Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

CẢI THIỆN SINH KẾ VÀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG CHO CỘNG ĐỒNG NGHÈO HUYỆN PẮC NẶM, TỈNH BẮC CẠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.78 KB, 105 trang )

BÁO CÁO
ĐÁNH GIÁ CUỐI KỲ DỰ ÁN VM015

CẢI THIỆN SINH KẾ VÀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG CHO CỘNG ĐỒNG NGHÈO
HUYỆN PẮC NẶM, TỈNH BẮC CẠN

Những người thực hiện:
1. TS Phạm Bảo Dương:

phụ trách lĩnh vực thể chế, chính sách và sinh

2. Ths Dương Bá Hiền:

kế nông hộ - Trưởng nhóm
phụ trách lĩnh vực thủy lợi, cơ sở hạ tầng và

3. CN Phan Thị Lạc:

nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn
phụ trách lĩnh vực giới, phát triển cộng đồng


Hà Nội, tháng 4 năm 2011

2


MỤC LỤC
Nội dung

Trang



Mục lục

1

Danh mục Hộp

2

Phần A. Mở đầu

3

Mục tiêu

5

Phương pháp

5

Kết quả và kiến nghị chính

6

Phần B. Kết quả đánh giá
I. Kết quả và tác động của Dự án

7


Hợp phần 1: Nâng cao năng lực

7

Hợp phần 2: Phát triển sinh kế nông hộ

8

Hợp phần 3: Hạ tầng cơ sở, vệ sinh môi trường

11

Hợp phần 4: Bình đẳng giới

13

Hợp phần 5: Tăng cường năng lực quản trị địa phương thông qua các tổ chức cộng
đồng (CBO).

16

II. Hợp phần V: Thúc đẩy hình thành và vận hành các nhóm nông dân/tổ chức cộng
đồng để cải thiện tương trợ, tinh thần đòan kết và sự tham gia của người dân trong
quá trình ra quyết định ở cấp cộng đồng
II. Một số tác động chủ yếu của Dự án

12

1. Về Kinh tế


19

2. Về xã hội

19

3. Về môi trường

20

4. Tác động khác

20

III. Tính bền vững

21

IV. Bài học kinh nghiệm

23

Phần C: Kết luận và khuyến nghị

26

7

19


Phần D: Các Phụ lục

3


DANH MỤC HỘP
Hộp:
Hộp:
Hộp:
Hộp:
Hộp:
Hộp:
Hộp:
Hộp:
Hộp:

Tập huấn dân chủ cơ sở - Tiếng nói của người dân đã được tôn trọng
Vai trò đầu đàn của Trưởng thôn/Trưởng Ban phát triển thôn bản- một nông dân nòng cốt.
Tài liệu tập huấn lập kế hoạch sản xuất của nông hộ
Người dân nghèo An Thắng đã biết hạch toán kinh tế hộ gia đình
Các lớp tập huấn đã có những tác động tích cực nâng cao sinh kế
Ý kiến của bà con thôn bản về sự thay đổi trong nhận thức và hành động về bình đẳng giới
Nội dung về bình đẳng giới được lồng ghép trong các hoạt động
Dự án đã góp phần tăng cường tình đoàn kết, tương trợ nhau trong thôn bản
Nhận thức, kỹ năng của người dân và cán bộ các cấp được tăng cường

Bảng: Ma trận Điểm mạnh, hạn chế và đề xuất triển khai để đảm bảo tính hiệu quả và bền vững
của Dự án

4



NỘI DUNG BÁO CÁO
Phần A: MỞ ĐẦU
Pác Nặm là 1 trong 60 huyện nghèo nhất trong cả nước. Nằm cách xa trung tâm tỉnh Bắc Kạn hơn
90 km về phía Bắc, đường giao thông đi lại khó khăn chủ yếu là dốc núi. Toàn huyện có tổng diện
tích đất tự nhiên là 47.539 ha, nhưng chỉ có 9,3% đất nông nghiệp, trong đó đất trồng lúa cả năm là
1.882 ha, đất lâm nghiệp 19.509,26 ha. Huyện có 5.204 hộ, gồm 7 dân tộc: Tày, Mông, Dao, Nùng,
Sán Chỉ, Kinh, Hoa cùng sinh sống.
An Thắng và Cổ Linh là 2 xã nghèo của huyện Pác Nặm, diện tích đất trồng trọt trung bình trên đầu
người thấp, khoảng 200m2/người và đất trồng trọt phân bố rải rác, hầu hết nằm ở những vùng thấp
dưới chân núi. Nguồn thu nhập chính của người dân chủ yếu dựa vào chăn nuôi và trồng trọt. Đa số
người dân ở đây đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong sản xuất như thiếu đất nông nghiệp,
kỹ thuật canh tác lạc hậu, trình độ học vấn thấp, một số người dân không có khả năng đọc và viết
tiếng Kinh, khó khăn về sự tiếp cận với nguồn nước sinh hoạt, hố xí hợp vệ sinh …
Kế thừa nhiều năm kinh nghiệm phát triển của CIDSE, Trung tâm Phát triển Nông thôn Bền vững
(SRD) đã triển khai hàng loạt các dự án phát triển ở các địa phương nghèo, trong đó có Pác Nặm.
Tiếp theo thành công của các dự án đã thực hiện, căn cứ vào điều kiện thực tế ở An Thắng và Cổ
Linh là 2 xã nghèo chưa có điều kiện tiếp cận với dự án phát triển, với sự tài trợ của Caritas – Úc,
SRD đã triển khai thực hiện Dự án “Cải thiện sinh kế và vệ sinh môi trường cho cộng đồng nghèo”
giai đoạn 2008 – 2011 với các Mục tiêu cụ thể như: (1) Cải thiện khả năng lập kế hoạch, triển khai
và giám sát có sự tham gia thông qua nâng cao nhận thức và năng lực cho cán bộ địa phương và
người dân thôn bản trong quá trình phát triển kinh tế xã hội; (2) Tăng thu nhập và sinh kế nông hộ
thông qua giới thiệu và phát triển các kỹ năng chuyên môn và kỹ thuật phù hợp cho người dân thôn
bản; (3) Cải thiện điều kiện sống cơ bản cho nông dân nghèo tại các thôn bản thông qua nâng cấp hạ
tầng cơ sở và điều kiện vệ sinh môi trường; (4) Cải thiện vai trò và vị thế của người phụ nữ thông
qua lồng ghép bình đẳng giới trong phát triển cộng đồng; (5) Thúc đẩy việc hình thành và vận hành
các nhóm nông dân / tổ chức cộng đồng để cải thiện sự tương trợ, tinh thần đoàn kết và sự tham gia
của người dân trong quá trình ra quyết định ở cấp cộng đồng; và (6) Phổ biến các bài học thành
công và vận động chính sách cho người nghèo.

Đến tháng 12/2010, hầu hết các hoạt động của dự án đã được hoàn thành. Trong cuộc họp Ban chỉ
đạo cuối tháng 12/2010, Báo cáo tổng kết của dự án cũng đã chỉ ra Dự án đã đạt được những mục
tiêu đề ra, một số hoạt động của năm 2011 chỉ còn tập trung vào củng cố các nhóm sở thích. Trong
bối cảnh đó cùng với rất nhiều các chương trình dự án khác của nhà nước (30A) và tổ chức IFAD sẽ
được triển khai rộng rãi trên hai xã và các thôn của dự án, SRD quyết định kết thúc vào tháng 03
thay vì tháng 06 năm 2011.
Theo kế hoạch Trung tâm SRD phối hợp với Ban quản lý dự án tiến hành đánh giá cuối kỳ Dự án.
Đoàn tư vấn đánh giá do TS Phạm Bảo Dương 1 làm Trưởng đoàn cùng 2 thành viên – Ths Dương
Bá Hiền và CN Phan Thị Lạc với sự hỗ trợ của SRD, BQL Dự án huyện và các xã và cộng đồng
người dân đã thực hiện công tác đánh giá trong tháng 4 năm 2011. Đánh giá cuối cùng tập trung vào
Liên hệ: TS Phạm Bảo Dương, Chuyên gia chính sách phát triển, Khoa Kinh tế & PTNT, Đại học Nông nghiệp Hà
Nội. Tel: 098 626 1618; E-mail:
1

5


đánh giá các kết quả đạt được, trên cơ sở các mục tiêu tổng thể của dự án cũng như các khuyến nghị
của đánh giá giữa kỳ đã được dự án giải quyết như thế nào để đạt được mục đích của dự án.
1.

MỤC TIÊU CỦA CUỘC ĐÁNH GIÁ

Đánh giá kết quả và tác động của Dự án đạt được so với kế hoạch và mục tiêu đề ra theo khung
logic và các khuyến nghị của Đánh giá giữa kỳ đã được SRD & BQL dự án chấp nhận.
Điểm mạnh, điểm chưa đạt được của dự án (phân tích nguyên nhân và giải pháp cụ thể để đảm bảo
tính bền vững của dự án sau khi dự án kết thúc).
Đưa ra những khuyến nghị để Đối tác, Ban quản lý dự án có thể tiếp tục quản lý các thành quả đạt
được của dự án, để hỗ trợ tốt hơn cho người dân địa phương. Đồng thời đưa ra những khuyến nghị
để SRD có thể cải thiện các can thiệp cũng như các phương pháp phù hợp hơn với người dân, đặc

biệt người nghèo, từ đó SRD có thể áp dụng ở những vùng dự án khác.
2.

PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
Phương pháp đánh giá: Chủ yếu thông qua nghiên cứu tài liệu có sẵn và thảo luận nhóm với cán bộ
cấp huyện và xã. Tại mỗi xã của dự án lựa chọn 1 thôn/bản để thảo luận với nhóm người hưởng lợi
ở các vùng dự án.
3.1. Thu thập tài liệu liên quan đến dự án: Nhóm đánh giá đã tiến hành thu thập thông tin của
dự án thông qua:
 Đề xuất dự án VM015, các Báo cáo thực hiện và tổng kết Dự án
 Tất cả các tài liệu liên quan khác của đối tác và SRD được thể hiện trong khung logic như: Biên
bản các cuộc hop; Chương trình, tài liệu và phương pháp tập huấn; Báo cáo quý, năm: Các
báo cáo quý/năm của Ban quản lý thôn, Ban quản lý DA các cấp; Kế hoạch hoạt động sản xuất
của các nhóm nông dân, của thôn theo quý; Kiểm tra, giám sát, đánh giá DA, giới,...
Các tài liệu cần thu thập này do Trung tâm SRD và các Ban quản lý, các cán bộ các thôn, xã và
huyện nơi có dự án cung cấp để phục vụ cho quá trình đánh giá. Ngoài các báo cáo trên, đoàn Đánh
giá cũng tiến hành thu thập các báo cáo phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo của huyện,
của các xã, niên giám thống kê,..
3.2.
Đánh giá tại hiện trường: Phỏng vấn các nhóm đối tượng (cán bộ huyện/ xã, Hội người
dùng nước, Tổ giám sát thi công, nhóm nông dân…), thảo luận nhóm, thăm công trình, phỏng vấn
hộ nông dân, những người hưởng lợi từ Dự án… Kiểm tra chéo cũng được sử dụng nhằm tăng độ
tin cậy của thông tin. Một thông tin có thể được thu thập từ nhiều nguồn, phỏng vấn nhiều nhóm đối
tượng, sử dụng nhiều phương pháp thu thập khác nhau. Nội dung Bộ công cụ dùng cho quá trình
tham vấn hiện trường được thể hiện ở Phụ lục 5.
Từ ngày 5 đến 9/4/2011, sau quá trình chuẩn bị ở Văn phòng tại Hà Nội, Đoàn tư vấn đã
xuống làm việc tại hiện trường huyện Pác Nặm, đến làm việc tại 2 xã (Cổ Linh và An Thắng, mỗi
xã thăm và làm việc tại 1 thôn). Trong quá trình đánh giá, Đoàn tư vấn nhận được sự phối hợp chặt

6



chẽ của cán bộ chương trình SRD, điều phối viên dự án và Ban quản lý dự án các cấp huyện – xã.
Đặc biệt, cán bộ của Hội phụ nữ và BQL dự án huyện đã cùng tham gia đầy đủ vào quá trình làm
việc tại huyện, xã. Ngày 8/4/2011, kết thúc quá trình tham vấn hiện trường, Đoàn Tư vấn đã trình
bày kết quả đánh giá bước đầu tại Hội nghị phản hồi tổ chức tại UBND Huyện.
4.

KẾT QUẢ VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH

Kết quả đánh giá cuối kỳ cho thấy, nhìn chung Dự án VM 015 được triển khai đúng tiến độ đã đề ra
(xem thêm Phụ lục 2 để có cái nhìn toàn cảnh về kết quả thực hiện Dự án sau 3 năm). Các hoạt
động của dự án đã có tác động nhất định cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Đặc biệt, năng lực của
cán bộ và người dân được nâng cao cũng là một tác động rất quan trọng của Dự án.
Tính bền vững của Dự án được thể hiện trên các khía cạnh: thay đổi tư duy, nhận thức của cán bộ và
người dân nghèo vùng dự án và lan tỏa sang các địa phương lân cận, nâng cao năng lực, kỹ năng
của cán bộ các cấp và người dân, với những công trình hạ tầng được bàn giao lại cho địa phương và
người dân quản lý, sử dụng cũng như phát triển bền vững địa phương thông qua các tổ chức cộng
đồng. Trên cơ sở tổng hợp, đúc rút các điểm mạnh, hạn chế và một số đề xuất quan trọng cần tiếp
tục triển khai để đảm bảo tính hiệu quả và bền vững của Dự án, Báo cáo đánh giá cuối kỳ cũng chỉ
rõ 8 bài học kinh nghiệm rút ra từ Dự án VM015. Trên cơ sở đó Đoàn tư vấn cũng mạnh dạn đề
xuất một số khuyến nghị trước mắt cần thực hiện như: Tiến hành đóng các thủ tục của dự án đúng
tiến độ; tiếp tục triển khai hoạt động phát triển cộng đồng; tổ chức hội thảo tổng kết dự án; xây
dựng và thực hiện quy chế vận hành các công trình hạ tầng ở nông thôn đặc biệt là công trình nước
sạch; tổng kết và tài liệu hóa bài học kinh nghiệm triển khai thực hiện Dự án; trao đổi bài học kinh
nghiệm với dự án khác tương tự mà SRD đang thực hiện.

7



Phần B: KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CUỐI KỲ
I. KẾT QUẢ & TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN (theo các mục tiêu và các hoạt động chính của dự án)
1. Hợp phần 1: Nâng cao năng lực
Hợp phần này hướng đến các mục tiêu: (1) Phổ biến pháp lệnh dân chủ cở sở để người dân thực
hiện quyền tham gia và giám sát các hoạt động cộng đồng và (2) Nâng cao năng lực quản lý, giám
sát, thúc đẩy, điều hành của cán bộ địa phương và nông dân chủ chốt.
Kết quả đánh giá cho thấy:
Dự án đã hoàn thành 02/02 lớp tập huấn cho tập huấn viên về dân chủ cơ sở tại Văn phòng dự án
huyện Pác Nặm, với tổng số 39 học viên là cán bộ BQL dự án các xã và huyện tham gia. Khóa tập
huấn đem lại những nội dung cơ bản về dân chủ cơ sở cho các học viên và quan trọng hơn nữa là họ
đó có thể trao đổi lại vấn đề dân chủ này cho bà con trong thôn bản. Ngoài ra, khóa học này cũng là
cơ sở để dự án tiếp tục triển khai hoạt động trao đổi dân chủ cở sở tại các thôn bản. Sau đó đã triển
khai thực hiện 8/10 buổi nói chuyện về dân chủ cơ sở tại 4 thôn thực hiện dự án. Đối tượng tham dự
là tất cả các hộ dân trong thôn hưởng lợi dự án. Người nói chuyện, hướng dẫn là tập huấn viên của
huyện cùng với các học viên đã được tham gia tập huấn tại huyện. Nhìn chung sau khi được tham gia các
buổi nói chuyện người dân đã cơ bản nắm được những điều mình được biết, được bàn và được quyết định:
14 điều người dân được thông báo; 5 điều người dân được bàn và được quyết định; 9 việc dân được bàn,
tham gia ý kiến nhưng chính quyền xã quyết định; 11 việc dân giám sát và kiểm tra và đã vận dụng khá
linh hoạt trong cuộc sống.
Hộp: Tập huấn dân chủ cơ sở - Tiếng nói của người dân đã được tôn trọng
Tinh thần dân chủ của người dân đã được bước đầu phát huy tích cực. Việc xây dựng chuồng trại
của người dân theo thiết kế ban đầu với nguồn lực nhất định. Tuy nhiên, người dân ở Cổ Linh đã
góp ý về cách thức xây dựng chuồng trại (nền xi măng, khung chuồng gỗ, mái bro, có rãnh chứa
phân,…) và người dân cùng đóng góp xây dựng chuồng trại. Dự án hỗ trợ làm nền xi măng dưới
sàn gỗ, hố chứa phân (1.120.000 đồng, người dân bỏ ra thêm từ 9,6 triệu).
Thảo luận nhóm cán bộ xã Cổ Linh – Pác Nậm, Bắc Kan
Dự án cũng đã thực hiện xong 2/2 lớp tập huấn về lập kế hoạch giám sát đánh giá có sự tham gia tại
huyện với học viên là các thành viên Ban quản lý dự án xã, Ban phát triển cộng đồng thôn, các hộ
dân tiêu biểu trong thôn.
Thông qua các khóa tập huấn về dân chủ cơ sở, về lập kế hoạch giám sát đánh giá có sự tham gia

cũng như các hoạt động tham quan, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm ở trong và ngoài nước mà năng
lực quản lý, giám sát, thúc đẩy, điều hành của cán bộ địa phương và nông dân chủ chốt đã được cải
thiện, nâng cao một bước đáng kể. Kết quả thảo luận nhóm, trao đổi với các cán bộ Ban quản lý Dự
án các cấp và nông dân nòng cốt cho thấy rõ tác động tích cực của hoạt động nâng cao năng lực này.
Điển hình như ở cấp huyện, Đoàn tư vấn đã có thời gian làm việc chặt chẽ với anh Chu Văn
Trương, điều phối viên của Dự án. Là cán bộ trẻ, sau quá trình tham gia đầy đủ các hoạt động của
Dự án, năng lực của anh Trương đã được nâng cao đáng kể, đã hình thành kỹ năng quản lý, vận
hành dự án khá tốt từ việc lập kế hoạch, triển khai các hoạt động cũng như kỹ năng theo dõi, kiểm

8


tra-giám sát, viết báo cáo. Kết thúc dự án VM015, anh Trương đã được Huyện giao nhiệm vụ làm
điều phối viên dự án 3PAD, một dự án lớn do Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế tài trợ. Hoặc ở
cấp cơ sở, Đoàn tư vấn đã có dịp làm việc với chị Lưu – Phó Chủ tịch kiêm Phó trưởng Ban Quản
lý Dự án xã An Thắng, anh Trọng (cán bộ), anh Thành (Chủ tịch UBND kiêm Trưởng ban quản lý
dự án xã Cổ Linh), hoặc ở cấp thôn bản như anh Duẩn (Trưởng ban phát triển thôn bản thôn Tiến
Bộ - An Thắng) hoặc ông Hàm (Trưởng ban phát triển thôn Bản Sáng – Cổ Linh). Các cán bộ cấp
cơ sở này với độ tuổi, kinh nghiệm làm việc khác nhau, tuy nhiên, tác động rõ nét nhất ghi nhận
được là họ đã trưởng thành, nâng cao năng lực, nhận thức sau khi tham dự các khóa tập huấn và
triển khai các hoạt động của Dự án; đã, đang và sẽ tiếp tục đảm nhận vai trò quan trọng ở địa
phương cũng như ở các Dự án xóa đói giảm nghèo khác đang và sẽ thực hiện. Có thể nói, nâng cao
năng lực, nhận thức về quản lý dự án, về dân chủ cơ sở của cộng đồng là hoạt động thiết thực, có ý
nghĩa đặc biệt tích cực mà Dự án VM015 đã đem lại.
Hộp: Năng lực và vai trò của Trưởng thôn/Trưởng Ban phát triển thôn bản- một nông dân nòng cốt.
Trưởng thôn Bản Sáng – Cổ Linh: ông Triệu Sỹ Hàm (ảnh), dân tộc
Tày năm nay 63 tuổi, đã học hết lớp 7, làm Trưởng thôn Bản Sáng
được 20 năm nay. Là người triển khai thực hiện Dự án VM015 từ ban
đầu, ông Hàm đã đề xuất thành lập Ban phát triển thôn (gồm 5 thành
viên: Bí thư chi bộ, công an viên, 2 tổ chi hội phụ nữ, và ông Hàm).

Sau khi nghiên cứu kế hoạch tổng thể của Dự án, ông Hàm đã bàn họp
xóm cụ thể hóa kế hoạch cho phù hợp với các điều kiện của thôn, giám
sát xây dựng các công trình, xây dựng các quy chế, xử lý các vi phạm,
hòa giải trong thôn. Ông cũng tích cực tham gia các khóa tập huấn,
tăng cường năng lực của Dự án tổ chức. Là người nhiệt tình, tâm huyết
với công việc của thôn, dưới sự chỉ đạo và trực tiếp triển khai thực hiện
của ông Hàm, đến nay các công việc của VM015 triển khai ở thôn khá
suôn sẻ, đem lại hiệu quả, tác động tích cực.
Năng lực, kỹ năng được trang bị cùng với tâm huyết của người đứng
đầu Ban phát triển thôn Bản Sáng là một trong những nhân tố quan
trọng có tính quyết định đến sự thành công của Dự án.
2. Hợp phần 2: Phát triển sinh kế nông hộ
Hợp phần này hướng đến các mục tiêu: (1) Nông dân có kỹ năng quản lý, lập kế hoạch và hạch toán
kinh tế trong sản xuất nông hộ và (2) Các tiến bộ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi phù hợp được phổ
biến và áp dụng tạo thêm nguồn thu nhập cho các hộ nghèo
Kết quả đánh giá cho thấy:
* Đối với hoạt động Tập huấn về lập kế hoạch sản xuất nông hộ, lập sổ sách ghi chép và hoạch toán
thu chi trong chăn nuôi trồng trọt, Dự án đã tiến hành tổ chức 2 khóa tập huấn tại huyện với 48 lượt
người tham gia, các học viên là cán bộ khuyến nông xã, các hộ dân đến từ 4 thôn thực hiện dự án.

9


LẬP KẾ HOẠCH SẢN XUẤT NÔNG HỘ

Các nội dung chính của khóa tập huấn bao gồm:
Lập kế hoạch để làm gì? Các bước tiến hành khi
lập kế hoạch? Các tiêu chí khi lập kế hoạch. Các
khái niệm như nguồn lực, chi phí, doanh thu, thị
trường…đã được học viên giảng giải, thảo luận

với học viên khá chi tiết, dễ hiểu. Giảng viên nêu
ra vấn sau đó cùng thảo luận với các học viên. Lớp
tập huấn cũng chia thành 4 tổ cùng thực hiện làm
bài tập về lập kế hoạch, hoạch toán cụ thể cho một
hộ gia đình. Giáo trình được thiết kế bao gồm 8
trang, ngắn gọn, rõ ràng với nhiều sơ đồ hình ảnh
minh họa. Cuối giáo trình có bản kế hoạch mẫu để
nông hộ tham khảo và vận dụng.
Sau khóa tập huấn các học viên tham gia cơ
bản nắm được: Lập kế hoạch để làm gì, các bước
tiến hành khi lập kế hoạch, cách hoạch toán thu chi
trong sản xuất kinh tế hộ gia đình để từ đó áp dụng
đối với gia đình mình và thông tin cho các hộ khác
trong cộng đồng thôn. Kết quả thảo luận nhóm ở 2
thôn của 2 xã cho thấy người dân đã hiểu và vận
dụng các khái niệm căn bản về hạch toán lãi/lỗ, chi
phí, lập kế hoạch sản xuất của gia đình và có
những ví dụ minh họa rất sôi động.

Để sản xuất đạt được hiệu quả kinh tế (lợi nhuận) cao
các hộ gia đình cần có kế hoạch sản xuất phù hợp với
nguồn lực của từng gia đình và điều kiện tự nhiên của
từng địa phương.
Các vấn đề cần quan tâm khi lập KH sản xuất:
Sản phẩm định sản xuất là gì ?
Tại sao lại chọn mô hình sản xuất đó?
Thị trường tiêu thụ ở đâu? Có ổn định không ?
Khách hàng chủ yếu là ai ?
Giá bán như thế nào?
Ước tính CHI và THU

Dự báo hiệu quả kinh tế
Gia đình có đủ điều kiện để làm được không ?
Những rủi ro có thể xẩy ra và dự kiến cách đề phòng,
khắc phục
MẪU KẾ HOẠCH SẢN XUẤT NÔNG HỘ
(Dùng cho các hộ SX - Trồng trọt – Chăn nuôi)
I.
THÔNG TIN CHUNG
-

Họ tên:...........................................
Địa chỉ:..........................................
Mô hình sản xuất:.....................
Số lượng sản phẩm dự kiến:..................
(Trích tài liệu tập huấn Lập kế hoạch Dự án VM015)

Hoạt động này nhìn chung được triển khai khá thành công. Bằng những phương pháp kiểm tra,
đánh giá nhanh nông hộ (hỏi và lấy ví dụ về chi phí, tổng thu, lợi nhuận, thu nhập,...của một vài sản
phẩm cụ thể như lợn, lúa,...), kết quả thảo luận nhóm với hộ nông dân cho thấy nông dân đã hình
thành và biết vận dụng kỹ năng quản lý, lập kế hoạch và hạch toán kinh tế trong sản xuất nông hộ.
Điều này có tác dụng quan trọng trong việc giúp người dân chủ động tính toán, hạch toán kinh tế để
làm ăn có hiệu quả và vươn lên thoát nghèo.
Dự án cũng tổ chức lớp tập huấn cho các thành viên Ban quản lý vốn vay luân chuyển của xã, thôn
tại Văn phòng BQL huyện. Có 14 thành viên tham gia trong đó có 7 nữ và 7 nam tham gia. Tuy
nhiên hoạt động về vốn vay luân chuyển đã không triển khai do nhiều nguyên nhân khách quan so
với thời điểm thiết kế của dự án. Với thực tế hiện nay số dư nợ của người dân hưởng lợi dự án với
ngân hàng là còn rất cao, đồng thời hiện nay các chương trình dự án khác (như chương trình giảm
nghèo 30ª của Chính phủ, Chương trình giảm nghèo của IFAD sắp triển khai thực hiện) cũng đang
tiến hành triển khai cho vay vốn, do đó để đảm bảo không chồng chéo Ban chỉ đạo dự án VM015
huyện đã thống nhất với Trung tâm SRD không triển khai hoạt động này.


10


Hộp: Người dân nghèo An Thắng đã biết hạch toán kinh tế hộ gia đình
Dự án đã tổ chức lớp hạch toán kinh tế hộ gia đình. Cán bộ Ban quản lý dự án xã và Ban phát triển các
thôn được triệu tập về huyện tập huấn. Sau khóa tập huấn, cán bộ xã, thôn kết hợp tổ chức tập huấn lại
cho bà con thôn bản; đã tổ chức 3 buổi tập huấn cho người dân có cả lý thuyết, thực hành, bài tập làm
cả hồ sơ vay vốn luân chuyển, áp dụng vào thực tiễn luôn. Thiết kế dự án ban đầu có hoạt động cho
vay vốn luân chuyển. Trong đợt tập huấn, cán bộ đặt ra ví dụ nếu được vay vốn 5 triệu từ quỹ quay
vòng thì bà con làm gì? Hạch toán như thế nào? Chi phí bao nhiêu? Thu được bao nhiêu sau khi vay
vốn?...Mặc dù hoạt động vay vốn luân chuyển không được triển khai nhưng bà con đã hiểu được kiến
thức hạch toán sản xuất kinh doanh.
Ý kiến chị Ma Thị Lưu – xã An Thắng, huyện Pắc Nậm, tỉnh Bắc Kạn.
* Để thực hiện mục tiêu phổ biến các tiến bộ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi phù hợp cho người dân và
được họ áp dụng tạo thêm nguồn thu nhập cho các hộ nghèo, Dự án đã thực hiện hàng loạt các lớp
tập huấn về kỹ thuật trồng trọt chăn nuôi tại cơ sở. Đến nay, đã thực hiện được 28/30 lớp tập huấn về kỹ
thuật trồng trọt và chăn nuôi tại 4 thôn dự án, với đối tượng là tất cả người dân trong thôn hưởng lợi dự
án. Phương pháp tập huấn theo cách thức “cầm tay chỉ việc” sẽ giúp người dân nhận thức được vấn
đề và dễ dàng tiếp nhận hơn khi tham gia khóa tập huấn. Đồng thời cũng đã h oàn thành 2/2 khóa đào
tạo thú y viên thôn bản cho cán bộ thú y xã, các thành viên tham gia quản lý tủ thuốc thú y tại thôn và thiết
lập được 02/04 tủ thuốc thú y tại 02 xã, hiện nay các tủ thuốc vẫn duy trì hoạt động và đã tự chủ động trong
hoạt động cung cấp các dịch vụ thú y cho người dân trong thôn, xã. Phân tích Biên bản các khóa tập huấn
cũng như các tài liệu dành cho tập huấn cho thấy các lớp tập huấn sinh kế nông hộ đã được thiết kế khá bài
bản, có sự kết hợp chặt chẽ giữa SRD, Ban quản lý Dự án các cấp, Phòng Nông nghiệp và PTNT
huyện,...Các ảnh hiện trường cho thấy người học đã tham gia khá tích cực vào các hoạt động của các khóa
tập huấn, đặc biệt đối với các hoạt động thực hành. Sự bài bản trong khâu thiết kế, với nội dung phong phú,
cách thức truyền tải sinh động là nhân tố vô cùng quan trọng lôi cuốn người nghèo tham gia tích cực các
khóa tập huấn và áp dụng vào thực tiễn sản xuất của hộ.
Hộp: Các lớp tập huấn đã có những tác động tích cực nâng cao sinh kế

Dự án VM015 đã triển khai rất nhiều các lớp tập huấn về trồng trọt, chăn nuôi, kinh tế nông hộ cho bà
con nông dân trong thôn/bản. Bà con nông dân trong thôn bản tham gia rất nhiệt tình, đông đủ. Sau
khóa tập huấn, bà con nông dân đã tích cực áp dụng các kiến thức khoa học kỹ thuật được tập huấn
vào sản xuất nông nghiệp. Trước đây, bà con chủ yếu gieo trồng các giống ngô thuần, giờ đây, 100%
bà con nông dân trong thôn đã chuyển sang trồng các giống lai có năng suất cao hơn. Trước đây, bà
con nghĩ rằng gieo trồng nhiều hạt ngô/ khóm sẽ cho năng suất, sản lượng cao hơn (thường gieo ngô
vãi, đến 4-5 hạt/khóm, gieo vãi lung tung) nhưng giờ đây bà con đã hiểu không phải cứ gieo nhiều
hạt/khóm sẽ thu được nhiều sản lượng ngô hơn vì nếu gieo quá nhiều hạt trong khóm có nhiều cây lớn
lên nhưng không cho thu hoạch. Vậy nên giờ đây, bà con chỉ gieo 1-2 hạt ngô lai/khóm mà năng suất
vẫn cao. Ước tính năng suất ngô sau khi áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới tăng lên 20% so với trước đây.
Thảo luận nhóm ở Xã An Thắng và Cổ Linh huyện Pắc Nậm, tỉnh Bắc Kạn.
Trao đổi với cán bộ Ban quản lý Dự án các xã, thảo luận với cộng đồng người dân cho thấy đã có nhiều khóa
tập huấn, chuyển giao kỹ thuật tiến bộ nông nghiệp đã được thực hiện tại 2 xã vùng Dự án và đem lại hiệu
quả thiết thực. Tuy nhiên, cán bộ và người dân mong muốn nếu các khóa tập huấn này được triển khai kết
hợp với việc xây dựng mẫu một vài mô hình ở mỗi thôn sẽ làm tăng hiệu quả tập huấn cao hơn nữa – người

11


dân ngay sau khi được tập huấn có thể áp dụng triển khai thực hiện mô hình và mô hình triển khai sẽ là điểm
mẫu để người dân các thôn khác tham quan, học hỏi, vận dụng làm theo, tăng cường tác động lan tỏa của Dự
án.
Bên cạnh các hoạt động tập huấn, đã tổ chức các hoạt động thăm quan học tập kinh nghiệm (Thực hiện 02
cuộc thăm quan chéo giữa các Ban quản lý dự án 2 xã, các nhóm nông dân của các thôn; Tổ
chức cho các thành viên Ban quản lý dự án huyện xã, người dân 4 thôn thăm quan học tập các
mô hình tốt tại huyện Kỳ Sơn, Hòa Bình và Phối hợp tổ chức thành công thăm quan mô hình
sinh kế thành công tại Campuchia cho các thành viên Ban quản lý, đại diện hộ dân). Nghiên
cứu tư liệu cho thấy các hoạt động tham quan học tập kinh nghiệm trong và ngoài nước do Dự
án tổ chức đã tạo điều kiện tốt để cán bộ và nhân dân 2 xã, cán bộ Huyện trao đổi, học hỏi lẫn
nhau cách thức triển khai dự án, học hỏi các mô hình làm hay, làm tốt của nhau, rút kinh

nghiệm đối với những tồn tại…tăng cường tình đoàn kết, gắn bó giữa người dân và cán bộ cấp
cơ sở. Hoạt động tham quan tỉnh bạn (Hòa Bình) cũng như tham quan học hỏi ở Campuchia đã
giúp các cán bộ cấp cơ sở và người dân có cơ hội để lần đầu tiên tham quan học hỏi các mô
hình phát triển kinh tế, đời sống văn hóa ở nước ngoài, giúp họ có những cảm nhận và thay
đổi nhận thức lớn lao hơn đối với công tác phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, phát triển
cộng đồng,…
3. Hợp phần 3: Hạ tầng cơ sở, vệ sinh môi trường
Hợp phần này hướng đến các mục tiêu: (1) Đường liên thôn, nhà văn hóa được nâng cấp; (2) Hệ
thống dẫn nước sạch, nhà vệ sinh, chuồng trâu bò được xây dựng đảm bảo vệ sinh môi trường trong
thôn bản.
Kết quả đánh giá cho thấy:
Về khối lượng, kết quả: Đã cải tạo, nâng cấp 7.5 km/7.5km (đạt 100%), mặt đường rộng từ 1.0 m
lên 1.5 m tại 2 thôn Tiến Bộ và thôn Khuổi Làng thuộc xã An Thắng; xây mới 2 nhà văn hóa tại 2
thôn Khuổi Trà (xã Cổ Linh) và thôn Tiến Bộ (xã An Thắng). Cải tạo nâng cấp 2 nhà văn hóa tại 2
thôn Bản Sáng (xã Cổ Linh) và thôn Khuổi Làng (xã An Thắng); hỗ trợ bàn, ghế, loa đài, tủ sách,
sách cho các thôn. Ngoài ra dự án còn cấp thêm cho xã Cổ Linh mỗi thôn 2 loa cầm tay và ống dẫn
nước cho thôn Khuổi Trà.
Hệ thống dẫn nước sạch, nhà vệ sinh, chuồng trâu bò được xây dựng đảm bảo vệ sinh môi trường
trong thôn. Dự án đã xây dựng được 3/4 công trình nước sạch tại 3 thôn với 53 hộ dân và 3 điểm
trường học được sử dụng nước sạch (Thôn Tiến Bộ 10 hộ và 01 điểm trường; Thôn Khuổi Làng 16
hộ và 2 điểm trường; Thôn Khuổi Trà 27 hộ). Tại thôn Bản Sáng đã có công trình nước sạch nên
toàn bộ kinh phí xây dựng nước sạch tập trung cho thôn Khuổi Trà. Đối với các hộ không được
hưởng lợi trực tiếp từ công trình nước sạch dự án đã hỗ trợ cho 4 thôn mỗi thôn 25 thùng đựng nước
loại 180 lít.
Đối với nhà vệ sinh xây dựng được 87/100 nhà đạt 87% (trong đó Xã An Thắng đạt 46/50, Xã
Cổ Linh đạt 41/50). Do một số hộ thực hiện chưa đạt yêu cầu theo thiết kế của dự án nên đã không
được nghiệm thu. Phần kinh phí còn thừa chuyển sang làm chuồng trâu, bò.
Về chuồng trâu, bò xây dựng được 59/50 chuồng đạt 118% (Xã An Thắng đạt 35/25, xã Cổ Linh
đạt 24/25). Ngoài ra dự án cồn hỗ trợ cho mỗi hộ hưởng lợi 24 m 2 bạt xanh để che chắn gió cho
trâu, bò. Dự án còn hỗ trợ cho mỗi xã 01 tủ thuốc thú y đặt tại ủy ban nhân xã.


12


Đối với khâu thiết kế: Việc thiết kế các hạng mục là phù hợp với điều kiên địa hình, địa chất của
vùng núi và lượng kinh phí của dự án.
- Về đường liên thôn với B=1.5 m là phù hợp với hiện tại, song trong tương lai khi mà sản xuất
hàng hóa tăng yêu cầu về hiện đại hóa nông thôn thì nên mở rộng mặt đường để tiện cho việc vận
chuyển hàng hóa là nhu câu cần được quan tâm.
- Về công trình nước sạch: Vị trí các bể chứa nước và các đường ống dẫn nước là phù hợp tuy nhiên
nguồn nước ở thôn Tiến Bộ rất hạn chế do đó các hộ hưởng lợi vẫn thiếu nước dùng trong mùa khô.
- Về nhà vệ sinh, chuồng trâu, bò là phù hợp, song trong tương lai tiếp tục vận động các hộ khi mà
kinh tế phát triển thì nên xây dựng nhà vệ sinh hiện đại để đảm bảo vấn đề môi trường.
- Về nhà văn hóa: Tương đối phù hợp song các nhà văn hóa vẫn chưa có nhà vệ sinh nếu xây thêm
nhà vệ sinh tại nhà văn hóa thì sẽ thuận tiện và tốt hơn cho bà con khi đến sinh hoạt .
Về chất lượng công trình: Qua phỏng vấn các hộ hưởng lợi, Đoàn đánh giá nhận thấy người dân đã
được tham gia góp ý về hồ sơ thiết kế và tham gia giám sát cộng đồng nên chất lượng công trình
tương đối đảm bảo. Tuy nhiên đối với các hạng mục giao trực tiếp cho dân tự thi công thì cần rút
kinh nghiệm phải hướng dẫn cách làm rất cụ thể và chi tiết, tránh trường hợp dân làm không đúng
thiết kế hoặc chất lượng, không đảm bảo dẫn đến không nghiệm thu được. Đây là bài học rút ra cho
thực hiện các dự án khác.
Đánh giá và nhận định về kết quả đầu ra đạt được: Tất cả các hộ hưởng lợi đều phát biểu rằng các
hạng mục được đầu tư đều rất thiết thực đối với họ và họ mong muốn dự án sẽ kéo dài thêm hoặc có
một dự án khác tương tự để tất cả các hộ dân của 2 xã đều được đầu tư đầy đủ các hạng mục trên.
Điều đó chứng tỏ các hạng mục đã đầu tư là đúng và vừa phải với khuôn khổ của dự án.
Tính hiệu quả của các hoạt động dự án liên quan đến nước sạch và vệ sinh môi trường.
+ Các kết quả dự án liên quan đến hợp phần nước sạch và vệ sinh môi trường đã được thiết kế và thi
công đúng tiến độ mà dự án đã đề ra.
+ Chất lượng các kết quả dự án đã được người dân chấp nhận và tham gia hưởng ứng rất nhịệt tình,
bằng chứng là họ rất nhiệt tình tham gia góp ý, cùng nhau giám sát trong quá trình thực hiện dự án.

Riêng hạng mục nhà vệ sinh và chuồng trâu, bò dự án hỗ trợ một phần kinh phí còn việc thi công
dân tự lo, song có một số nhà vệ sinh không đạt chất lượng đã không được nghiệm thu dân cũng vui
vẻ chấp nhận vì bản thân họ đã biết tôn trọng chất lượng của công trình sau khi cán bộ dự án tiến
hành công tác tập huấn và giải thích cho họ.
+ Phương pháp thực hiện để đạt được kết quả của dự án nói chung là phù hợp với hoàn cảnh của địa
phương đây là dự án ở vùng sâu vùng xa đặc biệt đa số dân hưởng lợi là đồng bào các dân tộc ít
người xã Cổ Linh có 4 dân tộc ( H Mông, Tày, Nùng, Dao), xã An Thắng có 5 dân tộc (H Mông,
Dao, Nùng, Mường và Tày). Tỷ lệ hộ nghèo cao như xã Cổ Linh 53.043%, xã An Thắng 70.04%.
Do đó, SRD đã kết hợp chặt chẽ với Ban quản lý dự án huyện và xã thực hiện lồng ghép và tiến
hành đồng thời các hợp phần với nhau nên người dân tiếp thu và nắm bắt các vấn đề liên quan đến
dự án nhanh đem lại hiệu quả cao. Tuy nhiên ý kiến của ông Thành (Chủ tịch xã Cổ Linh) cho rằng
cần rút kinh nghiệm là do kế hoạch thực hiện chủ yếu là đưa từ trên xuống nên tính phù hợp chưa
cao, nhiều lúc chậm tiến độ do đó cần tăng cường hơn nữa trong việc phối kết hợp để xây dựng kế
hoặch từ trên xuống và từ dưới lên.
+ Đánh giá của chính quyền địa phương liên quan đến sự can thiệp của dự án: Chính quyền huyện
Pác Nặm và 2 xã An Thắng và Cổ Linh đều đánh giá cao hiệu ích thiết thực của các hạng mục mà
dự án đã mang đến cho người dân, chímh quyền và người dân đều nhiệt tình hưởng ứng tham gia dự
án và họ mong muốn dự án được kéo dài thêm hoặc có dự án khác tương tự vì sau khi dự án hoàn

13


thành nhận thức của người dân về mọi mặt được tăng cao, an sinh xã hội được đảm bảo, kinh tế
được phát triển, môi trường cuộc sống bước đầu được cải thiện.
4. Hợp phần 4: Bình đẳng giới
Hợp phần này hướng đến các mục tiêu: (1) Các thúc đẩy viên về giới có đủ trình độ và kỹ năng áp
dụng các công cụ giới ở cấp cộng đồng; (2) Nhận thức về bình đẳng giới của cán bộ địa phương và
người dân được cải thiện thông qua các cuộc tập huấn, nói chuyện, hội thảo và (3) Kế hoạch giám
sát và đánh giá giới được xây dựng kèm theo các chỉ số giới.
Kết quả đánh giá cuối kỳ cho thấy:

* Dự án đã tổ chức lớp tập huấn đào tạo các tập huấn viên tại huyện cho 25 cán bộ địa phương và
nông dân chủ chốt, có 10/25 (40%) là cán bộ phụ nữ. Tiếp đó, tổ chức 19 buổi nói chuyện về giới
cho người dân được hưởng lợi từ dự án với 672 người tham gia trong đó có 376 nam (55,95%) và
296 nữ (44,05%). Tháng 1/2011, tổ chức hội thảo chia sẻ kinh nghiệm về bình đẳng giới. Tại đây
các đại biểu đã tổng kết những hoạt động đã triển khai, đánh giá các kết quả đã đạt được và những
hạn chế cần khắc phục nhằm tăng cường hơn nữa vị thế của người phụ nữ trong cộng đồng xã hội
và gia đình. Biên soạn tài liệu về bình đẳng giới, in 350 tờ rơi minh họa bằng các hình vẽ về bình
đẳng giới phát cho các hộ gia đình ở thôn bản thuộc phạm vi tác động của dự án. Các nội dung về
giới được lồng ghép trong tất cả các hoạt động, tạo nên sự tác động dây chuyền tăng cường hiệu quả
và đảm bảo tính bền vững của các kết quả đạt được về bình đẳng giới.
Để xây dựng năng lực cho các thúc đẩy viên có đủ trình độ và kĩ năng áp dụng công cụ giới ở cộng
đồng, Dự án đã triển khai các hoạt động bài bản và khá công phu, theo quy trình logic như chuẩn bị
nguồn nhân lực đó là cán bộ nòng cốt của xã và nông dân cốt cán của các thôn bản; xây dựng “Tài
liệu hướng dẫn nói chuyện – trao đổi về giới”, triển khai các cuộc nói chuyện – trao đổi tại các thôn
bản và tổ chức Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm, đưa ra các kết luận và khuyến nghị hỗ trợ cho việc
tiếp tục phát triển bền vững các kết quả đã có.
Tiếp cận với đội ngũ cán bộ cốt cán giới ở xã, chúng tôi nhận thấy ở họ lòng nhiệt tình, sự tự tin. Họ
nắm vững các nội dung, phân tích được hiện trạng về bình đẳng giới ở địa phương và sự cần thiết
phải thay đổi, biết cách tuyên truyền vận động giới cho bà con thôn bản và lồng ghép nội dung giới
trong các hoạt động.
** Để nâng cao nhận thức và cải thiện tình hình thực hiện bình đẳng giới cho cán bộ và người dân
tại các thôn bản, dự án đã triển khai các hoạt động với 2 hình thức chủ yếu là tổ chức lớp tập huấn
tại xã, tổ chức các cuộc nói chuyện - trao đổi về giới với bà con và biên soạn, in ấn, cấp phát tài liệu
về giới tới các hộ gia đình. 100% số người tham gia tọa đàm cho biết họ đều đã được phát tài liệu
bình đẳng giới. Tài liệu được viết ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, được minh họa bằng các hình ảnh khá
đẹp. Bà con tiếp cận tài liệu bằng cách chuyền tay nhau để xem, để đọc, ai không đọc được thì có
chồng/vợ hoặc con cái đọc cho nghe, giải thích nội dung các bức tranh cho nhau hiểu...
Điều quan trọng là họ nhận thức được tác động về giới không thể chỉ ở hoạt động độc lập mà phải
được lồng ghép trong hệ thống các hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi. Các hoạt động phát triển thôn bản,
dân chủ cơ sở, vệ sinh môi trường, tạo điều kiện để con em được đến trường… đều được gắn kết

yếu tố giới.

14


Nhận thức của đội ngũ cốt cán cũng được nâng cao dần thể hiện ở quan niệm đối tượng tác động
trong việc thực hiện bình đẳng giới. Trao đổi với cán bộ xã An Thắng, các chị tâm sự: Trước khi có
dự án VM015, Hội phụ nữ huyện cũng đã tổ chức một vài cuộc nói chuyện về bình đăng giới ở xã
nhưng chưa lần nào nói chuyện với bà con thôn bản, và lúc đó chúng tôi có quan niệm chỉ nói
chuyện về giới trong chị em phụ nữ mà không tổ chức trao đổi trong nam giới. Dự án VM015 đã
đưa nội dung tuyên truyền giáo dục giới tới tận thôn bản và đối tượng trao đổi là cả nam và nữ (số
liệu trên cho thấy có tới 55,95% là nam tham gia các cuộc nói chuyện về giới). Các hoạt động đã
đem lại kết quả tốt, nhận thức về BĐG trong cả nam và nữ được nâng cao. Vị thế của phụ nữ trong
gia đình và xã hội đã có nhiều thay đổi. Phụ nữ tham gia hội họp nhiều hơn, hay phát biểu hơn.
Chồng tham gia công việc gia đình nhiều hơn, tôn trọng vợ hơn, bạo lực gia đình giảm.
Cán bộ huyện và xã đều đánh giá cao sự thay đổi trong nhận thức và hành động về bình đẳng giới:
• Ông Chu Văn Trương, cán bộ huyện Pắc Nặm nói: “Sự thay đổi khá rõ nét, không chỉ trong
nhận thức mà đã thể hiện ở hành động cụ thể. Tôi xin đơn cử một ví: Ông Lường Văn Chấn
ở thôn Bản Sáng, xã Cổ Linh nói với tôi rằng: trước đây mình có khi nào tham gia công
việc chăn nuôi lợn đâu, tòan vợ mình làm. Nay mình cũng cho lợn ăn, chăm sóc sức khỏe
cho nó. Mình thấy chăn nuôi lợn cũng vất vả lắm”.
• Ông Nguyễn Văn Thành, chủ tịch UBND xã Cổ Linh cho biết: nhận thức về bình đẳng giới
của bà con trong xã đã được cải thiện, điều này được thể hiện trong việc phụ nữ đã tự ý thức
được vai trò của mình trong gia đình và cộng đồng. Trước đây, chúng tôi tổ chức họp thôn
để thì đa phần là nam giới đi, nay phụ nữ đi rất nhiều, có nhiều cuộc họp phụ nữ chiếm
50%. Chị em mạnh dạn hỏi khi chưa hiểu hoặc phát biểu ý kiến của mình. Trong cơ cấu cán
bộ thì xã cũng đã có 01 trưởng thôn là phụ nữ. Trưởng thôn do bà con bầu ra, điều đó chứng
tỏ bà con tin ở sự lãnh đạo của phụ nữ. Thành phần trong ban phát triển thôn có 2/5 người
(chiếm 40%) là phụ nữ tham gia.
Hộp: Ý kiến của bà con thôn bản về sự thay đổi trong nhận thức và hành động về bình đẳng giới

Ông Lường Văn Xuyến, sinh năm 1972, ở thôn Bản
Sáng, xã Cổ Linh cho biết:

Ảnh 2. Ông Lường văn Xuyến (người
đứng) và bà con thảo luận
về bình đẳng giới

Được nghe nói chuyện về bình đẳng giới, lại được đọc
tài liệu nữa, mình hiểu nam nữ đều có quyền bình đẳng
như nhau. Vợ chồng phải tôn trọng nhau, cùng nhau
nuôi con, cùng nhau làm việc, gia đình mới tốt được.
Con trai cũng quý mà con gái cũng quý. Mình có 3 đứa
con gái, mình quý chúng nó lắm. Con gái đầu của mình
đang học lớp 12. Nghe nói chuyện về bình đẳng giới, vợ
chồng mình yêu nhau hơn. Mình giúp đỡ vợ mình nhiều
hơn.
Mình cảm ơn Dự án lắm.

Trong các cuộc trao đổi với chúng tôi, bà con cho biết: bây giờ mình hiểu nhiều rồi. Mình biết vợ
chồng phải tôn trọng nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ. Vợ chồng phải cùng nhau làm việc, nuôi dạy con

15


cái. Chồng phải giúp đỡ vợ làm các công việc sản xuất và chăn nuôi, lấy củi, lấy nước… Bây giờ
mình cũng hiểu phụ nữ và đàn ông đều có quyền như nhau, phụ nữ cùng có quyền tham gia các
công việc của thôn bản và mình tin là mình làm được. Mình cũng hiểu là con trai hay con gái ta
cũng quý như nhau, chúng nó mà học được thì ta cũng cho chúng đi học.
Khi được hỏi về những thay đổi trong hành động về bình đẳng giới, bà con cho biết: Trước đây
mình nghĩ mình là phụ nữ đi lấy chồng thì phải làm theo ý của chồng, phải làm nhiều công việc của

gia đình, mà đàn ông hắn cũng nghĩ như vậy. Bây giờ thì nhiều cái khác rồi, đàn ông họ cũng đi lấy
nước, lấy củi, nuôi lợn, gà, chăm sóc con cái. Có khoảng 60% các chị cho biết họ được nghỉ ngơi
nhiều hơn (giờ nghỉ ngơi tăng lên khoảng 1-2h/ngày). Mình được đi họp bàn về xây dựng nhà vệ
sinh, sửa đường, làm đường ống để lấy nước... Trong cuộc họp, mình cũng phát biểu nhiều mà họ
cũng nghe mình. Mình được tôn trọng hơn.
Tình trạng bạo hành giới giảm. Ông Triệu Sỹ Hàm, trưởng thôn Bản Sáng cho biết ông đã làm
trưởng thôn hơn 20 năm, năm nào cũng phải hòa giải việc chồng đánh, chửi mắng vợ. Song năm
vừa qua không có vụ nào. Ví dụ: trong bản, có gia đình ông Lường Văn Lợi, hay say rượu rồi chửi
mắng vợ. Mọi năm mỗi năm ông phải hòa giải ít nhất là 2 lần, nhưng năm 2010 và mấy tháng nay
không thấy ông Lợi chửi mắng vợ lần nào, ông mừng lắm.
Trong gia đình, phụ nữ đã được bình đẳng trong quá trình tiếp cận, kiểm soát và ra quyết định các
công việc của gia đình và trong các cuộc họp ở cộng đồng, những ý kiến phát biểu của chị em được
tôn trọng và đưa vào nghị quyết của cuộc họp lấy biểu quyết như: Làm đường, làm chuồng trại, làm
nhà vệ sinh, làm nước sạch vv…
*** Kế hoạch giám sát và đánh giá giới được xây dựng kèm theo các chỉ số giới. Ban quản lý dự án
các cấp đã bám sát văn kiện dự án để thực hiện các mục tiêu nói chung và mục tiêu về giới nói
riêng; quan tâm đến việc lồng ghép vấn đề giới trong mọi hoạt động, xem đó là một trong các chỉ
tiêu đo mức độ thành công của các hoạt động được dự án triển khai. Các chỉ số đánh giá giới đã
được thể hiện trong kế hoạch giám sát, đánh giá. Trong quá trình thực hiện kế hoạch, các chỉ số này
đã được quan tâm khi tổ chức các lớp tập huấn và các buổi nói chuyện ở cộng đồng và đã được thể
hiện trong các báo cáo các họat động của dự án.
Hộp: Nội dung về bình đẳng giới được lồng ghép trong các hoạt động
Chúng tôi lồng ghép nội dung về bình đẳng giới trong mọi hoạt động, từ việc huy động bà con tham
gia hội họp, trao đổi về kế hoạch phát triển thôn bản, đến việc huy động nguồn nhân lực xây dựng
công trình vệ sinh, nước sạch, cải tạo đường sá, nhà văn hóa... Khi đi triển khai công việc của
Đảng ủy bao giờ tôi cũng rất lưu ý đến vấn đề bình đẳng giới. Thông qua các hoạt động của dự án,
nhận thức và hành động của bà con thay đổi nhiều. Xã An Thắng trước đây có xẩy ra một số vụ
chồng đánh vợ nhưng trong năm qua không có vụ nào. Trước đây, các cuộc họp bàn về các vấn đề
phát triển thôn bản thường chỉ có nam giới, thỉnh thoảng mới có phụ nữ đi. Nay đã thay đổi, các
lớp tập huấn mà dự án tổ chức về dân chủ cơ sở, về lập kế hoạch sản xuất, kĩ thuật trồng trọt, chăn

nuôi nhằm nâng cao năng lực cho người dân trong cộng đồng đều có tỉ lệ nữ tham gia trên 50 –
60%.
Bà Đặng Thị Sai, Bí thư Đảng ủy xã An Thắng

16


Tuy vậy, việc xây dựng kế hoạch giám sát và đánh giá giới kèm theo các chỉ số giới còn bộc lộ
những hạn chế. Trong báo cáo các hoạt động, yếu tố giới chỉ mới dừng ở việc thông báo các con số
tham gia hoặc hưởng lợi (nam/nữ) mà chưa phân tích được chất lượng của các tác động đến đời
sống của giới nữ cũng như vị thế của các giới trong gia đình, cộng đồng.
**** Nghiên cứu thực địa cho thấy ở địa phương đội ngũ cán bộ cốt cán về giới đã hình thành, đã
có tác dụng thúc đẩy các hoạt động về giới tại địa phương. Tuy vậy còn hạn chế về năng lực tuyên
truyền, giáo dục và sử dụng các công cụ giới trong quá trình giám sát đánh giá và chỉ đạo quản lí
các hoạt động phát triển cộng đồng. Bên cạnh đó, tâm lí trọng nam, khinh nữ vẫn còn rất nặng nề,
đặc biệt là ở các thôn bản chị em có học vấn thấp, điều kiện giao lưu, tiếp xúc với bên ngoài khó
khăn (ví dụ ở thôn Khuổi Trà vẫn còn tình trạng ưu tiên cho con trai đi học nhiều hơn con gái). Một
bộ phận chị em, vẫn có tâm lí thu mình, e dè, ngại tiếp xúc.
Đoàn tư vấn cho rằng để làm tốt nhiệm vụ thúc đẩy viên về giới của xã, đòi hỏi phải có tri thức về
giới, am hiểu luật pháp liên quan đến giới, kĩ năng tuyên truyền giáo dục và kĩ năng áp dụng công
cụ giới, phân tích giới trong quá trình quản lí, chỉ đạo, giám sát, đánh giá, tổ chức triển khai phù
hợp với đối tượng, điều kiện cụ thể tại địa phương. Để đào tạo đội ngũ như vậy với thời gian 2 ngày
là quá ngắn, chưa đủ thời gian vật chất cần thiết và cũng như chưa chuyển tải đủ nội dung cần có.
Hơn thế, bất bình đẳng giới đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi người, với thời gian hoạt động còn
ngắn, phạm vi tác động còn hẹp của dự án, những thay đổi về nhận thức cũng như hành động mặc
dù rất cơ bản nhưng chỉ mới là bước đầu. Trình độ học vấn thấp, công cụ để tuyên truyền giáo dục
còn thiếu thốn, quá thô sơ, xơ cứng, thiếu sinh động cũng là những nguyên nhân hạn chế tác động.
Trong nội dung tuyên truyền cũng chưa đề cập đến việc đối xử bình đẳng với trẻ em trai và trẻ em
gái.
5. Hợp phần 5: Tăng cường năng lực quản trị địa phương thông qua các tổ chức cộng đồng

(CBO).
Hợp phần này hướng đến các mục tiêu: (1) Các Trưởng nhóm, thành viên Ban quan quản lý
có đủ năng lực thúc đẩy và quản lý nhóm; (2) Vị thế và tiếng nói của người dân được cải thiện và
tôn trọng và (3) Tinh thần tương trợ, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và cải thiện cuộc
sống của người dân được củng cố và tăng cường
Kết quả đánh giá cuối kỳ cho thấy :
* Tại các thôn bản, Ban phát triển thôn được thành lập, thành viên của Ban do bà con trong thôn bầu
ra trên cơ sở tự nguyện và dân chủ công khai, chọn người có văn hóa, có năng lực tổ chức, quản lý
dự án đại diện cho cộng đồng. Ban này có nhiệm vụ tổ chức bà con triển khai các hoạt động phát
triển thôn bản, trong đó có các hạt động của dự án.
Để trang bị kỹ năng cho các cán bộ cơ sở, các thành viên Ban phát triển ở cơ sở, khóa tập huấn về
kỹ năng quản lý và điều hành nhóm được thực hiện vào ngày 15/05/2009 tại Văn phòng dự án VM015
huyện Pác Nặm. Có 16 học viên tham gia là các cán bộ ban quản lý dự án tại xã, thôn và người dân
nòng cốt (trong đó có 5 nữ, 12 nam). Các học viên đã được học khái niệm về nhóm, biết làm thế nào

17


để xây dựng một nhóm tốt, cách quản lý nhóm, cách trình bày trong cuộc họp nhóm và thôn, đồng
thời được tập huấn thêm về các kỹ năng huy động nguồn lực, thúc đẩy, … Theo báo cáo, Khóa tập
huấn được các học viên tham gia nhiệt tình, vì thấy được sự quan trọng trong việc hoạt động theo
nhóm, từ đó các học viên biết cách làm thế nào để xây dựng một nhóm tốt. Khóa tập huấn về kĩ năng
quản lí và điều hành nhóm cùng với các lớp tập huấn/các cuộc nói chuyện về dân chủ cơ sở, các lớp
tập huấn về kĩ thuật trồng ngô, lúa, chăn nuôi gia súc… đã trang bị cho các thành viên Ban phát
triển thôn và các trưởng nhóm năng lực thúc đẩy và quản lí nhóm.
BQL huyện, xã đã cùng họp với người dân để trao đổi về những sở thích của người dân. Trên cơ sở
nhu cầu và sở thích của từng cá nhân, người dân đã thảo luận và đi đến thiết lập các nhóm cùng sở
thích tại các thôn/ bản. Tại xã An Thắng, mỗi thôn thành lập 4 nhóm sở thích, gồm: Nhóm ngô,
nhóm lúa, nhóm chăn nuôi lợn, nhóm chăn nuôi gà. Mỗi nhóm bầu nhóm trưởng, nhóm phó. Các
nhóm đã bước đầu đi vào hoạt động, hỗ trợ tốt cho bà con trong phát triển kinh tế. Ví dụ nhóm Lúa

ở thôn Tiến Bộ họp bàn nhau lựa chọn ngày cày ải cho phù hợp thời vụ. Nhóm cử người thường
xuyên thăm ruộng để kịp thời phát hiện sâu bệnh. Nhóm Ngô thì tổ chức thảo luận so sánh năng
suất và cách trồng ngô lai/ ngô thuần chủng…Ở xã Cổ Linh, các thôn cũng đã hình thành các nhóm
sở thích nhưng các nhóm chưa đi vào hoạt động.
** Vị thế và tiếng nói của người dân được cải thiện và tôn trọng.
Vị thế và tiếng nói của người dân được tôn trọng hay không phải xuất phát từ hai phía. Một là bản
thân đội ngũ cán bộ xã, thôn giác ngộ, chủ động thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tôn trọng các ý
kiến của dân. Ngược lại, người dân hiểu vị thế của mình và sử dụng nó như một công cụ đảm bảo
quyền dân chủ, đóng góp tích cực cho sự phát triển của cộng đồng. Tuy nhiên, để hiểu được vị thế
của mình, hiểu được giá trị của tiếng nói của nhân dân, cả cán bộ và người dân cần phải có những
hiểu biết cần thiết qua các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là qua các khóa tập huấn/nói
chuyên, trao đổi. Thông qua các lớp tập huấn/nói chuyện về dân chủ cơ sở tại huyện, xã và thôn
bản, nhận thức của cán bộ và người dân được nâng cao. Do vậy, cán bộ tôn trọng vị thế của người
dân, biết lắng nghe những ý kiến đóng góp của bà con ; người dân cũng cởi mở, tự tin, mạnh dạn
nêu các ý kiến của mình với Ban phát triển thôn, với cán bộ xã, huyện.
Việc bà con được tự bầu ra Ban phát triển thôn, tự do lựa chọn lập nhóm sở thích và vận hành hoạt
động các nhóm theo lịch riêng của từng nhóm nhằm giải quyết các vấn đề nẩy sinh, đáp ứng các yêu
cầu sản xuất, là một minh chứng về sự cải thiện vị thế của người dân trong cộng đồng.
*** Tinh thần tương trợ, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và cải thiện cuộc sống của người
dân được củng cố và tăng cường.
- Đoàn kết, bình đẳng, tương thân, tương ái vốn là truyền thống tốt đẹp trong thôn bản các dân tộc
thiểu số trên đất nước Việt Nam nói chung và ở các xã thuộc huyện Pác Nặm nói riêng. Mổ con lợn
con cũng chia đều cho cả làng, có cơm gạo mới thì cả làng cùng ăn. Song dự án đã góp phần quan
trọng trong việc củng cố và tăng cường tinh thần đòan kết giúp đỡ nhau.
- Dự án đã thiết lập các yếu tố góp phần tăng cường giao lưu, tạo nên những chất xúc tác, cầu nối
cho sự đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống: nhà văn hóa thôn bản được sửa sang sạch

18



đẹp, có các thiết bị loa đài, quạt, bàn ghế… ; đường đi lại trong thôn bản được mở rộng ; các cuộc
tập huấn /nói chuyện – trao đổi về cách thức sản xuất, về đoàn kết làm ăn, về bình đẳng giới; các
nhóm cùng sở thích được thành lập…,
Hộp: Dự án đã góp phần tăng cường tình đoàn kết, tương trợ nhau trong thôn bản
Trước đây ta cũng đã giúp nhau, thương nhau rồi, nhưng nay họp với dự án, ta biết rõ hơn là
phải giúp đỡ nhau nhiều hơn thì mới có cuộc sống tốt hơn, làm một mình thì thu hoạch được ít
hơn. Do đó, bây giờ ta giúp đỡ nhau nhiều hơn trong sản xuất và trong sinh hoạt. Ví dụ: bày cho
nhau cách sản xuất, khi có ai ốm đau thì đi thăm hỏi, giúp đỡ cả tiên, gạo. khi nhà nào có việc
mà thiếu thì cho nhau vay. Khi có người trong thôn bị sai về pháp luật thì bà con chỉ bảo cho cái
sai, nhắc nhở để tiến bộ. Không có sự tranh chấp mất đòan kết trong thôn bản.
Thảo luận nhóm ở thôn Bản Sáng , xã Cổ Linh, huyện Pắc Nậm, tỉnh Bắc Kạn.
*** Thành lập các nhóm sở thích để hỗ trợ nhau sản xuất, hỗ trợ nhau trong cuộc sống là một ý
tưởng sáng tạo được áp dụng phù hợp với điều kiện nông thôn Việt Nam. Dự án đã thực hiện được
về cơ bản những mục tiêu đề ra: thành lập Ban phát triển thôn, thiết lập được một số nhóm sở thích
tại thôn và bước đầu đi vào vận hành; vị thế và tiếng nói của người dân được cải thiện và tôn trọng;
Tinh thần tương trợ, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và cải thiện cuộc sống của người dân
được củng cố và tăng cường.
Mỗi hợp phần trong dự án là một mắt xích trong hệ thống guồng quay của các hợp phần. Kết quả
của hợp phần này vừa là hệ quả hoạt động của các hợp phần khác, đồng thời cũng là tiền đề cho sự
thành công của các hợp phần khác. Kết quả của các hoạt động: xây dựng cơ chế dân chủ trong cộng
đồng, cải thiện môi sinh, nâng cấp nhà văn hóa thôn, nâng cao nhận thức và thay đổi hành động về
bình đẳng giới, nâng cao nhận thức và kĩ năng áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất… đã tạo
những điều kiện rất tốt, tạo nên những chất xúc tác cho việc thực hiện mục tiêu của hợp phần 5. Bên
cạnh đó, cũng có thể thấy truyền thống tương thân, tương ái vốn hình thành từ lâu đời trong các dân
tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung, Pác Nặm nói riêng.
Mặc dù vậy, còn một vài tồn tại đáng lưu ý trong triển khai hợp phần này. Đó là:


Ở xã An Thắng, các nhóm sở thích đã đi vào hoạt động và bước đầu cho thấy hiệu quả, song
ở xã Cổ Linh các nhóm mới được thành lập và chưa hoạt động.




Các nhóm đã đi vào vận hành thì các hoạt động cũng mang tính chất tự phát nhiều hơn,
nhằm giải quyết những vấn đề nẩy sinh nhất thời mà chưa có kế hoạch hoạt động theo thời
gian, chưa có kiểm tra giám sát, đánh giá tiến độ…



Các tồn tại này xuất phát từ 2 nguyên nhân chủ yếu. Đó là (1) Việc xây dựng nhóm sở thích
trong thôn bản là một mô hình mới, bà con thôn bản chưa có kinh nghiệm. Ngay Ban quản lí
dự án xã cũng chưa có kinh nghiệm tổ chức, điều hành, hỗ trợ. Bên cạnh đó (2) Các cán bộ
huyện/ xã còn kiêm nhiệm nhiều công việc nên chưa kiểm tra, đôn đốc, giám sát thường
xuyên.

19


II. MỘT SỐ TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA DỰ ÁN
1. Về Kinh tế
Thứ nhất: Thay đổi tư duy kinh tế sinh kế bền vững cho cả lãnh đạo và cộng đồng nghèo địa
phương. Nếu như trước đây tư duy kinh tế tự cấp, tự túc, sản xuất nông nghiệp quảng canh là
nguyên nhân căn bản để phần lớn hộ dân ở đây còn nghèo đói thì giờ đây tư duy, nếp nghĩ của bà
con đã được đổi mới căn bản. Việc xây mới và cải tạo nhà văn hóa, trang bị loa đài, tủ sách là cơ sở
để nâng cao nhận thức cho cán bộ xã, thôn và người hưởng lợi về mọi mặt như nhận thức về việc áp
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, về bình đẳng giới, tính đoàn kết tương thân tương
ái trong cộng đồng. Kết quả nghiên cứu thực địa cho thấy người dân nghèo đã nhận thức sâu sắc về
hiệu quả của việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong sản xuất nhằm nâng cao đời sống
của các hộ dân. Bên cạnh đó với các kiến thức về quản lý dự án của cả cán bộ xã-thôn và người dân
được tăng cường là bài học rất có giá trị trong việc tham gia quản lý các dự án khác trong tương lai.

Bên cạnh đó, người dân đã bước đầu làm quen với phương thức sản xuất, canh tác và phát triển bền
vững, không chỉ quan tâm phát triển kinh tế mà còn chú trọng đối với các vấn đề xã hội, môi trường
trong sản xuất và đời sống.
Thứ hai: Giao lưu thông thương hàng hóa được thuận lợi: Việc nâng cấp, cải tạo tuyến đường tại 2
thôn Khuổi Làng và Tiến bộ của xã An Thắng đã mang lại hiệu ích rất thiết thực cho các hộ hưởng
lợi ở đây: người dân đi lại dễ dàng hơn, bây giờ có thể đi lại và vận chuyên hàng hóa ra vào thôn
bằng xe máy còn trước dự án chỉ có thể đi bộ.
Chi phí vận chuyển hàng hóa giảm từ 40%- 50% vì trước đây vận chuyển hàng hóa rất khó khăn
chủ yếu là khênh, gùi hoặc gánh. Chi phí đầu vào cho sản xuất giảm khoảng 20%, lợi nhuận thu
được từ đầu ra tăng cao khoảng 30-50% vì trước dự án chủ yếu là trồng lúa và ngô thuần sau dự án
trồng lúa và ngô lai.
Thứ ba: Góp phần cải thiện thu nhập của nông hộ và phát triển kinh tế trong vùng: Với các kiến
thức đã được tập huấn liên quan đến trồng trọt, chăn nuôi, phát triển sinh kế nông hộ đã góp phần
tăng năng suất, sản lượng. Kết quả thảo luận nhóm cho thấy với việc áp dụng các giống mới, đặc
biệt là giống lai cộng với kỹ thuật canh tác tiến bộ được áp dụng sau tập huấn, năng suất ngô tăng
bình quân trên 20% so với trước khi thực hiện dự án. Các hỗ trợ của dự án cho chuồng trại, tủ
thuốc thú y,…đã góp phần ổn định và phát triển đàn trâu, bò ở địa phương tăng cường sức kéo cho
sản xuất nông nghiệp. Mặc dù dự án hỗ trợ xây dựng chuồng trâu, bò cho khoảng 24% các hộ trong
4 thôn của 2 xã An Thắng và Cổ Linh, song hiện tại đa số các hộ trong xã đã có chuồng trâu, bò và
được bảo vệ chống rét tốt. Thực tế trong năm qua, không có trâu bò chết trong mùa đông giá rét là
minh chứng rõ nét nhất cho những tác động kinh tế của Dự án mang lại.
Bên cạnh đó, cũng còn có những tác động kinh tế khác như các công trình nước sạch của Dự án đã
giúp ngưới dân giảm thời gian đi lấy nước giành thời gian này cho việc chăm sóc con cái và làm
thêm việc khác tăng thu nhập cho kinh tế của gia đình. Đồng thời môi trường sống tốt hơn gỉảm
bệnh tật như: bệnh sốt xuất huyết, bệnh phụ khoa, bệnh đau mắt, đặc biệt là bệnh tiêu chảy (giảm
20%), do đó nâng cao sức sản xuất và tiết kiệm chi phí thuốc chữa bệnh.

20



2. Về Xã hội
Tác động xã hội quan trọng nhất mà dự án mang lại là đã giúp cộng đồng người nghèo địa phương
biết, hiểu và vận dụng các quy định về dân chủ cơ sở vào trong cuộc sống, nâng cao vị thế của
người dân được tham gia các hoạt động của Dự án, và chính quyền địa pguwowngđịa phương,
tiếng nói của họ được tôn trọng. Nhận thức của người hưởng lợi về thể chế chính sách của Đảng và
nhà nước đối với người nghèo và dân tộc thiểu số được nâng lên. Người dân được tham gia vào việc
xây dựng kế hoạch thôn bản, kiểm tra, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện.
Các hoạt động của dự án góp phần cải thiện tình hình thực hiện bình đẳng giới trong xã hội. Tăng
cường tính tự tin, niềm vui, tinh thần tham gia, thể hiện mình của chị em trong các hoạt động xã hội.
Các hoạt động chung của thôn bản đã thu hút được sự tham gia của chị em, động viên khích lệ và
đánh giá đúng những đóng góp ý kiến của chị em.
Các hoạt động trong hợp phần nước sạch và vệ sinh môi trường đã có những tác động hết sức mạnh
mẽ đến đời sống tinh thần và vật chất đối với người hưởng lợi đặc biệt là người nghèo và dân tộc
thiểu số và có sức lan tỏa rõ rệt. Do khuôn khổ của dự án số hộ hưởng lợi chỉ chiệm khoảng 30%,
song người dân nhận thấy công trình góp phần đảm bảo vệ sinh môi trường rất tồt nên các hộ chưa
được hưởng lợi từ dự án đã tự bỏ tiền để tự xây dựng nhà vệ sinh cho riêng mình đặc biệt một số hộ
kinh tế khá đã tự xây nhà vệ sinh hiện đại, tính đến thời điểm đoàn kiểm tra đến làm việc số hộ
trong thôn có nhà vệ sinh đã tăng lên đến 60%- 70%. Người dân đã nhận thấy vai trò của nước sạch
đối với cuộc sống nên nhiều hộ dân chưa được hưởng lợi đều mong muốn sẽ được sử dụng nước
sạch trong tương lai. Khi có người bệnh đã kịp thời vận chuyển đến trạm xá nhanh hơn đảm bảo
tính mạng cho người dân.
Tác động xã hội quan trọng khác của Dự án là đã tăng cường hợp tác, phát triển cộng đồng. Tinh
thần đoàn kết, chia sẻ, tương trợ lẫn nhau trong thôn bản được nâng cao. Các hộ đã giúp nhau trong
sản xuất, khi có người ốm đau người dân đã biết thăm hỏi và chia sẻ khó khăn với nhau, góp phần
đảm bảo an sinh xã hội nông thôn.
3. Về Môi trường
Vấn đề môi trường đã được lồng ghép, quan tâm trong quá trình thiết kế cũng như thi công dự
án. Các hạng mục đề ra trong dự án chủ yếu liên quan đến cải thiện môi trường, làm cho môi
trường trong thôn, bản ngày càng được cải thiện. Các quan sát trực quan cho thấy môi trường nông
thôn bước đầu được cải thiện. Cán bộ xã, thôn cần quan tâm duy trì nhân rộng để môi trường sống

ngày càng tốt hơn
+ Các công trình và các hỗ trợ từ Dự án đã mang lại các tác động tích cực như: Nâng cao kiến thức
về môi trường của người dân. Cụ thể họ tích cực tham gia và nhân rộng các vấn đề liên quan đến
môi trường như tự làm thêm các nhà vệ sinh, chuồng trâu, bò, tham gia sử dụng và bảo vệ các công
trình nước sạch. Bên cạnh đó, còn làm thay đổi thói quen của người dân dùng nước sông suối sang
dùng nước hợp vệ sinh và từ thói quen đi vệ sinh tự do sang việc đi vệ sinh tại nơi quy định góp
phần đáng kể trong việc đảm bảo môi trường, giảm bệnh tật .
+ Việc xây dựng hệ thống dẫn nước sạch, nhà vệ sinh, chuồng trâu bò đảm bảo vệ sinh môi trường
trong thôn bản.
4. Tác động khác

21


Rõ ràng là sau thời gian triển khai thực hiện Dự án năng lực của cán bộ địa phương (bao gồm Năng
lực quản lý tài chính, Năng lực quản lý hoạt động (lập, triển khai, giám sát, đánh giá hoạt động và
Năng lực quản lý nhân sự…) đã được tăng cường đáng kể, giúp họ tự tin hơn trong quá trình tham
gia hoạch định và thực thi các chính sách, chương trình, dự án phát triển ở địa phương. Đây có thể
coi là tác động rất quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở địa phương.
Các khóa tập huấn về dân chủ ở cơ sở của dự án và các tổ chức khác đã giúp cộng đồng người dân
nhận thức và thực hiện tốt hơn các quyền và nghĩa vụ của người dân. Họ đã biết những vấn đề liên
quan đến dân biết, dân bàn, dân quyết định, dân triển khai, dân thực hiện, giám sát cũng như trách
nhiệm của các cơ quan công quyền. Mặc dù, trong các cuộc thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu, người
dân có thể quên (do thời gian tập huấn về dân chủ ở cơ sở đã khá lâu), tuy nhiên, đi sâu phân tích có
thể nhận thấy vấn đề dân chủ ở cơ sở đã được cán bộ và người dân, đặc biệt là những người dân
nghèo quan tâm và bước đầu tổ chức thực hiện khá tốt.

III. TÍNH BỀN VỮNG
1) NHẬN THỨC: Tác động có tính bền vững nhất mà Dự án VM015 cũng như các chương trình
giảm nghèo khác để lại lâu bền là thay đổi và nâng cao nhận thức của người dân và cán bộ cơ sở.

Người dân đã nhận thức được câu chuyện nghèo đói, dần hiểu được vì sao mình nghèo và sâu xa
hơn, quan trọng hơn là họ dần đã hiểu được họ có thể thay đổi được tình hình, có thể vươn lên thoát
nghèo. Điều này khác hẳn với tư duy cam chịu, thậm chí mông muội - không biết là mình nghèo,
không biết có cuộc sống, xã hội văn minh ở những nơi khác. Như đã đề cập, Pác Nặm là huyện
nghèo trong số 62 huyện nghèo nhất của cả nước, đồng bào ở đây chủ yếu là các dân tộc thiểu số
như Mông, Tày, Dao,…với nhận thức và trình độ còn rất thấp. Hơn nữa, điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ
tầng của huyện và 2 xã vùng dự án (đặc biệt ở An Thắng) còn gặp rất nhiều khó khăn do Huyện mới
được tái lập lại. Bằng tất cả những nỗ lực của các can thiệp phát triển, trong đó có VM015, giờ đây
nhận thức của người dân đã có sự thay đổi đáng trân trọng, đã biết vươn lên, chịu khó làm ăn, thay
đổi tư duy, nếp nghĩ hạch toán kinh tế, đã biết quyền và nghĩa vụ công dân, các trụ cột then chốt về
dân chủ ở cơ sở, đã biết và vận dụng các kỹ thuật canh tác tiến bộ trong thâm canh ngô, lúa, trong
chăn nuôi lợn, làm và che chắn chuồng trại, vệ sinh môi trường, hợp tác, đoàn kết sản xuất…
Không chỉ thay đổi nhận thức của người nghèo mà các cán bộ của cộng đồng cơ sở cũng có những
thay đổi nhận thức rõ nét. Cán bộ cơ sở cũng đã biết tôn trọng dân theo các quy định của quy chế
dân chủ ở cơ sở, xác định rõ hơn vai trò của chính quyền, của cộng đồng …Quá trình tham quan
chéo, tham quan địa phương khác, quốc gia khác cũng giúp cho cán bộ và người dân tìm hiểu và
học hỏi được nhiều kinh nghiệm quản lý cộng đồng, kinh nghiệm XĐGN và phát triển ở các nơi
khác. Những kiến thức, nhận thức người dân & cán bộ cơ sở thu lượm được còn ở lại mãi với cộng
đồng và chắc chắn là tiền đề quan trọng để cải thiện sinh kế, phát triển cộng đồng.
2) NĂNG LỰC: Cùng với việc thay đổi và nâng cao nhận thức về xã hội, về kinh tế, về môi trường
cũng như về phát triển toàn diện và bền vững, thông qua các khóa tập huấn, tham quan học hỏi, và
vận dụng thực hiện các công việc của Dự án, năng lực quản lý và hành động của cán bộ và cộng
đồng được nâng cao rõ rệt. Thông qua các khóa tập huấn và thực tế triển khai công việc, năng lực

22


quản lý và triển khai dự án, kỹ năng giao tiếp với cộng đồng, các kiến thức-kỹ năng liên quan đến
hạch toán sản xuất kinh doanh, nhận thức về dân chủ ở cơ sở, bình đẳng giới, phát triển cộng đồng,
các kỹ thuật tiến bộ mới được chuyển giao và áp dụng của cán bộ và người dân đã được nâng cao.

Cán bộ các cấp từ Ban quản lý dự án huyện đến các xã và các thôn và cộng đồng người nghèo địa
phương đã tự tin, mạnh dạn và chủ động triển khai các công việc của Dự án cũng như các công tác
khác. Lực lượng cán bộ tham gia dự án là những cán bộ nguồn tốt và thực tế họ là những cán bộ
then chốt đang và sẽ triển khai các dự án khác của Chính phủ (Chương trình 30a) hoặc Dự án giảm
nghèo của IFAD đang được triển khai. Điều rõ ràng là những tác động này có tính bền vững cao,
còn lưu lại mãi với địa phương.

Hộp: Nhận thức, kỹ năng của người dân và cán bộ các cấp được tăng cường
…Kết quả lớn nhất mà dự án đã đạt được đó là góp phần làm thay đổi đáng kể ý thức, nhận thức của
người dân trong phát triển kinh tế hộ, tính cộng đồng được nâng lên. Các hoạt động của dự án được
người dân trực tiếp tham gia như xây dựng công trình nước sạch, nhà vệ sinh, chuồng trâu bò, làm
đường, nhà văn hóa … Do đó phần nào làm thay đổi nhận thức của người dân, nâng cao tính sở hữu
của họ về các công trình dự án hỗ trợ.. Năng lực quản lý, tổ chức của cán bộ các cấp khi tham gia vào dự án
được nâng lên…
Trích ý kiến của Bà Kate Teys đại diện nhà tài trợ Caritas Australia trong chuyến thăm, kiểm tra
các hoạt động của dự án VM015 ngày 1-2/11/2009
3) SẢN PHẨM hữu hình của Dự án:
Các sản phẩm hữu hình của Dự án bao gồm: các công trình như nhà văn hóa, nhà vệ sinh, đường giao
thông nông thôn, các trang thiết bị, chuồng trại,…

- Các công trình, thiết bị bàn giao cho cộng đồng, người dân. Dự án đã hỗ trợ cải tạo, nâng cấp hoặc
xây dựng mới một số hạng mục như nhà vệ sinh, chuồng trại, nước sinh hoạt, đường giao thông,
nhà họp thôn,…Các công trình này đã được bàn giao cho cộng đồng và người dân quản lý, sử dụng,
bước đầu đem lại hiệu quả tích cực. Nhìn chung đa số các hạng mục đầu ra của dự án đảm bảo bền
vững trong tương lai.
Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề trong công tác vận hành và bảo dưỡng cần phải tiếp tục bổ sung
hoàn chỉnh :
- Tuyến đường cần phải được duy tu bảo dưỡng thường xuyên đặc biệt sau mỗi mùa mưa lũ, do
vậy cần phải quy định trong thôn bản đóng góp ngày công hay kinh phí để sữa chữa.
- Hệ thống loa đài cần phải xây dựng cho dân về quy trình lắp đặt, sử dụng và bảo quản, đồng

thời phải cử cán bộ đi học có kiến thức chuyên môn về cơ điện để thao tác vận hành.
- Hệ thống nước sạch: Phải xây dựng và hoàn thiện quy chế vận hành và bảo dưỡng công trình
có sự tham gia của các hộ hưởng lợi thực hiện quy chế : dân biết, dân bàn và dân kiểm tra. Đặc biệt
tại thôn Khuổi Trà xã Cổ Linh cần phải hoàn chỉnh ngay quy chế quản lý và vận hành nước sạch để
đảm bảo quản lý công trình được tốt.
+ Những đặc điểm sau đây làm cho kết quả đầu ra của dự án mang tính bền vững chưa cao:
- Trình độ dân trí còn hạn chế

23


- Lực lượng cán bộ hiểu biết về dự án còn mỏng, ban quản lý dự án thôn, xã chưa thực sự vào
cuộc.
- Việc phổ biến kỹ thuật xây dựng cho người dân chưa được chú trọng, thiếu chi tiết
- Việc xây dựng quy chế vận hành và bảo dưỡng các hạng mục còn chậm và chưa hoàn chỉnh
- Việc tham gia đóng góp ý kiến của người dân vào hồ sơ thiết kế cũng như quá trình thi công
còn hạn chế.
- Phụ cấp cho cán bộ xã tham gia dự án còn thấp 80.000 đồng/ tháng/ người
+ Sự đóng góp của người dân để đảm bảo tính bền vững của dự án
- Bước đầu người dân đã có những đóng góp nhất định ý kiến chủ quan của mình vào quá trình thực
hiện dự án do đó đã thực hiện được ý tưởng: Dân biết, dân bàn và dân kiểm tra.
- Trong quá trình xây dựng tuyến đường người dân đã đóng góp ngày công, và tham gia các cuộc
họp.
- Người dân đã đóng góp 2.000 đồng/ tháng/ hộ hưởng lợi nước sạch để chi công cho ban quản lý
vận hành và duy tu bảo dưỡng công trình nước sạch.
+ Vai trò bình đẳng giới, đặc biệt nhận thức về nước sạch và vệ sinh môi trường của phụ nử
trong vùng dự án đã được nâng cao: Trước đây việc lấy nước chủ yếu là phụ nữ, mất nhiệu thời gian
bây giờ cả nam và nữ đều lấy nước và người phụ nữ có nhiều thời gian để tham gia các hoạt động
khác.
4) CÁC NHÓM SỞ THÍCH LÀ TIỀN ĐỀ ĐỂ HÌNH THÀNH CÁC TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG:

Trong khuôn khổ Dự án, các nhóm sở thích đã bước đầu manh nha hình thành. Cơ cấu tổ chức
nhóm bao gồm một nhóm trưởng, các thành viên, hỗ trợ các thành viên trong nhóm giải quyết các
công việc, thống nhất các công việc chuyên môn của nhóm. Ở An Thắng, một số nhóm đã có những
buổi họp đầu tiên - tổng số sinh hoạt được 15 buổi. Các nhóm đã có nơi để họp, giao lưu xích lại
gần nhau hơn. Nếu được hướng dẫn, định hướng và hỗ trợ, hoạt động của các nhóm sở thích này
dần sẽ đi vào nề nếp và có thể trở thành các tổ chức cộng đồng mạnh, sau khi hoàn tất các điều kiện
(như xây dựng quy chế, bầu cử,…) có thể tiến tới đề nghị UBND cấp xã chứng thực hoặc hơn nữa
đăng ký thành lập hợp tác xã. Dự án đã tổ chức được 1 lớp tập huấn về kỹ năng quản lý nhóm, tạo
tiền đề xây dựng mô hình tổ chức mới ở nông thôn. Thông qua đó, tinh thần đoàn kết trong thôn
xóm được tăng cường, phát triển bền vững.
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
A)

Điểm mạnh, hạn chế và đề xuất triển khai để đảm bảo tính hiệu quả và bền vững của Dự án
Những điểm mạnh, hạn chế sau được đúc rút sau quá trình triển khai thực hiện và đánh giá Dự án:
Bảng



Ma trận Điểm mạnh, hạn chế và đề xuất triển khai để đảm bảo tính hiệu quả và bền
vững của Dự án

Điểm mạnh cần phát huy
Thiết kế dự án với các can thiệp được chia ra
nhiều hợp phần và mỗi hợp phần được xây
dưng các chỉ tiêu cụ thể, tạo điều kiện thuận





Hạn chế cần khắc phục
Số lượng người hưởng lợi ít
Lực lượng cán bộ thực hiện
còn mỏng; người hiểu biết về




Đề xuất
Kéo dài thời gian thực
hiện Dự án
Đào tạo cho người dân

24











lợi cho quá trình triển khai thực hiện.
Cộng đồng người dân tham gia nhiệt tình
Hoạt động cải thiện vệ sinh môi trường có sức
lan tỏa, mô hình nhà vệ sinh của Dự án đã
được nhân rộng ở 2 thôn của xã Cổ Linh;

Nói chuyện về giới và dân chủ cơ sở đem lại
hiệu quả thiết thực và có tác động rõ nét
Có sự giám sát của nhân dân đối với các công
trình cộng đồng.
Người dân thường xuyên được tiếp xúc và trao
đổi thông qua các cuộc họp thôn bản, tham gia
họp đầy đủ; tính tự tin của người dân được cải
thiện một cách rõ rệt.
Tinh thần đoàn kết, hợp tác trong cộng đồng
được nâng cao: Giữa hộ trung bình và nghèo
có sự giúp đỡ tương trợ lẫn nhau; có người
ốm, qua đời, người dân hỗ trợ và giúp đỡ lẫn
nhau vượt qua khó khăn, đóng góp ngày công
lao động, đoàn kết trong cộng đồng cao.









việc thực hiện dự án còn hạn
chế.
Ban quản lý dự án xã chưa
thực sự vào cuộc và hiệu quả
do lực lượng mỏng
Ban quản lý phát triển thôn
chưa phát huy hết vai trò của

mình.
Có khoảng cách giữa giảng

viên và học viên do giảng viên
không biết tiếng dân tộc và

chưa hiểu hết được văn hoá
của người dân bản địa
Phụ cấp cho ban quản lý dự án
xã còn thấp; cán bộ xã tham

gia nhiều hoạt động của dự án,
việc chi trả không hợp lý so
với khối lượng và trai trò của
cán bộ xã tham gia dự án.

địa phương làm cán bộ
nguồn ngay tại địa
phương (Ban phát
triển thôn). Tập huấn
TOT chọn người dân
địa phương biết được
ngôn ngữ và am hiểu
văn hoá địa phương
Đào tạo cán bộ địa
phương.
Mở rộng ban quản lý
dự án xã, tăng cường
thêm cán bộ có đủ
năng lực.

Tăng tiền phụ cấp phù
hợp với khối lượng
công việc để gắn với
trách nhiệm công việc.

B) Một số bài học kinh nghiệm chủ yếu
1)

Bài học thứ nhất: Về thiết kế dự án

Quá trình thiết kế dự án cần được bắt đầu từ dưới lên, tham vấn cộng đồng chặt chẽ. Trước khi
thiết kế các hạng mục của dự án cần phải điều tra, khảo sát thực hiện rất cụ thể. Nhất thiết phải có ý
kiến tham vấn cộng đồng của người hưởng lợi và các cấp chính quyền từ thôn bản trở lên. Đối với
các công trình, hồ sơ thiết kế cần phải xin ý kiến đóng góp của người hưởng lợi, các cấp chính
quyền, các cơ quan chuyên môn và phải được phổ biến công khai để tiện cho viêc tham gia giám sát
cộng đồng .
Trong khi thiết kế Dự án cần lưu ý đối với các hoạt động tập huấn nên gắn với các mô hình cụ
thể, cho các nhóm sở thích, cầm tay chỉ việc để tăng tính trực quan, dễ hiểu, dễ làm theo.
Trong quá trình thực hiện dự án nếu có hạng mục nào chưa hợp lý thì phải điều chỉnh kịp thời
để đảm bảo tiến độ.
2)
Bài học thứ hai: Về tổ chức thực hiện dự án
Để dự án đạt kết quả tốt thì trong suốt quá trình thực hiệ n các cán bộ quản lý dự án từ trung ương
đến địa phương không nên thay đổi.
Tăng cường quản lý từ trung ương tới địa phương, đặc biệt công tác giám sát kỹ thuật và công tác
giám sát cộng đồng. Cần phân công trách nhiệm cho từng cấp rõ ràng ngay từ đầu, khi xây dựng kế
hoạch phải được thống nhất từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên.. Đối với các hạng mục giao cho
dân tự thi công thì cán bộ kỹ thuật phải hướng dẫn rất chi tiết nên gắn với các mô hình cụ thể, cầm
tay chỉ việc để đảm bảo chất lượng công trình, tránh lãng phí.


25


×