Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV AIDS tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.2 KB, 25 trang )

Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
HIV/AIDS là đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với sức khỏe, tính mạng của
chính người nhiễm. Nhưng như vậy chưa đủ, hậu quả của đại dịch này cịn ảnh hưởng tới
người thân, gia đình và đặc biệt là con cái của họ. Những đứa trẻ vô tư, hồn nhiên, ở cái
tuổi được nhận sự âu yếm, chăm lo đầy tình thương của cha, mẹ nhưng khơng, các em
cịn q nhỏ mà đã phải mang những ánh mắt lo âu, buồn tủi. Một số em được đi học
nhưng lại bị sự kỳ thị đối xử từ nhà trường, bạn bè, một số không được tới trường học vì
gia đình khơng có tiền cho ăn học, một số phải bỏ học để lo cuộc sống mưu sinh…. Hoặc
có những em phải sống cuộc sống lang thang, mồ cơi sống nhờ họ hàng vì cha mẹ chết
bởi HIV/AIDS…
Các em đã bị mất đi các quyền lẽ ra các em phải được hưởng: Các em không được
đến trường, vui chơi giải trí, tham gia vào các hoạt động xã hội, hoạt động tập thể với bạn
bè cùng lứa tuổi, các em bị mất đi cơ hội tham gia bàn bạc, tiếp thu và quyết định các vấn
đề liên quan đến cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết hoặc đề xuất những mong muốn và
những vấn đề liên quan tới tương lai của mình. Về dinh dưỡng phần lớn các em bị thiếu
và em nào cũng thấp bé, gầy gò hơn tuổi, đều có vẻ già giặn, trưởng thành sớm trước tuổi
bởi nhiều em đã mồ côi cả cha mẹ, chịu sự kỳ thị của xã hội, vừa phải tự kiếm sống từ
sớm. Các em bị phân biệt đối xử, lạm dụng sức khỏe, lạm dụng tình dục, khơng được
chăm sóc về sức khỏe, khơng được bảo vệ về pháp lý…
Theo Bộ Y tế, Việt Nam đang có khoảng hơn 2.000 trẻ em nhiễm HIV từ cha mẹ
và khoảng hơn 300.000 trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Sự kỳ thị của cộng đồng, những
khó khăn về kinh tế đang đẩy hàng trăm nghìn em nhỏ vào ngưỡng cửa bỏ học, phải tự
mình kiếm sống, thậm chí phải đi lang thang, bụi đời và bị lạm dụng. Theo kết quả đánh
giá tình hình trẻ em mồ cơi và dễ bị tổn thương của Uỷ ban Dân số - Gia đình & Trẻ em
(trước đây) được công bố tháng 12/2007, tỉ lệ trẻ sống chung với HIV không đến trường
là 36%, cao hơn hẳn số trẻ có hồn cảnh gia đình bình thường .
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2020. Giai đoạn 2011-2020,
bảo đảm trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được chăm sóc, tư vấn thích hợp, tiếp cận


với giáo dục hoặc được hỗ trợ học nghề, hưởng các chính sách xã hội theo quy định, được
sống an tồn cùng với bố, mẹ, anh, chị, em ruột hoặc người thân trực hệ hoặc được sống ở
những cơ sở chăm sóc thay thế. Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS trong diện quản lý được chẩn
đốn, điều trị các bệnh có liên quan đến HIV/AIDS. Như vậy, có thể nói hơn lúc nào hết,
Đảng – Nhà nước và toàn xã hội đang thực sự rất quan tâm tới cơng tác chăm sóc và bảo
vệ trẻ em bị nhiễm và ảnh hưởng bởi HIV.


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Tính cấp thiết của đề tài
HIV/AIDS là một đại dịch nguy hiểm và diễn biến phức tạp ở hầu hết các Quốc gia
trên thế giới, đến nay đã có khoảng hơn 40 triệu người bị nhiễm HIV, trong đó có hàng
triệu trẻ em.
Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên ở Việt Nam được phát hiện vào tháng 12 năm
1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh và hiện nay HIV/AIDS đã và đang lan rộng ra khắp các
tỉnh, thành phố. HIV/AIDS đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống gia đình và cộng đồng
dân cư, ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội của đất nước, đe dọa đến sức khỏe của người dân
mà đặc biệt là trẻ em – những chủ nhân tương lai của đất nước.
Trong bối cảnh đại dịch HIV/AIDS đang lan tràn, các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương phải chịu nhiều tác động nhất. Tình trạng bất bình đẳng về giới khiến cho phụ nữ
và trẻ em gái mất đi các phương tiện để tự bảo vệ mình, họ bị bóc lột, bị lạm dụng tình
dục trong mơi trường khơng an tồn… Trẻ em được ra từ những người mẹ có HIV thường
khơng được chăm sóc, có khi cịn bị bỏ rơi, quyền được đến trường có khi cịn bị vi phạm
bởi sự kì thị và phân biệt đối xử của xã hội.
Tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 17 ở Mêxicô, cô bé Kare Dunaway đã phát biểu:
“Chúng tôi những cậu bé và cơ bé mang trong mình virut HIV và lớn lên với nhiều mục
tiêu trong cuộc sống: muốn trở thành nghệ sĩ, giáo viên, bác sĩ thậm chí muốn kết hơn và
sinh con… nhưng những ước muốn ấy chỉ đạt được khi cả xã hội cùng quan tâm”.

Chúng ta – những con người may mắn hơn, cần phải hành động, cần phải góp một
phần nào đó giúp ích cho xã hội, giúp cho những đứa trẻ mang trong mình mầm mống
của HIV có thêm cơ hội được sống, thêm ước mơ tươi sáng và thêm hi vọng vào tương
lai.
Cho đến thời điểm hiện nay số trẻ em nhiễm HIV và tử vong vì AIDS được báo
cáo hàng năm ở Việt Nam khơng ngừng tăng lên. Vì vậy vấn đề tiếp cận, chăm sóc và
điều trị cho trẻ em nhiễm HIV đã trở thành một nhu cầu khách quan và ngày càng cấp
bách.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp trong cơng tác
chăm sóc sức khỏe trẻ nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam” là đề tài tiểu luận môn An sinh
xã hội 2 (Trợ giúp xã hội).
2/ Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, hoạt động nghiên cứu và xây dựng những giải pháp nhằm
giảm thiểu nguy cơ và tác hại của HIV, đồng thời đưa tới những chính sách tốt nhất cho


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

những người bị nhiễm HIV đã được tiến hành bởi nhiều tác giả và nhóm tác giả khác
nhau trong cả nước kể cả người Việt Nam lẫn người nước ngoài có quan tâm tới vấn đề
HIV tại Việt Nam. Trong đó, có thể kể đến một số đề tài nghiên cứu 1 có liên quan tới đề
tài tiểu luận của môn học như sau:
ST
T

Tên đề tài

Tác giả

Thời gian

nghiên cứu

01

Đề xuất can thiệp về ciệc áp dụng các
biện pháp “Dự phòng tồn diện”
phịng chống lây nhiễm HIV tại các
cơ sở chăm sóc sức khoẻ sinh sản.

TS.Nguyễn Viết Tiến

Năm 2006

02

Điều tra kiến thức, thái độ và thực
hành về sử dụng bao cao su phịng
chống HIV/AIDS của các nhóm đối
tượng đích ở Hà Nội, Huế và thành
phố Hồ Chí Minh.

PGS.TS Trịnh Hữu Vách

Năm 2006

03

Quyền lao động của người nhiễm
HIV/AIDS và quyền của người sử
dụng lao động - Thực trạng và cách

giải quyết.

PGS.TS Nguyễn Chí Dũng

Năm 2005

04

Mơ tả thực trạng hành vi nguy cơ của
người nhiễm HIV/AIDS và sự chăm
sóc, hỗ trợ của cộng đồng tại tỉnh
Thái Nguyên năm 2004.

BS.Nguyễn Lê Minh

Năm 2004

05

Thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ và
cách lựa chọn nuôi trẻ mong đợi của
các bà mẹ ở một số vùng có tỷ lệ
nhiễm HIV cao.

TS.Phạm Thị Thúy Hòa

Năm 2004

TS.BS Lê Trường Giang


Năm 2005

06

15 năm đương đầu với đại dịch
HIV/AIDS ở TP. Hồ Chí Minh: Thực
trạng - Giải pháp - Các bài học kinh

1 Mạng thông tin Nghiên cứu HIV Việt Nam (Website: aids.vn)


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

nghiệm

07

Hiệu quả dự án “Cộng đồng hành
động phòng chống HIV/AIDS” trên
nhóm nghiện chích ma t

Nguyễn Anh Tuấn

Năm 2002
và năm 2004

08

Mở rộng chăm sóc điều trị
HIV/AIDS: Mơ hình quản lý hệ thống

chăm sóc điều trị tại TP. Hồ Chí Minh

TS.BS Lê Trường Giang

Năm 2005

09

Thực hiện chiến lược quốc gia chống
HIV/AIDS trong cơng tác an tồn
truyền máu ở nước ta đến năm 2010
và tầm nhìn 2020

Nguyễn Anh Trí

Năm 2004

10

Hướng tới việc chăm sóc liên tục cho
mẹ và bé: Khám phá Chương trình
Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang
con tại Hà Nội và Thái Nguyên

Pauline Oosterhoff

Năm 2007 –
2008

11


Nhiễm HIV/AIDS tại Bệnh viện nhi
đồng 2 chẩn đoán và điều trị

BS.Trần Thị Việt

Năm 2004 –
2005

12

Mở rộng các hoạt động dự phòng
HIV/AIDS tại nơi làm việc cho nhóm
dân số di biến động nhiều: Cơng nhân
xây dựng tại TP Hồ Chí Minh

BS.Vũ Ngọc Bảo

Năm 2003

13

Nghiên cứu về kỳ thị và phân biệt đối
xử liên quan tới hiv và aids

TS.Khuất Thu Hồng

Năm 2003

14


Tư vấn và xét nghiệm và phòng lây
truyền HIV từ mẹ sang con tại tỉnh
Quảng Ninh.

Th.s.BS.Nguyễn Thị Thúy
Hạnh

Năm 2007
và năm 2010

15

Đánh giá nhanh Mơ hình Cung cấp

ThS.Morch Edit

Năm 2007


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

dịch vụ Dự phòng lây truyền HIV từ
mẹ sang con (PLTMC) ở Việt nam

16

Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở
Việt Nam: Báo cáo pháp lý


TS.Susan S.Huter

Năm 2005

17

Thực trạng sử dụng Vitamin và
khoáng chất trên phụ nữ nhiễm HIV
tại TP Hà Nội năm 2008

TS.Nguyễn Thanh Long

Năm 2008

18

Nghiên cứu thực trạng chăm sóc dinh
dưỡng cho phụ nữ nhiễm HIV tại Hà
Nội

TS.Nguyễn Thanh Long

Năm 2007

19

Nghiên cứu đánh giá tình hình trẻ em
mồ côi dễ bị tổn thương tại Việt Nam

John Stoeckel


Năm 2005
và năm 2007

20

Hướng về phía trước: Thúc đẩy sự
tham gia nhiều hơn nữa của những
người đang sống chung với
HIV/AIDS (GIPA) ở Việt Nam

Catherine Esposito

7/2003 10/2003

21

Tình hình chăm sóc và hỗ trợ cho
những người có HIV tại hai quận Hải
ThS.BS.Bùi Thị Thanh Mai
Châu và Thanh Khê, TP. Đà Nẵng,
năm 2006

22

“Nghiên cứu thuốc hỗ trợ điều trị
HIV/AIDS từ Thảo dược Việt Nam”

GS.Vũ Văn Chuyên


2006

2003 – 2011

Những nghiên cứu trên đều xuất phát từ thực tiễn chung hoặc thực tiễn của cơ sở
nghiên cứu. Căn cứ vào những đề tài trên cùng thực tiễn chung, tôi đã tiến hành thực hiện
nghiên cứu đề tài về chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhiễm HIV – đây chính là điểm mới của
đề tài.


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

3/ Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
-

Mục đích của đề tài: Đánh giá thực trạng công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ
em nhiễm HIV/AIDS tại nước ta hiện nay. Qua đó đề ra một số giải pháp nâng
cao hơn nữa cơng tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS.
Nhiệm vụ của đề tài: Nghiên cứu thực trạng và đề ra một số giải pháp trong
công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhiễm HIV/AIDS.

4/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: Công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhiễm HIV/AIDS.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài hướng vào những trẻ em nhiễm HIV/AIDS trong
khoảng thời gian từ năm 2004 trở lại đây.

5/ Phương pháp nghiên cứu
Vì thời gian ngắn và điều kiện có hạn nên tiểu luận chủ yếu sử dụng phương pháp

phân tích tài liệu để phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
6/ Những đóng góp mới của đề tài
-

Đóng góp của đề tài: Đề tài sẽ đánh giá cụ thể thực trạng về cơng tác chăm sóc sức
khỏe cho trẻ nhiễm HIV/AIDS. Đồng thời, đề tài cũng sẽ đưa ra một số giải pháp
góp phần nâng cao chất lượng của công tác này.

-

Ứng dụng của đề tài: Kết quả nghiên cứu của đề tài được ứng dụng cụ thể qua các
giải pháp và làm tài liệu tham khảo cho các lĩnh vực có liên quan.

7/ Kết cấu của đề tài
Đề tài tiểu luận được kết cấu với 3 chương chính như sau:
Chương I: Tổng quan các vấn đề liên quan tới cơng tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ
nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam.
Chương II: Thực trạng cơng tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhiễm HIV/AIDS tại
Việt Nam.
Chương III: Giải pháp cho cơng tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhiễm HIV/AIDS
tại Việt Nam.


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN TỚI CƠNG TÁC
CHĂM SĨC SỨC KHỎE CHO TRẺ NHIỄM HIV/AIDS TẠI VIỆT NAM
1/ Khái niệm về an sinh xã hội và một số khái niệm liên quan
1.1.


Khái niệm về an sinh xã hội

Theo tổ chức Lao động quốc tế ILO: An sinh xã hội là một sự bảo vệ mà xã hội
cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi
để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm mất hoặc suy giảm
nghiêm trọng nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao
động hoặc tử vong. An sinh xã hội cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình nạn
nhân có trẻ em (ILO – 1984).
Quan điểm của Việt Nam: An sinh xã hội là một hệ thống các cơ chế chính sách,
các giải pháp của Nhà nước và cộng đồng nhằm trợ giúp cho mọi thành viên trong xã hội
đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho họ suy giảm hoặc mất nguồn
thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả khơng cịn sức lao động
hoặc vì các nguyên nhân khách quan khác rơi vào cảnh nghèo khổ, bần cùng hóa và cung
cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng, thơng qua các hệ thống chính sách và bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội và trợ giúp đặc biệt.
1.2.

Khái niệm về trẻ em

Theo Công ước quốc tế: Trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp
dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn.
Theo Pháp luật Việt Nam quy định tại Điều l, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục
trẻ em (năm 2004): “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Xét dưới khía cạnh lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, trẻ em là một chủ
thể pháp luật. Cũng như các chủ thể pháp luật khác (như các cá nhân là công dân Việt
Nam, người nước ngồi, người khơng quốc tịch, các tổ chức như Nhà nước và các tổ chức
có tư cách chủ thể khác), “trẻ em có khả năng trở thành các bên tham gia quan hệ pháp
luật, có được những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở những quy phạm pháp luật”.
1.3.


Khái niệm về HIV/AIDS2

2 Bách khoa toàn thư mở (Website: wikipedia.org)


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

HIV là virus gây suy giảm miễn dịch ở người, có nghĩa là nếu bị nhiễm phải nó thì
khả năng chống lại bệnh tật sẽ bị suy yếu. Đó là vì: Cơ thể con người có hệ thống miễn
dịch chống lại các vi khuẩn, virus, vi sinh vật… gây bệnh có trong mơi trường để duy trì
sự sống. Trong hệ thống này bộ phận chủ chốt là đội quân các bạch cầu. Nhưng chính các
bạch cầu chỉ huy (T-CD4) của đội qn đó lại là đối tượng tấn cơng của HIV. HIV chui
vào cư trú trong các bạch cầu chỉ huy, nên nó khơng bị đội qn bạch cầu tiêu diệt. Virus
HIV lợi dụng bạch cầu để sinh sôi và sau đó tiêu diệt bạch cầu. Đến khi đa số chỉ huy bị
tiêu diệt và đội quân sẽ bị vô hiệu, khơng chống được bệnh tật nữa.
AIDS ( cịn gọi là SIDA) có nghĩa là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải. Đó
là khi khả năng chống bệnh tật suy yếu đến nỗi cơ thể bị các thứ bệnh hồnh hành, điều trị
khơng khỏi được. Từ khi phát bệnh AIDS đến lúc chết chỉ vài tháng hoặc nhiều nhất là hai
năm.
1.4.

Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS3
Hiện nay, khái niệm trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS thường được hiểu là:
-

Những trẻ bị ảnh hưởng trực tiếp: là trẻ có HIV/AIDS trong cơ thể, được xét
nghiệm có HIV dương tính (H+).

-


Những trẻ bị ảnh hưởng gián tiếp: là những trẻ có cha hoặc mẹ, hoặc cả cha và
mẹ đều nhiễm HIV/AIDS nhưng bản thân lại không bị mắc; trẻ sử dụng ma
túy; bị xâm hại tình dục; là con của người mua, bán dâm, sử dụng ma túy; là
nạn nhân của tội mua bán người; trẻ em lang thang; mồ côi do các nguyên
nhân khác; trẻ em sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở giáo dục, trường
giáo dưỡng.

Bên cạnh đó, một số nhà khoa học cũng đang đề nghị một cách hiểu khác, theo họ
thì khái niệm trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được hiểu là:
-

Trẻ bị ảnh hưởng trực tiếp: là trẻ có HIV/AIDS trong cơ thể, được xét nghiệm có
HIV dương tính (H+).

-

Trẻ bị ảnh hưởng cận trực tiếp: là các trẻ bản thân khơng mắc nhưng có cha hoặc
mẹ hoặc cả cha và mẹ nhiểm HIV/AIDS. Các trẻ này có thể bị ảnh hưởng bởi các
bệnh cơ hội do cha mẹ lây và các ảnh hưởng tâm sinh lý từ gia đình và xã hội.

-

Trẻ bị ảnh hưởng gián tiếp: là những trẻ bị mất cơ hội tiếp cận y tế do một ca
nhiễm AIDS gây ra, ví dụ: một năm để nuôi một ca bị AIDS tốn khoảng 10 triệu,
do ngân sách y tế có hạn nên một trẻ nghèo khác sẽ khơng có 10 triệu đó để mổ
tim, uống thuốc chống viêm gan hoặc chữa lao phổi…

3 Website: vn.answers.yahoo.com



Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

Cách tiếp cận mới này có thể cho những người có nguy cơ cao hiểu được sự bng
thả của mình khơng chỉ ảnh hưởng đến bản thân mình, đến con cái của mình mà cịn ảnh
hưởng đến rất nhiều người khác trong cộng đồng.
1.5.

Khái niệm về chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhiễm HIV/AIDS

Là chăm sóc các trẻ mang trong mình virus HIV. Các em cần có một chế độ chăm
sóc và quan tâm đặc biệt hơn so với các trẻ em khác. Vì trẻ em nhiễm HIV khơng có khả
năng phát triển khỏe mạnh; các em thường xuyên bị ảnh hưởng bởi các bệnh lây truyền và
bị trẩm trọng hơn so với những đứa trẻ bình thường khác. Nếu khơng được chăm sóc và
điều trị bằng thuốc thì có tới khoảng 60% - 70% các em chết sau 5 năm nhiễm bệnh.
1.6.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhiễm
HIV/AIDS

Đảng và chính phủ đã có sự quan tâm tới vấn đề chăm sóc và điều trị cho trẻ em
nhiễm HIV/AIDS. Đảng và Nhà nước có quan điểm rằng: Tất cả các trẻ em nhiễm
HIV/AIDS và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cần phải được hưởng đầy đủ những quyền lợi
dành cho một người về ăn ở và học tập. Điều căn bản đầu tiên là giúp các em có được một
cuộc sống tối thiểu như có một chỗ ở, có thể có một nhà ở hay một mái ấm tình thương
hoặc một trung tâm bảo trợ nào đó. Tại những nơi đó các em cần phải được chăm sóc sức
khỏe, điều trị khi bị bệnh… Ngoài ra tất cả các em cũng được hỗ trợ xây dựng các mối
quan hệ trong xã hội nhằm giúp các em có được một cuộc sống bình thường giữa xã hội,
như bao trẻ em may mắn khác.
Theo Điều 53 của Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em: Trẻ em nhiễm

HIV/AIDS không bị phân biệt đối xử; được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để chữa
bệnh, ni dưỡng tại gia đình và tại các cơ sở trợ giúp trẻ em.
2/ Mơ tả nhóm đối tượng
2.1.

Đặc điểm sinh lý của trẻ nhiễm HIV/AIDS

Các trẻ bị nhiễm HIV khi mới sinh ra, hầu hết trẻ đều bình thường, khoẻ mạnh, chỉ
có một số ít có cân nặng thấp hơn so với tuổi thai.
Với những trẻ bị lây nhiễm trong khi sinh hoặc sau sinh thì một vài tuần sau sinh
có thể có những biểu hiện sốt nhẹ, mệt mỏi, quấy khóc, có thể khám thấy gan lách to (gần
giống với giai đoạn tiền triệu chứng của người lớn nhiễm HIV).
• Các biểu hiện lâm sàng:
 Hạch to: thường thấy hạch to nhỏ không đều ở nhiều nơi, nhiều nhất là vùng
cổ, dưới hàm, nách, bẹn, thường không đau, mật độ chắc, diễn biến dai
dẳng.


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

 Gan lách to: Có thể gặp gan to hoặc lách to riêng biệt hoặc cả gan lách đều
to (thường to ít và khơng có biến đổi đặc biệt về hình thể và tính chất).
 Khơng tăng cân hoặc sút cân: thường xảy ra ở giai đoạn muộn, trẻ sút cân
nhiều ở giai đoạn AIDS tiến triển muộn và đặc biệt có nhiễm trùng cơ hội.
 Sốt kéo dài: Giai đoạn đầu thường sốt dai dẳng khơng có quy luật, khơng rõ
căn ngun, có thể nặng lên khi có nhiễm trùng cơ hội. Sốt thường kéo dài
khoảng hơn 1 tháng.
 Tiêu chảy mạn tính: Thường xảy ra ở giai đoạn AIDS tiến triển nặng, kết
hợp với nhiễm khuẩn đường ruột.
Ngoài ra có thể gặp các tổn thương thần kinh, bệnh viêm phổi kẽ thâm nhiễm

lympho, viêm tuyến mang tai, xuất huyết giảm tiểu cầu, tan máu tự nhiên, viêm cơ tim,
viêm thận,... và ung thư da dạng Sarcoma Kaposi (mặc dù ở trẻ em hiếm gặp hơn nhiều so
với người lớn).
• Các nhiễm trùng cơ hội hay gặp:
 Nhiễm trùng da: Hay gặp do các loại virut herpes, chốc lở do tụ cầu, liên
cầu và có thể do một số loại nấm.
 Nhiễm trùng phổi: Hay gặp nhất là viêm phổi do một số loại virut hoặc một
số loại nấm. Tỷ lệ mắc bệnh lao phổi ở những trẻ nhiễm HIV thường khá
cao.
 Nhiễm trùng tiêu hoá: Cũng thường xảy ra do mắc các loại vi khuẩn viêm
dạ dày - ruột như E.coli, Salmonella, trực khuẩn lỵ... và có thể do nấm đặc
biệt là nấm Candida albicans.
Ngoài những loại nhiễm trùng cơ hội hay gặp kể trên cịn có thể gặp viêm màng
não do nấm, viêm gan virut các loại…
2.2.

Đặc điểm tâm lý của trẻ nhiễm HIV/AIDS

-

Đối với trẻ 0 - 6 tuổi: Trẻ chưa có nhận thức về HIV và về thái độ của những người
xung quanh mình nên giai đoạn này tâm lý trẻ phát triển như những đứa trẻ bình
thường khác.

-

Đối với trẻ 6 – 12 tuổi: Các em đã phần nào nhận thức được tầm nguy hiểm của
căn bệnh HIV. Do đó các em thường mang tâm lý lo sợ về sự đau đớn của bệnh,
về sự xa lánh và sự phân biệt đối xử của những người xung quanh các em.



Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

Trẻ phải sống chung với HIV/AIDS hoặc chịu ảnh hưởng của bệnh này thường
thiếu thốn tình cảm ruột thịt và nhận được ít tình thương u, sự vuốt ve như các trẻ nhỏ
khác, các em thường cảm thấy buồn tủi, chán nản và sống khép mình.
Bên cạnh đó, do thiếu sự giáo dục của cha mẹ và sự ghẻ lạnh, tránh né của những
người xung quanh nên các em thường bị trầm cảm, chậm nói, chậm phát triển trí não,
thiểu năng khả năng vận động do không được chơi với các bạn cùng tuổi.4
Những em chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi HIV/AIDS, thì sợ hãi trước những biểu
hiện của bệnh trên cơ thể mình, như bị sốt, nhiễm trùng da, đau người…Ở các em thường
hình thành nên ý niệm rằng bản thân sẽ chết sớm bởi đây là bệnh nguy hiểm chưa có
thuốc chữa.
Những trẻ bị ảnh hưởng gián tiếp thì rơi vào tình trạng khơng có bệnh mà bị coi
như có bệnh nên thường mang tâm trạng hoang mang. Nhiều em còn bị bắt nạt và xa lánh
trong cộng đồng nơi các em sống.
Từ những đặc điểm tâm sinh lý trên, ta có thể thấy được những nhu cầu của trẻ bị
ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
2.3.

Nhu cầu của trẻ nhiễm HIV/AIDS

Có thể thể hiện những nhu cầu của trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS theo mơ hình
thang nhu cầu của Maslow như sau:

Khẳng định mình mìnhbản thân

Nhu cầu xã hội: Được hịa nhập cùng xã hội

Nhu cầu an tồn xã hội: Được khám chữa bệnh, An toàn thân thể, được sống trong gia đình, được yêu thương…

4 Website: vn.answers.yahoo.com

Nhu cầu vật chất :
Thức ăn, nước uống, nơi ở, …


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

HÌnh 1
Hình 1: Tháp nhu cầu của Maslow
Nhu cầu chính của trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS rất đa dạng như tiếp cận
đầy đủ các dịch vụ y tế, giáo dục, hướng dẫn về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ sống với
HIV/AIDS, xóa bỏ hồn tồn kỳ thị và phân biệt đối xử. Trong báo cáo nghiên cứu đánh
giá về tình hình trẻ em mồ cơi và dễ bị tổn thương do HIV/AIDS tại Việt Nam (Uỷ ban
Dân số - Gia đình và Trẻ em (cũ) phối hợp với Tổ chức Save the children UK thực hiện
tháng 12/2005): Trong số trẻ em gặp khó khăn, 50% trẻ nhắc đến sự thiếu thốn về kinh tế,
25% lo lắng thiếu thốn tình cảm; gần 10% các em cho biết vấn đề chính của các em là
thường xuyên đau ốm.
Nhu cầu vật chất: là nhu cầu trước tiên của bất cứ đứa trẻ nào.Trẻ bị ảnh hưởng
bởi HIV/AIDS cũng như những trẻ khác đều muốn được đảm bảo các nhu cầu chính đáng
của bản thân về thức ăn, nước uống, đặc biệt là nơi ở. Đây cũng là những nhu cầu hết sức
thiết thực và ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của các em, và cũng là quyền đầu tiên
trong số những quyền các em đáng được hưởng (theo công ước của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em). Chỉ khi đáp ứng được đầy đủ nhu cầu này thì trẻ mới có thể tạo điều kiện
cho trẻ phát triển bình thường mà trước hết là về mặt thể chất.
Hiện nay những trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS phần lớn đều sống trong tình
trạng thiếu thốn, khó khăn về kinh tế. Đa số các em sống trong cảnh nghèo và rất nghèo
(75%), rất cần có sự quan tâm, đáp ứng kịp thời nhu cầu vật chất.
Nhu cầu an toàn xã hội: Được đảm bảo vấn đề sức khỏe, tiếp cận các dịch vụ
khám chữa bệnh thông thường cũng như đặc biệt là nhu cầu quan trọng cần được đáp ứng

đối với tất cả mọi người, dù là trẻ em hay người lớn. Đối với những trẻ bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS nhu cầu này là rất cần thiết được đáp ứng. Bởi các em hoặc đã mang bệnh, khả
năng miễn dịch không thể bằng những trẻ bình thường, hoặc thường xuyên sống gần với
bệnh tật, vì thế các em cần được kiểm tra sức khỏe một cách đầy đủ và thường xuyên.
Bên cạnh việc được đảm bảo về sức khỏe thì các em cũng cần được yêu thương,
chăm sóc đặc biệt là từ những người thân trong gia đình. Hầu hết trẻ bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS đều nói các em cần có người thân thiết để chia sẻ hoặc hỗ trợ tâm lí khi cần
thiết: gần gũi nhất là mẹ, tiếp đến là ông bà, và cha.Với những trẻ bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS thì gia đình được coi là nơi an tồn nhất và là chỗ dựa tinh thần quan trọng
nhất của các em. Nếu không được che trở, bao bọc bởi gia đình và những người thân, trẻ


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

dễ rơi vào tâm trạng lo sợ, tự ti và khép mình. Gia đình chính là mơi trường tốt nhất cho
sự phát triển của các em.
Nhu cầu được coi trọng: Trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS thường lo sợ, tự ti trước
thái độ kỳ thị, xa lánh của những người xung quanh. Các em luôn mong muốn được mọi
người tôn trọng, thay đổi sự kỳ thị, không phân biệt đối xử, khơng phán xét đến bệnh tình
của các em.
Những người bị nhiễm HIV (trong đó có trẻ em bị nhiễm HIV), họ có thể tự đương
đầu với bệnh tật một cách thích đáng. Nhưng họ khó có thể vượt qua được rào cản tâm lý
xã hội để có được một cuộc sống bình thường như mọi người. Rào cản đó là sự khinh rẻ,
kỳ thị, sự sợ hãi của nhiều người đối với người nhiễm. Nhu cầu này của các em là hết sức
cần thiết và cũng là điều mà các nhà hoạt động trong lĩnh vực xã hội, bảo vệ trẻ em dang
mong muốn đạt được.
Nhu cầu xã hội: cùng với mong muốn được coi trọng, trẻ bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS cũng rất muốn được hòa nhập vào cộng đồng và muốn được tới trường học
tập, vui chơi cùng bạn bè như những đứa trẻ bình thường khác.
Mỗi giai đoạn của cuộc đời trẻ đều có những hoạt động chủ đạo có tính chất quyết

định trực tiếp đến việc hình thành tâm lý. Vui chơi, học tập và giao lưu bạn bè đều là
những hoạt động chủ đạo của trẻ, do đó nếu những nhu cầu xã hội được đáp ứng thì các
em sẽ có điều kiện phát triển bình thường về trí não cũng như tâm lý. Nhưng hiện nay nhu
cầu này của trẻ vẫn chưa được đáp ứng bởi rất nhiều những định kiến tiêu cực trong xã
hội và để các em có thể đến trường, có thể hòa nhập vào cuộc sống như những đứa trẻ
khác là một việc cần nhiều thời gian mới có thể đạt được.
Nhu cầu được khẳng định mình: Trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cũng có mong
muốn có được một vị trí trong xã hội, được thực hiện những vai trị với tư cách là thành
viên của xã hội. Các em không chỉ khao khát đến trường để học chữ, vui chơi cùng bạn
bè, mà còn muốn qua học hành để khẳng định bản thân mình, để được người khác tin
tưởng cũng như những đứa trẻ bình thường khác.
3/ Vai trị của đề tài
Trẻ em chiếm 36% dân số và đang được hưởng nhiều lợi ích từ những thành tựu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hơn nửa thế kỷ qua, Ðảng, Nhà nước, Chính phủ
cùng nhiều bộ, ngành và cộng đồng luôn tạo những điều kiện tốt nhất cho thế hệ tương lai
của đất nước. Việt Nam là nước sớm tham gia thực hiện Công ước Quốc tế về quyền trẻ
em và đang có triển vọng đạt được mục tiêu Phát triển Thiên nhiên kỷ mới về chăm sóc
sức khỏe và giáo dục trẻ em.

ễ bị tổn thương, kể cả những trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, rất nhiều trẻ trong số này và n


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

Ở thời đổi mới, đời sống kinh tế đất nước khởi sắc từng ngày đã mang đến cho trẻ
em những cơ hội mới, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của các em. Tuy nhiên,
không phải trẻ em nào ở nước ta cũng được hưởng những thành quả của xã hội. Mặt trái
của nền kinh trế thị trường đang tác động đến nhiều vấn đề xã hội ở nước ta . Trẻ em đang
là đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp từ nạn nhiễm HIV/AIDS, nhiều bệnh lây truyền qua
đường tình dục và bị phân biệt đối xử, kỳ thị.

Ngay từ khi sinh ra, những thiên thần nhỏ không biết rằng, căn bệnh thế kỷ quái ác
đã đang cướp đi cuộc đời tươi sáng của các em. Nhiều em nhỏ mắc HIV được gia đình
u thương, chăm sóc. Bên cạnh đó, một số em bị cha mẹ bỏ rơi hay cha mẹ chết, phải
sống giữa tình thương yêu bao bọc của cộng đồng. Nhưng liệu rằng, số trẻ em được quan
tâm, chăm sóc, yêu thương đúng nghĩa, đúng cách là bao nhiêu trong hàng trăm, hàng
nghìn trẻ bị nhiễm và ảnh hưởng bởi HIV/AIDS theo số liệu thống kê hiện nay và chúng
ta còn phải đặt câu hỏi cho những số trẻ ngoài luồng chưa được thống kê hết: Ai sẽ chăm
sóc trẻ? Trẻ sẽ được phát triển như thế nào? Trẻ có được đáp ứng đủ các nhu cầu và các
quyền lợi không? Trẻ đang phải đối mặt với sự kỳ thị và phân biệt đối xử của cộng đồng,
của xã hội ra sao? Phải làm thế nào để giảm thiểu điều này và đưa tới cho các em sự chăm
sóc tốt nhất?...
Tất cả những thắc mắc đó đều được đặt lên hàng đầu và từng bước đi giải quyết
trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài này. Đề tài mong muốn góp phần mở ra một bức tranh
cụ thể hơn trong bức tranh toàn cảnh về thực trạng cơng tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ
nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam hiện nay cho sinh viên khoa Công tác xã hội của trường
Đại học Lao động – Xã hội (CSII) nói riêng, cũng như cho những tất cả công dân trong xã
hội quan tâm tới sự phát triển của trẻ em; đồng thời, vang lên hồi chuông kêu gọi hơn nữa
sự quan tâm của toàn xã hội đối với trẻ nhiễm và ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CƠNG TÁC CHĂM SĨC SỨC KHỎE CHO
TRẺ NHIỄM HIV/AIDS TẠI VIỆT NAM
1/ Thực trạng công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam
HIV/AIDS đang là vấn đề mang tính tồn cầu. Nhiều chương trình chiến lược
phịng chống HIV/AIDS đã được phát động và triển khai nhưng đại dịch HIV/AIDS vẫn
có xu hướng phát triển và lan rộng, đối tượng nhiễm HIV ngày càng trẻ hóa đặc biệt là trẻ
em.
Theo số liệu thống kê ước tính mỗi năm ở Việt Nam có từ 1 triệu đến 1,5 triệu phụ

nữ mang thai thì có khoảng gần 6000 người bị nhiễm HIV và gần 2000 trẻ em mới sinh
hằng năm có nguy cơ nhiễm HIV từ mẹ.
Tuy nhiên cịn có một điều may mắn là không phải đứa trẻ nào sinh ra từ mẹ bị
nhiễm HIV cũng bị nhiễm HIV. Nếu biết dự phòng và chăm sóc đúng cách số trẻ em bị
nhiễm HIV sẽ giảm đi đáng kể.
Theo ước tính tỉ lệ thai phụ nhiễm HIV trong những năm 2007 - 2008 đã tăng lên
khoảng 18,5 lần so với thời kì 1994 - 1995.Tuy nhiên đa phần thai phụ nhiễm HIV đều
được phát hiện muộn nên khó phịng tránh nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con.
Đây là một thực tế rất đáng lo ngại, gây khó khăn cho việc áp dụng điều trị dự
phịng lây truyền từ mẹ sang con. Điều đáng nói là các bà mẹ dù có thể biết mình nhiễm
HIV nhưng lại e ngại việc đi xét nghiệm máu sớm để phát hiện và được uống thuốc dự
phòng kịp thời nhằm phịng lây nhiễm sang con mình.


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

Vì khơng được phát hiện sớm nên khơng ít thai phụ đến khi chuyển dạ mới đến
bệnh viện và sau khi xét nghiệm máu mới biết mình mắc HIV. Theo thống kê trong 3 năm
2005 – 2008 trong số khoảng 48.500 sản phụ đến khám và sinh tại bệnh viện phụ sản
Trung ương, sàng lọc được 271 trường hợp HIV dương tính. Trong đó có tới 40% thai phụ
chỉ biết mình nhiễm HIV khi chuyển dạ. Điều này đồng nghĩa với việc những thai phụ
này đã tự đánh mất cơ hội để tiếp cận đến thuốc điều trị kháng vi rút dự phòng lây truyền
từ mẹ sang con.
Như vậy, vấn đề chăm sóc sức khỏe cho trẻ em ngay từ trong bụng mẹ đã không
được quan tâm môt cách đúng mức. Những đứa trẻ đó hồn tồn có thể khỏe mạnh như
bao đứa trẻ khác nếu được chăm sóc và dự phòng đúng cách ngay từ khi mang thai.
Kết quả khảo sát cho thấy sự kì thị và phân biệt đối xử là nguyên nhân gây cản trở
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục đối với trẻ em nhiễm HIV. Nỗi lo lắng bị kì thị
cũng khiến các gia đình có trẻ em nhiễm HIV e ngại chia sẻ thông tin. Điều này làm cho
việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc và điều trị cho các em gặp nhiều khó khăn.

Ở nước ta những người nhiễm HIV, trong đó có trẻ em ln bị kì thị và phân biệt
đối xử. Nhà trường và phụ huynh học sinh cũng tạo ra rào cản trong học tập đặc biệt là
trong các lớp mẫu giáo và các khóa đào tạo nghề. Trong một diễn đàn về trẻ em nhiều trẻ
em có HIV đã cho biết: Các em bị tẩy chay và bị bắt nạt bởi các bạn cùng trang lứa và bị
phân biệt đối xử bởi giáo viên. Những người chăm sóc trẻ này cho biết họ gặp rất nhiều
khó khăn trong việc nhập học cho trẻ và động viên trẻ đến trường.
Chính sự kì thị và phân biệt đối xử với trẻ em nhiễm HIV khiến cho các em bị hạn
chế cơ hội được chăm sóc sức khỏe. Theo thống kê của Cục Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
của trẻ em có tới 51,5 % số trẻ nhiễm HIV không được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe và điều trị bệnh một cách đầy đủ. Trong số đó có tới 35% trẻ bị bỏ rơi khơng được
quan tâm đúng mức từ phía cộng đồng và xã hội.
Tính đến khoảng tháng 12 năm 2007 cả nước có tới 976 trường hợp trẻ em dưới 5
tuổi được báo cáo là nhiễm HIV do mẹ truyền sang. Trên thực tế con số này cao hơn do
những bà mẹ đã sinh con tại nhà hoặc tại các trạm y tế xã chưa có điều kiện xét nghiệm
HIV.
Theo bác sĩ Nguyễn Trọng An – Phó Cục trưởng Cục bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
trẻ em (Thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội) cho biết có tới 49,5% trẻ nhiễm HIV
thuộc gia đình nghèo và 2,1% là rất nghèo. Hơn một nửa số vị thành niên bị nhiễm
HIV(57,8%) và 42% số trẻ số trẻ sống trong các gia đình có người nhiễm HIV đang phải
đi làm để tự kiếm sống hoặc phụ giúp gia đình. Trong đó có 29,6% đi làm thuê, 21% đi
đánh giày, 16,5% bán vé số dạo. Chính vì thế vấn đề chăm sóc sức khỏe cho các trẻ em
này gặp rất nhiều khó khăn. Ở độ tưổi này đáng lẽ các em phải được cắp sách tới trường;
được chăm sóc đầy đủ từ phía gia đình, nhà trường và xã hội thì các em đang phải từng
ngày đối diện với sự mưu sinh của cuộc sống.


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

Kết quả khảo sát của Uỷ ban Dân số gia đình và trẻ em cho thấy có 58,7% số trẻ bị
nhiễm HIV và bị ảnh hưởng bởi HIV đang sống với gia đình có người thân bị nhiễm HIV.

Một số trẻ khác bị bỏ rơi, gia đình và họ hàng khơng sẵn lịng chăm sóc nên bị gửi vào
các Trung tâm bảo trợ trẻ em. Những đứa trẻ này cho biết chúng luôn cảm thấy bị bỏ rơi
và thiếu sự yêu thương của những người xung quanh.
Một điều đáng nói là chính sách quy định hỗ trợ cho những gia đình có trẻ em
nhiễm HIV cịn nhiều bất cập. Chính điều đó đã gây cản trở cho vấn đề chăm sóc và điều
trị cho các em. Như một gia đình ở huyện Văn Lãng (tỉnh Lạng Sơn) có con trai chết vì
AIDS. Con dâu sau đó một tháng cũng chết vì AIDS. Bà nội ở cái tuổi “xưa nay hiếm”
phải cịm cõm ni hai đứa cháu. Và đã ba năm nay gia đình khơng được hưởng một chế
độ trợ cấp nào. Gia đình kêu lên tỉnh thì được giải thích vì là cán bộ về hưu nên bà khơng
được hưởng trợ cấp ( trong khi đó lương hưu của bà là 300 nghìn đồng/ tháng). Như vậy,
cuộc sống của ba bà cháu phải đối mặt với rất nhiều khó khăn với đồng lương ít ỏi. Hai
đứa trẻ đang mang trong mình virut HIV khơng được chăm sóc và điều trị đúng cách. Do
đó vấn đề chăm sóc sức khỏe cho những đứa trẻ này rất cần được quan tâm, hỗ trợ và
giúp đỡ từ phía các cơ quan tổ chức có thẩm quyền.
2/ Đánh giá thực trạng
2.1.

Ưu điểm

Cơng tác chăm sóc và điều trị cho trẻ em nhiễm HIV đã có những nỗ lực đáng kể.
Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm đến vấn đề này. Các trẻ ngày càng được quan tâm
hơn, được chăm sóc hơn. Xã hội và cộng đồng cũng đã phần nào giảm bớt những kì thị và
phân biệt đối xử như trước với các em.
Hiện nay đã có những chương trình Quốc gia về vấn đề chăm sóc và điều trị cho
trẻ em nhiễm HIV/AIDS. Các trẻ em dưới 6 tuổi nhiễm HIV được điều trị và cấp thuốc
ARV miễn phí.
Tháng 3/2004, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Quốc gia về phòng
chống HIV ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Để thực hiện chiến
lược Quốc gia này các bộ ngành đã xây dựng và hiện đang thực hiện các kế hoạch hành
động quốc gia về Thơng tin, Giáo dục tun truyền trong cơng tác phịng chống HIV; Can

thiệp giảm thiểu tác hại; Chăm sóc và điều trị cho người nhiễm HIV trong đó có trẻ em;
Chương trình giám sát trọng điểm, theo dõi và đánh giá HIV/AIDS; Phòng chống lây
truyền HIV từ mẹ sang con và Giáo dục về sức khỏe sinh sản và Phòng chống HIV/AIDS
tại các cấp trung học phổ thông.
Công tác chăm sóc cho các trẻ em nhiễm HIV tại các gia đình đang được mở rộng
có rất nhiều lợi ích, nhưng quan trọng hơn cả đây chính là điểm quan trọng thúc đấy sự
đánh giá và đáp ứng nhu cầu của tất cả các thành viên trong gia đình- trẻ bị nhiễm HIV,
người chưa được chuẩn đoán và người bị ảnh hưởng. Cách tiếp cận này làm tăng số lượng
trẻ em và trẻ vị thành niên được chuẩn bị, thúc đẩy sự đáp ứng tích cực đối với việc đánh


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

giá và đáp ứng kịp thời các nhu cầu về dinh dưỡng, giáo dục, y tế, tâm lý cho trẻ em
nhiễm HIV.
2.2.

Hạn chế

Ngồi những mặt tích cực trên thì cơng tác chăm sóc và điều trị cho trẻ em nhiễm
HIV/AIDS cịn gặp rất nhiều khó khăn. Khơng phải trẻ em cũng có điều kiện được điều
trị bằng thuốc kháng virut ARV. ARV giúp làm giảm nồng độ HIV trong máu, phịng
những bệnh nhiễm trùng đe dọa tới tính mạng và kéo dài thời gian khỏe mạnh cho trẻ.
Giúp trẻ có thêm niềm tin vào cuộc sống.
Tuy nhiên phần lớn trẻ nhiễm HIV lại được sinh ra trong các gia đình nghèo, một
số trẻ cịn bị bỏ rơi khơng nơi nương tựa, khơng có chế độ bảo hiểm y tế. Trong khi đó
chế độ chăm sóc và điều trị chưa rõ ràng, dẫn đến khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế cho
trẻ nhiễm HIV còn thấp.
Bộ máy tổ chức chăm sóc và điều trị cho trẻ chưa được chuẩn bị tốt, các hoạt động
tổ chức chăm sóc cịn nhiều bất cập. Kinh phí của chương trình quốc gia hàng năm dành

cho chăm sóc và điều trị trẻ em có HIV cịn thấp. Do đó chưa thể đáp ứng được đầy đủ
nhu cấu chăm sóc và điều trị.
Việc tiếp cận các dịch vụ liên quan đến HIV nói riêng và việc cung cấp ARV một
cách hạn chế theo chỉ tiêu của mỗi tỉnh là một rào cản. Hiện đã có những kế hoạch nhằm
mở rộng nhanh chóng số lượng các quận/huyện được cung cấp các dịch vụ chuẩn đoán
HIV, cung cấp thuốc ARV. Tuy nhiên điều đáng băn khoăn là các biện pháp can thiệp này
không được áp dụng một cách đồng đều trên các khu vực địa lý khác nhau. Hiện tại thị
hầu hết các can thiệp đều tập trung nhiều ở các khu vực thành thị. Trẻ em bị nhiễm HIV là
dân tộc thiểu số ở các khu vực vùng cao, khu vực nơng thơn ít nhận được sự hỗ trợ, chăm
sóc và điều trị.
Các hỗ trợ mặt tâm lý cho trẻ em và trẻ vị thành niên mới chỉ được thực hiện trên
quy mô rất nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu hỗ trợ cho các em.
Một điều đáng nói nữa là nhiều người chăm sóc trẻ không muốn đưa trẻ đến các cơ
sở y tế để xét nghiệm, một phần vì lo sợ sự phân biệt đối xử, một phần thì thiếu hiểu biết
về lợi ích của việc chuẩn đốn sớm.
Dữ liệu thơng tin về vấn đề chăm sóc trẻ em nhiễm HIV cịn rất thiếu. Các thông
tin về tỉ lệ nhiễm bệnh, đặc điểm và nhu cầu của trẻ em nhiễm HIV còn hạn chế. Cần có
thêm nhiều nghiên cứu và thu thập thêm nhiều dữ liệu thơng tin một cách có hệ thống về
trẻ em nhiễm HIV và các biện pháp can thiệp nhằm đưa ra những đường lối chỉ đạo tốt
hơn cho việc hoạch định chính sách và chương trình về chăm sóc sức khỏe và điều trị cho
trẻ em nhiễm HIV/AIDS.
3/ Thực trạng cơng tác chăm sóc trẻ nhiễm HIV/AIDS trên thế giới


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

Ngày 07/05/2008, Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), Chương trình phối
hợp phịng, chống HIV/AIDS của Liên hiệp quốc (UNAIDS) và Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) đã công bố bản cáo cáo có tựa đề "Trẻ em và AIDS" 5. Theo bản báo cáo đến
cuối năm 2008 số người nhiễm HIV/AIDS đang sống trên thế giới tiếp tục gia tăng và đạt

con số 33,4 triệu người (dao động trong khoảng từ 31,1 triệu đến 35,8 triệu), tăng 20% so
với năm 2000 và tỷ lệ hiện nhiễm HIV/AIDS ước tính cao gấp 3 lần năm 1990. Tính từ
đầu vụ dịch ( từ năm 1981) đến nay đã có khoảng 60 triệu người trên hành tinh đã nhiễm
HIV, trong đó có khoảng 25 triệu người đã chết do các bệnh có liên quan đến AIDS.
Theo phân tích của các chuyên gia, tổng số người nhiễm HIV còn sống vẫn đang
tiếp tục gia tăng là hệ quả của hai tác động chủ yếu. Một là số người mới nhiễm HIV hàng
năm trên tồn cầu vẫn ở mức cao. Chỉ tính riêng trong năm 2008, thế giới vẫn có khoảng
2,7 triệu người mới nhiễm HIV (con số này năm 2007 là 2,5 triệu). Hai là do kết quả tích
cực của các liệu pháp điều trị kháng vi rút (ARV) làm giảm số người tử vong, kéo dài sự
sống cho người bệnh. Đến tháng 12/2008, ước tính khoảng 4 triệu người nhiễm HIV ở các
nước có thu nhập thấp và trung bình được điều trị bằng thuốc kháng HIV (ARV), tăng lên
10 lần trong vòng 5 năm. Số người chết do AIDS năm 2008 là khoảng 02 triệu, giảm
100.000 người so với năm 2007 (2,1 triệu ).
Các số liệu dịch tễ học gần đây cho thấy, sự lây lan của HIV trên phạm vi tồn cầu
đạt "đỉnh" vào năm 1996, khi có tới 3,5 triệu ca mới nhiễm HIV trong một năm - Như
vậy, trong 12 năm qua (từ 1996 - 2008) số ca mới nhiễm HIV đã giảm 30% (2,7 triệu
người năm 2008 so với 3,5 triệu vào năm 1996).
Trong khi đó, tổng số người chết do AIDS trên toàn cầu đạt "đỉnh" vào năm 2004,
khi có tới 2,2 triệu người bị AIDS cướp đi trong năm. Như vậy, trong 4 năm qua, nhờ
chăm sóc điều trị tốt, số người chết do AIDS đã giảm 10% (2,0 triệu năm 2008 so với 2,2
triệu năm 2004).
Điều đáng lưu ý là, trong năm 2008, trên hành tinh này đã có tới 430.000 trẻ em
sinh ra bị nhiễm HIV, đưa tổng số trẻ em (dưới 15 tuổi) nhiễm HIV còn sống trên thế giới
lên 2,1 triệu cháu. Tuyệt đại đa số các cháu này bị lây truyền HIV từ mẹ khi mang thai,
khi sinh và khi cho con bú. Tuy nhiên, tín hiệu khả quan là con số trẻ em mới nhiễm HIV
trong năm 2008 đã giảm 18% so với năm 2001 nhờ những nỗ lực dự phịng lây truyền
HIV từ mẹ sang con...
Nhìn chung, đến năm 2008, dịch HIV đã bị hạn chế ở mức ổn định tại nhiều khu
vực trên thế giới, tuy nhiên tỷ lệ hiện nhiễm HIV vẫn tiếp tục gia tăng ở một số khu vực
khác như Đông Âu, Trung Á và một số vùng của châu Á do tỷ lệ mới nhiễm HIV còn ở

mức cao. Khu vực Cận Sahara của châu Phi vẫn là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi
dịch HIV. Gần 71% tổng số trường hợp mới nhiễm HIV trong năm 2008 là dân của các
nước trong khu vực này (với khoảng 1,9 triệu người mới nhiễm), tiếp theo, vị trí số 2 vẫn
là khu vực Nam và Đông Nam Á, với 280.000 người mới nhiễm HIV trong năm vừa qua,
cao hơn 110.000 người so với khu vực tiếp theo là Mỹ La Tinh, mới có 170.000 người
mới nhiễm HIV trong năm 2008.
• Những con số đáng chú ý về dịch HIV trên thế giới hiện nay:
- Khoảng 430.000 trẻ em sinh ra bị nhiễm HIV, đưa tổng số trẻ em (dưới 15 tuổi)
nhiễm HIV còn sống trên thế giới lên 2,1 triệu cháu. Tuyệt đại đa số các cháu này
bị lây truyền HIV từ mẹ sang.
5 Mạng thông tin Nghiên cứu HIV Việt Nam (Website: aids.vn)


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

-

Trong tổng số người lớn (15 - 49 tuổi) nhiễm HIV cịn sống trên thế giới đến cuối
năm 2008 có khoảng 40% là những người trẻ tuổi (15-24) và 50% là phụ nữ.
- Khu vực Cận Sahara của châu Phi vẫn là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi dịch
HIV. Gần 71% tổng số trường hợp mới nhiễm HIV trong năm 2008 là dân của các
nước trong khu vực này (với khoảng 1,9 triệu người mới nhiễm). Cận Sahara của
Châu Phi cũng là khu vực đang có tới 14 triệu trẻ em mồ cơi do AIDS.
- Vị trí số 2 vẫn là khu vực Nam và Đông Nam Á, với 280.000 người mới nhiễm
HIV trong năm vừa qua, cao hơn 110.000 người so với khu vực tiếp theo là Mỹ La
Tinh, mới có 170.000 người mới nhiễm HIV trong năm 2008.
• Một số thành cơng nổi bật:
- Trong 12 năm qua (từ 1996 - 2008) số ca mới nhiễm HIV đã giảm 30% (2,7 triệu
người năm 2008 so với 3,5 triệu vào năm 1996);
- Số trẻ em mới nhiễm HIV trong năm 2008 đã giảm 18% so với năm 2001 nhờ

những nỗ lực dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con...
- Tiếp cận được 42% số người cần điều trị (năm 2007 là 35%);
- Khoảng 4,7 triệu người nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc kháng HIV (ARV),
tăng lên 10 lần trong vịng 5 năm.
• Một số thách thức lớn:
- Chưa tới 40% thanh niên có được kiến thức cơ bản về HIV/AIDS;
- Dưới 40% số người nhiễm đã HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình;
- Còn tới hơn một nửa (58%) số người nhiễm HIV cần điều trị nhưng chưa được
điều trị; Tỷ lệ này trong trẻ em là 62%...
- Số người mới nhiễm HIV vẫn vượt xa số người được tiếp cận điều trị.
- Trong năm qua, cứ 02 người được điều trị thì có 5 người khác mới nhiễm HIV;
- Kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến nhiễm HIV vẫn cịn diễn ra ở nhiều nơi.
• Tóm tắt tình hình dịch AIDS toàn cầu đến cuối năm 2008:
- Tổng số người nhiễm HIV cịn sống: 33,4 triệu, trong đó:
+ Số người lớn (15 - 49 tuổi): 31,3 triệu
+ Số phụ nữ (trong số người lớn): 15,7 triệu
+ Trẻ em (dưới 15 tuổi): 2,1 triệu
- Tổng số người mới nhiễm trong năm 2008: 2,7 triệu, trong đó:
+ Số người lớn (15 - 49 tuổi): 2,3 triệu
+ Trẻ em (dưới 15 tuổi): 430.000
- Tổng số người chết do AIDS trong năm 2008: 2,0 triệu, trong đó:
+ Số người lớn (15 - 49 tuổi): 1,7 triệu
+ Trẻ em (dưới 15 tuổi): 280.000


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TRONG CƠNG TÁC CHĂM SĨC SỨC KHỎE
CHO TRẺ NHIỄM HIV/AIDS TẠI VIỆT NAM
1/ Một số giải pháp trong cơng tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhiễm HIV/AIDS

1.1.

Các cách chăm sóc trẻ nhiễm HIV/AIDS

• Trẻ em nhiễm HIV lây qua 3 con đường chính:
-

Từ mẹ nhiễm HIV( đây là con đường lây chủ yếu có thể bị nhiễm từ trong bào thai,
trong lúc sinh qua sữa mẹ).

-

Qua đường máu và chế phẩm máu bị nhiễm HIV, do dùng chung dụng cụ tiêm
chích bị nhiễm HIV.

-

Qua quan hệ tình dục khơng an tồn.

• Trẻ bị nhiễm HIV sẽ trải qua các giai đoạn sau :
-

Giai đoạn không có triệu chứng: Trẻ đã bị nhiễm HIV những cơ thể vẫn chưa bị
suy giảm miễn dịch, trẻ vẫn khỏe mạnh bình thường.

-

Giai đoạn có triệu chứng: Trung bình khoảng 8 tháng sau khi bị nhiễm ( có thể dài
hơn thậm chí kéo dài tới 6 -7 năm sau khi trẻ bị nhiễm). Các biểu hiện trong giai
đoạn này bao gồm: nhiễm khuẩn (trẻ bị viêm phổi kéo dài, tưa miệng, chốc lở,

mụn nhọt tái diễn, sốt kéo dài); gan, lách, hạch to.

-

Giai đoạn AIDS là giai đoạn cuối: Là giai đoạn cuối cùng của bệnh, lúc này các
biểu hiện trên kéo dài, nặng lên và trẻ tử vong.

• Những trẻ sau đây nên đi làm xét nghiệm HIV:


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

-

Tất cả các trẻ sinh ra từ mẹ bị nhiễm HIV;

-

Trẻ bị xâm hại tình dục;

-

Trẻ sinh ra tại các gia đinh có bố hoặc mẹ nghiện ma túy, hoạt động mại dâm,
quan hệ tình dục với nhiều người;

-

Trẻ có một số biểu hiện không rõ nguyên nhân như: Sốt kéo dài trên 1 tháng, tiêu
chảy kéo dài trên một tháng, sụt cân nhiều, hạch to kéo dài, nhiễm khuẩn tái diễn
kéo dài.


• Khi đã khẳng trẻ chắc chắn bị nhiễm HIV thì chúng ta cần phải chăm sóc trẻ theo
đúng cách:
-

Về tiêm chủng:
o Trẻ nhiễm HIV chưa có biểu hiện triệu chứng thì cần phải tiêm chủng theo
lịch như đối với trẻ bình thường. Trẻ nhiễm HIV có hệ thống miễm dịch suy
giảm nên có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những đứa trẻ khác và nếu có mắc
bệnh thì diễn biến cũng trầm trọng hơn. Với các bệnh thơng thường thì cần
phải cách ly trẻ với những đứa trẻ bị ốm hoặc những người ốm nhất là
những người bị bệnh lao.
o Trẻ đã có biểu hiện triệu chứng thì khơng tiêm phịng lao; sởi và khơng
uống thuốc văcxin bại liệt.

-

Về dinh dưỡng:
o Cần cho trẻ được nuôi dưỡng theo một chế độ ăn uống tốt nhất. Nên tham
khảo thầy thuốc về sự lựa chọn thức ăn cho phù hợp với cơ thể trẻ. Những
đứa trẻ này thường biếng ăn, vì vậy nên thay đổi món ăn cho đa dạng.
o Thức ăn chế biến cần đảm bảo dễ tiêu hóa, đảm bảo vệ sinh… Khơng được
cho trẻ uống các loại đồ uống kích thích như rượu, bia…

-

Về vệ sinh:
o Đối với trẻ sinh ra bởi những bà mẹ nhiễm HIV thì cần tắm ngay cho trẻ sau
khi sinh.
o Thường xuyên vệ sinh thân thể hằng ngày cho trẻ. Nhà ở cho trẻ cần được

thu dọn thường xuyên để đảm bảo ln sạch sẽ và thống mát về mùa hè,
ấm về mùa đơng, khơng có khói thuốc lá, khói than, không nuôi vật nuôi
trong nhà.


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

o Tạo cho trẻ một cuộc sống khỏe mạnh,dành nhiều tình cảm và sự yêu
thương đối với trẻ. Dạy và hướng dẫn cho trẻ biết chăm sóc giữ gìn và vệ
sinh cá nhân.
o Hầu hết những đứa trẻ này thường hiếu động, tuy nhiên cũng cần khuyến
khích trẻ rèn luyện thân thể, tập thể dục thường xuyên.
o Mỗi năm hai lần cho trẻ đi khám răng miệng. Phải báo cho bác sĩ nha khoa
biết để trẻ được thăm khám cẩn thận.
-

Về nghỉ ngơi:
o Trẻ nhiễm HIV cần ngủ nhiều có thời gian nghỉ ngơi nhiều hơn so với các
đứa trẻ khác. Người thân nên dành nhiều thời gian chơi, nói chuyện, ơm ấp
trẻ. Giúp cho trẻ có một cuộc sống bình thường như bao đứa trẻ khác.
o Khi trẻ có những biểu hiện như sốt, ho, thở nhanh và khó, chán ăn, gấy sút
nhanh, xuất hiện những đốm trắng hoặc những vết đau trong miệng, xuất
hiện mụn nhiều tiêu chảy, nôn mửa…Cần đảm bảo cho trẻ phải được điều
trị và theo dõi liên tục.
o Trẻ nhiễm HIV có thể vẫn tiếp tục khỏe mạnh trong một thời gian dài,
nhưng để theo dõi diễn biến sức khỏe của trẻ cần thường xuyên cho trẻ
được kiểm tra máu.

1.2.


Một số giải pháp đảm bảo an sinh cho vấn đề chăm sóc sức khỏe cho trẻ
nhiễm HIV/AIDS

Không phải đứa trẻ nào sinh ra từ những bà mẹ bị nhiễm HIV thì cũng bị nhiễm
HIV. Những đứa trẻ mới sinh ra từ mẹ bị nhiễm HIV thì được gọi là “phơi nhiễm HIV”
chứ khơng được khẳng định trẻ bị nhiễm HIV.
Do đó cần phải theo dõi quản lý và chăm sóc phụ nữ nhiễm HIV ngay từ khi đang
mang thai. Song song với việc đánh giá tình trạng thai nghén định kì, tình trạng lâm sàng
nhiễm HIV cũng phải được theo dõi. Cần cho thai phụ uống thuốc dự phòng lây truyền từ
mẹ sang con để giảm khả năng nhiễm HIV cho trẻ.
Đối với những trẻ nhỏ (dưới 5 tuổi) hầu như các em chưa nhận thức được về bệnh
của mình do đó rất cần sự chăm sóc tận tình từ phía gia đình, nhà trường và những người
xung quanh. Trẻ bị nhiễm HIV đều có nguyện vọng được sống với gia đình và người thân
và mong muốn được người lớn bảo vệ, chăm sóc và nuôi dưỡng.


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

Cần cung cấp các kiến thức về dự phòng lây nhiễm HIV và kĩ năng cho người
chăm sóc các em.
Ngồi sự chăm sóc về y tế cần có sự hỗ trợ về tinh thần giúp các em có thêm niềm
tin vào cuộc sống. Có thể mở các “lớp học tình thương”, “trẻ em giúp trẻ em” và các “câu
lạc bộ về hỗ trợ tâm lý cho trẻ nhiễm HIV” với mục đích trợ giúp, giải trí, giúp các em có
cơ hội hòa nhập với các trẻ em khác.
Cộng đồng mà đặc biệt là Nhà trường cần phải là cầu nối, mở rộng vịng tay chào
đón các em. Những đứa trẻ nay luôn mong muốn được cắp sách tới trường, được vui chơi
cùng ban bè đồng trang lứa. Các em cũng có những ước mơ, những hồi bão lớn lao do đó
các em cần phải được đối xử cơng bằng; tránh sự kì thị, xa lánh.
Trẻ em về bản chất là nhóm dễ bị tổn thương, các em đặc biệt dễ bị tổn thương bởi
HIV/AIDS và các tác động của HIV/AIDS gây ra.

Trong nhiều trường hợp các em thường là những người ít được trang bị nhất để
đương đầu với những thiệt hại do HIV/AIDS gây. Vì vậy cần đảm bảo cho các em được
chăm sóc và điều trị tốt nhất. Sự kì thị và phân biệt đối xử với các em là hồn tồn sai trái.
Cần tìm cách loại trừ quan điểm đó, chúng ta cần đảm bảo rằng khơng có trẻ em nhiễm
HIV nào phải gánh chịu điều này.
Cần cung cấp thêm nhiều hơn nữa các thông tin về chăm sóc sức khỏe cho trẻ
nhiễm HIV.
Việc tiếp cận các dịch vụ liên quan đến HIV nói riêng và việc cung cấp ARV cần
phải được tăng cường, để đảm bảo rằng tất cả các trẻ em nhiễm HIV không kể thành thị
hay nông thôn, đồng bằng hay miền núi đều có cơ hội được tiếp cận các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe tốt nhất.
2/ Một số kiến nghị
2.1. Về phía Đảng và Nhà nước
HIV/AIDS đã và đang trở thành một đại dịch nguy hiểm mang tính tồn cầu, đe
dọa trực tiếp tới tính mạng và sức khỏe của con người và tương lai nịi giống của dân tộc.
Do đó, ngồi vấn đề chăm sóc sức khỏe và điều trị cho những người nhiễm HIV trong đó
có trẻ em thì vấn đề phòng chống HIV/AIDS phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm, cấp
bách và lâu dài. Đảng và Nhà nước cần tăng cường phối hợp liên ngành và đẩy mạnh huy
động tồn xã hội tham gia.
Các cấp chính quyền và các ngành có liên quan cần đầu tư hơn nữa các cơ sở vật
chất, kĩ thuật, thuốc men cho công tác phòng chống và đièu trị cho những trẻ em nhiễm
HIV.


Đề tài: Thực trạng và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam

Hiện nay ở Việt Nam việc điều trị cho trẻ em nhiễm HIV đang phải lồng ghép với
phòng khám ngoại trú của người lớn. Để thiết lập một hệ thống khám riêng cho trẻ nhiễm
HIV như hệ thống của người lớn là rất tốn kém. Do đo cần chi phí lớn để thực hiện.
Nhà nước cần hỗ trợ để chống sự kì thị và phân biệt đối xử với trẻ em nhiễm HIV.

Sự kì thị với các em dẫn đến sự cô lập trong cộng đồng. Điều này khiến cho những nỗ lực
trong cơng tác chăm sóc và điều trị cho trẻ em nhiễm HIV gặp nhiều khó khăn hơn. Việc
tiếp cận các dịch vụ y tế, dịch vụ chăm sóc sức khỏe bị cản trở.
Cần tuyên truyền và cung cấp đầy đủ các thông tin về vấn đề chăm sóc sức khỏe
cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS trong nhân dân.
Cần tăng cường hợp tác và mở rộng quan hệ quốc tế với các nước láng giềng, các
nước trong khu vực và trên thế giới để cung chung tay chống lại đại dịch HIV đang lan
tràn.
2.2. Về phía cộng đồng và Nhà trường
Cần tạo mọi điều kiện để giúp cho trẻ được chăm sóc và điều trị tốt nhất. Giúp các
em hịa nhập để có một cuộc sống bình thường như bao trẻ em khác.
Cần xóa bỏ sự kì thị và phân biệt đối xử với các em nhất là từ phía những người
xung quanh.
Nhà trường phải làm cơng tác giáo dục, tun truyền cho các trẻ em khác khơng
nên có thái độ xa lánh đối với các trẻ bị nhiễm HIV.

2.3. Về phía gia đình
Gia đình ln là chỗ dựa vững chắc nhất, chính vì thế cần chăm sóc một cách đầy
đủ nhất về sức khỏe và hỗ trợ về tinh thần cho các em. Cần thường xuyên đưa các em tới
các cở sở y tế thăm khám sức khỏe và điều trị.
Gia đình cần tạo niềm tin, khơng nên bi quan, chán nản để giúp các em có thêm
nghị lực sống.


×