Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Tình huống luat hon nhan va gia dinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (26.07 KB, 2 trang )

Tình huống:

A và B là vợ chồng hợp pháp, có tài sản chung là 500 triệu đồng, đã thoả thuận bằng văn bản
chia tài sản chung để A kinh doanh riêng để tránh rủi ro cho gia đình. Hai bên vẫn hạnh phúc
và sống chung, mỗi người được 250 triệu đồng. Sau khi chia tài sản thì A nói với B là lương
của B sẽ chi tiêu cho gia đình còn A kinh doanh để tích luỹ cho gia đình. Sau 3 năm A kinh
doanh thu được khoản lợi tức là 200 triệu đồng, hàng tháng B được hưởng lương là 5 triệu
đồng và chi tiêu dùng hết cho đời sống gia đình. Sau đó A đã có hành vi ngoại tình và dùng số
tiền lợi tức đó cho người tình của mình.B yêu cầu ly hôn và yêu cầu đòi lại số tài sản đó ..
A và B ra tòa án giải quyết thủ tục ly hôn và chia tài sản chung
Tại tòa..
A và B tranh cải về vấn đề chia tài sản
B: Thưa quí tòa nếu như trường hợp đã nêu trên của tôi thì tôi có thể đòi lại được số tài sản
đó ko ạ..?
Luật sư bên A : Theo qui định tại Điều 29 Luật HNGĐ về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân có qui định: “Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng,
thực hiện nghĩa vụ TS riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận
chia tài sản chung”. Như vậy, sau khi 2 vợ chồng thỏa thuận chia đôi tài sản chung để kinh
doanh riêng thì tài sản riêng của mỗi người là 250 triệu. Điều 30 Luật HNGĐ cũng qui định :
“phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”. Do đó lương của B
không nằm trong thỏa thuận phân chia tài sản chung vì tại thời điểm phân chia nó chưa hề
tồn tại. Về nguyên tắc (nếu không có thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ HN) thì
“thu nhập do lao động, họat động SXKD” của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân (khoản 1 Điều
27) là tài sản chung vợ chồng. Tuy nhiên, theo qui định tại khoản 2 Điều 8 NĐ70/2001 về hậu
quả chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có qui định: “Thu nhập do lao
động, họat động SXKD và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có
thỏa thuận khác”. Theo luật định thì “thỏa thuận khác” ở đây phải là “thỏa thuận bằng văn
bản”. Dẫn chứng: khoản 1 Điều 4 NĐ70/2001 qui định: “… sự thỏa thuận của vợ chồng cũng
phải tuân theo hình thức đó (lập thành văn bản có chữ ký của vợ, chồng hoặc phải có công
chứng, chứng thực)” Ở đây “A nói với B” nên coi như thỏa thuận với nội dung “lương của B


sẽ chi tiêu cho gia đình còn A kinh doanh để tích lũy cho gia đình” không được xem là “thỏa
thuận của vợ chồng”. Như vậy, đối chiếu với qui định tại khoản 2 Điều 8 NĐ70/2001 thì số
lương 5 triệu/tháng của B vẫn là tài sản riêng của B. Cũng thế, theo khoản 1 Điều 8
NĐ70/2001 thì: “Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của
mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác bằng văn bản”. Do vậy, số tiền thu
được từ việc A kinh doanh từ tài sản riêng của mình (sau 3 năm là 200 triệu) vẫn là tài sản
riêng của A bởi lẽ hai người không có thỏa thuận nào khác bằng văn bản. Số tiền này nếu A
không đồng ý nhập vào khối tài sản chung của 2 người thì mặc nhiên nó vẫn là tài sản riêng
của A và A có toàn quyền định đoạt, muốn làm gì thì làm, muốn cho ai thì cho (không vi phạm
khoản 5 Điều 33 do hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng không phải là nguồn sống duy nhất của gia
đình do đó A có quyền định đọat mà không cần hỏi ý kiến B) . Vì vậy vấn đề B muốn đòi lại số
tài sản đó là không có cơ sở…
Luật sư bên B :Việc B phát hiện mối quan hệ bất chính của A và yêu cầu tòa cho ly hôn là có
cơ sở và phù hợp các qui định của PLTheo Điều 95 về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn thì khi
phân xử, tòa án phải bảo đảm 2 nguyên tắc : (1) “Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền
sở hữu của bên đó” (khoản 1 Điều 95); (2) Tài sản chung được giải quyết theo nguyên tắc tôn
trọng thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì trên nguyên tắc sẽ chia đôi
nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, công sức đóng góp của mỗi bên, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên (khoản 2 Điều 95). Như vậy, khi phân xử, tòa sẽ
áp dụng nguyên tắc (1) để công nhận những tài sản nào là tài sản riêng của B và chúng phải
thuộc về B.Dĩ nhiên là B có quyền yêu cầu tòa công nhận số lương 5 triệu/tháng (có được sau
thời điểm phân chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ HN) là tài sản riêng của B (áp dụng
khoản 2 Điều 8 NĐ70/2001) như đã phân tích ở trên. Đối với khối tài sản chung của cả 2 vợ
chồng thì sẽ phải áp dụng nguyên tắc (2) để phân xử. Tuy nhiên do các bên đã thỏa thuận
phân chia toàn bộ tài sản chung (có tổng gía trị là 500 triệu) đang có tại thời điểm thỏa thuận


phân chia nên coi như những tài sản chung nào có được từ thời điểm thỏa thuận phân chia
trở về trước bây giờ đã không còn. Nếu các bên có thể chứng minh được là mình còn có
những tài sản chung khác từ sau thời điểm thỏa thuận phân chia tài sản chung (ví dụ: “tài sản

do vợ chồng cùng tạo ra” hoặc “những thu nhập hợp pháp khác” sau thời điểm thỏa thuận
phân chia tài sản chung) thì họ vẫn có quyền yêu cầu tòa phân xử để chia theo nguyên tắc
thứ (2)..
…..
Tòa xử án…



×