Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.97 KB, 36 trang )


1
MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH.........................................................................................................
HỆ THỐNG CÁC TỪ VIẾT TẮT...................................................................................
PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................................
1.
2.
3.
4.

Lời giới thiệu........................................................................................................
Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................
Mục tiêu của đề tài................................................................................................
Kết cấu của đề tài..................................................................................................

PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................................
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA LƯU THÔNG TIỀN TỆ..........................................................................
1.1. Hệ thống các khái niệm.........................................................................................
1.1.1. Khái niệm tiền tệ và lưu thông tiền tệ...................................................................
1.1.2. Khái niệm quy luật lưu thông tiền tệ.....................................................................
1.2. Yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ..................................................................
1.3. Tác động của lưu thông tiền tệ..............................................................................
1.4. Điều tiết cung và cầu tiền tệ..................................................................................
1.5. Kết cấu khối lượng tiền trong lưu thông...............................................................
1.6. Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông................................................................
Kết luận chương 1..........................................................................................................
Chương 2: PHÂN TÍCH QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ, CÁC YẾU TỐ
TÁC ĐỘNG ĐẾN QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ THỰC TRẠNG CỦA
LƯU THÔNG TIỀN TỆ TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY.......................................


1.4. Phân tích quy luật lưu thông tiền tệ.......................................................................
2.4. Yếu tố tác động đến quy luật lưu thông tiền tệ......................................................
3.4. Áp dụng nội dung quy luật lưu thông tiền tệ vào nền kinh tế................................
2.3.1. Nền kinh tế Việt Nam thời kỳ bao cấp................................................................
2.3.2. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay..........................................................................
4.4. Thực trạng của lưu thông tiền tệ trong điều kiện hiện nay....................................
Kết luận chương 2..........................................................................................................
Chương 3: GIẢI PHÁP VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ Ý
NGHĨA THỰC TIỄN.....................................................................................................
3.1. Giải pháp vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ......................................................
3.3. Một số đề xuất nâng cao lưu thông tiền tệ ở Việt Nam hiện nay...........................
3.3. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài...................................................................................
Kết luận chương 3..........................................................................................................
KẾT LUẬN.....................................................................................................................


2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................


3
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1 Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1992 – 2013 (%)
Hình 2.1 Mối liên hệ giữa MS và MB
Hình 2.2 Sự cân đối của thị trường tiền tệ
HỆ THỐNG CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTW
TP.HCM
XH


Ngân hàng trung ương
Thành phố Hồ Chí Minh
Xã hội


4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lời giới thiệu
Quy luật lưu thông tiền tệ được viết ra ở đây nhằm giới thiệu tầm quan trọng của
bộ môn lý thuyết tài chính- tiền tệ. Lịch sử đã cho thấy quá trình trao đổi giữa hàng hoá
và tiền tệ là một quá trình diễn ra tất yếu của xã hội loài người. Nó đóng vai trò quan
trọng giúp đồng tiền sinh lời và là phương tiện để trao đổi hàng hoá thúc đẩy nền kinh
tế phát triển. Nghĩa là tiền tệ và hàng hoá không thể tách rời nhau,nó tồn tại và biến
động theo một qui luật khách quan của tình hình giá cả của đất nước hay giá cả của
kinh tế thế giới. Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn: một mặt chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào
thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển, mặt khác, phân hóa XH.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực. Thấy được
điều đó, đồng thời với việc thúc đẩy SXHH phát triển, Nhà nước cần có những biện
pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực của nó, đặc biệt là trong đk phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay. Cùng với sự phát triển của kinh tế đất nước đang trên con đường hướng tới
CNXH. Vấn đề này ngày càng được chính phủ quan tâm, từ đó có những chiến lược
lâu dài đẩy mạnh phát triển kinh tế, đẩy lùi lạm phát tới mức thấp nhất. Từ đó, có thể
vận dụng vào kinh doanh và công việc sau này.
Tuy vậy, trong quá trình tìm hiểu và viết lên bài tiểu luận này không tránh
những lỗi thiếu xót. Cho nên chúng em rất muốn sự góp ý và bổ sung tận tình của thầy
để những bài sau đó được hoàn thiện và tốt hơn.
2. Tính cấp thiết của đề tài
3. Mục tiêu của đề tài

4. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài này được chia thành ba chương. Chương 1 Giới thiệu tổng quan
quy luật lưu thông tiền tệ và tác động của quy luật lưu thông tiền tệ. Chương 2
Trình bày quy luật lưu thông tiền tệ, các nhân tố tác động đến quy luật lưu thông
tiền tệ và thực trạng của lưu thông tiền tệ. Chương 3 Trình bày giải pháp vận dụng
quy luật lưu thông tiền tệ và ý nghĩa thực tiễn.


5
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ
1.1. Hệ thống các khái niệm
1.1.1. Khái niệm tiền tệ và lưu thông tiền tệ
- Khái niệm về tiền tệ:
Tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt được sử dụng làm vật ngang giá chung để
biểu hiện và đo lường giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác và thực hiện trao đổi
giữa chúng.
Cũng như các hàng hoá khác, bản chất của tiền tệ được thể hiện rõ hơn qua hai
thuộc tính: Giá trị và giá trị sử dụng.
+ Giá trị sử dụng của tiền tệ: là khả năng thoả mãn nhu cầu trao đổi của xã hội,
do xã hội qui định.
+ Giá trị của tiền: đặc trưng bởi khái niệm “sức mua tiền tệ” (khả năng đổi được
nhiều hay ít hàng hoá khác trong trao đổi).
- Khái niệm về lưu thông tiền tệ:
Lưu thông tiền tệ là sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế, phục vụ cho các
quan hệ về thương mại hàng hóa, phân phối thu nhập, hình thành các nguồn vốn và
thực hiện phúc lợi công cộng.
+ Vai trò của lưu thông tiền tệ đối với sự phát triển và ổn định của nền kinh tế
thị trường:
• Lưu thông tiền tệ và chu chuyển hàng hóa

• Lưu thông tiền tệ và quá trình phân phối và phân phối lại
• Lưu thông tiền tệ và quá trình hình thành các nguồn vốn
+ Yêu cầu phải quản lý lưu thông tiền tệ
• Xuất phát từ vai trò của lưu thông tiền tệ
• Xuất phát từ các trạng thái không ổn định của luu thông tiền tệ và ảnh hưởng tới
sự phát triển của nền kinh tế
1.1.2. Khái niệm quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định số lượng tiền cần cho lưu thông
hàng hóa ở mỗi thời kỳ nhất định.
Theo C. Mác cho rằng: “Số lượng tiền tệ cần cho lưu thông do ba nhân tố quy
định: số lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường, giá cả trung bình của hàng hóa và
tốc độ lưu thông của những đơn vị tiền tệ cùng loại. Sự tác động của ba nhân tố này đối
với khối lượng tiền tệ cần cho lưu thông diễn ra theo quy luật phổ biến là: tổng số giá


6
cả hàng hóa chia cho ô vòng lưu thông của các đồng tiền cùng loại trong một thời gian
nhất định”.1
• Khi tiền mới chỉ thực hiện chức năng là phương tiện lưu thông, thì số lượng tiền
cần thiết cho lưu thông được tính theo công thức:
M= P.Q/V
Trong đó:
M: là phương tiện cần thiết cho lưu thông
P: là khối lượng hàng hóa đem ra lưu thông
V: là số vòng luân chuyển trung bình của một đơn vị tiền tệ
• Khi tiền thực hiện cả chức năng phương tiện thanh toán thì số lượng cần thiết
cho lưu thông được xác định như sau:
Khối lượng tiền
cần thiết thực
hiện chức năng

phương tiện lưu
thôngvà phương =
tiện

Tổng giá
cả hàng
hoá trong
lưu thông

_

Tổng
Giá cả
giá cả
+ hàng hoá _
hàng hoá
đến hạn
bán chịu
thanh toán

Giá cả hàng
hoá thực hiện
bằng thanh
toán bù trừ

Tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ thanh toán

Bằng việc đưa ra quy luật về số lượng tiền cần thiết cho lưu thông, Karl Marx đã chỉ ra
rằng: “Nền kinh tế cần một lượng tiền nhất định cho việc thực hiện các giao dịch về
hàng hoá dịch vụ, số lượng tiền này chịu ảnh hưởng của hai yếu tố cơ bản là tổng giá

cả hàng hoá trong lưu thông và tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ”. 2
Yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ cần thiết cho lưu thông, tức là đòi hỏi lượng tiền
cung ứng phải cân đối với lượng tiền cần cho việc thực hiện các giao dịch của nền kinh
tế.
1.2.

Yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ
Để đảm bảo cho hàng hóa lưu thông bình thường thì khối lượng tiền thực tế có

trong lưu thông phải cân đối với khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời
gian.

1

Th.s Trần Ái Kết. Lý thuyết quản trị. Xem tại: < />
cua-karl-marx.>. [Truy cập ngày 09 tháng 05 năm 2017].
2

Ths. Trần Ái Kết. [Đã trích dẫn].


7
Tùy theo loại hình lưu thông tiền tệ (lưu thông tiền kim loại, lưu thông tiền giấy,
lưu thông tiền tín dụng ngân hàng). Quy luật lưu thông tiền tệ chứa đựng nhiều biểu thị
khác nhau: Quy luật số lượng tiền tệ thực sự cần thiết cho lưu thông, quy luật giá trị
thực tế của các dấu hiệu tiền tệ danh nghĩa, quy luật lưu thông tiền tín dụng-ngân hàng.
Khi bạc và vàng được dùng làm tiền thì số lượng tiền hay vàng dùng làm phương tiện
lưu thông được hình thành một cách tự phát. Bởi vì, tiền vàng hay bạc thực hiện được
chức năng phương tiện cất trữ. Nếu như số lượng tiền vàng hay tiền bạc lớn hơn số
lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa thì việc tích trữ tiền tăng lên và ngược lại.

Chẳng hạn, khi sản xuất giảm sút thì số lượng hàng hóa đem ra lưu thông ít đi, do đó số
lượng tiền đang trong lưu thông trở nên lớn hơn số lượng tiền cần thiết trong lưu thông,
khi đó việc tích trữ tiền sẽ tăng lên.

Khi phát hành tiền giấy thì tình hình sẽ khác, tiền giấy chỉ là ký hiệu của giá trị,
thay tế tiền vàng hay bạc trong chức năng là phương tiện lưu thông, bản thân tiền giấy
không có giá trị thực.
Trong chế độ tiền giấy bản vị vàng, một đồng tiền giấy chỉ là ký hiệu của một
lượng vàng nhất định dữ trữ trong quỹ dự trữ của nhà nước hoặc là ngân hàng. Về
nguyên tắc, bất kỳ lúc nào đồng tiền giấy cũng được đổi sang lượng vàng mà nó ấn
định. Trong trường hợp này, lượng tiền cần thiết cho lưu thông cũng tự điều tiết như
trong chế độ tiền vàng. Tuy nhiên lượng tiền cần thiết không diễn ra như vậy. Nhìn
chung lượng vàng dự trữ không đủ để đảm bảo cho lượng tiền giấy đã được phát hành,
khi đó lạm phát xảy ra.
Chúng ta có thể kết luận như sau:


8
+ Khi khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông lớn hơn khối lượng tiền thực tế
trong lưu thông: Nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư lớn hơn khả năng cung
cấp hàng hóa của xã hội
thừa tiền
giá trị tiền tệ giảm và giá cả tăng
dẫn đến tình trạng lạm phát.
Khắc phục: Rút bớt tiền ra khỏi lưu thông.
+ Khi khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông nhỏ hơn khối lượng tiền thực tế
trong lưu thông: Nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư nhỏ hơn khả năng cung
cấp hàng hóa của xã hội
thiếu tiền
giá trị tiền tăng và giá cả giảm dẫn

đến giảm phát.
1.3.

Tác động của lưu thông tiền tệ

Theo sự phân tích của trường phái Keynes, tổng cầu bao gồm 4 bộ phận cấu thành: chi
tiêu tiêu dùng (C), tức tổng cầu về hàng tiêu dùng và dịch vụ, chi tiêu đầu tư có kế
hoạch (I), tức tổng chi tiêu theo kế hoạch của các hãng kinh doanh về nhà xưởng, máy
móc và những đầu vào khác của sản xuất; chi tiêu của Chính phủ (G) và xuất khẩu
ròng (NX) tức chi tiêu của nước ngoài ròng về hàng hoá dịch vụ trong nước.
AD = C + I + G + NX
Sự tác động của tiền tệ tới hoạt động kinh tế được thể hiện thông qua sự tác động tới
các bộ phận của tổng cầu bao gồm những tác động tới chi tiêu đầu tư, chi tiêu tiêu dùng
và buôn bán quốc tế.

 Chi tiêu đầu tư
Sự thay đổi của MS tác động tới I thông qua:
- Chi phí đầu tư. Việc thu hẹp mức cung tiền tệ của NHTƯ sẽ đẩy lãi suất
tăng lên, chi phí tài trợ cho các hoạt động đầu tư có thể tăng lên dẫn tới giảm lượng
đầu tư, AD suy giảm làm giảm sản lượng và giá cả.
Ngược lại khi NHTƯ mở rộng tiền tệ, lãi suất cân bằng của thị trường giảm
đi, chi phí đầu tư rẻ hơn có thể mở rộng đầu tư, tổng cầu tăng làm tăng sản lượng
và giá cả. Tuy nhiên lãi suất không thể đại diện đầy đủ cho chi phí đầu tư nên
những tác động này có thể không rõ ràng.
- Sự sẵn có của các nguồn vốn
Khi chính sách tiền tệ là thắt chặt, mức cung tiền giảm, mặc dù lãi suất có thể


9
thay đổi rất ít nhưng khả năng cho vay của các ngân hàng có thể giảm (r D tăng). Việc

hạn chế tín dụng của các ngân hàng thương mại làm cho chi tiêu đầu tư giảm xuống
dẫn tới AD giảm. Khi NHTW mở rộng tiền tệ có thể làm tăng khả năng cho vay của
các ngân hàng thương mại, làm cho chi tiêu đầu tư tăng lên. Sự tác động này được thể
hiện ở sơ đồ:
MS ↑ → khả năng cho vay↑ → I ↑ → AD ↑ →thu nhập và giá cả

Tuy nhiên khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại được mở rộng
không đồng nghĩa với việc nguồn vốn này sẽ được tận dụng ngay, nó còn tuỳ thuộc
vào khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Việc hạn chế khả năng cho vay của hệ
thống ngân hàng có tác dụng tốt hay không còn tuỳ thuộc giới hạn của việc kiểm soát
vốn quốc tế.
Ngoài ra, sự thay đổi của cung tiền tệ có tác dụng đến giá cổ phiếu, khi dân
chúng giữ nhiều tiền hơn họ muốn chẳng hạn, chi tiêu vào thị trường cổ phiếu có thể
tăng lên làm tăng giá cổ phiếu; giá trị ròng của các hãng tăng lên có nghĩa là những
người cho vay sẽ được đảm bảo nhiều hơn cho các khoản vay của mình, như vậy
khuyến khích cho vay để tài trợ cho chi tiêu đầu tư, tổng cầu tăng thúc đẩy sự gia tăng
sản lượng và giá cả.

 Chi tiêu tiêu dùng
-

Ảnh hưởng đối với lãi suất
Do chi tiêu tiêu dùng hàng lâu bền thường được tài trợ một phần bằng đi vay, do

vậy lãi suất thấp hơn sẽ khuyến khích người tiêu dùng tăng chi tiêu tiêu dùng lâu bền.
Sự ảnh hưởng của tiền tệ tới tổng cầu như sau:
MV ↑ → i ↓ → € chi tiêu tiêu dùng lâu bền ↑ → AD ↑ → thu nhập và giá cả ↑
Cũng tương tự như đối với ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư, sự ảnh hưởng của
lãi suất đến chi tiêu tiêu dùng lâu bền có thể là nhỏ.
-


Ảnh hưởng đến thị trường cổ phiếu
Chi tiêu tiêu dùng cho hàng hoá lâu bền và dịch vụ của dân cư phụ thuộc rất lớn

vào thu nhập cả đời của họ chứ không phải chỉ là thu nhập hiện tại. Khi giá cổ phiếu


10
tăng lên, giá trị tài sản tài chính tăng lên làm thu nhập cả đời của người tiêu dùng và
tiêu dùng sẽ tăng.
Cơ chế tác động này như sau:
M ↑ → giá cổ phiếu ↑ → thu nhập cả đời ↑ → tiêu dùng ↑ → AD ↑ → Y,PV
↑. Mặt khác, khi giá cổ phiếu tăng, giá trị các tài sản tài chính tăng, người tiêu dùng có
khả năng tài chính đảm bảo hơn sẽ đánh giá những khó khăn tài chính ít xảy ra hơn.
Việc chi tiêu về hàng hoá lâu bền của người tiêu dùng bị ảnh hưởng bởi những khó
khăn tài chính có thể xảy ra trong tương lai. Khi những khó khăn này xảy ra, họ sẽ phải
bán các tài sản của mình để tăng thêm tiền mặt, việc bán các tài sản tài chính như cổ
phiếu sẽ thuận lợi cho việc bán các hàng hoá tiêu dùng lâu bền như vật dụng tiêu dùng,
phương tiện đi lại, nhà ở… Do vậy giá cổ phiếu tăng có thể khuyến khích người tiêu
dùng chi tiêu nhiều hơn cho hàng tiêu dùng lâu bền.
Cơ chế tác động sẽ là:
M ↑ → giá cả phiếu ↑ → giá trị tài sản tài chính ↑ → khả năng khó
khăn TC ↓ → chi tiêu nhà ở, hàng tiêu dùng lâu bền ↑ →

AD ↑ →

Y,P

↑.


 Xuất khẩu ròng
Trong bối cảnh nền kinh tế mở của các quốc gia và việc áp dụng chế độ tỷ giá
thả nổi, sự ảnh hưởng này thông qua tác động vào tỷ giá hối đoái. Khi lãi suất trong
nước giảm (lạm phát chưa thay đổi) tiền gửi bằng nội tệ sẽ kém hấp dẫn hơn so với
tiền gửi ngoại tệ, kết quả là nhu cầu về ngoại tệ cao hơn so với nội tệ làm cho giá
đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ và làm cho hàng nội địa rẻ hơn so với hàng ngoại,
xuất khẩu ròng tăng lên và vì vậy tổng cầu tăng lên. Cơ chế tác động này được tóm
tắt:
M ↑→

i ↓→

E ↑ → NX ↑ → AD ↑ → Y,P ↑ .

Như vậy: Sự thay đổi của mức cung tiền tệ có tác động tới các hoạt động kinh
tế thông qua các tác động tới những bộ phận của tổng cầu như chi tiêu đầu tư, chi tiêu
tiêu dùng, xuất khẩu ròng. Tuy nhiên sự tác động này mạnh hay yếu còn tuỳ thuộc vào
sự phản ứng của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển và linh


11
hoạt thì chính sách tiền tệ có hiệu quả lớn hơn. Trong trường hợp nền kinh tế trì trệ,
các nguồn tài chính được tạo ra có thể không được tận dụng đầy đủ và chính sách tiền
tệ ít có hiệu lực hơn.
1.4.

Điều tiết cung và cầu tiền tệ
Việc điều tiết cung và cầu tiền tệ trong điều kiện nền kinh tế thị trường phải dựa

vào những tín hiệu thị trường (mức chung giá cả, tỷ giá hối đối và tình hình tăng

trưởng kinh tế) sao cho MS ≡ Md, và đây chính là sự nhận thức và vận dụng quy luật
lưu thông tiền tệ.
Lạm phát: Là một hiện tượng khủng hoảng tiền tệ, đồng tiền bị mất giá vì tiền
giấy không thực hiện được chức năng là phương tiện cất trữ. Do đó, biểu hiện của lạm
phát là mức giá chumg của nền kinh tế tăng lên.
Nói chung làm phát là hiện tượng chung của nền kinh tế hàng hóa và có tác
động đến đời sống kinh tế xã hội.
Nguyên nhân dẫn đến lạm phát là sự mất cân đối giữa hàng và tiền, do số lượng tiền
giấy vượt quá mức trong lưu thông.

Hình 1.1 Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1992 – 2013 (%)
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)

1.5.

Kết cấu khối lượng tiền trong lưu thông


12
Khối lượng tiền trong lưu thông là tất cả các phương tiện được chấp nhận làm
trung gian trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác tại một thị
trường trong một khoảng thời gian nhất định.
Để dẫn ra một mô hình của quá trình cung ứng tiền tệ, người ta phân biệt các
khối tiền trong lưu thông. Sự phân chia này tùy theo mỗi nước, nhưng cách phân chia
phổ biến là:
- Khối tiền giao dịch M1: phương tiện được sử dụng rộng rãi trong thanh toán và
chi trả về hàng hoá và dịch vụ bao gồm: Tiền mặt trong lưu thông đó chính là bộ
phận tiền mặt nằm ngoài hệ thống ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân
hàng thương mại hay các tổ chức tín dụng, tiền gửi có thể phát hành séc tại các
ngân hàng.

- Khối tiền mở rộng M2: Khối tiền M2 sẽ bằng khối tiền M1 cộng với tiền gửi có
kỳ hạn tại ngân hàng thương mại hay các tổ chức tài chính trung gian.
- Khối tiền tài sản M3: bằng khối tiền M2 cộng với trái khoán như hối phiếu, tín
phiếu kho bạc. Khối tiền M2 và M3 không được sử dụng như một công cụ trao
đổi, nhưng chúng có tính thanh khoản cao.Tài sản tiền gửi có thể phát hành séc là
tiền nhưng những tờ séc không phải là tiền (do khi những tờ séc phát hành thì
khối tiền không đổi ). Các thẻ tín dụng cũng không phải là tiền.
- Khối tiền L: Theo khối tiền này, tổng tiền cung ứng bao gồm: Lượng tiền theo
M3, các loại giấy tờ có giá trong thanh toán có tính lỏng cao (dễ chuyển thành
tiền mặt): Thương phiếu, trái phiếu, khối tiền tệ M1 là khối có tính lỏng cao nhất,
sau đó thấp dần và cuối cùng là khối L. (Khi cách nhìn về lượng tiền cung ứng
càng rộng thì tính lỏng của nó càng thấp).
Khối lượng tiền trong lưu thông lớn hay nhỏ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan
trọng nhất là:
+ Số lượng các phương tiện phát hành từ ngân hàng.
+ Các phương tiện được phát hành ở các tổ chức tài chính không phải là ngân
hàng.
+ Các phương tiện được phát hành từ doanh nghiệp.


13
+ Các phương tiện được phát hành từ chính phủ.
1.6.

Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông
Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông là khối lượng tiền do tổng nhu cầu của

nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ quyết định.
Ký hiệu:
M: Khối lượng tiền trong lưu thông.

Kc: Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông.
M/Kc =1: Mức độ lý tưởng của quản lý kinh tế: Trường hợp này tức là tiền và hàng sẽ
cân đối trong lưu thông.
M/Kc <1: Là hiện tượng thiểu phát. Hàng hoá chậm tiêu thụ vì thiếu phương tiện lưu
thông.
M/Kc >1: Là lạm phát. Mức độ khác nhau còn tuỳ vào điều kiện kinh tế từng quốc
gia.
Để biết được khối lượng tiền trong lưu thông có cân đối với khối lượng tiền cần
thiết cho lưu thông hay không cần xem xét biến động của các tín hiệu thị trường quan
trọng sau:
-

Giá cả hàng hoá tiêu dùng thiết yếu.

-

Giá vàng.

-

Tỉ giá hối đoái.

Kết luận chương 1
Chương 1 trình bày tổng quan lý thuyết về tiền tệ và lưu thông tiền tệ. Trong
chương này nhằm mục đích giới thiệu quy luật lưu thông tiền tệ và những yêu cầu
của quy luật lưu thông tiền tệ cần thiết cho lưu thông, tức là đòi hỏi lượng tiền cung
ứng phải cân đối với lượng tiền cần cho việc thực hiện các giao dịch của nền kinh
tế.



14
Chương 2: QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ, CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ THỰC TRẠNG CỦA LƯU
THÔNG TIỀN TỆ TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
2.1. Phân tích quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật lưu thông cũng có rất nhiều cách nhìn, cách tiếp cận và nghiên cứu
khác nhau. Để làm nổi bật, chúng ta sẽ tìm hiểu về trường phái này thông qua hai nhà
kinh tế học là Karl Marx Irving Ficher:

Quy luật lưu thông tiền tệ của Karl Marx:
Khi nghiên cứu các chức năng của tiền tệ, Karl Marx đưa ra 5 chức năng: chức
năng thước đo giá trị, chức năng phương tiện lưu thông, chức năng phương tiện cất giữ,
chức năng phương tiện thanh toán và chức năng tiền tệ thế giới. Trong việc nghiên cứu
chức năng phương tiện lưu thông của tiền tệ, Marx đã đưa ra quy luật lưu thông tiền tệ
hay quy luật về số lượng tiền cần thiết cho lưu thông với nội dung:
Số lượng tiền cần thiết thực hiện chức năng phương tiện lưu thông tỉ lệ thuận với tổng
số giá cả hàng hoá trong lưu thông và tỉ lệ nghịch với tốc độ lưu thông bình quân của
các đồng tiền cùng loại.
Bằng việc đưa ra quy luật về số lượng tiền cần thiết cho lưu thông, Karl Marx
đã chỉ ra rằng nền kinh tế cần một lượng tiền nhất định cho việc thực hiện các giao dịch
về hàng hoá dịch vụ, số lượng tiền này chịu ảnh hưởng của hai yếu tố cơ bản là tổng
giá cả hàng hoá trong lưu thông và tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ.
Yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ cần thiết cho lưu thông, tức là đòi hỏi lượng tiền
cung ứng phải cân đối với lượng tiền cần cho việc thực hiện các giao dịch của nền kinh
tế.


15
Quy luật lưu thông tiền tệ của Irving Ficher:
David Hume đã kết luận rằng giá cả hàng hóa được xác định bởi khối lượng tiền

tệ trong lưu thông, và nếu khối lượng hàng hóa tăng thì giá cả hàng hóa sẽ giảm xuống,
còn giá trị tiền tệ sẽ tăng lên. Khi khối lượng tiền tệ đi vào lưu thông tăng quá nhiều
hay tăng đột ngột làm cho vật giá tăng lên. Tiếp tục tư tưởng của David Hume, Ficher
cho rằng: Tiền không có giá trị trong lĩnh vực lưu thông và chỉ có khả năng mua nó
được xác định bởi một lượng của cải mua được bằng một lượng tiền nhất định.
Để thiết lập phương trình trao đổi, Ficher dựa vào nhận xét rất thông thường: Nếu ta
lấy một khoảng thời gian nhất định như một tuần, một tháng, số tiền lưu thông trong
thời gian đó trải ngang bằng giá trị của các vụ trả tiền được thực hiện trong thời gian
đó.
Ficher gọi số tiền lưu hành là M, tốc độ lưu hành của số tiền đó là V, hiệu lực
của số tiền lưu hành là MV, P là giá trị trung bình, Y là tổng số hàng hóa, dịch vụ trao
đổi, giá trị của các dịch vụ này là PY
Phương trình sẽ là: MV=PY
Ficher chon rằng: “Tốc độ là khá bất biến trong thời gian ngắn, cho nên ông đưa
ra học thuyết số lượng tiền tệ: Học thuyết này cho rằng khi mà lượng tiền M tăng gấp
đôi thì MV tăng gấp đôi và do đó PY cũng phải tăng gấp đôi. Xét trong thực tế giữa
mối quan hệ M và P thì phương trình khối lượng tiền tệ của Ficher MV=PY luôn luôn
đúng vì nó phản ánh cân bằng kinh tế vĩ mô”. Nhưng hạn chế của ông chính là cho
rằng V bất biến.
Khi nghiên cứu về nền kinh tế Chủ Nghĩa Tư Bản. Karl Marx đã nghiên cứu
một cách có khoa học và logic về sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa và Karl Marx đã phát hiện rằng “khối lượng tiền cần thiết cho lưu thong được ấn
định thông qua tỉ số giữa tổng giá cả hàng hóa trong lưu thông và tốc độ quay vòng
bình quân của tiền tệ” và được biểu hiện bằng công thức:


16

Xác định lượng tiền cần thiết cho lưu thông của mỗi quốc gia trong từng thời kì.
Giữa các quốc gia số lượng các phương tiện là tiền không giống nhau. Điều này

hoàn toàn phụ thuộc vào quy chế tài chính và sự tiến bộ cảu công nghệ ngân hàng ở
mỗi quốc gia. Còn tổng khối lượng các phương tiện được coi như tiền là bao nhiêu thì
khó xác định chính xác, như các tác nhân phát hành, chế độ và phương thức sử dụng
phương tiện lưu thông… từ căn cứ thực tế này định nghĩa về khối lượng tiền trong lưu
thông được nêu ra như sau: khối lượng tiền trong lưu thông là chi tất cả các phương
tiện được chấp nhận làm trung gian trao đổi với mọi hàng hóa và dịch vụ tại một thị
trường nhất định và trong một thời gian nhất định.

• Cung ứng tiền cho lưu thông
Ngân hàng phát hành là tác nhân cung ứng tiền trực tiếp và quan trọng nhất cho
lưu thông. Ngân hàng phát hành cung ứng tiền cho lưu thông qua các nghiệp vụ chủ
yếu sau:
-

Tái chiếu khấu các thương phiếu, các chứng chỉ, tiền gửi và các chứng từ có
giá khác của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.

-

Tái cầm cố các thương phiếu, các chứng chỉ, tiền gửi và chứng từ có giá
khác của ngân hàng thương mại.

• Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Những tổ chức này cung
ứng tiền cho lưu thông bằng hai cách;
-

Cho khách hàng vay quá nguồn vốn của mình: nguồn vốn của ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng là một lượng có hạn. Nhưng có nhiều
trường hợp các tổ chức này đã cho khách hàng vay quá nguồn vốn hiện có.
Số vốn vay vượt mức trên là số tiền không có thực do ngân hàng thương mại

và các tổ chức tín dụng khác tạo ra.


17
-

Cho khách hàng “thấu chi” thể hiện xử lí chứng từ thanh toán cho khách
hàng bằng cách ghi “có” trước và ghi “nợ” sau. Cho khách hàng phát hành
séc quá số dư tiền gửi trên tài khoản của họ. Những nghiệp vụ này gọi là
nghiệp vụ tạo tiền của ngân hàng thương mại. Tùy theo quy chế tài chính của
nhà nước và nghiệp vụ kiểm tra của ngân hàng trung ương, mà nghiệp vụ
này vẫn diễn ra và một lượng tiền nào đó vẫn được tạo ra trong lưu thông.
Tuy bước đầu chúng chỉ tồn tại dưới dạng bút tệ, nhưng chúng sẽ phát huy
chức năng phương tiện thanh toán như những đồng tiền thực sự. Đồng thời
trong một thời gian ngắn chúng có thể chuyển hóa hết thành những phương
tiện chuyển tải giá trị khác nhau. Các tác nhân và tổ chức phi ngân hàng
cũng cung cấp cho nền kinh tế quốc dân những phương tiện truyền tải giá trị
như: thương phiếu, tín phiếu, kho bạc, công phiếu, trái phiếu…

• Nhu cầu lưu thông
Số tiền do các tác nhân và thế nhân giữ lại vì một mục đích nào đó hợp thành tổng cầu
tiền. Về mặt kinh tế tiền giữ lại không sinh lời. Thời gian giữ lại càng lâu lợi tức mất đi
càng lớn, nó trái ngược với đầu tư. Do đó, các tác nhân và thế nhân chi giữ lại tiền khi
có một khoản lợi ích nào đó bù đắp vào lợi tức bị mất ở trên.
2.2. Yếu tố tác động đến quy luật lưu thông tiền tệ
Cầu tiền tệ và mức cầu tiền tệ:
Việc nghiên cứu cầu tiền tệ luôn được các nhà kinh tế quan tâm, và nó có
thể cho những gợi ý về hoạch định chính sách của những người chịu trách nhiệm
điều hành nền kinh tế.
Friedman cho rằng cầu tiền tệ phải bị ảnh hưởng bởi cùng các nhân tố ảnh

hưởng đến cầu của bất kỳ tài sản nào. Vì vậy cầu tiền tệ phải là một hàm số của
những tài nguyên được sẵn sàng sử dụng cho các cá nhân (tức là của cải của họ) và
của lợi tức dự tính về các tài sản khác so với lợi tức dự tính về tiền.
Mức cầu tiền tệ chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, nhưng trước hết
chúng ta cần xem xét các nguyên nhân nào dẫn đến nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế, hay
nói khác đi chúng ta cần xem xét nền kinh tế cần tiền để làm gì?


18
Các nguyên nhân dẫn đến nhu cầu tiền tệ

• Nguyên nhân chi trả: Mọi chủ thể kinh tế cần tiền để chi trả cho việc mua
hàng hóa, trả nợ
Ở đây chúng ta không xét đến mức cầu tiền tệ, mà chỉ xét đến nhu cầu tiền tệ
của nền kinh tế mà thôi, vì vậy chúng ta không xét đến mỗi người,mỗi tổ chức cần bao
nhiêu tiền để chi trả, mà chúng ta chỉ biết rằng, do các công dụng hữu hiệu của tiền tệ
đặc biệt lá nó thuận lợi cho việc mua, bán nên người ta đều cần đến tiền để thỏa mãn
nhu cầu của cuộc sống hằng ngày của mình, cũng như nhu cầu đầu tư và sản xuất, kinh
doanh.
• Nguyên nhân dự phòng: Các cá nhân cần dự trữ tiền tệ để dự phòng khi bất trắc
như đau ốm, thỏa mãn các nhu cầu đột xuất trong quan hệ xã hội hàng ngày, các
doanh nghiệp dự trữ tiền tệ để đáp ứng các nhu cầu đột xuất khi có thời cơ dự
trữ các loại nguyên liệu khan hiếm, thuê mướn them công nhân để mở rộng sản
xuất trong các cơ hội kinh doanh mà không lường trước được hoặc dữ trữ hàng
hóa.
• Nguyên nhân tích lũy tài sản: Nhiều cá nhân muốn dự trữ tiền tệ như là để tích
lũy tài sản, người có tiền không gửi vào ngân hàng, không mua các loại tài sản
dược ngay vì khối lượng còn ít, không đầu tư tiền tệ vào các doanh nghiệp mà
để nó ở trong túi,trong két để tích lũy dần một món tiền lớn, sau đó đem ra sử
dụng cho việc mua sắm các loại tài sản co giá trị lớn như: đất, nhà, xe hơi,

vàng…
Phương thức tích lũy tài sản bằng tiền tệ ngày càng có khuynh hướng giảm dần,
vì tiền tệ có khuynh hướng mất giá so với vàng và các tái sản khác, nên ngày nay người
ta tích lũy tài sản bằng nhiều phương thức có lợi hơn như gởi tiết kiệm, mua công trái,
mua bất động sản, vàng…
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức cầu tiền tệ:
Trên đây chúng ta mới đề cập đến các nguyên nhân dẫn đến có nhu cầu về tiền
tệ, còn mức cấu tiền tệ được ấn định bởi các yếu tố nào lại là một vấn đề khác có tính
chất kinh tế hơn. Vì rằng trong cơ chế thị trường người ta luôn phải có tính toán nên


19
giữ một khối tiền bao nhiêu thì có lợi nhất, có nghĩa là khi một người nhận được một
khoản thu nhập bằng tiền thì ta sẽ giữ lại bao nhiêu tiền mặt hoặc tiền bằng séc để phục
vụ cho nhu cầu chi tiêu, nhu cầu dự phòng và nên chuyển bao nhiêu thành tiền vốn sinh
lợi, tiền gửi định kỳ hoặc mua cổ phiếu, mua trái phiếu…
• Khối lượng hàng hóa dịch vụ:
Để hàng hóa được chi trả, dịch vụ được thanh toán, xã hội cần phải có một
lượng tiền tệ nhất định để đáp ứng nhu cầu đó. Khuynh hướng tiêu dùng càng lớn cầu
tiền tệ càng cao và ngược lại. Các nhà đầu tư khi có cơ hội đầu tư sẽ làm tăng mức cầu
về tiền tệ, họ cần tiền để để mua sắm máy móc, thiết bị, cần tiền để dự trữ nguyên liệu,
cần tiền để chi trả cho công nhân… tất nhiên tiền tệ ở đây luôn gắn liền với lưu thông
hàng hóa và dịch vụ, gấn liền với sản xuất và chi dùng.
Vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ của Karl Marx, nếu giáo điều chủ nghĩa
chúng ta dễ dàng suy nghĩ rằng là: chỉ lúc nào có một sản phẩm thực sự đang được lưu
thông thì lúc đó mới cần một lượng tiền cần thiết để lưu thông nó? Cụ thể: khi có nhu
cầu về tiền phục vụ cho sản xuất, người ta sẽ cung ứng tiền để các nhà sản xuất có tiền
mua sắm thiết bị, dự trữ nguyên liệu, trả lương công nhân… và đến giai đoạn hai ngân
hàng lại cung ứng tiền cho lưu thông để tiêu thụ loại hàng hóa đã được sán xuất ra.
Trong điều kiện như vậy chỉ có những ai có tiền hay vay được tiền mới có thể tiến hành

sản xuất hoặc mua sắm chi dùng, và như vậy thì các cơ hội đầu tư sẽ bị bỏ qua khi mà
nền hàng hóa đã phát triên đến mức độ cao, tiền tệ được sử dụng như là một công cụ để
kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa, quy trình đó được vận dụng ngược lại như
sau: khi một nhà đầu tư nhận được một đơn đặt hàng, nhà đầu tư đó sẽ phải sản xuất ra
sản phẩm để đáp ứng nhu cầu hàng hóa của xã hội, đồng thời đối với nhà đầu tư, cầu
tiền tệ sẽ phát sinh. Bởi vì nhà đầu tư phải có tiền để mua sắm máy móc thiết bị, mua
sắm nguyên liệu, thuê công nhân…để tiến hành sản xuất. Để đáp ứng nhu cầu tiền tệ
của nhà đầu tư, hệ thống ngân hàng sẽ tìm cách cung ứng, tức là cung ứng tiền cho nhà
đầu tư mặc dù chưa có hàng hóa cụ thể mà nhà đầu tư sẽ sản xuất ra. Khi nhà đầu tư
nhận được tiền, nhà đầu tư sẽ tiến hành sản xuất và khi được người mua hàng thanh
toán, nhà đầu tư sẽ hoàn lại số vốn lẫn lãi cho hệ thống ngân hàng.


20
Mức cầu tiền tệ chịu sự tác động của các yếu tố giao dịch, mua bán phát sinh
hàng ngày trong nền kinh tế, mức cầu tiền tệ không hoàn toàn lệ thuộc vào khối lượng
hàng hóa đang có trong nền kinh tế và cũng chính vì vậy mà khi nhu cầu giao dịch mua
bán tăng lên và khối lượng hàng hóa không tăng kịp sẽ dẫn đến lạm phát.
• Giá cả hàng hóa tác động đến mức cầu tiền tệ
Công thức:

Chúng ta có thể thấy rằng khối lượng tiền cần thiết cho lưu thong trong một thời
gian (Kc) phụ thuộc vào lượng hang hóa lưu thong (h), giá cả hàng hóa (g) và vòng
quay của tiền (V).
Ở trên chúng ta đã đề cập đến lượng hàng hóa, dịch vụ tác động đến mức cầutiền
tệ thế nào, ngoài mối quan hệ về khối lượng hàng hóa lưu thông thì ta còn thấy cầu tiền
tệ còn chịu tác động bởi yếu tố “ý muốn” mua sắm, đầu tư của người tiêu dùng và nhà
đầu tư nữa và khi mà người đầu tư và người tiêu dùng tìm cách thực hiện ý muốn của
mình mà sản lượng hàng hóa và dịch vụ không tăng lên sẽ làm cho giá cả hàng hóa
tăng lên. Chính vì vậy mà các nhà kinh tế đều nhất trí với nhau là phải hạn chế mức

cung tiền tệ, để hạn chế việc thực hiện “ý muốn” tiêu dùng và đầu tư nhằm hạn chế sự
gia tăng có giá cả. Nhưng không phải cứ hạn chế sự cung ứng tiền, là hạn chế được sự
tăng giá cả. Vì sự hạn chế cung ứng tiền như vậy sẽ hạn chế đầu tư phát triển sản xuất
và sẽ dẫn đến hàng hóa sẽ khan hiếm đi và đến lúc đó giá cả hàng hóa sẽ có cơ hội tăng
lên. Vì vậy khi mà trong điều kiện sản xuất đang hưng thịnh người ta phải nâng cao
việc cung ứng tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tiền tệ trong điều kiện giá cả tăng. Mức cầu
tiền tệ trong điều kiện giá cả tăng sẽ làm tăng tiền tệ về số lượng.Ví như ngày trước
đây khi mua 1Kg gạo ta chỉ cần 6.000đ, nhưng bây giờ giá cả tăng gấp đôi nên người ta
cần mua đến 12.000đ.
• Tốc độ quay vòng bình quân của tiền tệ tác động đến mức cầu tiền tệ


21
Vòng quay của tiền tệ là một chỉ tiêu khó tính toán và dự kiến chính xác trong
toàn xã hội, cũng như trong một gia đình, hoặc ở một cá nhân nói riêng. Theo công
thức: K= H/V mà yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ là: Kt = Kc ta có thể suy ra:
V = H/Kt
Tức là vòng quay của tiền tệ là tỷ số của tổng giá cả hàng hóa và dịch vụ chu
chuyển trong một khoản thời gian nhất định chia cho khối lượng tiền thực có bình quân
trong nền kinh tế. Do đó khi vòng quay của tiền tệ tăng hoặc giảm đều có ảnh hưởng
đến mức cầu tiền tệ. Nếu vòng quay của tiền tệ tăng lên mức cầu tiền tệ giảm đi và khi
vòng quay của tiền tệ giảm mức cầu tiền tiền tệ sẽ tăng lên.
Đối với một nhà sản xuất chẳng hạn, nếu chu kỳ sản xuất của nhà sản xuất đó
ngắn thì mức cầu về tiền tệ của nhà sản xuất đó thấp và ngược lại nếu chu kỳ sản xuất
của nhà sản xuất đó dài thì mức cầu về tiền tệ của nhà sản xuất đó cao.
Ví dụ để luân chuyển một lượng hàng hóa có giá trị là 12 triệu đồng trong một
năm sản xuất, nếu vòng quay của vốn là 6 vòng, nhà sản xuất cần một số tiền bình
quân là 2 triệu đồng ((12 triệu)/6 = 2 triệu đồng).
Nhưng nếu vòng quay đó giảm xuống còn 4 vòng trong năm, nhà sản xuất phải
cần một số tiền là ba triệu đồng để làm vốn luân chuyển ( (12 triệu)/4 = 3 triệu đồng).

Cung tiền tệ và mức cung tiền tệ:
Để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng tiền tệ trong nền kinh tế, một số tổ chức
như NHTW, các ngân hàng thương mại cung ứng tiền ra lưu thông.
 Cung tiền tệ và sự xác định mức cung tiền tệ:
Khái niệm về cung tiền tệ: Tổng giá trị của các PTTT trong nền kinh tế, về thực
chất là những tài sản có khả năng chuyển hóa (liquidity) ở những mức độ nhất định.
Thành phần mức cung tiền: Được phân định theo khả năng chuyển hóa, bao
gồm M1 gồm tiền mặt và những tài sản coi như tiền mặt, M2 gồm M1 và những tài sản
có khả năng chuyển hóa thấp hơn như tiền tiết kiệm, tiền gửi như các khoản kinh
doanh trên thị trường tiền tệ... , M3 gồm M2 và một số tài sản khác có khả năng
chuyển hóa thấp hơn ví dụ như tiền gửi các công ty kinh doanh chứng khoán chuyên
nghiệp, giấy chứng nhận sở hữu bất động sản, trái phiếu chính phủ, M4 gồm M3 và


22
giấy chứng nhận sở hữu bất động sản. Và cứ như vậy, tùy theo sự phát triển của hệ
thống tài chính của từng nước mà thành phần mức cung tiền có thể kéo dài thêm.
Các nhân tố ảnh hưởng tới mức cung tiền : Thu nhập, lãi suất, giá cả và các biến
số khác, phản ánh sự biến động của nền kinh tế xã hội.
Cung tiền tệ cho nền kinh tế quốc dân:
Số lượng tiền đang lưu thông trong nền kinh tế được phát hành bởi NHTW.
Ngoài việc in tiền đưa vào lưu thông, NHTW còn thực hiện cung tiền vào lưu thông
thông qua hai nghiệp vụ:
+ Tái chiết khấu các thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi và các chứng từ có giá
khác của các NHTM.
+ Tái cầm cố các thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi và các chứng từ có giá
khác
Những biện pháp mà NHTW thường áp dụng để điều tiết lượng tiền phát hành vào
lưu thông.
+ Thay đổi lãi suất tái chiết khấu:

Là hình thức cung cấp tín dụng của NHTW cho các ngân hàng thương mại trong
điều kiện có thể chấp, chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của ngân hàng
thương mại. Việc ấn định lãi suất cho vay, lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu cao hay
thấp có tác động đến khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại và do đó làm
cho khối lượng cung tiền tệ tăng lên hay giảm đi. Biện pháp này có ưu điểm các khoản
cho vay của NHTW đảm bảo thu được việc. Việc cho vay gắn liền với yêu cầu phát
triển kinh tế, do sự tác động của quy luật cung cầu nhưng có nhược điểm việc vay được
hay không vay phụ thuộc vào các ngân hàng thương mại.
+ Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các NHTM:
Là phương thức quản lí khối lượng tiền trong lưu thông bằng các quy định tỉ lệ
mà các ngân hàng thương mại được phép cho vay khi nhận được một khối lượng tiền
gửi, tỉ lệ dư trữ pháp định là tỉ lệ phần trăm trên số tiền gửi mà một ngân hàng thương
mại nhận được phải gửi vào NHTW hoặc giữ tại ngân hàng theo quy định. Với biện
pháp này NHTW nắm được khối lượng tín dụng mà các ngân hàng thương mại và các
tổ chức tín dụng khác cung cấp và có khả năng cung cấp cho nền kinh tế. Do đó
NHTW có thể tác động trực tiếp đến khối lượng tín dụng bằng cách tăng hay giảm tỉ lệ
dự trữ pháp định.
+ Nghiệp vụ thị trường mở:


23
Nội dung của biện pháp này làm NHTW hành mua và bán các giấy tờ có giá
trên thị trường tiền tệ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kì.
Trong trường hợp NHTW muốn tăng khối lượng tiền trong lưu thông NHTW sẽ
mua vào một lượng chứng khoán nhất định, việc các ngân hàng thương mại bán chứng
khoán cho NHTW sẽ làm tăng dự trữ cho các ngân hàng thương mại nhờ vào lượng
tiền nhận được từ NHTW. Ngược lại nếu NHTW muốn thu hẹp khối lượng tiền tệ thì
NHTW sẽ bán một lượng chứng khoán nhất định, biện pháp này có ưu điểm là tác động
trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng thương mại buộc các ngân hàng thương mại
phải gia tăng hay giảm khối lượng tín dụng. Nhưng có nhược điểm chỉ thực hiện được

trong điều kiện các khoản tiền trong lưu thông đều nằm tại các ngân hàng thương mại.
Khối lượng tiền giao dịch do NHTW và các tổ chức tín dụng cung ứng cho nền
kinh tế đáp ứng cho nhu cầu sử dụng tiền bao gồm hai bộ phận chính là tiền mặt trong
lưu hành (C) và tiền gửi không kỳ hạn (D). Tiền dự trữ của các ngân hàng kinh doanh
(R). Mối liên hệ giữa cung tiền giao dịch (MS) và cơ số tiền (MB) thể hiện qua hình
2.1.
Cơ số tiền

: MB

Mức cung tiền giao dịch

: MS

C

D

Hình 2.1 Mối liên hệ giữa MS và MB

Theo yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ Kt = Kc. Nghĩa là khối lượng tiền
thực tế trong lưu thông phải cân đối với khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong
một thời gian (khối lượng tiền thực tế trong lưu thông phải phù hợp với nhu cầu lưu
thông hàng hóa). Trong điều kiện nền kinh tế sử dụng tiền vàng, hoặc tiền giấy khả
hoán thì cơ chế điều tiết khối lượng tiền tệ với nền kinh tế là cơ chế điều tiết tự động:
khi giá trị tiền vàng trong lưu thông lớn hơn giá trị hàng hóa thì tiền vàng tự động đi
vào cất trữ và khi giá trị tiền vàng trong lưu thông nhỏ hơn giá trị hàng hóa thì tiền vàn
cất trữ lại tự động “chảy” vào lưu thông để cân bằng giữa khối lượng tiền thực tế trong
lưu thông với khối lượng tiền cần thiết (Kt = Kc).
Cân đối cung cầu tiền tệ



24
Thị trường tiền tệ luôn hướng về điểm cân bằng khi mức cung tiền tệ bằng mức
cầu tiền tệ. Điều kiện cho sự cân bằng của thị trường tiền tệ là: MS = MD
Khi mức gía (P) và thu nhập thực tế (Y) cho trước, sự cân bằng cung và cầu tiền
thực tế sẽ tạo ra mức lãi xuất cân bằng (i) trên thị trường.
Lãi suất, i

MD
P

MS
P

2

i2

1

i1

3

i3

Khối lượng tiền thực tế

Q2


Q1

Q3

Hình 2.2 Sự cân đối của thị trường tiền tệ

Mức cầu tiền thực tế có liên hệ dương với thu nhập thực tế và liên hệ âm với lãi
suất vì vậy trên đồ thị phản ánh thị trường tiền tệ, đường cầu tiền thực tế (MD/P) có
độ nghiêng xuống dưới. Mức cung tiền được điều chỉnh bởi NHTƯ, do NHTƯ ấn
định không phụ thuộc vào lãi suất vì vậy đường cung tiền thực tế thẳng đứng. Giao
điểm giữa đường cung tiền thực tế và đường cầu tiền thực tế như đồ thị xác định lãi
suất cân bằng của thị trường (i) tương ướng với khối lượng tiền thực tế trong lưu
thông (Q), nó phản ánh trạng thái mà thị trường tiền tệ luôn hướng tới.
Nếu thị trường tiền tệ ở tại điểm 2, lượng cầu tiền thực tế thấp hơn lượng cung
về tiền thực tế một khoảng Q1 – Q2 tức là có sự dư cung về tiền. Nếu các tổ chức và cá
nhân đang giữ nhiều tiền hơn họ muốn ở mức lãi suất i2 cao hơn mức lãi suất cân bằng
i1, họ sẽ cố gắng giảm lượng tiền bằng cách mua các tài sản sinh lãi, tức là đem cho
vay. Tuy nhiên khi có ít người muốn vay với lãi suất i 2 do vậy lãi suất thị trường sẽ bị
áp lực làm giảm xuống tới điểm cân bằng i1.
Nếu lãi suất thị trường ban đầu ở điểm i 3 thấp hơn lãi suất cân bằng i1, sẽ có
lượng dư cầu tiền thực tế Q 3 – Q1. Các tổ chức cá nhân giữ ít tiền hơn họ sẽ muốn


×