Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Triết lý nhân sinh trong văn hoá Quan họ Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.18 MB, 113 trang )

l

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

DƯƠNG THỊ HÒA

TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG VĂN HOÁ
QUAN HỌ BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

DƯƠNG THỊ HÒA

TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG VĂN HOÁ
QUAN HỌ BẮC NINH
Chuyên ngành

: Triết học

Mã số

: 60.22.03.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ VÂN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Vân, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu
liên quan đã được công bố. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực,
đảm bảo tính khách quan và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn
của mình.
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả

Dương Thị Hòa


LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, phòng Sau đại học và các
phòng ban khác của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho
em được học tập, nghiên cứu tại quý trường. Xin chân thành cảm ơn các thầy
cô giáo khoa Triết học và khoa Giáo dục chính trị đã tận tình giảng dạy,
hướng dẫn em trong suốt thời gian qua.
Em xin gửi lời cảm ơn đến UBND tỉnh nhà Bắc Ninh, Sở Văn hoá du
lịch và thể thao, các cơ quan ban ngành, trường THCS Tương Giang huyện
Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đã tạo điều kiện cho em tham gia học tập nâng cao

trình độ.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Nghệ sĩ Nguyễn Hữu Duy Phó trưởng đoàn nghệ thuật II nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh đã giúp đỡ
em trong suốt quá trình làm luận văn.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất đến TS.
Nguyễn Thị Vân, giảng viên khoa Triết học trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
người đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và
hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Triết học của mình.
Xin gửi lời cảm ơn đến bố mẹ, anh chị em trong gia đình, bạn bè đã hết
lòng quan tâm, giúp đỡ và động viên tác giả luận văn trong quá trình học tập,
nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả

Dương Thị Hòa


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................

1

1. Lý do chọn đề tài .......................................................................

1


2. Tình hình nghiên cứu ................................................................

4

3. Mục đích nghiên cứu .................................................................

11

4. Giả thuyết khoa học...................................................................

11

5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ..........................................

11

6. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................

11

7. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................

12

8. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................

12

9. Cấu trúc luận văn.......................................................................


12

10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới .............................

12

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG
VĂN HOÁ QUAN HỌ BẮC NINH ...............................................

1.1. Cơ sở lý luận

14
14

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản ......................................................

14

1.1.2. Những nội dung cơ bản trong văn hoá Quan họ Bắc Ninh..

23

1.1.3. Sự cần thiết nghiên cứu triết lý nhân sinh trong văn hoá
Quan họ Bắc Ninh ...............................................................

39

1.2. Cơ sở thực tiễn ..............................................................................

42


1.2.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Bắc Ninh

42

1.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh

45

1.2.3. Điều kiện lịch sử - văn hoá tỉnh Bắc Ninh

46

Tiểu kết chương 1 ................................................................................

49


Chương 2: NỘI DUNG TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG VĂN HOÁ
QUAN HỌ BẮC NINH ...................................................................

51

2.1. Đề cao tình yêu thương giữa con người với con người .............

51

2.1.1. Tình cảm gia đình ................................................................

51


2.1.2. Tình yêu đôi lứa ..................................................................

55

2.2. Tình yêu lao động .........................................................................

63

2.3. Đề cao tình yêu quê hương đất nước .........................................

68

2.4. Tinh thần lạc quan, niềm tin vào cuộc sống .............................

73

2.5. Một số giải pháp nhằm phát huy giá trị triết lý nhân sinh
trong văn hoá Quan họ với đời sống tinh thần cho người dân
tỉnh Bắc Ninh ................................................................................

76

2.5.1. Quán triệt quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính
sách pháp luật của nhà nước đối với việc bảo tồn và phát huy
giá trị triết lý nhân sinh trong văn hoá Quan họ Bắc Ninh ..........

76

2.5.2. Xây dựng đời sống vật chất và đời sống tinh thần ổn định, tạo

điều kiện cho việc bảo tồn và phát huy giá trị của triết lý nhân
sinh trong văn hoá Quan họ ở Bắc Ninh hiện nay ........................

80

2.5.3. Nâng cao nhận thức của người “chơi Quan họ” và nhân dân
về giá trị của triết lý nhân sinh trong văn hoá Quan họ .............

82

2.5.4. Phối hợp giữa các tổ chức, đoàn hội trong việc khắc phục
những mặt hạn chế và phát huy những giá trị triết lý nhân sinh
trong văn hoá Quan họ Bắc Ninh trong xã hội hiện đại..............

86

Tiểu kết chương 2 ................................................................................

88

KẾT LUẬN .............................................................................................................

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................

92

PHỤ LỤC


97


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thứ nhất, dân ca là một loại hình nghệ thuật dân gian có từ lâu đời.
Trong kho tàng văn hoá nghệ thuật và âm nhạc dân gian có rất nhiều loại hình
dân ca khác nhau như: Ca trù, Cải lương, Chầu văn, Ví dặm, Đờn ca tài tử....
vẫn lấp lánh một dòng dân ca riêng biệt, đặc sắc:
“Trong sáu tỉnh người đà chưa tỏ
Ngoài năm thành chỉ có Bắc Ninh
Yêu nhau trở lại xuân đình
Nghề chơi Quan họ có tinh mới tường” [31, tr.77].
Đó là văn hoá Quan họ Kinh Bắc - Bắc Ninh. Kinh Bắc, vốn là vùng
đất cổ nơi dấu ấn thời gian đã ghi tạc vào lịch sử với nền văn hoá được hình
thành từ lâu đời. Đây cũng là địa phương có bề dày truyền thống lịch sử và
nét văn hoá độc đáo của Quan họ trữ tình. Ngày 30 tháng 9 năm 2009, Dân ca
Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là “Di sản Văn hoá Phi vật thể
đại diện của nhân loại”. Từ các hình thức sinh hoạt cho tới ca Quan họ không
những biểu hiện tài năng sáng tạo của người Bắc Ninh mà còn phản ánh đầy
đủ và sâu sắc những mối quan hệ đặc thù của người Bắc Ninh xưa. Đó là mối
quan hệ giữa những con người trong cùng một cộng đồng làng xã là mối quan
hệ giữa các làng xã phường hội với nhau.
Thứ hai, Quan họ là một hiện tượng sinh hoạt văn hoá đặc biệt, với một
khoảng không gian rộng lớn bao gồm sự hợp thành của năm hoạt động: Dân
ca Quan họ, tục kết bạn Quan họ, văn hoá hành vi Quan họ, lễ hội Quan họ
và tín ngưỡng Quan họ. Năm hoạt động này hoà quyện, thống nhất và chi
phối lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm điều kiện, môi trường để tồn tại. Trải
qua quá trình hình thành, tồn tại và phát triển, chúng hợp nhất với nhau thành

một chỉnh thể gọi là: Văn hoá Quan họ. Trong đó, dân ca Quan họ là hoạt


2
động quan trọng nhất, hay nói cách khác, tiếng hát Quan họ là phương tiện cơ
bản để người Quan họ thực hiện có hiệu quả tất cả các hoạt động còn lại. Việc
xác định đúng vai trò và mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố cấu thành nên
văn hoá Quan họ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đề ra các giải pháp
nhằm bảo tồn và phát huy văn hoá Quan họ trong xã hội đương đại.
Thứ ba, văn hoá Quan họ là “đặc sản” tinh thần của người dân Kinh
Bắc. Một hình thái sinh hoạt văn hoá dân gian chứa đựng triết lý nhân văn sâu
sắc, nhân ái cao cả. Từ đời này sang đời khác, từ thế hệ trước tới thế hệ sau,
người Bắc Ninh luôn gắn kết với nhau: trong họ ngoài làng, tắt lửa tối đèn có
nhau, sống ở làng sang ở nước, thương người như thể thương thân, tứ hải
giao tình, bốn biển một nhà như lời ca Quan họ. Văn hoá Quan họ đã làm
phong phú đời sống tinh thần, khắc sâu tình yêu thương giữa con người với
con người, tình nghĩa thuỷ chung son sắt, lối sống trọn nghĩa vẹn tình, cổ vũ
tinh thần lao động cũng như thể hiện khát vọng về cuộc sống hạnh phúc, ấm
no. Nó góp phần làm nên vẻ đẹp trong tâm hồn, trong lối sống, trong đời sống
tinh thần của người dân Bắc Ninh nói riêng và người Việt Nam nói chung.
Văn hoá Quan họ cò mang đậm triết lý của con người về cuộc sống, là tâm tư
tình cảm, là ước mơ khát vọng, là lý tưởng sống của con người, là triết lý
sống, triết lý về tình yêu... Văn hoá Quan họ còn mang tính giáo dục con
người về tình yêu quê hương đất nước, yêu thương con người, thương yêu
đồng loại, đồng bào, lối sống trọn nghĩa vẹn tình, sự bình đẳng trong xã hội.
Nghiên cứu văn hoá Quan họ Bắc Ninh là góp phần tìm hiểu kho tàng văn hoá
dân gian Việt Nam, làm rõ nét đặc sắc, triết lý và ý nghĩa nhân văn của nghệ
thuật truyền thống. Từ đó, góp phần vào công cuộc kế thừa và phát huy những
giá trị truyền thống văn hoá, đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Thứ tư, Quan họ trước đây tồn tại, phát triển trong một xã hội ít biến

động về kinh tế - văn hoá - xã hội…Quan họ có rất nhiều các hình thức hát,


3

song quy tụ lại thì có bốn hình thức hát chủ yếu là: hát chúc - hát mừng, hát
thờ, hát hội và hát canh. Cách hát truyền thống tuỳ hình thức có thể hát cả bọn
song chủ yếu là hát đôi và hát không có nhạc đệm. Nhưng đến ngày nay, do
sự tác động của công cuộc CNH - HĐH đất nước, đặc biệt là tốc độ đô thị hoá
đang diễn ra nhanh chóng và rộng lớn ở vùng quê Quan họ và xu thế hội nhập
kinh tế - văn hoá giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới đã tồn
tại thêm một hình thức nữa đó là hình thức “ca nhạc Quan họ”, cách diễn
xướng phong phú, có hát tốp ca, đơn ca, song ca nam nữ, hát có nhạc đệm, có
múa phụ hoạ và có phối bè. Hình thức này ra đời là do quá trình phát triển tất
yếu đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của cuộc sống đương đại hôm nay.
Xưa thì gọi là “chơi Quan họ” và nay gọi là “hát Quan họ”. Quan họ đã và đang
đứng trước những cơ hội và thử thách mới. Những giá trị truyền thống của văn
hoá Quan họ đang có xu hướng mờ nhạt dần. Không ít những giá trị tốt đẹp của
Quan họ đã bị mai một và bị lạm dụng vì mục đích thương mại hoá, khiến công
chúng bất bình và dư luận phản ứng trên các phương tiện báo chí, truyền thông.
Mặt khác, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin, hệ thống mạng internet đã giúp con người có nhiều sự lựa chọn
đáp ứng nhu cầu giải trí của mỗi người khác nhau. Do đó, giới trẻ hiện nay
dường như đã quên đi sự hiện diện của những loại hình sinh hoạt văn hoá dân
gian, thay vào đó họ chọn cho mình những dòng nhạc ngoại lai, theo trào lưu mà
lãng quên đi dòng nhạc truyền thống. Trong Nghị quyết Hội nghị 9 Ban chấp
hành Trung ương Đảng khoá XI (5/2014) xác định: Văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội, là mục tiêu, là động lực và nguồn lực nội sinh quan trọng
cho phát triển bền vững đất nước... Trong xây dựng văn hoá phải lấy xây
dựng, phát triển con người có nhân cách, đạo đức, có lối sống tốt đẹp làm

trọng tâm, xây dựng môi trường văn hoá (gia đình, cộng đồng và xã hội) lành
mạnh làm cốt lõi. Vì vậy, việc nghiên cứu, lưu giữ và bảo tồn, quảng bá văn


4
hoá Quan họ Bắc Ninh là một thách thức không nhỏ, đòi hỏi sự hợp tác của
nhiều ngành khoa học, nghệ thuật khác nhau, sự quyết tâm của các cấp lãnh
đạo và của đội ngũ những người làm công tác văn hoá, nghệ thuật.
Dựa vào bốn luận điểm trên, tác giả mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề
tài: “Triết lý nhân sinh trong văn hoá Quan họ Bắc Ninh” làm đề tài luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quan họ Bắc Ninh đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, bình luận,
khảo cứu rất nhiều bởi tính đặc sắc, phong phú, đa dạng. Cho đến ngày nay đã
có trên 600 tài liệu nghiên cứu, giới thiệu về Quan họ của các tác giả trong và
ngoài nước được xuất bản, nhưng đa phần là những ấn phẩm báo chí, còn lại
rất ít công trình chuyên khảo về văn hoá Quan họ. Những công trình này mới
chỉ là những kết quả nghiên cứu trên từng lĩnh vực của Quan họ như: nguồn
gốc và quá trình phát triển, nghệ thuật ca hát, lời ca và âm nhạc Quan họ....
2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến các khái niệm công cụ
của đề tài
Triết lý
Triết lý sống trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn
Khoa Điềm và ý nghĩa giáo dục thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay của ThS Trần
Thị Hà Giang, Đoàn Hồng Văn đã đưa ra những khái niệm cơ bản về triết lý.
Đó là giáo dục triết lý sống tốt đẹp cho học sinh, sinh viên biết yêu cội nguồn,
biết tự hào về đất nước, giáo dục lối sống quý trọng tình nghĩa, biết khẳng
định và bảo vệ chủ quyền đất nước.
Triết lý ứng xử của người Việt trong truyền thuyết của tác giả Nguyễn
Thị Hạnh đã trình bày khá rõ về khái niệm triết lý, từ đó cho bạn đọc thấy rõ

những triết lý sống tốt đẹp mà ông cha ta muốn nhắn nhủ qua truyền thuyết
dân gian như đạo lý, phép tắc ứng xử trong gia đình: lòng hiếu kính của con


5
cái đối với cha mẹ, tình nghĩa anh em, tình cảm vợ chồng... sự gắn kết cộng
đồng, tình làng nghĩa nước. Những giá trị tốt đẹp này đã ăn sâu vào nếp sống,
suy nghĩ của mỗi con người trên đất nước Việt Nam, trở thành lẽ sống, truyền
thống quý báu của dân tộc.
Triết lý nhân sinh
Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ của PGS, TS Võ Toàn
Thắng, Nguyễn Khánh Hoàng đã giúp bạn đọc hiểu rõ hơn giá trị cốt lõi trong
triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ như tính mở, sống hoà hợp với tự
nhiên, quan niệm “đối nhân, xử thế”... vẫn còn nguyên vẹn qua đó đã tạo nên
nét đặc trưng trong triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ.
Triết lý nhân sinh trong tục ăn trầu của người Việt ThS Hoàng Phương
Thảo giúp cho chúng ta thấy tục ăn trầu và mời trầu là một giá trị đẹp, văn hoá
ứng xử tình nghĩa trước sau, một triết lý nhân sinh nồng hậu, thắm đượm tình
người. Ăn trầu là một nét văn hoá truyền thống độc đáo, “mỹ tục” của người
Việt. Tục trầu cau là nét đẹp trong văn hoá của người Việt, mang hồn người Việt
và còn mang nét đẹp truyền thống tâm linh của người Việt.
Triết lý nhân sinh trong ca dao Nam Bộ luận văn của Lâm Thị Thu Việt
đã củaiên cứu triết lý nhân sinh trong ca dao Nam Bộ mang đậm tính triết lý
của con người là sự tôn trọng, gần gũi, hoà hợp, chủ động với thiên nhiên, là
lẽ sống trọng nghĩa, trọng tình, sẵn sàng xả thân vì chính nghĩa, là sự yêu
thương, gắn bó thuỷ chung, hy sinh, hiếu nghĩa.... hoà quyện vào nhau tạo
thành triết lý sống của người dân Nam Bộ.
Quan họ, Quan họ Bắc Ninh
Dân ca Quan họ Bắc Ninh của nhóm bốn tác giả gồm Nguyễn Văn
Phú, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc, năm 1962 đã nghiên cứu về

cách tổ chức, tục lệ sinh hoạt, các giọng hát, nội dung và lề lối hát Quan họ.
Đồng thời các tác giả cũng nêu ra những truyền thuyết về nguồn gốc ra đời


6
của Quan họ và có những nhận xét về tính tương đồng trong các truyền thuyết
và những điểm không hợp lý của chúng. Bên cạnh đó, họ còn giới thiệu đến
bạn đọc những bài hát Quan họ và có sự phân chia các bài hát theo giọng,
theo cuộc chơi.
Một số vấn đề về dân ca Quan họ, Ty Văn hoá Hà Bắc, năm 1972. Đây là
tuyển tập gồm nhiều bản báo cáo, tham luận khoa học của các nhà nghiên cứu
thuộc nhiều ngành như văn học, sử học, dân tộc học, âm nhạc, sân khấu,... và các
nghệ nhân Quan họ. Bởi vậy cuốn sách đã giúp cho người đọc có những nhận
thức tổng quát về dân ca Quan họ trên nhiều phương diện khác nhau.
Tục ngữ - Điển tích dân ca Quan họ (2011), Nxb Văn hoá thông tin, tác
giả Lâm Minh Đức cũng đã giải thích cho bạn đọc hiểu về các điển tích,
những từ ngữ khó hiểu trong các lời ca Quan họ cổ, ví dụ như điển tích bạn
kim lan, cầu ô thước, trúc - mai... Từ đó người đọc có thể hiểu được hơn nữa
nội dung của bài hát.
Sum họp trúc mai (1998) do Đoàn dân ca Quan họ Bắc Ninh xuất bản
nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập đoàn, những bài viết trong sách không chỉ
giới thiệu, đúc kết lại những thành tựu mà Đoàn đã đạt được trong công cuộc
bảo tồn và phát huy dân ca Quan họ từ những năm đầu thành lập, mà còn trình
bày các giai thoại về nguồn gốc Quan họ, những ý kiến nhận xét về Quan họ
trên sân khấu. Đồng thời còn trình bày những truyền thuyết để giải thích cho
những điển tích được dùng trong lời ca Quan họ.
“Quan họ Bắc Ninh - thực trạng và giải pháp bảo tồn” cuộc hội thảo
khoa học do Sở Văn hoá - Thông tin tổ chức ngày 17/10/2006 đã góp phần
vào việc bảo tồn văn hoá Quan họ.
Nghĩa tình Quan họ in trên báo Bắc Ninh ngày 31/12/2014, tác giả Vũ

Thắng và Trần Thảo đã trình bày và giải thích cho bạn đọc hiểu một số lễ
nghi trong giao tiếp Quan họ ví dụ như vì sao Quan họ lại coi trọng chữ


7
“nhân”, tại sao người Quan họ tiếp đãi khách đúng lề lối bao giờ cũng phải
“mâm đan, bát đàn”... Đồng thời, nhóm tác giả cũng giải thích ý nghĩa sâu sắc
về trang phục của người Quan họ. Qua đó khẳng định chiều sâu văn hoá, vẻ
đẹp độc đáo của dân ca Quan họ.
Quan họ, tên gọi và nguồn gốc in trên Tạp chí Văn nghệ Hà Bắc số 2
năm 1990, nhạc sĩ Hồng Thao đã lý giải nguồn gốc tên gọi của Quan họ
bằng phương pháp đối chiếu văn bản. Thông qua hai văn bản: Văn tế sống
hai cô gái Trường Lưu của Nguyễn Du và một đoạn trong chương I tiểu
thuyết Lều chõng của Ngô Tất Tố, tác giả xác định Quan họ nguyên là danh
từ dùng để chỉ những người thuộc họ nhà quan, được trọng vọng, có chữ
nghĩa và nhiều thân thế. Sau đó từ Quan họ dùng để chỉ một tổ chức, một tập
thể sinh hoạt văn nghệ bình dân, một thể loại dân ca là hát Quan họ. Phương
thức lưu giữ của dân ca là truyền khẩu và luôn tồn tại, phát triển bằng những
dị bản, vì vậy rất khó xác định thời điểm ra đời của một thể loại dân ca,
trong đó có dân ca Quan họ. Ngoài ra, tác giả đã căn cứ vào quá trình hình
thành, phát triển của thể thơ lục bát trong văn chương mà đoán định niên đại
ra đời của dân ca Quan họ. Theo ông, không biết dân ca Quan họ (chứ không
phải tục kết nghĩa Quan họ) ra đời từ bao giờ, nhưng chắc chắn rằng nó ra
đời sớm nhất là khi thể thơ lục bát ở Việt Nam đã hình thành, giả thiết là
cách đây khoảng năm thế kỷ.
2.2. Các công trình nghiên cứu về văn hoá Quan họ Bắc Ninh
Không gian Văn hoá Quan họ do tác giả Lê Danh Khiêm chủ biên, là
công trình chuyên khảo đầu tiên về Quan họ với quan niệm Quan họ là sinh
hoạt văn hoá dân gian của quê hương Bắc Ninh với những yếu tố cấu thành
không gian văn hoá độc đáo và đặc sắc, trong đó ca hát Quan họ là yếu tố

trọng tâm chi phối toàn bộ sinh hoạt văn hoá Quan họ. Trong công trình này,
tác giả Lê Danh Khiêm tiếp tục công bố các nguồn tư liệu và kiến giải nhiều


8
vấn đề về sinh hoạt văn hoá Quan họ đã và đang được giới nghiên cứu và
công chúng quan tâm bàn thảo như: Ý nghĩa của Quan họ, nguồn gốc Quan
họ, thời điểm ra đời của sinh hoạt văn hoá Quan họ... Đáng chú ý trong công
trình này, lần đầu tiên lễ hội các làng Quan họ được tác giả khảo tả và giới
thiệu khá cụ thể, đồng thời danh mục 213 giọng (hay còn gọi là làn điệu)
Quan họ cổ được công bố một cách cụ thể cùng 10 giọng thuộc hệ thống
giọng giã bạn được tác giả ký âm và công bố theo tư liệu của Ban sưu tầm
nghiên cứu Di sản văn hoá Quan họ. Đó là nguồn tư liệu quý giúp cho các nhà
nghiên cứu tiếp tục bàn thảo và làm sáng tỏ nhiều vấn đề về học thuật cũng
như việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá Quan họ trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc quê hương Bắc Ninh
- Kinh Bắc.
Hát Quan họ (1958) in trên Tạp chí Bách khoa số 43 tháng 10/1958,
GS Trần Văn Khê đã nêu ra ba truyền thuyết về nguồn gốc, xuất xứ của dân
ca Quan họ và nhận xét một số điểm bất hợp lý trong đó. Tuy nhiên, ông cũng
chưa xác định được nguồn gốc của Quan họ theo quan điểm của mình.
Tìm hiểu nguồn gốc Quan họ Bắc Ninh của tác giả Nguyễn Tiến Chiêu
in trên tạp chí Bách khoa số 65 tháng 9 năm 1959, sau khi nhận xét, lý giải và
dung hoà các tài liệu mà ông sưu tập được đã đưa ra nhận định: Quan họ ra
đời từ thời nhà Lý tại Bắc Ninh, nó được phát triển từ thể hát đúm do nghệ sĩ
bình dân sáng tạo ra.
Để góp phần vào nghiên cứu Quan họ của nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc một người đã từng điền dã trên đất Quan họ và tiếp xúc nhiều với các nghệ
nhân Quan họ, đăng trên tập san Văn Hoá số 11 năm 1961 đã đưa ra nhiều
nhận định về nguồn gốc và sự phát triển của Quan họ. Điều này có ý nghĩa
lớn đối với việc nghiên cứu của các nhà khoa học sau này nhưng cũng đồng

thời làm cho bạn đọc bị nhiễu. Ví dụ như trong phần nguồn gốc, tác giả đã


9
trình bày bốn truyền thuyết về sự ra đời của dân ca Quan họ đan xen những
quan điểm của mình, do đó người đọc khó có sự phân biệt được đâu là quan
điểm chủ quan của tác giả và đâu là quan điểm khách quan.
Truyện cổ ca dao tục ngữ các làng Quan họ (2011), NXB Trung tâm
văn hoá tỉnh Bắc Ninh, tác giả Lê Danh Khiêm đã trình bày các truyền thuyết,
giai thoại có liên quan tới những bài hát Quan họ như giai thoại về vợ vua
Thuỷ Tề, công chúa con gái vua Hùng Vương, vợ vua Thuỷ Tề… Đồng thời,
tác giả cũng nói về sự hình thành của các làng Quan họ cổ như làng Diềm,
làng Bịu… Từ đó góp phần nói lên sự hình thành và phát triển của văn hoá
Quan họ Bắc Ninh.
Văn hiến Kinh Bắc - Tái bản có bổ sung và sửa chữa do Sở Văn hoá
Bắc Ninh ban hành, cuốn Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá Kinh Bắc - Trần
Đình Luyện, cuốn Văn hoá dân gian ở Gia Đông (Bắc Ninh) của tác giả Chu
Quang Trứ… nghiên cứu dân ca Quan họ trên các phương diện văn hoá, lối
chơi và các lễ hội. Các tác phẩm này góp phần làm cho kho dữ liệu về Quan
họ trở nên phong phú và sâu sắc hơn.
2.3. Các công trình nghiên cứu về triết lý nhân sinh trong văn hoá
Quan họ Bắc Ninh
“Triết lý nhân sinh trong dân ca Quan họ Bắc Ninh” khoá luận tốt
nghiệp của Nguyễn Thị Dung, đã nói về triết lý nhân sinh trong dân ca Quan
họ mộc mạc, giản dị giống như con người Bắc Ninh trọng nghĩa, trọng tình.
Dân ca Quan họ Bắc Ninh có ý nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc trong việc
giáo dục truyền thống đạo đức, quan niệm sống của người Việt cho thế hệ trẻ
trong bối cảnh hiện đại.
Dân ca Quan họ: Lời ca và Bình giải (2001), Nxb Trung tâm Văn hoá
Quan họ Bắc Ninh, tác giả Lê Danh Khiêm đã giới thiệu được cho bạn đọc

210 bài hát Quan họ lời cổ. Đồng thời tác giả cũng có phần bình giải về các


10
điển tích, điển cố và những từ cổ trong các lời ca Quan họ mà bấy lâu nay
không phải người nào hát Quan họ cũng có thể hiểu được. Qua sự bình giải
đó, người đọc được tiếp cận với sinh hoạt văn hoá Quan họ, hiểu được những
giá trị nhân sinh quý giá, có thể hiểu được tại sao người Quan họ lại gọi nhau
là anh Hai, chị Hai…, tôn vinh nhau là Đương Quan họ, hay thế nào là nón
thúng quai thao… Tác phẩm này không chỉ có giá trị khoa học mà còn có giá
trị thực tiễn, góp phần vào việc giới thiệu, truyền bá và hướng dẫn ca hát, giới
thiệu Quan họ với mọi người nhất là đối với thế hệ trẻ.
Quan họ khởi nguồn của tác giả Phạm Thuận Thành, in trên báo Bắc
Ninh ngày 25/03/2015 đã trình bày về quá trình hình thành và phát triển của
trung tâm văn hoá Bắc Ninh. Thông qua đó, tác giả cũng lý giải nguồn gốc ra
đời và phát triển của dân ca Quan họ Bắc Ninh. Đồng thời tác giả cũng đưa ra
những phương hướng để bảo tồn và phát huy những giá trị nhân văn của dân
ca Quan họ trong bối cảnh hiện nay.
Yêu một Bắc Ninh (2002) của Đức Miêng (một nhạc sĩ chuyên đặt lời
mới theo những làn điệu Quan họ cổ và là một trong những nhà nghiên cứu
Quan họ hiện nay), Nxb Âm Nhạc, là một công trình bổ sung, đóng góp đáng
quý vào công việc tìm hiểu văn hoá và ca hát Quan họ. Bởi những bài viết của
tác giả đã cho người đọc hiểu được một cách thấu đáo, chính xác hơn về nghệ
thuật chơi và ca hát Quan họ. Từ đó tìm ra những phương hướng để bảo tồn
và phát huy những giá trị triết lý của văn hoá Quan họ.
Nhìn lại chặng đường nghiên cứu về Quan họ Bắc Ninh trong suốt
nửa thế kỷ qua, ta có thể thấy các nhà nghiên cứu đã thu được nhiều thành
tựu. Hầu hết các công trình được công bố dù lớn hay nhỏ đều đã lột tả
được diện mạo cũng như các vấn đề thuộc bản chất cùng một số giá trị
thẩm mỹ khác nhau về loại hình độc đáo này. Các công trình trên là nguồn

tư liệu quý báu để tác giả kế thừa trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên,


11
các công trình đó chủ yếu đi sâu tìm hiểu Quan họ trên các phương diện
văn hoá, nghệ thuật, lịch sử, chưa có công trình nghiên cứu nào đi nghiên
cứu độc lập, chuyên sâu dưới góc độ triết học về triết lý nhân sinh trong
văn hoá Quan họ Bắc Ninh. Vì vậy, triết lý nhân sinh trong văn hoá Quan
họ Bắc Ninh vẫn còn là một khoảng trống đòi hỏi tác giả nghiên cứu sâu
và làm rõ.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ cơ sở khoa học của triết lý nhân sinh trong văn hoá
Quan họ Bắc Ninh; luận văn phân tích những nội dung cơ bản của triết lý
nhân sinh trong văn hoá Quan họ Bắc Ninh và đưa ra một số giải pháp nhằm
bảo tồn và phát huy những giá trị đó trong xã hội hiện đại.
4. Giả thuyết khoa học
Văn hoá Quan họ Bắc Ninh chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc,
nhân ái cao cả. Nếu nghiên cứu sâu, phân tích khách quan, vận dụng hiệu quả
giá trị triết lý nhân sinh trong văn hoá Quan họ Bắc Ninh vào giáo dục đạo
đức, lối sống con người thì nó sẽ góp phần làm nên vẻ đẹp của tâm hồn, lối
sống, nhân cách cao thượng, vừa có đức vừa có tài của con người Bắc Ninh
nói riêng, người Việt Nam nói chung trong giai đoạn hiện nay.
5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: văn hoá Quan họ Bắc Ninh.
- Đối tượng nghiên cứu: triết lý nhân sinh trong văn hoá Quan họ Bắc Ninh.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của triết lý nhân sinh trong
văn hoá Quan họ Bắc Ninh.
- Phân tích sâu những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong văn
hoá Quan họ Bắc Ninh.



12
- Luận văn đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm bảo tồn và phát huy giá
trị triết lý nhân sinh trong văn hoá Quan họ Bắc Ninh trong xã hội ngày nay.
7. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu triết lý nhân sinh trong văn hoá Quan họ ở
địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, bên cạnh đó kết hợp với một số phương pháp cụ thể
như: Phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử, xử lý nguồn tài liệu về Quan họ Bắc
Ninh, phương pháp so sánh, đối chiếu, quy nạp...
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương và 7 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới
10.1. Những luận điểm cơ bản
Văn hoá Quan họ đã góp phần làm phong phú đời sống tinh thần, khắc
sâu tình yêu thương giữa con người với con người, tô đậm tình yêu quê hương
đất nước, tình nghĩa thuỷ chung son sắt, lối sống trọn nghĩa vẹn tình, cổ vũ tinh
thần lao động cũng như thể hiện khát vọng về cuộc sống hạnh phúc, ấm no.
Văn hoá Quan họ làm nên vẻ đẹp tâm hồn, lối sống và gìn giữ giá trị
nhân văn truyền thống của dân tộc trong thời đại toàn cầu hoá như vũ bão cho
người dân Bắc Ninh nói riêng và người Việt Nam nói chung.
10.2. Đóng góp mới
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của triết lý nhân sinh trong
văn hoá Quan họ Bắc Ninh. Luận văn phân tích sâu những nội dung cơ bản
của triết lý nhân sinh trong văn hoá Quan họ Bắc Ninh và đưa ra các giải pháp



13
cơ bản nhằm bảo tồn và phát huy giá trị triết lý nhân sinh trong văn hoá Quan
họ Bắc Ninh trong xã hội ngày nay.
Luận văn nghiên cứu văn hoá Quan họ Bắc Ninh dưới góc độ triết học.
Qua đó, giúp cho các độc giả thấy được những giá trị nhân văn sâu sắc trong
văn hoá Quan họ Bắc Ninh và sức sống trường tồn của những giá trị đó.
Đồng thời, đề tài góp phần trong việc bảo tồn và phát huy những giá
trị truyền thống, văn hoá của người Bắc Ninh nói riêng và người Việt Nam
nói chung.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho việc nghiên cứu một số khía cạnh trong văn hoá dân gian, trong giảng dạy
những bộ môn như: Triết học, Xã hội học, Đạo đức học, Mỹ học, Văn hoá
học, Văn hoá dân gian, Dân tộc học...


14
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH
TRONG VĂN HOÁ QUAN HỌ BẮC NINH
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Triết lý, triết lý nhân sinh
Triết lý
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, Triết lý được hiểu theo hai nghĩa: 1) Lý
luận triết học; 2) Quan niệm chung và sâu sắc của con người về vấn đề nhân
sinh và xã hội [90, tr.1707].
Theo Giáo sư Hoàng Trinh: “Triết lý là những nguyên lý đầu tiên,
những tư tưởng cơ bản được dùng làm nền tảng cho sự tìm tòi và suy lý của
con người về cội nguồn, bản chất và các hình thái tự nhiên, xã hội và bản

thân, làm phương châm cho sự xử thế và xử sự của con người trong các hành
động sống hàng ngày…có những dân tộc đã có những triết lý từ lâu mặc dầu
chưa có triết học với hệ thống khái niệm của nó” [61, tr.21].
Cuộc sống của con người rất đa dạng, muôn màu, muôn vẻ và thường
thay đổi một cách sinh động. Hoàn cảnh sống, tính tình, tâm lý, thể lý của mỗi
người là khác nhau nên không có cuộc sống của người nào giống người nào.
Vì thế mỗi người nhìn nhận về cuộc đời một cách khác nhau. Hầu như tất cả
các quốc gia, dân tộc trong tiến trình lịch sử lâu dài của mình bao giờ cũng có
ít, nhiều bộ óc thông thái ở các lĩnh vực khác nhau như nhà văn, nhà thơ, nhà
sử học, nhà chính trị xã hội,… và cả những nhà trí thức bình dân. Tuy nhiên,
ở giai đoạn thấp của lịch sử thì triết lý là sự suy ngẫm, đúc kết, tổng kết,
những điều cơ bản về các mối quan hệ trong cuộc sống thực tế, mọi mặt của
cộng đồng, từ những chiêm nghiệm rút ra các quy luật khách quan của tự
nhiên, phục vụ cho những hoạt động thực tiễn đời sống.


15

Triết lý không chỉ là những kết luận rút ra từ một triết thuyết, một hệ
thống các nguyên lý triết học nào đó mà triết lý còn là những tư tưởng, quan
điểm phản ánh bản chất của các mối quan hệ diễn ra trong đời sống sinh hoạt
hàng ngày của cá nhân hay cộng đồng khẳng định niềm tin, giá trị, đạo lý có
tác dụng chỉ đạo cho cách ứng xử, suy nghĩ hành động, phương châm sống
của con người ở những hoàn cảnh lịch sử nhất định.
Triết lý, nói cách khác còn là kết quả của sự chiêm nghiệm và đúc kết
thành những quan điểm và luận điểm, phương châm cơ bản và cốt lõi nhất về
cuốc sống cũng như những hoạt động thực tiễn rất đa dạng, phong phú của
con người trong xã hội. Chúng có vai trò định hướng cho cuộc sống và những
hoạt động thực tiễn rất đa dạng ấy.
Triết lý có thể thể hiện bằng một mệnh đề hàm súc những ý nghĩa về

nhân tình thế thái, về tự nhiên, về xã hội, nó cũng có thể là một mệnh đề, một
quan niệm, một luận thuyết… Trên thực tế, triết lý đôi khi còn được toát lên
từ ý nghĩa qua những áng văn thơ, những câu chuyện cổ, câu dân ca, công
trình kiến trúc hay từ lễ hội… Triết lý là một cái đích để con người không
ngừng đi tìm kiếm chân lý của cuộc đời. Triết lý đúng sẽ trở thành cơ sở lý
luận khoa học cho một hệ thống quan điểm, học thuyết, định hướng cho hành
động của con người.
Triết lý là những điều được rút ra từ trải nghiệm, nó như một quan niệm
nền tảng, cốt lõi trên cơ sở nhìn nhận điều gì là nguồn cội tâm thế, giá trị tinh
thần, sức mạnh ứng xử, được phát biểu ngắn gọn, súc tích. Triết lý như một
tín điều, làm kim chỉ nam cho hành động, cách xử thế hay lối sống của cá
nhân, cộng đồng.
Như vậy, khái quát lại: Triết lý là những quan niệm, quan điểm chung
được đúc kết từ trong cuộc sống, có giá trị định hướng cho con người trong
hoạt động thực tiễn hay trong các quan hệ xã hội.


16

Triết lý nhân sinh
Theo nghĩa gốc của tiếng Hán: Nhân nghĩa là người, Sinh là sự sống,
Quan là quan niệm, Nhân sinh quan tức là quan niệm về sự sống con người.
Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam: “Nhân sinh (Nhân: người; Sinh:
Sống) là cuộc sống của người ta. Nhân sinh quan (Quan: xem xét) là lập
trường của một người trong việc nhận xét mọi mặt của cuộc sống, nhân sinh
quan tức là quan niệm về sự sống con người’’ [34, tr.1317].
Triết lý nhân sinh thường trả lời cho những câu hỏi: Lẽ sống của con
người là gì? Ý nghĩa, mục đích sống của con người ra sao? Con người phải
sống như thế nào cho xứng đáng? Vai trò và vị trí của con người cũng như
tương lai của con người sẽ ra sao? Như vậy, nghiên cứu vấn đề nhân sinh tức là

đi nghiên cứu xem người ta sinh ra ở đời để làm gì? Mong muốn cái gì? Sống
như thế nào? Hay nói cách khác, nghiên cứu vấn đề nhân sinh là đi nghiên cứu
về bản chất, mục đích, thái độ và hành vi… của đời sống con người.
Mỗi người có một nhân sinh quan khác nhau, tuỳ thuộc vào thời đại,
giai cấp, hoàn cảnh sống của họ. Làm người mà không có nhân sinh quan,
không biết đến nhân sinh quan, không hiểu hay không có đạo làm người thì
cuộc đời trở nên vô nghĩa. Trong đời thường bất kì người nào cũng có quan
niệm của mình về cuộc sống, nhân sinh quan của con người thường tự phát,
ngây thơ nhưng khi được các nhà tư tưởng nhìn nhận, đánh giá thì vấn đề đó
được nâng lên thành lý luận mang tính triết học.
Nhân sinh quan phản ánh tồn tại xã hội của con người. Nội dung của nó
biểu hiện những nhu cầu lợi ích, khát vọng và hoài bão của con người trong
mỗi chế độ xã hội cụ thể. Trong xã hội có giai cấp, nhân sinh quan cũng mang
tính giai cấp. Giai cấp đang đi lên trong lịch sử có nhân sinh quan lạc quan,
tích cực, cách mạng; nhân sinh quan của giai cấp đang đi xuống thường mang
tính bi quan, yểm thế. Nhân sinh quan có tác dụng to lớn đến hoạt động của


17
con người; tạo niềm tin, lối sống, tạo ra phương hướng mục tiêu cho hoạt
động (lý tưởng sống). Nếu như phản ánh đúng khuynh hướng khách quan của
lịch sử thì nó là nhân tố mạnh mẽ để cải tạo xã hội một cách hợp lý, nhưng
nếu phản ánh không đúng thì nó có tác dụng ngược lại, cản trở xã hội tiến lên.
Trong lịch sử xã hội có những thời kỳ nhất định, hoạt động của con
người bị tha hoá, từ đó sinh ra những loại hình nhân sinh quan lạc hậu, phản
động, phản khoa học. Có những nhân sinh quan mang tính tôn giáo chuyển ý
nghĩa cuộc đời sang thế giới bên kia hay xuất phát từ tính người nhưng lại
hiểu trìu tượng, định hướng hoạt động vào những nhu cầu và lợi ích cá nhân.
Có những nhân sinh quan yểm thế, lánh đời, cũng có những nhân sinh quan
tích cực nhập thế (giúp đời cứu nước) song vẫn mang ít nhiều màu sắc cá

nhân chủ nghĩa (lập thân, lập công danh sự nghiệp).
Chủ nghĩa Mác là khoa học về các quy luật phát triển của lịch sử, chỉ rõ
hoạt động của con người có tác dụng cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, đó là
nhân tố quyết định sự tiến bộ xã hội. Vì vậy, sứ mệnh của mỗi người là thúc
đẩy những quá trình phát triển xã hội đã chín muồi, những hoạt động lao động
sáng tạo và cải tạo xã hội, đem lại một xã hội tốt đẹp tự do, ấm no, hạnh phúc,
trên cơ sở đó hoàn thiện năng lực trí tuệ, tình cảm của bản thân mình.
Sự khác nhau về nhân sinh quan của con người được biểu hiện thông
qua các thời kỳ lịch sử, hiện hữu rõ nét nhất trong các hình thái xã hội. Triết
lý nhân sinh phản ánh tồn tại xã hội của con người, nội dung của nó biểu hiện
ở quan điểm, lẽ sống, khát vọng, nhu cầu của con người trong từng hoàn cảnh
cụ thể. Nó không thể tách rời sự phát triển của thời đại do ảnh hưởng của
những yếu tố khác nhau. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức rõ thời đại
của mình để tìm cách thích ứng.
Tóm lại, Triết lý nhân sinh là những quan niệm, quan điểm chung của
một người, một cộng đồng người trong việc xem xét mọi mặt của cuộc sống,


18
là những quan niệm của con người về cuộc sống, là tâm tư tình cảm, ước mơ,
khát vọng, lý tưởng sống của con người.
1.1.1.2. Văn hoá, văn hoá Quan họ Bắc Ninh
Văn hoá
Văn hoá là một lĩnh vực rất rộng lớn, vô cùng phong phú và đa dạng,
thấm sâu trong toàn bộ đời sống con người. Vì thế, có rất nhiều định nghĩa,
cách hiểu khác nhau về văn hoá. Văn hoá là một khái niệm mở, có tính xã hội
và lịch sử. Cùng với sự phát triển của xã hội, khái niệm văn hoá không ngừng
được bổ sung và mở rộng.
C.Fufedorf (1632-1694) - nhà nghiên cứu luật học người Đức. Ông
được coi là người đầu tiên đưa thuật ngữ văn hoá vào khoa học. Ông coi: Văn

hoá là toàn bộ những gì do hoạt động xã hội của con người tạo ra và bản chất
của văn hoá là cái đối lập với trạng thái tự nhiên. Kế tục những tư tưởng của
Fufedorf, Hecde - nhà triết học khai sáng Đức cho rằng: Văn hoá là sự hình
thành thứ hai của con người. Lần thứ nhất con người xuất hiện như một thực
thể sinh vật tự nhiên. Lần thứ hai con người hình thành như một thực thể xã
hội, tức là con người văn hoá.
Năm 1871, E.B. Tylor - người góp phần khẳng định ngành văn hoá như
một khoa học, đã đưa ra định nghĩa: “Văn hoá, hiểu theo nghĩa rộng nhất của
nó, là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
pháp luật, phong tục và những khả năng tập quán khác mà con người có được
với tư cách là một thành viên của xã hội” [87, tr. 52].
Sau nhiều năm tìm tòi theo các hướng, các cách tiếp cận khác nhau.
Đến những năm 70 của thế kỷ XX, cách hiểu phổ biến và gặp nhau nhiều nhất
là quan niệm, coi văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác
dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất đến tín ngưỡng, phong
tục, tập quán, lối sống và lao động. Năm 1982, tại Mêhicô, Hội nghị thế giới


19
về chính sách văn hoá vì sự phát triển đã thông qua tuyên bố Mêhicô ngày 6-8
cho rằng: “Theo nghĩa rộng ngày nay văn hoá có thể được coi là toàn bộ các
đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó không chỉ bao gồm nghệ
thuật và văn học, mà cả lối sống, các quyền cơ bản của nhân loại, các hệ
thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng” [87, tr.14].
Như vậy, theo nghĩa vừa rộng lớn, vừa bản chất của nó, văn hoá là toàn
bộ hoạt động tinh thần - sáng tạo, tác động vào tự nhiên, xã hội và con người
nhằm tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao hơn để vươn tới sự
hoàn thiện theo khát vọng chân, thiện, mỹ và góp phần thúc đẩy sự phát triển
tiến bộ, phát triển không ngừng của đời sống xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng:

Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá [52, tr.431].
Phạm vi của văn hoá hết sức rộng lớn, nó có mặt trong toàn bộ mọi mặt
hoạt động của đời sống xã hội và đời sống con người. Nhưng quan trọng nhất
nó thể hiện ở giá trị do hoạt động - sáng tạo của con người tạo ra, biểu hiện
trình độ hiểu biết, năng lực và phẩm giá của cả cộng đồng và từng cá thể, là
thước đo trình độ phát triển và sức vươn lên hoàn thiện con người theo lý
tưởng chân, thiện, mỹ.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng - nhà văn hoá lớn của đất nước ta ở thế
kỷ XX cho rằng văn hoá là một đề tài bao la như con người và sự sống. Đây
là vấn đề nhân sinh quan và thế giới quan, là cách nhìn bao trùm và cách ứng
xử qua hành động thiết thực của con người với thiên nhiên và cộng đồng
người trong xã hội:


×