nhất định cho cuộc giao tiếp của mình. Cử chỉ,
điệu bộ giúp ta diễn đạt vấn đề sinh động hơn, thuyết phục hơn đối với đối
tượng tham gia giao tiếp.
Ví dụ như, không gian giao tiếp là phương tiện để bộc lộ mối quan hệ,
tình cảm giữa các cá nhân với nhau, về cơ bản chúng ta thường xích lại gần
những người chúng ta thích và tin tưởng, nhưng lại tránh xa những người chúng
ta sợ hoặc không có cảm tình, tất cả những điều đó đều phải thông qua quan hệ
xã hội hay nói cách khác chính là thông qua giao tiếp cá nhân và kinh nghiệm
xã hội mà chúng ta tích lũy được, tùy vào khả năng và mong muốn của từng

người.
Nét mặt: trong văn hóa giao tiếp, nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc của con
người. Không cần có các công trình nghiên cứu chúng ta cũng có thể hiểu được
rằng nét mặt của con người biểu lộ cảm xúc: vui, mừng, buồn, ngạc nhiên, sợ
hãi, tức giận, ghê tởm. Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn cho ta biết ít nhiều về


×